Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

khởi tố vụ án hình sự lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.38 KB, 69 trang )

Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự, pháp luật quy định cụ thể trình tự, thủ tục, nhiệm vụ của cơ quan chức năng
trong quá trình tố tụng. Cụ thể là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định quy
trình giải quyết một vụ án hình sự phải theo một trình tự, thủ tục nhất định gồm:
Giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Khởi tố vụ án là giai đoạn
đầu tiên của quá trình tố tụng, nếu không khởi tố vụ án thì không có các giai đoạn
tiếp theo. Khởi tố vụ án hình sự là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền, bằng việc
ra một trong hai quyết định khởi tố vụ án (trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu
tội phạm xảy ra) hoặc không khởi tố vụ án khi thuộc một trong những trường hợp
được quy định tại Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 “những căn cứ
không được khởi tố vụ án hình sự”, thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không
khởi tố vụ án hình sự. Qua đó, ta thấy giai đoạn khởi tố là giai đoạn quan trọng, vì
nếu khởi tố vụ án không kịp thời thì sẽ bỏ lọt tội phạm, còn nếu khởi tố vụ án không
chính xác thì sẽ dẫn đến oan sai cho người vô tội, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Khởi tố vụ án cần đáp ứng được những yêu cầu bảo vệ an
toàn các hoạt động trong trật tự quản lý nhà nước, quản lý kinh tế và quản lý xã hội,
nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện, điều tra, xử lý kịp thời,
bảo vệ được những quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan đến
hoạt động này.
Khởi tố vụ án kịp thời và đúng pháp luật, là một việc làm rất cần thiết, khởi
tố chậm trễ và không kịp thời sẽ gây nhiều thiệt hại cho con người và xã hội. Tuy
nhiên, quá trình thực thi pháp luật cho thấy còn nhiều vấn đề bất cập trong khởi tố
vụ án hình sự dẫn đến việc để lọt tội phạm và người phạm tội, hoặc làm oan người
vô tội.
Thật vậy, nếu khởi tố vụ án không khách quan, kịp thời, không đúng pháp
luật sẽ dẫn nhiều vấn đề bất lợi cho người bị hại, tính nghiêm minh của pháp luật,
ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự xã hội. Để việc khởi tố có hiệu quả và khả thi thì


1
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
việc hoàn thiện thủ tục khởi tố vụ án hình sự trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện
nay là một điều hết sức cần thiết, đó cũng là lý do mà người viết chọn tìm hiểu và
nghiên cứu đề tài “Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu đề tài “Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn” của
người viết là căn cứ vào những quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật
thời gian qua, để thấy được những ưu điểm và hạn chế trong quá trình áp dụng và
thi hành pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, từ đó người viết có thể tìm
ra những hạn chế và đề ra những giải pháp cụ thể của quá trình khởi tố vụ án hình
sự trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
nói riêng, để hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó góp phần vào việc đấu tranh phòng,
chống tội phạm và tăng cường tính pháp chế xã hội chủ nghĩa.
3. Phạm vi nghiên cứu
Do để đi sâu và có điều kiện tìm hiểu kỹ quy định trong một lĩnh vực cụ thể,
nên người viết tập trung tìm hiểu và nghiên cứu giai đoạn đầu tiên của quá trình tố
tụng đó là giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, với việc nghiên cứu đề tài “Khởi tố vụ
án hình sự - Lý luận và thực tiễn” người viết sẽ đi tìm hiểu và nghiên cứu trong
phạm vi ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, những quy định pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật trong giai đoạn này và các văn bản hướng dẫn thi hành.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài “ Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn” người
viết vận dụng hai nhóm phương pháp nghiên cứu đó là:
Phương pháp lý luận: Nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách; phương pháp
phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp phân tích luật.
2
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp

Phương pháp thực tế như: Sưu tầm số liệu thực tế; phương pháp thống kê,
tổng hợp, tìm hiểu tình hình thực tế áp dụng pháp luật tại địa phương, nghiên cứu
dựa trên các báo và tạp chí chuyên ngành.
5. Kết cấu của Luận văn:
Luận văn bao gồm lời nói đầu, ba chương, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo.
Chương 1. Những vấn đề chung về khởi tố vụ án hình sự.
Chương 2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về khởi tố
vụ án hình sự.
Chương 3. Những hạn chế và giải pháp hoàn thiện nhằm đảm bảo tính nghiêm
minh của pháp luật trong giai đoạn khởi tố vụ án án hình sự.
Khi nghiên cứu đề tài “Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn”, người viết
đã tập trung phân tích những quy định của luật, đối chiếu thực tế việc vận dụng
pháp luật để tìm ra những khuyết điểm và đề xuất giải pháp khắc phục. Do kiến
thức của bản thân chỉ hiểu biết trong một giới hạn nhất định, so với những vấn đề
thực tế đang diễn ra trong xã hội, điều đó yêu cầu người viết phải có những kiến
thức sâu rộng trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Đây là lần đầu tiên, nên việc tiếp
xúc với đề tài nghiên cứu luật còn rất mới mẽ, nên còn rất nhiều hạn chế chưa thể
đạt kết quả như mong muốn. Do đó trong quá trình nghiên cứu, người viết không
thể tránh khỏi những sai sót về mặt nội dung cũng như hình thức luận văn. Vì vậy,
người viết rất mong nhận được những đóng góp ý kiến của quý Thầy, Cô và các bạn
đọc giả, điều đó rất cần thiết để người viết có thể hoàn thành tốt luận văn của mình.
3
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
Trong thời đại ngày nay, đất nước ta đang trên đà phát triển và đang từng
bước hội nhập nền kinh tế thế giới, nên mọi hoạt động xã hội đều phải tuân thủ
Hiến pháp và Pháp luật một cách tuyệt đối. Do đó, tất cả các ngành luật đều phải

được ban hành, sửa đổi kịp thời để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội
nói chung, Bộ luật Tố tụng hình sự nói riêng. Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình
tự thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Tuân thủ pháp luật
tố tụng hình sự có tác dụng đảm bảo xác định nhanh chóng mọi hành vi phạm tội và
phát hiện kịp thời những loại tội phạm một cách chính xác và đúng pháp luật, không
bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Muốn giải quyết đúng đắn vụ án hình sự,
các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự. Khởi tố vụ án hình sự là hoạt động đầu tiên trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự, tội phạm có được phát hiện kịp thời và xử lý công minh hay không là
ở giai đoạn này. Hoạt động này có quan hệ trực tiếp đến các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Trong phạm vi chương này, các vấn đề khái quát về giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự và các vấn đề có liên quan được trình bày mang tính chất là cơ
sở lý luận, là tiền đề cho việc nghiên cứu các quy chế pháp lý cũng như các vấn đề
thực tiễn.
1.1. Khái quát chung về khởi tố vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
“Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, trong đó cơ
quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định
khởi tố hoặc quyết định không khởi tố”.
1

Như vậy, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, ở
giai đoạn này cơ quan có thẩm quyền tiến hành các biện pháp nghiệp vụ để thu
1
Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2006, tr. 235
4
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
thập, xử lý các thông tin ban đầu, khi có đủ chứng cứ, sẽ ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự.

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) có quy định “mọi công
dân điều bình đẳng trước pháp luật” và công dân có những quyền cơ bản được
pháp luật bảo vệ, không ai có thể xâm phạm những quyền hiến định được pháp luật
ghi nhận. Căn cứ vào quy định đó, Điều 3 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy
định nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong Tố tụng hình sự, mục đích nhằm
giải quyết vụ án tuân theo pháp luật và đảm bảo quyền và lợi ích của công dân trong
quá trình giải quyết vụ án, nguyên tắc này không thừa nhận việc áp dụng các hoạt
động tố tụng mà không được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì quá trình tố tụng
hình sự bao gồm năm giai đoạn là: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Trong đó khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, ở giai
đoạn này cơ quan có thẩm quyền (cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan được
giao quyền tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu), thu thập, xử lý các thông
tin ban đầu và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
Xác định những dấu hiệu tội phạm trong giai đoạn này là việc xác định những dấu
hiệu, hành vi và sự kiện phạm tội nhưng chưa kết luận một cách chắc chắn về tội
phạm và người phạm tội.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự là cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng
tiến hành các hoạt động tiếp theo là điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Quyết
định khởi tố có ý nghĩa rất quan trọng làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng hình
sự giữa cơ quan có thẩm quyền và người tham gia tố tụng. Khi cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định khởi tố vụ án sẽ là cơ sở pháp lý đầu tiên để thực hiện việc điều
tra.
2
Ví dụ: Ngày 30/12/2012, chị K đến Công an xã Thuận An trình báo đã bị kẻ
gian cho uống thuốc mê và lấy hết tài sản. Qua điều tra xác minh ban đầu, Cơ quan
2
Xem Ts. Vũ Gia Lâm, Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của việm kiểm sát và tòa án, Tạp chí luật học số
8/2010 tr. 32
5

Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
điều tra đã xác định được đối tượng và đã triệu tập Lê Công Trường (SN 1987, ngụ
tại xã Đông Bình) và Phan Thành Thật (SN 1987, ngụ xã Thạnh Thới Thuận, huyện
Trần Đề tỉnh Sóc Trăng) để điều tra làm rõ. Qua đấu tranh, các đối tượng khai nhận:
Khoảng 19 giờ ngày 29/12/2012, Trường điện thoại mời K đi hát karaoke, K
rủ thêm T cùng đi. Tại đây, lợi dụng sơ hở, bọn chúng bỏ thuốc mê vào 2 ly bia đã
chuẩn bị sẳn, ép K và T uống. Khi 2 nữ đã mê man, bọn chúng lấy 1 bộ vòng đeo
tay màu vàng, 01 đôi bông tai màu vàng, 02 điện thoại di động và 1 triệu đồng. Sau
đó , cả nhóm chở nạn nhân vào nhà nghỉ rồi bỏ trốn. Số tài sản cướp được, các đối
tượng đem bán được 6.500.000 đồng và chia nhau tiêu xài.
Cơ quan điều tra công an huyện Bình Minh đã ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can và bắt tạm giam đối với Lê Công Trường (SN 1987, ngụ tại
xã Đông Bình) và Phan Thành Thật (SN 1987, ngụ xã Thạnh Thới Thuận, huyện
Trần Đề tỉnh Sóc Trăng) và Nguyễn Minh Nhựt (SN 1983, ngụ xã Thuận An) để
tiếp tục điều tra làm rõ
3
Vụ án đã thể hiện được, sau khi nhận được tin tố giác tội phạm, cơ quan
Điều tra đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ, dựa vào nhận dạng của bị hại và
nhân chứng, cơ quan điều tra tiến hành triệu tập các đối tượng nghi vấn để lấy lời
khai. Khi đủ cơ sở chứng minh đây là vụ phạm pháp hình sự, cơ quan Điều tra
quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và tiếp tục điều tra xử lý theo pháp
luật.
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, từ đó các
quan hệ tố tụng bắt đầu phát sinh. Trong giai đoạn này, các cơ quan có thẩm quyền
trên cơ sở những thông tin ban đầu thu thập được đi đến xác định có hay không có
căn cứ để khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự và trên cơ sở đó
mà ra quyết định cho phù hợp. Kết quả của giai đoạn này làm cơ sở cho việc mở ra
các hoạt động tố tụng hình sự tiếp theo hoặc có thể chấm dứt mọi hoạt động tố tụng
hình sự đối với tin báo về tội phạm.

3
Theo báo Vĩnh Long số 3017, ra ngày 02/4/2013.
6
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
1.1.2. Đặc điểm của khởi tố vụ án hình sự
Là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự, thời điểm
của giai đoạn này được bắt đầu từ khi nhận được những thông tin đầu tiên về việc
thực hiện hành vi phạm tội và kết thúc bằng quyết định về việc khởi tố hoặc không
khởi tố vụ án hình sự có liên quan đến hành vi đó.
Chủ thể có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự là cơ quan tiến hành tố tụng và
các cơ quan được giao quyền tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu. Khi tiếp
nhận thông tin, các cơ quan này có trách nhiệm kiểm tra, xác minh nguồn tin nhận
được bằng các biện pháp nghiệp vụ như: Khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai của
người bị hại, nhân chứng, người bị tạm giữ
Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự không cần phải xác minh toàn bộ sự thật của
vụ án, mà là không để bỏ lọt bất cứ một dấu hiệu tội phạm nào mà không được xem
xét và không để cho bất cứ hành vi tội phạm nào mà không bị phát hiện. Mọi hoạt
động tố tụng điều tra, áp dụng biện pháp ngăn chặn và những biện pháp khác chỉ
được tiến hành sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Thời điểm bắt đầu của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được tính từ khi cơ
quan nhà nước có thẩm quyền nhận được những tin tức về tội phạm và kết thúc khi
cơ quan tiến hành tố tụng ra một trong hai quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc
quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Vì vậy, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng hình
sự, trong đó, các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có căn cứ để ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Kết
thúc giai đoạn khởi tố vụ án hình sự sẽ là sự khởi đầu cho một giai đoạn mới hoặc
chấm dứt quá trình tố tụng.
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng

để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền của công dân trước khi khởi tố bị can và
7
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của giai đoạn điều tra, cùng với các giai đoạn tố
tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội
phạm trong toàn xã hội.
1.1.3. Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
1.1.3.1. Chứng minh có hoặc không có tội phạm xảy ra
Khi tiếp nhận về tin tức về tội phạm, cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án
hình sự phải xác định sự tồn tại của sự việc đó có hay không có dấu hiệu tội phạm
để quyết định việc khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Qua đó, kịp thời phát
hiện tội phạm, hạn chế tối đa tình trạng bỏ lọt tội phạm, cũng như bảo đảm được
nguyên tắc không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vô tội. Nếu xác định
có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án, hoặc
thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự
“Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự”, thì cơ quan có thẩm quyền ra
quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Khởi tố vụ án hình sự là nhằm “phát hiện chính xác nhanh chóng và xử lý
công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và làm oan người
vô tội” (Điều 1 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003), vì vậy nhiệm vụ của giai đoạn
này là phát hiện chính xác, nhanh chóng mọi loại tội phạm xảy ra, có biện pháp phù
hợp cho việc điều tra làm rõ và xử lý công minh đối với những loại tội phạm đó.
Giúp cho cơ quan có chức năng kiểm sát, giám sát hoạt động điều tra nắm
được diễn biến tình hình tội phạm và công tác điều tra tội phạm để có thể đặt ra các
yêu cầu trong công tác phòng ngừa, đấu tranh, truy tố, buộc tội người phạm tội, góp
phần quan trọng trong công tác giữ gìn an ninh trật tự địa phương.
Khởi tố vụ án một cách kịp thời là một trong những bảo đảm quan trọng để
xử lý nhanh chóng, công minh đối với hành vi phạm tội đã xảy ra. Ngược lại, nếu
các hoạt động tố tụng hình sự trong giai đoạn khởi tố không đầy đủ, không chính

8
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
xác thì có thể dẫn đến những sai lệch, khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự.
Bảo đảm tính khách quan, toàn diện, đầy đủ trong hoạt động điều tra, các
quyền lợi cơ bản của công dân phải được tôn trọng. Khởi tố vụ án hình sự là sự
phản ứng nhanh chóng từ phía Nhà nước đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm góp
phần phát hiện, điều tra và xử lý một cách có căn cứ và đúng pháp luật hành vi
phạm tội và người phạm tội, đồng thời không chỉ là chức năng quan trọng trong
hoạt động tư pháp hình sự mà còn là phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc
trong tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm và phát hiện hành vi phạm tội một cách
kịp thời.
Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là nhằm xác định dấu hiệu của
tội phạm, tức là xác định xem sự việc xảy ra có dấu hiệu của một tội phạm cụ thể
hay không, nói cách khác là có vụ án hình sự đã xảy ra hay không.
4
Để thực hiện
nhiệm vụ này, cơ quan có thẩm quyền sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm
hoặc kiến nghị khởi tố, trong phạm vi thẩm quyền của mình và thời hạn luật định
phải tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh các tin tức về tội phạm bằng những
biện pháp cụ thể:
Kiểm tra giấy tờ tùy thân, hộ khẩu, đăng ký tạm trú của người bị tố cáo; yêu
cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân có liên quan đến sự việc cung
cấp những tài liệu cần thiết. Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội có liên quan
giải thích rõ sự việc nhằm mục đích làm rõ dấu hiệu tội phạm.
Khi yêu cầu giải thích, cơ quan có thẩm quyền không được áp dụng các biện
pháp hỏi cung hoặc cưỡng chế tố tụng đối với người được yêu cầu giải thích. Nếu
bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì tiến hành lấy lời
khai của người bị bắt.

4
Xem: Khổng Văn Hà, Nguyễn Văn Cừ, Trần Minh Hưởng: Tìm hiểu Luật tố tụng hình sự, Nxb. Văn hóa –
Dân tộc, Hà Nội, 2000, tr. 193
9
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
Trong trường hợp cần thiết thì khám nghiệm hiện trường và tiến hành các
biện pháp khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự để xác định dấu hiệu tội
phạm.
Ví dụ: Sáng ngày 4/4/2013, các cơ quan chức năng tỉnh Khánh Hòa tiến hành
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi để điều tra vụ án mạng xảy ra tại
phường Cam Phúc Nam (TP Cam Ranh) đêm 03/4/2013. Nạn nhân được xác định là
anh Dương Tấn Thành (32 tuổi, ở P.Cam Lợi, TP Cam Ranh), tài xế công ty taxi
Mai Linh.
Tại hiện trường, anh Thành nằm chết cách chiếc taxi do anh lái khoảng 80m,
trên người có tám vết đâm ở vùng cổ, vai và hông phải. Từ xe taxi đến nơi anh
Thành nằm chết có nhiều vết máu.
Bà Nguyễn Thị Chi Lan, một người dân sống gần nơi xảy ra vụ án, cho biết
khoảng 22g40 đêm 03/4/2013, bà đi trên đường Hai Bà Trưng thuộc phường Cam
Phúc Nam thì phát hiện anh Thành nằm bất động, máu đầy người. Bà Lan đã hô
hoán và cùng một số người dân địa phương đến báo công an phường. Lúc phát
hiện, bà Lan thấy anh Thành vẫn cầm chiếc điện thoại di động áp gần tai phải và
điện thoại nháy sáng, chiếc xe taxi dừng cách xác anh về phía tây, hai đèn trước vẫn
sáng.
Tại hiện trường, công an đã kiểm tra trên người nạn nhân, thu được 66.000
đồng ở túi áo trên của nạn nhân, một chiếc ví trong túi quần có 1 triệu đồng, một
điện thoại di động và các giấy tờ tùy thân của anh Thành.
Trên cơ sở khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và các chứng cứ
thu được, Công an thành phố Cam Ranh xác định đây là vụ án giết người, nên đã
khởi tố vụ án và đang phối hợp với Công an tỉnh Khánh Hòa điều tra, truy tìm hung

thủ.
5
5
Theo />10
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
Tình tiết vụ án cho thấy, khi nhận được tin báo, Cơ quan điều tra đã tiến
hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và ghi lời khai các nhân chứng.
Qua khám nghiệm, đã xác định danh tính người bị hại là anh Dương Tấn Thành, tài
xế taxi Mai Linh. Xác định nguyên nhân anh Thành chết là do bị người khác giết
hại, nguyên nhân giết có thể do ân oán cá nhân vì tại hiện trường tài sản của anh
Thành vẫn còn đầy đủ, không có dấu hiệu giết người, cướp của. Dựa vào các cơ sở
đó, Cơ quan điều tra xác định đây là vụ án giết người, tức là đã xác định có tội
phạm xảy ra và đã khởi tố vụ án hình sự, tiếp tục hoàn thành hồ sơ xác minh để tìm
hung thủ.
1.1.3.2. Hoàn thành hồ sơ, thủ tục khởi tố
Khởi tố vụ án là khâu đầu tiên của tố tụng hình sự, nếu không được thực hiện
tốt, khởi tố chậm trễ, điều tra vụ án không khách quan, không có căn cứ, thì dễ để
lọt tội phạm hoặc gây ra lãng phí công sức, tiền bạc của Nhà nước và có khi còn gây
hậu quả nghiêm trọng làm oan người vô tội. Vì vậy, sau khi tiến hành các biện pháp
điều tra, xác minh thu thập chứng cứ, khi có đủ cơ sở chứng minh, cơ quan tiến
hành tố tụng sẽ thực hiện một trong hai nhiệm vụ quan trọng đó là:
- Nếu đủ cơ sở chứng minh có dấu hiệu tội phạm xảy ra, cơ quan tiến hành tố
tụng sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và vụ án sẽ được tiến hành các bước tiếp
theo của quá trình tố tụng.
- Nếu đủ cơ sở chứng minh không có dấu hiệu tội phạm xảy ra, cơ quan tiến
hành tố tụng sẽ ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự và vụ án sẽ được khép lại.
Việc quy định thủ tục này, góp phần loại trừ các tiêu cực trong hoạt động tư pháp
hình sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định khởi tố vụ án hình sự một
cách thiếu cân nhắc kỹ, vội vàng và do vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực

tiếp theo trong việc truy cứu tố tụng hình sự ở các giai đoạn tố tụng hình sự tiếp
theo như: Điều tra không có căn cứ đối với những hành vi không chứa đựng dấu
hiệu của tội phạm hoặc nói chung là không diễn ra trong thực tế khách quan, khám
11
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
xét, bắt, giam giữ, buộc tội, xét xử một cách vô căn cứ và trái pháp luật, làm oan
những người vô tội.
Việc đi kèm với một trong hai quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án
hình sự, nhất thiết phải có một số văn bản cần thiết như: Biên bản xảy ra sự việc
hoặc biên bản phạm tội quả tang, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản ghi
lời khai nhân chứng, biên bản ghi lời khai bị hại đây là những văn bản làm cơ
sở cho việc tiến hành các bước tiếp theo.
1.2. Khởi tố vụ án hình sự - Giai đoạn quan trọng trong quá trình tố tụng
1.2.1. Quyết định khởi tố vụ án hình sự - Cơ sở pháp lý xác định đã có dấu hiệu
tội phạm xảy ra
Quy định về trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự, tại Điều 13 Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003 nêu rõ “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác
định tội phạm và xử lý người phạm tội”. Để bảo đảm phát hiện nhanh chóng và xử
lý kịp thời mọi hành vi phạm tội, thì việc khởi tố vụ án hình sự có ý nghĩa rất quan
trọng, nó chính thức công nhận sự tồn tại của một vụ án và từ đó làm phát sinh các
quyền và nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng, cũng như những người tham
gia tố tụng, việc khởi tố vụ án hình sự là sự khởi động của hoạt động tố tụng. Các
cơ quan tiến hành tố tụng điều có quyền khởi tố để bảo đảm không bỏ lọt tội phạm,
tránh tình trạng tội phạm xảy ra mà không có cơ quan tiến hành tố tụng nào khởi tố.
Quá trình để đi đến kết luận khởi tố một vụ án hình sự là hết sức quan trọng,
đòi hỏi việc phát hiện và tìm ra dấu hiệu tội phạm phải nhanh chóng và đúng pháp
luật, cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án phải đảm bảo việc khởi tố kịp thời, xử lý

nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật, để từ đó thấy được giai đoạn khởi tố
vụ án hình sự là giai đoạn quan trọng trong quá trình tố tụng hình sự.
12
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
Khoản 1 Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định “Khi xác định
có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự”. Chỉ khi có dấu hiệu tội phạm xảy ra, cơ quan điều tra nói riêng, các cơ quan
tiến hành tố tụng nói chung, phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, việc làm này
phải có căn cứ chính xác, đảm bảo đúng quy trình tố tụng. Thể hiện quyền lực nhà
nước, tính nghiêm minh của pháp luật trong xử lý các loại tội phạm, đảm bảo xử lý
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không bỏ lọt tội phạm.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự là cơ sở pháp lý để tiến hành các giai đoạn
tiếp theo của quá trình tố tụng như: Khởi tố bị can, tạm giam bị can, áp dụng các
biện pháp ngăn chặn nên đòi hỏi quá trình thực hiện phải hết sức thận trọng, đảm
bảo tính trung thực, chính xác đảm bảo mọi tội phạm đều phải được xử lý và tránh
oan sai cho người khác.
1.2.2. Những nguyên tắc cơ bản của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
1.2.2.1. Nguyên tắc có tội phạm xảy ra
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ghi nhận năm nguồn thông tin là cơ sở để
khởi tố vụ án hình sự, đó là: Tố giác của công dân; tin báo của cơ quan, tổ chức; tin
báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan
khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm; Người phạm tội tự
thú. Thông qua các nguồn thông tin, các hoạt động này, cơ quan tiến hành tố tụng
có trách nhiệm điều tra, xác minh làm rõ xem có dấu hiệu tội phạm hình sự hay
không và sẽ ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
Khi có đủ cơ sở xác định có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan tiến hành tố tụng
phải khởi tố vụ án hình sự, việc khởi tố là cơ sở pháp lý để tiến hành các giai đoạn

tiếp theo, mục đích là tìm ra người phạm tội để điều tra làm rõ và xử lý, nhằm đảm
bảo việc chấp hành và thực thi pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, tổ chức khi bị xâm hại; răng đe, giáo dục người phạm tội và mọi công dân
13
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
trong chấp hành pháp luật. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp có dấu hiệu
tội phạm đều được khởi tố, chỉ được khởi tố khi những trường hợp không thuộc quy
định tại Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Nếu không có dấu hiệu tội phạm thì sẽ không được khởi tố vụ án hình sự,
Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định “Không được khởi tố vụ án
ngoài những căn cứ, trình tự do Bộ luật này quy định”. Chỉ được khởi tố vụ án hình
sự đối với những tội phạm thuộc quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi,
bổ sung năm 2009) “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định
mới phải chịu trách nhiệm hình sự” (Điều 2, BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm
2009). Thật vậy, việc khởi tố vụ án hình sự mục đích là để tìm ra người vi phạm
pháp luật hình sự và áp dụng quy định của pháp luật này để xử lý, cho nên nếu
không dấu hiệu tội phạm thì không được khởi tố.
1.2.2.2. Nguyên tắc khách quan, không bỏ lọt tội phạm
Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được bắt đầu từ khi các cơ quan có thẩm
quyền nhận được tin báo về tội phạm; kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ra được
một trong hai quyết định là khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
Khi vụ án xảy ra, cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành các biện pháp nghiệp
vụ để điều tra, xác minh nhằm xác định sự thật của vụ án. Nếu có đủ cơ sở chứng
minh có dấu hiệu tội phạm hình sự xảy ra thì quyết định khởi tố vụ án hình sự; nếu
không có dấu hiệu tội phạm thì quyết định không khởi tố vụ án.
Những người tiến hành tố tụng phải thật sự vô tư, khách quan trong quá trình
khám phá vụ án, đảm bảo tính chính xác và không bỏ lọt tội phạm. Tại Điều 14 Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định “Thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan điều
tra, Điều tra viên, Viện trưởng, phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên,

Chánh án, phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án không được
tiến hành tố tụng hoặc người phiên dịch, người giám định không được tham gia tố
tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư khi thực hiện nhiệm
vụ của mình”. Pháp luật cho phép thay đổi những người tiến hành tố tụng, nếu thấy
14
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
họ có thể không khách quan, không vô tư trong thực hiện nhiệm vụ vì một lý do nào
đó, có thể họ bóp méo sự thật vụ án, nhằm thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
Ví dụ về bỏ lọt tội phạm, xử oan cho người khác : Tòa án nhân dân
huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng đang thụ lý đơn của công dân Phạm Vũ, khởi
kiện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Trọng để đòi bồi thường oan sai trong một
vụ án hình sự từ 05 năm trước. Theo kết luận điều tra của Công an huyện Đức
Trọng xác định: Phạm Huy Hoàng (em ruột Vũ) mời bạn bè dự sinh nhật tại một
quán karaoke, khoảng 21 giờ ngày 10/10/2005, lúc chia tay ra về thì Hoàng bị một
nhóm thanh niên đuổi chém. Do bức xúc việc Hoàng bị chém, khoảng 23 giờ cùng
ngày, Vũ cùng hai người khác tìm nhóm thanh niên tham gia chém Hoàng để trả
thù. Gặp Lê Hải Sơn, nghĩ Sơn đã chém Hoàng nên Vũ đã đuổi chém Sơn. Ngày
28/4/2006, Công an huyện Đức Trọng ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can
đối với Vũ về tội cố ý gây thương tích và đến ngày 15/5/2006 thì bắt tạm giam bị
can này. Đến ngày 20/9/2006, khi một người bạn của nạn nhân Phạm Huy Hoàng là
L.K.T ra đầu thú, nhận mình đã chém Sơn trả thù cho bạn, thì Vũ mới được tại
ngoại với lý do “thay đổi biện pháp ngăn chặn”.
Chính vì vậy ngày 09/5/2010, Vũ đã làm đơn yêu cầu Viện kiểm sát nhân
dân huyện Đức Trọng phải tổ chức xin lỗi công khai và bồi thường oan sai cho anh
theo luật bồi thường của Nhà nước, với tổng số tiền 560,8 triệu đồng (cả tinh thần
lẫn vật chất). Ngày 20/7/2010, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Trọng mời Vũ
lên thương lượng và chỉ đồng ý bồi thường 77.523.148 đồng. Không còn cách nào
khác, Vũ đã khởi kiện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Trọng ra Tòa án nhân
dân huyện để đòi lại công bằng. Theo đơn kiện, Vũ yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân

huyện Đức Trọng phải cải chính, xin lỗi công khai tại nơi cư trú của anh Vũ; đăng
báo xin lỗi công khai trên một tờ báo trung ương và một tờ báo địa phương trong ba
kỳ liên tiếp. Về vật chất, Vũ bị khởi tố bị can trong 1.498 ngày, bị giam 126 ngày
(theo luật định, một ngày bị tạm giam bằng 03 ngày tại ngoại) và Vũ đòi bồi thường
150 ngàn đồng/ngày. Tổng cộng số tiền Vũ đòi bồi thường là 560,8 triệu đồng.
6
6
Theo Lâm Viên, “ Vụ kiện 1.498 ngày bị khởi tố oan”,
/>15
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
Qua vụ án trên cho thấy trong quá trình điều tra, xác minh sự việc ban đầu
của Cơ quan điều tra là không chính xác, dẫn đến khởi tố bị can và kết luận điều tra
cũng không chính xác, nhưng Viện kiểm sát là cơ quan kiểm sát quá trình tố tụng
trong tố tụng hình sự, có quyền hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố của
Cơ quan điều tra, nếu quyết định đó không có căn cứ (Điều 109 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003). Nhưng trong vụ án trên ta thấy Viện kiểm sát vẫn phê chuẩn sai
các quyết định của Cơ quan điều tra và ra bản cáo trạng truy tố bị can trước tòa,
điều đó đã dẫn đến oan sai cho người vô tội. Chính vì thế Viện kiểm sát đã bồi
thường cho việc oan sai trên là đúng.
Như vậy, khởi tố vụ án là khâu đầu tiên của tố tụng hình sự, nếu không được
thực hiện tốt, khởi tố chậm trễ, điều tra vụ án không khách quan, không có căn cứ,
thì dễ để lọt tội phạm hoặc gây ra lãng phí công sức, tiền bạc của Nhà nước và có
khi còn gây hậu quả nghiêm trọng làm oan người vô tội.
1.2.2.3. Nguyên tắc tuân thủ đúng quy trình tố tụng
Khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và hợp pháp khi được tiến hành theo đúng
các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, cụ thể là các quy định về khởi
tố vụ án hình sự được quy định tại Chương VIII, các điều 100, 101, 102, 103, 104,
105, 106, 107, 108, 109 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
Chế định khởi tố vụ án hình sự được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2003 cho thấy việc phát hiện dấu hiệu tội phạm phải nhanh chóng, chính xác
và là một chế định quy định đầu tiên trong các giai đoạn của quá trình tố tụng hình
sự. Hành vi phạm tội có được phát hiện và xử lý kịp thời hay không, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân có được bảo vệ hay không là ở giai đoạn này.
Để đảm bảo nguyên tắc này, Bộ luật tố tụng hình sự giao cho cơ quan
chuyên giám sát việc thực thi pháp luật, xem Cơ quan tiến hành tố tụng có đảm bảo
đúng quy trình, thủ tục và đúng pháp luật hay không, đó là Viện kiểm sát. Chỉ có cơ
quan Viện kiểm sát mới có thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân
16
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
theo pháp luật trong việc khởi tố vụ án hình sự, bảo đảm mọi tội phạm được phát
hiện đều phải được khởi tố, việc khởi tố vụ án phải có căn cứ và đúng pháp luật.
1.2.3. Mối liên hệ giữa khởi tố vụ án hình sự và các giai đoạn khác của quá trình
tố tụng
1.2.3.1. Mối quan hệ giữa khởi tố vụ án và giai đoạn điều tra
Khởi tố vụ án là cơ sở để thực hiện các hoạt động điều tra. Đây là giai đoạn
tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng, phải có quyết định khởi tố vụ án trước, rồi
mới được tiến hành các hoạt động điều tra, trừ một số trường hợp đặc biệt. “Hoạt
động điều tra có đạt kết quả khách quan, toàn diện, đầy đủ hay không, các quyền
lợi cơ bản của công dân có được tôn trọng hay không, phụ thuộc rất nhiều vào việc
thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật về khởi tố vụ án
hình sự”
7
. Do vậy, hoạt động điều tra chỉ tập trung vào điều tra làm rõ các hành vi
phạm tội và người thực hiện tội phạm mà không cần phải kiểm tra, xác minh để xác
định dấu hiệu tội phạm nữa. Tuy nhiên, không phải tất cả quyết định khởi tố vụ án
hình sự đều đảm bảo tính chính xác của vụ án, nên trong quá trình điều tra, cơ quan
tiến hành tố tụng có thể thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự khi
phát hiện tình tiết mới. Cụ thể tại khoản 1 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm

2003 quy định “Khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi
phạm tội xảy ra hoặc còn có tội phạm khác thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra
quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự”.
1.2.3.2. Mối quan hệ giữa khởi tố vụ án và giai đoạn truy tố
Việc khởi tố vụ án hình sự đồng nghĩa với việc xác định đã có tội phạm xảy
ra và định danh đó là tội gì, đây là điều kiện cần để Viện kiểm sát xem xét có truy tố
hay không. Quá trình điều tra để xác định người phạm tội và mức độ tội phạm như
thế nào để áp dụng điều luật trong quá trình truy tố, đó là điều kiện đủ. Trong thực
tế, từ lúc khởi tố vụ án hình sự, đến giai đoạn điều tra đều có sự tham gia giám sát
của Viện kiểm sát với vai trò là công tố, nên giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát chỉ
7
Xem: Mạc Giáng Châu, Nguyễn Chí Hiếu, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam - Học phần 2 “ các
giai đoạn tố tụng hình sự Việt Nam”, Khoa Luật - Trường Đại học Cần Thơ, 2010, tr. 2
17
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
xem xét để áp dụng điều luật cho phù hợp mà thôi. Như vậy, giữa 3 giai đoạn này
có quan hệ mật thiết với nhau, giai đoạn này có vai trò làm cơ sở cho giai đoạn kia,
giai đoạn kia có vai trò giám sát và bổ trợ cho giai đoạn này.
1.2.3.3. Mối quan hệ giữa giai đoạn khởi tố vụ án và giai đoạn xét xử
Riêng đối với giai đoạn xét xử, hội đồng xét xử làm việc độc lập, chỉ căn cứ
vào hồ sơ vụ án và quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa để đối chiếu với quy
định của pháp luật hình sự và ra phán quyết. Việc khởi tố vụ án là rất cần thiết đối
với giai đoạn xét xử, do có khởi tố thì mới có xét xử được. Tuy nhiên, không phải
tất cả vụ án có khởi tố đều được xét xử. Vì vậy, giai đoạn khởi tố chỉ có vai trò làm
tiền đề và bổ trợ cho giai đoạn xét xử, còn việc xác định tội danh là gì còn tùy thuộc
vào Hội đồng xét xử quyết định.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã góp phần to lớn vào công cuộc đấu
tranh, phục vụ nhiệm vụ chính trị của đất nước, góp phần bảo vệ quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đã phát huy được tác dụng là một trong

những công cụ pháp lý quan trọng cho việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng để đấu tranh, phòng ngừa và chống tội phạm. Góp phần bảo vệ
thành quả cách mạng, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự cho toàn xã hội. Bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.
Việc khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và hợp pháp khi được tiến hành theo
đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và các quy định về khởi
tố vụ án hình sự được quy định tại Chương VIII, các điều 100, 101, 102, 103, 104,
105, 106, 107, 108, 109 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Chế định khởi tố vụ án
hình sự được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cho thấy việc phát
hiện dấu hiệu tội phạm phải nhanh chóng, chính xác và là một chế định quy định
đầu tiên trong các giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự. Hành vi phạm tội có được
phát hiện và xử lý kịp thời hay không, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có
được bảo vệ hay không là ở giai đoạn này.
18
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
Qua phân tích trên, ta thấy khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của tố
tụng hình sự, trong giai đoạn này cơ quan tiến hành tố tụng xác định dấu hiệu tội
phạm và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu
tiên của tố tụng hình sự, có nhiệm vụ xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm
hay không? Giai đoạn này bắt đầu từ khi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án,
đơn vị Bộ đội Biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm và các cơ quan có thẩm
quyền khác nhận được được tin báo hoặc tố giác về tội phạm hoặc trực tiếp phát
hiện dấu hiệu của tội phạm và kết thúc bằng việc các cơ quan này ra quyết định
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Khởi tố vụ án hình sự là có ý nghĩa quan
trọng trong quá trình tố tụng, việc phát hiện tội phạm và xử lý công minh mọi hành
vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, bảo đảm quyền
và lợi ích của công dân, góp phần bảo vệ trật tự trong toàn xã hội.
19
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt

nghiệp
CHƯƠNG 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
Dựa trên những cơ sở lý luận, người viết đã tìm hiểu những khái niệm, bản
chất pháp lý và sự tồn tại của chế định khởi tố vụ án hình sự trong Tố tụng hình sự
Việt Nam (cụ thể là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003) ở chương một. Trong phạm
vi chương này, người viết sẽ đi sâu tìm hiểu những quy định cụ thể của pháp luật và
phân tích làm rõ nội dung trong Chương “Những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự hiện hành về khởi tố vụ án hình sự”, từ những vấn đề mà pháp luật quy định
sẽ tìm ra những hạn chế và bất cập, từ đó người viết sẽ đề xuất những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động tư pháp.
2.1. Chủ thể có thẩm quyền khởi tố
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Pháp lệnh về tổ
chức điều tra hình sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2009 thì khởi tố vụ án hình sự
thuộc thẩm quyền của: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng,
Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an
nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm (Điều 100 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003). Các cơ quan, các cá nhân này trong mọi trường hợp phát hiện dấu hiệu tội
phạm phải khởi tố vụ án hình sự và áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật cho phép
để xác định sự việc phạm tội, xác định người thực hiện hành vi phạm tội, trách
nhiệm của các cơ quan và các cá nhân nói trên còn được thể hiện bằng các hoạt
động của mình để kịp thời phát hiện tội phạm mỗi khi có hành vi phạm tội xảy ra.
2.1.1. Cơ quan điều tra
20
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
Tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Pháp lệnh về tổ
chức điều tra hình sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2009 như sau: “Khi xác định

có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự”. Yêu cầu phát hiện dấu hiệu tội phạm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Cơ
quan điều tra, bởi vì đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cơ quan này.
Theo quy định tại Điều 104 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Cơ quan điều tra có
thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự trong mọi trường hợp. Trong đó:
Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân (Điều 11 Pháp lệnh về tổ chức điều
tra hình sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2009): Cơ quan điều tra thuộc Công an
nhân dân khởi tố tất cả các tội phạm trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền khởi tố
của Cơ quan điều tra thuộc Quân đội nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân (Điều 15 Pháp lệnh về tổ chức
điều tra hình sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2009): Khởi tố các vụ án hình sự
về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến Chương XXIII của Bộ
luật hình sự, khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, trừ
các tội phạm thuộc thẩm quyền khởi tố của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự
trung ương.
Các tội phạm trên, sẽ thuộc thẩm quyền khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra
hình sự khu vực, khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự
khu vực, thuộc thẩm quyền khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra hình sự quân khu và
tương đương, khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự
quân khu và tương đương hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan
điều tra hình sự khu vực, nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra. Đối với Cơ quan
điều tra hình sự Bộ Quốc phòng sẽ khởi tố các vụ án hình sự về những tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự
Quân khu và tương đương nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 17 Pháp lệnh về
tổ chức điều tra hình sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2009): Khởi tố vụ án về
một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các
21
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp

cơ quan tư pháp, khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân.
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương khởi tố vụ án về một số loại tội
phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan
tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự.
2.1.2. Viện kiểm sát nhân dân
Thẩm quyền của Viện kiểm sát là hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi
tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan Hải quan, Bộ đội biên phòng, cơ
quan Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác trong Công an nhân dân,
Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, nếu xét
thấy quyết định đó trái với quy định của pháp luật. Khi đó, Viện kiểm sát sẽ ra
quyết định khởi tố vụ án đối với trường hợp quyết định không khởi tố của các cơ
quan này không phù hợp với quy định của pháp luật.
Trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án và yêu cầu này có căn cứ.
Thẩm quyền khởi tố vụ án thuộc về Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp. Trong việc
khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của mình. Việc quy định thực hiện quyền công tố và kiểm sát không
chỉ trong giai đoạn điều tra, xét xử mà hoạt động công tố còn phải được thực hiện
ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng. Khoản 1 Điều 109 Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “ Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố vụ án hình sự, bảo đảm mọi tội phạm
được phát hiện đều phải được khởi tố, việc khởi tố vụ án có căn cứ và hợp pháp”.
2.1.3. Hội đồng xét xử
Điều 104 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định thẩm quyền khởi tố vụ
án của Tòa án như sau: “ Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện
kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được
tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra”. Trong trường hợp này thì
mặc dù luật quy định “nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm
hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra thì Hội đồng xét xử ra quyết định khởi
22
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt

nghiệp
tố” trên thực tế thì hầu như không có trường hợp Hội đồng xét xử ra quyết định
khởi tố tại phiên tòa, mà chỉ yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố. Khi phát hiện dấu hiệu
tội phạm tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có hai cách xử lý sau:
- Ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, sau đó gửi tới Viện kiểm sát để xem
xét và quyết định giao cho Cơ quan điều tra tiến hành điều tra.
- Yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát phải thông báo
cho Hội đồng xét xử biết kết quả việc giải quyết yêu cầu khởi tố đó.
2.1.4. Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, các cơ quan
khác thuộc Công an nhân dân, Quân đội nhân dân
Bộ đội biên phòng: Có thẩm quyền khởi tố vụ án khi thực hiện nhiệm vụ của
mình, phát hiện tội phạm quy định tại chương XI và các Điều 119, 120,153, 172,
180, 181, 188, 192, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 236, 263, 264, 273, 274 và 275
của Bộ luật hình sự năm 1999 ( sửa đổi, bổ sung năm 2009 ), xảy ra trong khu vực
biên giới trên đất liền, bờ biển, hải đảo và trên các vùng biển do bộ đội biên phòng
quản lý thì có quyền khởi tố vụ án hình sự (Điều 19 Pháp lệnh về tổ chức điều tra
hình sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2009).
Cơ quan hải quan: Khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình
mà phát hiện tội phạm quy định tại Điều 153, 154 của Bộ luật hình sự năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu, Cục
trưởng Cục kiểm tra sau thông quan, Cục trưởng Cục hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, Chi cục trưởng Chi cục hải quan cửa khẩu có quyền ra
quyết định khởi tố vụ án (Điều 20 Pháp lệnh về tổ chức điều tra hình sự năm 2004,
sửa đổi bổ sung năm 2009).
Cơ quan Kiểm lâm: Có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự khi thực hiện
nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình mà phát hiện hành vi phạm tội quy định
tại các điều 175, 189, 190, 191, 240 và 272 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi,
bổ sung năm 2009). Thẩm quyền khởi tố thuộc về Cục trưởng Cục kiểm lâm, Chi
23
Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt

nghiệp
cục trưởng Chi cục kiểm lâm, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm, Hạt trưởng Hạt phúc kiểm
lâm sản (Điều 21 Pháp lệnh về tổ chức điều tra hình sự năm 2004, sửa đổi bổ sung
năm 2009).
Lực lượng Cảnh sát biển: Có thẩm quyền khởi tố vụ án khi thực hiện nhiệm
vụ trong lĩnh vực quản lý của mình mà phát hiện tội phạm quy định tại Chương XI
và các điều 153, 154, 172, 183, 194, 195, 196, 212, 213, 221, 223, 230, 231, 232,
236, 238, 273 và 274 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và
xảy ra trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Việt Nam do lực lượng cảnh sát
biển quản lý.
Các cơ quan khác của lực lượng cảnh sát trong Công an nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra: Trong khi làm nhiệm vụ của mình
mà phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan
cảnh sát điều tra quy định tại Điều 11 Pháp lệnh về tổ chức điều tra hình sự, thì có
quyền khởi tố vụ án hình sự (Điều 23 Pháp lệnh về tổ chức điều tra hình sự năm
2004, sửa đổi bổ sung năm 2009).
Các cơ quan khác của lực lượng an ninh trong Công an nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố vụ án hình sự: Khi thực hiện
nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu của tội phạm thuộc thẩm
quyền điều tra của Cơ quan an ninh điều tra trong Công an nhân dân (Điều 24 Pháp
lệnh về tổ chức điều tra hình sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2009). Các cơ quan
khác của lực lượng an ninh trong Công an nhân dân như : Cơ quan an ninh văn hóa
tư tưởng, An ninh tình báo, An ninh kinh tế, An ninh điều tra, phòng quản lý xuất
nhập cảnh… Thẩm quyền khởi tố thuộc về Cục trưởng Cục an ninh, Trưởng phòng
các phòng an ninh ở công an cấp tỉnh.
Cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra, trong khi làm nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu
hiệu của tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự đến mức
phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì khởi tố vụ án hình sự. Thẩm quyền khởi tố vụ
24

Khởi tố vụ án hình sự - Lý luận và thực tiễn Luận văn tốt
nghiệp
án thuộc về giám thị trại tạm giam, giám thị trại giam trong quân đội (Điều 25 Pháp
lệnh về tổ chức điều tra hình sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2009).
2.2. Khởi tố vụ án hình sự và không khởi tố vụ án hình sự
2.2.1. Khởi tố vụ án hình sự
2.2.1.1. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Điều 100 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Chỉ được khởi tố vụ
án hình sự khi xác định có dấu hiệu tội phạm”. Như vậy, dấu hiệu phạm tội chính là
căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
cần phải nhanh chóng xác định các căn cứ để từ đó đưa ra các quyết định chính xác
và phù hợp đó là khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Như vậy, khi ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền phải có tài liệu xác định rằng:
Có sự việc đã xảy ra (thời gian, địa điểm, diễn biến sự việc…), sự việc đó có dấu
hiệu một tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam, cụ thể là
Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
+ Khởi tố vụ án hình sự phải có cơ sở và căn cứ: Cơ sở khởi tố vụ án hình sự
được hiểu là những nguồn thông tin được pháp luật quy định tại Điều 100 Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2003, mà từ đó cơ quan có thẩm quyền thu thập được những
thông tin về tội phạm; căn cứ khởi tố vụ án là những thông tin xác thực về sự việc
xảy ra có dấu hiệu của tội phạm. Điều 100 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chỉ
quy định một căn cứ duy nhất để khởi tố đó là “dấu hiệu tội phạm” đã được xác
định.
+ Dấu hiệu tội phạm là hành vi có lỗi nói chung, do con người gây ra, gây
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản được pháp luật hình sự bảo vệ. Những
lỗi này phải được pháp luật điều chỉnh, cụ thể là Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi,
bổ sung năm 2009). Theo đó, khi vụ án xảy ra, cơ quan chức năng tiến hành xác
minh, thu thập chứng cứ, khi có đủ cơ sở xác định tội phạm (trộm cắp tài sản, cố ý
25

×