LỜI NÓI ĐẦU
Sau hơn 20 năm kể từ khi khu chế xuất đầu tiên của nước ta – khu chế xuất
Tân Thuận, thành phố Hồ Chí Minh được thành lập năm 1991, tính đến tháng 9
năm 2011, cả nước có 260 khu công nghiệp được thành lập, tổng số khu kinh tế
trong Quy hoạch phát triển khu kinh tế của cả nước đến năm 2020 theo Quyết
định 1353/QĐ-TTg ngày 23/9/2008 của Thủ tướng Chính phủ lên 18 khu kinh tế,
phân bố trên 57 tỉnh, thành phố trong cả nước, tập trung chủ yếu ở 3 vùng kinh tế
trọng điểm. Qua hơn 20 năm xây dựng và phát triển, các khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao đã từng bước khẳng định vai trò và tầm
quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, góp phần
đáng kể vào việc hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, thúc đẩy sự phát triển của
cả nền kinh tế.
Để tạo hành lang pháp lý cho khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế,
khu công nghệ cao hoạt động và phát triển, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật về lĩnh vực này. Trong đó, có hai văn bản luật trực tiếp điều chỉnh
hoạt động khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao, đó là
Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy
định về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế và Nghị định số
99/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2003 của Chính phủ ban hành Quy chế
khu công nghệ cao. Để khắc phục sự bất bình đẳng trong việc áp dụng chính
sách đầu tư giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật đầu tư tại kỳ họp thứ 8,
Quốc hội khóa XI ngày 29 tháng 11 năm 2005. Trên cơ sở các nguyên tắc quy
định trong luật đầu tư, Chính phủ quy định cụ thể những ưu đãi đầu tư cho nhà
đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao.
1
Pháp luật về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao
đã tạo ra hành lang pháp lý cho khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu
công nghệ cao hoạt động và phát triển trên cơ sở quy định một cách cụ thể những
vấn đề liên quan đến thành lập và hoạt động của khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu kinh tế, khu công nghệ cao; quản lý nhà nước đối với vấn đề này… Tuy
nhiên, trong quá trình triển khai trên thực tế, pháp luật về khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao còn bộc lộ nhiều điểm bất cập. Để khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao phát triển tương xứng
với tiềm năng hiện có, đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xem xét
sửa đổi những điểm đó, hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Trong điều kiện pháp luật đã có những sự thay đổi nhất định về khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, việc nghiên cứu nội dung của pháp luật về khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao theo những quy định
mới là một vấn đề quan tâm hàng đầu nhằm làm sáng tỏ nội dung này, tiến tới
hoàn thiện pháp luật về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công
nghệ cao. Với mục đích này, Luận văn của tôi tập trung nghiên cứu pháp luật về
khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao.
Những vấn đề pháp lý liên quan đến sự hình thành và hoạt động của khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao là hết sức rộng lớn,
liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế, xã hội. Trong phạm
vi luận văn, tôi chọn và nghiên cứu sâu các vấn đề về trình tự, thủ tục thành lập
khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế; trình tự, thủ tục đầu tư vào khu công
nghệ cao; ưu đãi đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu
công nghệ cao; chế độ kế toán, tài chính trong khu kinh tế, khu công nghệ cao;
vấn đề dân cư trong khu khu kinh tế, khu công nghệ cao và tạm trú, lưu trú trong
2
khu công nghiệp, khu chế xuất và quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao.
Nội dung cơ bản được đề cập trong luận văn này bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề chung về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
kinh tế, khu công nghệ cao và khái quát về pháp luật về khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao.
Chương 2: Nội dung chính của pháp luật về khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu kinh tế, khu công nghệ cao.
Chương 3: Thực trạng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao.
Để thực hiện luận văn này, tôi đã sử dụng nhiều phương pháp nhiên cứu
khác nhau, trong đó, cơ bản dựa vào phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp so sánh,
phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích…
Do sự hạn chế về năng lực và trình độ hiểu biết, luận văn khó tránh khỏi
những sai sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và các
bạn sinh viên để luận văn của tôi hoàn thiện hơn nữa.
3
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ
XUẤT, KHU KINH TẾ, KHU CÔNG NGHỆ CAO VÀ PHÁP LUẬT VỀ
KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT, KHU CÔNG NGHỆ CAO.
1.1. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT, KHU KINH TẾ, KHU CÔNG
NGHỆ CAO.
1.1.1. Sự hình thành và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
kinh tế, khu công nghệ cao ở một số nước trên thế giới.
Sự ra đời của khu công nghiệp là hệ quả của cuộc Cách mạnh công nghiệp
lần thứ hai từ năm 1850 đến năm 1914, khi con người có những thành tựu khoa
học – kỹ thuật vượt trội, những cuộc phát kiến địa lý và hình thành xu thế công
nghiệp hóa toàn cầu, thay đổi diện mạo của nền kinh tế thế giới. Những khu công
nghiệp đã bắt đầu manh nha hình thành từ thế kỷ thứ XIX và phát triển mạnh mẽ
vào nửa cuối thế kỷ XX.
Khu công nghiệp đầu tiên trên thế giới được thành lập năm 1896 tại thành
phố Manchester, nước Anh với tính chất là một doanh nghiệp tư nhân. Tiếp theo
đó, lần lượt các mô hình khu công nghiệp xuất hiện trên thế giới, chủ yếu ở các
quốc gia phương Tây như Vùng công nghiệp Clearing, Chicago, nước Mỹ đi vào
hoạt động năm 1899; khu công nghiệp Naples, Italia được thành lập năm 1940.
Nhưng đến cuối những năm 40 của thế kỷ XX, số lượng các khu công nghiệp
trên thế giới vẫn rất khiêm tốn. Sự phát triển mạnh mẽ của mô hình khu công
nghiệp bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XX, năm 1959, Anh quốc có 55 khu công
nghiệp; năm 1965, Canada có 21 vùng công nghiệp; năm 1963, Pháp có 230
vùng công nghiệp; năm 1970, Mỹ đã có 2400 khu công nghiệp…
4
Khu vực Châu Á phát triển mô hình khu công nghiệp muộn hơn các quốc
gia phương Tây, và đa phần là học tập sự tiến bộ của mô hình khu công nghiệp
theo con đường chính trị vào những năm cuối thế kỷ XX như các quốc gia và
vùng lãnh thổ: Hàn Quốc, Đài Loan, Malayxia… Đài Loan là vùng lãnh thổ đạt
được nhiều thành công nhất từ việc khai thác mô hình khu công nghiệp thu hút
vốn đầu tư, với việc ban hành những văn bản pháp luật cụ điều chỉnh lĩnh vực
này và lần lượt thành lập các khu chế xuất Cao Hùng năm 1966, khu chế xuất
Nam Tử và khu chế xuất Đàn Tử năm 1969. Malayxia cũng được coi là nước
khai thác hiệu quả mô hình khu công nghiệp, với khu công nghiệp đầu tiên được
thành lập năm 1954, tính đến cuối thế kỷ XX, Malayxia đã thành lập khoảng 140
khu công nghiệp.
Như vậy, mô hình kinh tế khu công nghiệp đã và đang được xây dựng ở
nhiều nước trên thế giới. Sự thành công trong việc áp dụng mô hình khu công
nghiệp trong việc thu hút vốn đầu tư, phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia, vùng
lãnh thổ trên thế giới là không thể phủ nhận.
1.1.2. Cơ sở hình thành và phát triển khu công nhiệp, khu chế xuất,
khu kinh tế, khu công nghệ cao ở Việt Nam.
Tình hình thực tế Việt Nam dẫn đến sự cần thiết hình thành, phát triển khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao:
Đầu những năm 80 của thế kỷ thứ XX, nền kinh tế nước ta bị suy thoái
nghiêm trọng. Nguyên nhân của tình trạng này là nền nông – công nghiệp lạc
hậu, sản xuất thủ công, khoa học – kỹ thuật kém phát triển, cơ sở vật chất thiếu
thốn, đồng thời cơ chế, chính sách phát triển kinh tế không phù hợp… Nhận thức
được những hạn chế đó, năm 1986 Đảng và Nhà nước ta đề ra đường lối đổi mới
và tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
5
Để thực hiện công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, cần tích
cực xây dựng những tiền đề cần thiết cho quá trình này như: vốn, khoa học – kỹ
thuật, trình độ quản lý, phát triển kết cấu hạ tầng, vấn đề nhân lực, cơ chế chính
sách hiệu quả và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò của Nhà nước…
Một trong những giải pháp hiệu quả giải quyết vấn đề về vốn, khoa học – kỹ
thuật, xây dựng kết cấu hạ tầng, vấn đề về nguồn nhân lực,… là xây dựng mô
hình khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao. Ngoài ra,
việc xây dựng mô hình này sẽ giúp đất nước chủ động hội nhập kinh tế thế giới
và khu vực, vừa đảm bảo tính độc lập trong quá trình xây dựng đường lối phát
triển kinh tế.
Mô hình khu công nghiệp và các mô hình khu chế xuất, khu kinh tế, khu
công nghệ cao trên thế giới đã thể hiện tính hiệu quả trong việc thu hút vốn đầu
tư, phát triển công nghiệp, kinh tế. Đồng thời, trong những năm gần đây, việc
phát triển khu công nghiệp không chỉ chú trọng vào thu hút đầu tư nước ngoài
mà còn là một giải pháp thực hiện chủ trương của Nhà nước về phát huy nội lực
của các thành phần kinh tế trong nước tham gia đầu tư. Sự thành công của mô
hình khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao đã khẳng
định sự đúng đắn trong chính sách xây dựng và phát triển những mô hình này tại
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao:
Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu kinh tế, khu công nghệ cao trong sự nghiệp đất nước, Đảng và Nhà nước ta
luôn đề ra đường lối, chủ trương, chính sách trong việc xây dựng và phát triển
những mô hình trên.
6
Tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VI Ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam năm 1994 đã khẳng định: “Quy hoạch các vùng, trước hết là
các địa bàn trọng điểm, các khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghiệp tập
trung”.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII tiếp tục khẳng định: “Cải tạo các khu
công nghiệp hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghiệp sản xuất, xây dựng mới
một số khu công nghiệp, phân bố rộng trên các vùng”.
Trong mục tiêu chương trình phát triển của Đảng đã ghi nhận: hình thành
các khu công nghiệp tập trung, tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở
công nghiệp mới, phát triển mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô thị. Ở các
thành phố, thị xã nâng cấp, cải tạo các cơ sở hiện có, đưa các cơ sở không có khả
năng xử lý ô nhiễm môi trường ra khỏi thành phố, hạn chế việc xây dựng cơ sở
công nghiệp mới xen lẫn dân cư.
Văn kiện Đại hội của Đảng:
Như vậy, Đảng ta luôn luôn đề ra đường lối, chủ trương phát triển khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao. Trên cơ sở đó, Nhà nước
ban hành nhiều văn bản pháp luật khác nhau, tạo hành lang pháp lý cho khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao hoạt động và phát triển.
Cơ sở pháp lý về thành lập và hoạt động của khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao:
Hoạt động của khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ
cao được điều chỉnh bởi rất nhiều các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau,
liên quan đến nhiều lĩnh vực. Đây là một trong những nội dung khá rộng, tôi xin
trình bày chi tiết ở phần sau của luận văn.
7
1.1.3. Quá trình hình thành và phát triển khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao ở Việt Nam.
Miền Bắc trong những năm đầu sau giải phóng đã hình htanfh một số cụm
công nghiệp như gang thép Thái Nguyên, khu hóa chất Việt Trì, cụm công
nghiệp Thượng Đình… Ở miền Nam cũng đã hình thành mộ số cụm công nghiệp
ở Sài Gòn, Biên Hòa… Ý tưởng thành lập khu công nghiệp theo phương thức
hiện nay chỉ xuất hiện sau khi Luật đầu tư nước ngoài được thông qua năm 1987.
Năm 1991, khu chế xuất Tân Thuận, khu chế xuất đầu tiên của nước ta được
hình thành. Ngày 18/10/1991 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số
322/HĐBT kèm theo Quy chế khu chế xuất tại Việt Nam, mở đầu cho giai đoạn
hình thành các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu kinh tế và khu công
nghệ cao trên cả nước.
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 192/CP ngày 28/12/1994 kèm
theo Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và được thay
thế bởi Nghị định số 99/2003/NĐ – CP kèm theo Quy chế Khu công nghệ cao và
Nghị định số 29/2008/NĐ – CP ngày 14/3/2008 quy định về Khu công nghiệp,
Khu chế xuất, Khu kinh tế, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu
công nghệ cao lần lượt hình thành. Từ năm 1991 đến 1995 cả nước có 11 khu
công nghiệp với diện tích 25.000ha. Từ năm 1996 đến năm 2000, chúng ta đã
xây dựng thêm 50 khu công nghiệp với diện tích 9.300ha. Từ năm 2001 đến năm
2005, cả nước thành lập mới 69 khu công nghiệp trên diện tích 14.600ha
1
. Tính
đến hết tháng 9 năm 2011, nước ta đã có 260 KCN được thành lập với tổng diện
tích đất tự nhiên 72.000 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê
đạt gần 46.000 ha. Trong đó, 174 KCN đã đi vào hoạt động và 86 KCN đang
trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản. Các KCN được
1
Thông tin khu công nghiệp Việt Nam, tháng 2 năm 2006, tr22.
8
phân bổ trên 57 tỉnh, thành phố trên cả nước, tập trung chủ yếu ở 3 vùng kinh tế
trọng điểm. Trong đó, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có 124 KCN, chiếm
gần 48% tổng số KCN trên cả nước; vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc có 52
KCN (chiếm 20%); và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có 23 KCN (chiếm
xấp xỉ 10%). Trong 9 tháng đầu năm 2011, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý bổ
sung thêm 21 KCN vào Quy hoạch phát triển các KCN đến năm 2020, với tổng
diện tích tăng thêm là 3.696 ha, trong đó có 9 CCN được chuyển đổi sang mô
hình KCN. Dự kiến đến năm 2020, sẽ có thêm 250 KCN được thành lập mới với
tổng diện tích 66.482 ha; bổ sung thêm 02 KKT vào Quy hoạch phát triển các
KKT ven biển Việt Nam đến 2020: KKT Ninh Cơ, tỉnh Nam Định và KKT ven
biển Thái Bình, tỉnh Thái Bình nâng tổng số KKT trong Quy hoạch phát triển
KKT của cả nước đến năm 2020 theo Quyết định 1353/QĐ-TTg ngày 23/9/2008
của Thủ tướng Chính phủ lên 18 KKT, với tổng diện tích mặt đất và mặt nước của
các KKT là 730.553 ha. Trong đó, 15 KKT đã được thành lập với tổng diện tích
mặt đất và mặt nước của 15 KKT này là hơn 662.000 ha
2
. Hiện nay, trên cả nước
mới thành lập 2 khu công nghệ cao là Khu công nghệ cao Hòa Lạc và Khu công
nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh, đây có thể nói là một con số khiêm tốn so với
số lượng khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế.
Có thể nói, trong những năm qua, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh
tế, khu công nghệ cao ở nước ta đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất
lượng, từng bước khẳng định vai trò và tầm quan trọng của mình đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ
XUẤT, KHU KINH TẾ, KHU CÔNG NGHỆ CAO. PHÂN BIỆT KHU
2
Báo cáo tình hình xây dựng và phát triển KCN, KKT 9 tháng đầu năm 2011.
9
CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT, KHU KINH TẾ, KHU CÔNG NGHỆ
CAO.
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm.
a. Khu công nghiệp (KCN):
Tại các quốc gia trên thế giới, khái niệm KCN là một khái niệm không đồng
nhất.
Một số nước cho rằng: KCN là lãnh thổ hữu hình, tại đó tập trung các doanh
nghiệp công nghiệp và sản xuất công nghiệp, tách rời bộ phận dân cư. Mô hình
này được thấy tại Malaysia, Indonesia, Thái Lan…
Quan điểm khác lại cho rằng: KCN là khu vực lãnh thổ có nền tảng là sản
xuất công nghiệp, đan xen với nhiều dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công nghiệp,
dịch vụ sinh hoạt, vui chơi, giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở… Về bản
chất, mô hình này là mô hình kinh tế - kỹ thuật, được thấy ở KCN Bantam,
Indonesia và một số công viên công nghiệp ở Đài Loan…
Pháp luật Việt Nam quy định: KCN là khu chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh rới xác định,
được thành lập theo quy định của Chính phủ. (Khoản 20 Điều 3 Luật đầu tư năm
2005).
Từ khái niệm trên, ta có thể rút ra các đặc trưng cơ bản của khu công
nghiệp:
Thứ nhất, KCN là khu vực có ranh giới địa lý xác định, phân biệt với các
vùng, lãnh thổ khác và không có dân cư sinh sống.
10
Về mặt địa lý, các KCN đều được xác định ranh giới một cách cụ thể, phân
biệt với các vùng, lãnh thổ khác bằng hệ thống hàng rào KCN. Sự phân định
ranh giới này được thể hiện một cách rõ rang trong Quyết định thành lập KCN.
Hoạt động trong KCN ngoài việc tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành
còn phải tuân thủ theo quy chế pháp lý riêng biệt và được hưởng những ưu đãi
riêng biệt. Sự phân định ranh giới này còn là điều kiện để xác định quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể liên quan hoạt động trong KCN đối với các chủ thể
khác.
Việc quy định trong KCN không có dân cư tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp, nhà đầu tư phát triển hạ tầng, thực hiện triệt để việc bảo vệ môi trường
và bảo dưỡng cơ sở hạ tầng.
Trong KCN có thể có khu chế xuất. KCX có ranh giới địa lý xác định, phân
biệt với các vùng còn lại của KCN và áp dụng theo quy chế riêng. Quy định này
tạo điều kiện đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp hoạt động trong KCN,
đồng thời đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trong KCN.
Thứ hai, KCN là khu vực chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện
các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Bản thân tên gọi KCN đã thể hiện rõ chức
năng hoạt động của KCN là sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ
cho sản xuất công nghiệp. Vì vậy, trong KCN không thể có các hoạt động khác
như hoạt động sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp và các dịch vụ phục vụ cho các
loại hình sản xuất này.
Thứ ba, KCN được thành lập theo quy định của Chính phủ. Đây là đặc điểm
thể hiện tính pháp chế của việc thành lập cũng như hoạt động của KCN. Quy
định này còn thể hiện sự tham gia của yếu tố nhà nước trong sự hình thành và
hoạt động của KCN, tạo cơ hội cho KCN phát triển theo đúng định hướng, chính
11
sách phát triển của Nhà nước, tránh tình trạng các địa phương thành lập tràn lan
các KCN mà không tính đến hiệu quả và hợp lý.
b. Khu chế suất (KCX):
Khu chế xuất là loại hình đặc biệt của KCN, với tính chất là khu vực chuyên
sản xuất hàng công nghiệp xuất khẩu, đứng ngoài chế độ mậu dịch và thuế quan
của một quốc gia. Có nhiều quan điểm khác nhau định nghĩa về KCX.
Hiệp hội các KCX trên Thế giới (WEPZA – World Export Processing Zone)
định nghĩa: KCX bao gồm tất cả các khu vực được Chính phủ các nước cho phép
như cảng tự do, khu vực mậu dịch tự do, khu công nghiệp tự do hoặc bất kỳ khu
vực ngoại thương hoặc khu vực khác được WEPZA công nhận. Định nghĩa này
đồng nhất KCX với khu miễn thuế.
Tổ chức phát triển Liên Hợp quốc (UNIDO) định nghĩa: KCX là khu vực
được giới hạn về hành chính, có ranh giới địa lý xác định, được hưởng một chế
độ thuế quan, cho phép tự do nhập trang thiết bị và sản phẩm nhằm mục đích sản
xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, chế độ thuế quan được ban hành
cùng những quy định của pháp luật miễn thuế.
Pháp luật Việt Nam quy định: KCX là khu công nghiệp chuyên sản xuất
hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động
xuất khẩu, có ranh rới xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
(Khoản 21 Điều 3 Luật đầu tư năm 2005).
Từ khái niệm trên ta có thể rút ra các đặc điểm của KCX:
Thứ nhất, về bản chất, KCX là một loại hình KCN, vì thế KCX mang đầy
đủ các đặc điểm của KCN như: là khu vực có ranh giới địa lý xác định và không
có dân cư sinh sống, chuyên sản xuất công nghệp và thực hiện các dịch vụ cho
12
sản xuất công nghiệp, được thành lập theo quy định của Chính phủ và hoạt động
theo quy chế riêng. KCX có thể nằm biệt lập với KCN hoặc nằm trong KCN.
Thứ hai, KCX hoạt động chuyên việt về sản xuất hàng xuất khẩu hoặc thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là điểm khác biệt, tách biệt
KCX với các khu vực còn lại của KCN. Nếu như doanh nghiệp trong KCN có
thể tiêu thụ hàng hóa tại thị trường trong nước hoặc thị trường nước ngoài thì
doanh nghiệp trong KCX chủ yếu xuất khẩu hàng hóa ra thị trường khu vực và
thế giới. Điều này tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, nâng cao kim
ngạch xuất khẩu của nước ta.
c. Khu công nghệ cao (KCNC):
Khu công nghệ cao là nơi sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng, nơi
gắn liền với sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại. Các KCNC thường
được xây dựng trên cơ sở các viện nghiên cứu ứng dụng khoa học, các trường
đại học, học viện và các xí nghiệp.
Hiện nay, các nước trên thế giới đều có quan điểm đồng nhất về nội hàm
của khái niệm KCNC. Theo pháp luật Việt Nam, KCNC được quy định: “Khu
công nghệ cao là khu chuyên nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ cao,
ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao, sản xuất
và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao, có ranh giới địa lý xác định, được
thành lập theo quy định của Chính phủ”. (Khoản 22 Điều 3 Luật đầu tư năm
2005). Trong KCNC có thể có KCN, KCX, kho ngoại quan, kho bảo thuế và khu
nhà ở.
Khu công nghệ cao có các đặc điểm cơ bản:
13
Thứ nhất, khu công nghệ cao là khu kinh tế - kỹ thuật đa chức năng. Chức
năng của KCNC là sản xuất hàng công nghiệp, sản xuất hàng xuất khẩu, nghiên
cứu, ứng dụng sản phẩm công nghệ cao, đào tạo nhân lực, ươm tạo doanh nghiệp
công nghệ cao… Ngoài ra, khu hành chính và khu dân cư cũng được thành lập
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh kinh tế - kỹ thuật của
KCNC và phù hợp với loại hình kinh tế đặc biệt quy mô lớn. Như vậy, việc
thành lập khu dân cư trong các KCNC là phù hợp với thông lệ quốc tế về vấn đề
dân cư trong KCNC.
Thứ hai, về chức năng kinh tế - kỹ thuật, các hoạt động kinh tế - kỹ thuật
trong KCNC đều liên quan đến yếu tố công nghệ cao như: sản xuất, kinh doanh
các sản phẩm công nghệ cao; nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ cao;
ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao và đào tạo nhân lực công nghệ cao… Đây
là đặc điểm quan trọng thể hiện sự khác biệt giữ KCNC với KCN và KCX.
Thứ ba, KCNC được thành lập theo quy định của Chính phủ, có ranh rới địa
lý xác định, hoạt động theo Quy chế do Chính phủ ban hành. Trên cơ sở quy
hoạch tổng thể phát triển các khu công nghiệp đã được Chính phủ phê duyệt,
Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập các KCNC, có xác định ranh giới cụ
thể, phân biệt với các vùng, lãnh thổ còn lại của quốc gia. Quy định này tạo điều
kiện để thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động của KCNC, đáp ứng nhu
cầu phát triển KCNC của từng địa phương.
d. Khu kinh tế (KKT):
Các quốc gia trên thế giới chỉ có định nghĩa về KCN, KCX, KCNC mà
không thấy xuất hiện định nghĩa về KKT. Pháp luật Việt Nam quy định về
KKT như sau: “Khu kinh tế là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi
trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới
14
địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.” (Khoản 23 Điều 3
Luật đầu tư năm 2005). Theo khoản 3 Điều 2 Nghị định số 29/2008/NĐ-CP
ngày 14/03/2008 của Chính phủ, KKT được tổ chức thành các khu chức
năng gồm: khu phi thuế quan, khu bảo thuế, khu chế xuất, khu công nghiệp,
khu giải trí, khu du lịch, khu đô thị, khu dân cư, khu hành chính và các khu
chức năng khác phù hợp với đặc điểm của từng khu kinh tế.
Ngoài ra, pháp luật còn quy định về Khu kinh tế của khẩu, theo đó, Khu
kinh tế cửa khẩu là khu kinh tế hình thành ở khu vực biên giới đất liền có cửa
khẩu quốc tế hoặc cửa khẩu chính và được thành lập theo các điều kiện, trình tự
và thủ tục quy định của pháp luật.
Từ những khái niệm trên có thể xác định những đặc điểm của khu kinh tế:
Thứ nhất, khu kinh tế là khu vực có không gian riêng biệt với môi trường
đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho nhà đầu tư. Được thành lập với mục
đích thu hút vốn đầu tư, khu kinh tế tách biệt với môi trường đầu tư và kinh
doanh, được nhà nước áp dụng những chính sách khuyết khích đầu tư đặc biệt về
tài chính, đất đai,… tạo ra sự thuận lợi cho nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư vào
khu kinh tế.
Thứ hai, khu kinh tế có ranh giới địa lý xác định. Ranh rới này được xác
định rõ ràng trong Quyết định thành lập KKT, tách biệt với các khu vực lãnh thổ
khác, nhưng khác so với KCN, trong KKT có dân cư sinh sống. Điều này phục
vụ cho việc phát triển sản xuất, dịch vụ, mở rộng môi trường, lĩnh vực đầu tư vào
KKT.
Thứ ba, khu kinh tế được thành lập theo quy định của Chính phủ. Cũng
giống như khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, trình tự, thủ tục
thành lập khu kinh tế được Chính phủ ban hành, hướng dẫn cụ thể.
15
Thứ tư, trong khu kinh tế có thể có các khu chức năng, gồm: khu phi thuế
quan, khu bảo thuế, khu chế xuất, khu công nghiệp, khu giải trí, khu du
lịch, khu đô thị, khu dân cư, khu hành chính và các khu chức năng khác phù
hợp với đặc điểm của từng khu kinh tế.
1.2.2. Phân biệt khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế và khu
công nghệ cao.
Từ những phân tích trên, ta có thể rút ra sự khác nhau cơ bản giữa khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao như sau:
Thứ nhất, về mục đích thành lập, nếu như KCN được thành lập nhằm mục
đích thu hút vốn đầu tư trong nước, nước ngoài phát triển công nghiệp thì KCX
được thành lập chỉ để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào sản xuất hàng hóa xuất
khẩu; trong khi đó, KKT được thành lập nhằm mục đích thu hút vống đầu tư
trong nước và nước ngoài phát triển kinh tế; KCNC được thành lập với mục đích
ươm tạo công nghệ cao, thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài vào sản
xuất công nghệ cao, phát triển ngành công nghệ cao, thu hút nguồn nhân lực,
khoa học công nghệ.
Thứ hai, về tính chất ranh giới địa lý, ranh rới địa lý của KCN, KCNC đơn
thuần là sự xác định mốc giới, phân biệt với các vùng, lãnh thổ khác bằng hệ
thống hàng rào. Trong khi đó, ranh giới địa lý của KCX là biên giới hải quan và
thuế quan của một nước; ranh giới địa lý của KKT là không gian riêng biệt với
môi trường đầu tư và kinh doanh.
Thứ ba, về cơ cấu, hoạt động trong KCN gồm các doanh nghiệp chuyên sản
xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, trong
KCN có thể có KCX. Hoạt động trong KCX bao gồm các doanh nghiệp chuyên
sản xuất hàng xuất khẩu và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu.
16
Tổ chức trong KCNC bao gồm các đơn vị nghiên cứu, các học viện, trung tâm
đào tạo, các trung tâm tư vấn, xí nghiệp công nghiệp, công nghệ cao, doanh
nghiệp và công ty phát triển hạ tầng. Còn trong KKT là các thành phần doanh
nghiệp tham gia đầu tư phát triển kinh tế tại…
Thứ tư, chức năng hoạt động. KCN có chức năng sản xuất hàng công nghiệp
và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng công nghiệp, trong khi đó, KCX có
chức năng là sản xuất hàng xuất khẩu và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng
xuất khẩu. Đối với KCNC, chức năng của nó là ươm tạo công nghệ cao; sản xuất
công nghiệp công nghệ cao; huấn luyện, đào tạo nhân lực công nghệ cao; dịch vụ
thương mại và các sản phẩm công nghệ cao; dịch vụ, kinh doanh nhà ở.
Thứ năm, về vấn đề dân cư, trong KCN, KCX không có dân cư sinh sống,
trong KCNC, KKT có thể có dân cư sinh sống.
Trên đây là những điểm khác nhau cơ bản giữa khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao.
1.3. VAI TRÒ CỦA KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT, KHU
KINH TẾ, KHU CÔNG NGHỆ CAO ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC.
Trong hơn 20 năm hình thành và phát triển mô hình khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao, thực tế đã cho thấy vai trò quan trọng
của những mô hình này đối với sự phát triển công nghiệp, kinh tế - xã hội ở nước
ta. Vai trò này được thể hiện trên khác khía cạnh:
Thứ nhất, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao
đóng vai trò thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Chỉ tính riêng 9 tháng
đầu năm 2011, các KCN của cả nước đã thu hút được 204 dự án FDI với tổng
17
vốn đầu tư đăng ký đạt gần 2.800 triệu USD và điều chỉnh tăng vốn cho 187 lượt
dự án với tổng vốn đầu tư tăng thêm là hơn 1.350 triệu USD. Tính chung trong 9
tháng đầu năm 2011, tổng FDI vào KCN đạt 4.150 triệu USD (tăng 15% so với
cùng kỳ năm 2010). Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Hồng là những khu vực
dẫn đầu về thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào KCN với tổng số vốn đầu tư lần
lượt là 2.450 và 980 triệu USD, tương đương 60% và 24% tổng vốn đầu tư nước
ngoài vào KCN cả nước trong 9 tháng đầu năm 2011. Lũy kế đến cuối tháng
9/2011 các KCN trong cả nước đã thu hút được 4.166 dự án FDI với tổng vốn
đầu tư đăng ký xấp xỉ 58 tỷ USD, tổng vốn đầu tư đã thực hiện đạt hơn 22 tỷ
USD, bằng 40 % tổng vốn đầu tư đăng ký. Hiện nay đã có hơn 3.100 dự án đang
sản xuất kinh doanh và 450 dự án đang trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản.
Về tình hình thu hút đầu tư trong nước, trong 9 tháng đầu năm 2011, các KCN
đã thu hút được 200 dự án với tổng vốn đăng ký 22.350 tỷ đồng và điều chỉnh
tăng vốn cho 63 dự án với tổng vốn tăng thêm 6.020 tỷ đồng. Như vậy, trong gần
9 tháng đầu năm tổng vốn đầu tư trong nước thu hút được đạt hơn 28.370 tỷ
đồng. Tính lũy kế đến hết tháng 9/2011, các KCN cả nước đã thu hút được 4.580
dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký gần 365.000 tỷ đồng, tổng vốn
đầu tư thực hiện đạt 177.000 tỷ đồng, xấp xỉ 50% tổng vốn đăng ký. Trong 9
tháng đầu năm 2011, các KKT ven biển thu hút được 35 dự án đầu tư nước
ngoài, kể cả các dự án tăng vốn, mở rộng sản xuất với tổng vốn đầu tư đạt hơn
700 triệu USD; và 90 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đạt hơn
85.000 tỷ đồng
3
.
Thứ hai, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao
đóng góp đáng kể vào giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất nhập khẩu và
Ngân sách nhà nước. Trong 9 tháng đầu năm 2011, các doanh nghiệp KCN đã đạt
tổng doanh thu 27 tỷ USD và 91.500 tỷ đồng. Kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu
3
Theo Báo cáo tình hình xây dựng và phát triển KCN, KKT 9 tháng đầu năm 2011.
18
của các doanh nghiệp đạt 13 tỷ USD và 13,3 tỷ USD. Các doanh nghiệp cũng đóng
góp vào ngân sách nhà nước 5.600 tỷ đồng và 455 triệu USD.Doanh thu của các
KKT đạt hơn 77.000 tỷ đồng và 370 triệu USD (tăng 50% lần so với cùng kỳ
năm 2010). Giá trị nhập khẩu và xuất khẩu lần lượt là 565 triệu USD và 400 triệu
USD, nộp ngân sách nhà nước hơn 5734 tỷ đồng
4
.
Thứ ba, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao là
công cụ quy hoạch sản xuất công nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, tránh
việc hình thành và phát triển công nghiệp một cách tự phát. Khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ.
Thứ tư, việc xây dựng, phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
kinh tế, khu công nghệ cao đã giúp nước ta khắc phục được những yếu kém về
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trên những địa phương xây dựng mô hình này,
tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
kinh tế, khu công nghệ cao, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối
với những khu vực này.
Thứ năm, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao,
đặc biệt là khu công nghệ cao là nơi thu hút thành tựu khoa học kỹ thuật, công
nghệ tiên tiến trên thế giới vào nước ta, tiếp thu các kinh nghiệm quản lý của các
quốc gia khác, góp phần nâng cao năng lực quản lý nhà nước.
Thứ sáu, khu công nghiệp góp phần giải quyết việc làm và nâng cao chất
lượng nguồn lao động.
Thứ bảy, khu công nghiệp, khu chế xuất góp phần vào việc kiểm soát và xử
lý chất thải công nghiệp, bảo vệ môi trường. Việc tập trung các khu công nghiệp,
4
Theo Báo cáo tình hình xây dựng và phát triển KCN, KKT 9 tháng đầu năm 2011.
19
khu chế xuất trong một khu vực địa lý xác định tạo điều kiện cho việc quản lý
nguồn rác thải công nghiệp từ các nhà máy, tạo điều kiện tập trung, xử lý rác
thải. Ngoài ra, việc tập trung các doanh nghiệp sản xuất vào một khu vực còn có
tác dụng lớn trong việc giảm mức độ ô nhiễm môi trường trong các khu dân cư.
Như vậy, sau hơn 20 năm phát triển mô hình khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao, những thành tựu mà những mô hình này
đạt được đã khẳng định vai trò, tầm quan trọng của chúng đối với sự nghiệp phát
triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.4. PHÁP LUẬT VỀ KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT,
KHU CÔNG NGHỆ CAO.
1.4.1. Cơ sở pháp lý cho khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế,
khu công nghệ cao ở Việt Nam hoạt động và phát triển.
Để đảm bảo phát triển có hiệu quả mô hình kinh tế khu công nghiệp, ngoài
việc áp dụng các biện pháp hành chính, kinh tế, các nước trên thế giới đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật khác nhau, tạo ra một hành lang pháp lý cho mô
hình này hoạt động và phát triển. Đáp ứng với nhu cầu thực tế, Việt Nam cũng
đa ban hành những văn bản pháp luật để điều chỉnh hoạt động của mô hình khu
kinh tế.
Cơ sở pháp lý cho khu kinh tế hoạt động ở Việt Nam bao gồm Hiến pháp
1992; các văn bản luật (Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp…); các văn bản dưới
luật (Nghị định số 99/2003/NĐ – CP ngày 28/8/2003 của Chính phủ về việc ban
hành Quy chế Khu công nghệ cao, Nghị định số 29/2008/NĐ – CP ngày
14/3/2008 của Chính phủ quy định về Khu công nghiệp, Khu chế xuất và Khu
kinh tế) và các Thông tư của Bộ, Ngành có liên quan hướng dẫn thi hành các văn
bản nói trên.
20
Như vậy, cơ sở pháp lý cho việc hình thành và hoạt động của các khu kinh
tế, khu công nghiệp ở nước ta là rất rộng, liên quan đến nhiều văn bản pháp luật
khác nhau, trong phạm vi đề tài xin trình bày một số văn bản pháp luật chủ yếu.
Cơ sở pháp lý đầu tiên cho khu kinh tế, khu công nghiệp ở Việt Nam hình
thành và phát triển là các quy định trong Hiến pháp 1992. Điều 15 Hiến pháp
1992 ghi nhận: “Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nà nước, cũng như ghi nhận sự tồn tại của nhiều hình thức cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức, tổ chức sản xuất kinh doanh đa
dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân”. Sự ghi
nhận này tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức tham gia vào hoạt động kinh tế ở
mọi lĩnh vực, phát triển nhiều hình thức tổ chứ sản xuất kinh doanh trong đó có
mô hình KKT, KCN.
Trên cơ sở các nguyên tắc quy định trong Hiến pháp, Quốc hội nước ta đã
thông qua Luật đầu tư ngày 29/11/2005 thay thế cho Luật khuyến khích đầu tư
trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhằm xóa bỏ sự chênh lệch
trong việc áp dụng các chính sách ưu đãi đầu tư giữa nhà đầu tư trong nước và
nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, Chính phủ ban hành Nghị định số
108/2006/NĐ – CP ngày 12/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư thay thế cho Nghị định số 51/1999/NĐ
– CP hướng dẫn thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Nghị định số
24/2000/NĐ – CP hướng dẫn thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Luật
đầu tư và Nghị định 108 tiếp tục ghi nhận chính sách khuyến khích đầu tư, đặc
biệt là trong hoạt động của KCN, KCX, KKT, KCNC tại Việt Nam bình đẳng
đối với nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Nhận thức rõ vai trò của khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu
công nghệ cao trong sự nhiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời
21
cũng là để xóa bỏ sự chênh lệch của chính sách ưu đãi đầu tư đối với nhà đầu tư
trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, ngày 28/8/2003 Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 99/2003/NĐ – CP kèm theo Quy chế Khu công nghệ cao và ngày
14/3/2008 ban hành Nghị định số 29/2008/NĐ – CP quy định về Khu công
nghiệp, Khu chế xuất, Khu kinh tế thay cho Nghị định số 36/1997/NĐ – CP về
Quy chế KCN, KCX, KCNC. Đây là những văn bản quan trọng, quy địch trực
tiếp về KCN, KCX, KCNC, KKT, từ trình tự thủ tục thành lập, mở rộng đến hoạt
động, quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Đây là những văn bản quy phạm
pháp luật cơ bản, là nền tảng cho sự hình thành và hoạt động của KCN, KCX,
KKT, KCNC tại Việt Nam.
1.4.2. Khái quát nội dung của pháp luật về khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao.
Những vấn đề pháp lý liên quan đến sự hình thành và hoạt động của các khu
kinh tế, khu công nghiệp mang một phạm vi rộng lớn, liên quan đến nhiều lĩnh
vực khác nhau trong đời sống kinh tế, xã hội. Trong phạm vi luận văn, tôi chọn
đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề sau:
Thứ nhất, trình tự, thủ tục thành lập, mở rộng khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu kinh tế và trình tự, thủ tục đầu tư vào khu công nghệ cao.
Thứ hai, cơ chế chính sách của nhà nước đối với KCN, KCX, KKT, KCNC
từ ưu đãi đầu tư, tài chính tín dụng đến vấn đề dân cư, thể hiện cơ chế, chính
sách điều chỉnh sự hoạt động và phát triển của KCN, KCX, KKT, KCNC.
Thứ ba, hoạt động quản lý nhà nước đối với KCN, KCX, KKT, KCNC
được thực hiện bởi nhiều cơ quản quản lý khác nhau trên cơ sở phân cân hoặc ủy
quyền của các cơ quan khác cho Ban quản lý KCN, KCX, KKT, KCNC.
22
1.4.3. Vai trò của pháp luật về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh
tế, khu công nghệ cao.
Pháp luật về khu công nghiệp, khu kinh tế có vai trò quan trọng trong việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thành lập và hoạt động
khu công nghiệp, khu kinh tế. Vai trò đó được thể hiện trên các phương diện:
Thứ nhất, pháp luật về khu công nghiệp, khu kinh tế tạo ra hành lang pháp
lý cho khu công nghiệp, khu kinh tế hoạt động và phát triển.
Thứ hai, pháp luật về khu công nghiệp, khu kinh tế đã góp phần tạo ra
những yếu tố cần thiết cho môi trường đầu tư hấp dẫn như thủ tục hành chính
đơn giản, gọn nhẹ; các biện pháp ưu đãi đầu tư… Thông qua đó góp phần thu hút
vốn đầu tư vào khu công nghiệp, khu kinh tế.
Thứ ba, pháp luật về khu công nghiệp, khu kinh tế đã tạo cơ sở pháp lý cho
các cơ quan nhà nước thực hiện hoạt động quản lý nhà nước đối với khu công
nghiệp, khu kinh tế trên cơ sở quy định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà
nước của từng cơ quan quản lý nhà nước khác nhau.
Thứ tư, pháp luật về khu công nghiệp, khu kinh tế đã tạo điều kiện cho các
chủ thể đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư vào khu công nghiệp, khu kinh tế và
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó có quyền tự do kinh doanh.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KHU CÔNG NGHIỆP, KHU
CHẾ XUẤT, KHU KINH TẾ, KHU CÔNG NGHỆ CAO
23
2.1. PHÁP LUẬT VỀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC THÀNH LẬP, MỞ
RỘNG KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT, KHU KINH TẾ VÀ
ĐẦU TƯ TRONG KHU CÔNG NGHỆ CAO.
Căn cứ chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội; quy hoạch sử
dụng đất của cả nước và của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương có liên quan xây dựng và trình Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp, khu kinh
tế. Quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế đã được phê
duyệt là căn cứ để xem xét việc thành lập khu công nghiệp, khu kinh tế; xây
dựng quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và
hạ tầng xã hội phục vụ sự phát triển của khu công nghiệp, khu kinh tế.
Thẩm quyền thành lập, mở rộng khu công nghiệp, khu kinh tế được quy
định: Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, mở rộng khu kinh tế phù hợp
với Quy hoạch tổng thể phát triển khu kinh tế đã được phê duyệt; Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập, mở rộng khu công nghiệp đã có
trong Quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp hoặc có trong Quy hoạch
chung xây dựng khu kinh tế đã được phê duyệt.
2.1.1. Trình tự, thủ tục thành lập, mở rộng đối với khu công nghiệp,
khu chế xuất:
Để thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất cần đáp ứng đủ điều kiện: phù
hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp đã được phê duyệt; tổng
diện tích đất công nghiệp của các khu công nghiệp đã được thành lập trên địa
24
bàn lãnh thổ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã cho các dự án đăng ký
đầu tư, cấp Giấy chứng nhận đầu tư thuê đất, thuê lại đất ít nhất là 60%.
Việc mở rộng khu công nghiệp, khu chế xuất, ngoài những điều kiện tương
tự như trên cần đảm ứng thêm các điều kiện: khu công nghiệp đã xây dựng và
đưa vào sử dụng công trình xử lý nước thải tập trung; đối với khu công nghiệp
có quy mô diện tích từ 500 ha trở lên và có nhiều nhà đầu tư tham gia đầu tư xây
dựng - kinh doanh kết cấu hạ tầng theo từng khu riêng biệt hoặc khu công nghiệp
gắn liền với khu đô thị, khu kinh doanh tập trung khác trong một đề án tổng thể
phải lập quy hoạch chung xây dựng theo hướng dẫn của Bộ Xây dựng trước khi
lập quy hoạch chi tiết; đối với khu công nghiệp có quy mô diện tích từ 500 ha trở
lên hoặc có vị trí cạnh các tuyến quốc lộ, gần các khu vực quốc phòng, khu bảo
tồn di tích lịch sử, khu danh lam thắng cảnh, khu bảo tồn sinh thái của vùng và
quốc gia, nằm trong các đô thị loại II, loại I và loại đặc biệt phải có ý kiến bằng
văn bản của Bộ Xây dựng và các Bộ, ngành có liên quan về quy hoạch chi tiết
xây dựng khu công nghiệp trước khi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt.
Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư đầu tư đối với dự án đầu tư xây dựng
và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp thực hiện theo quy định của pháp
luật về đầu tư:
Trường hợp khu công nghiệp hoặc mở rộng khu công nghiệp có trong Quy
hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp hoặc có trong Quy hoạch chung xây
dựng khu kinh tế đã được phê duyệt thì Cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư
thực hiện thủ tục đầu tư đối với dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ
tầng mà không phải trình Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư,
cho phép thành lập khu công nghiệp.
25