Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

NHỮNG ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH KINH TẾ NHẬP BẢN - 4 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.3 KB, 12 trang )

37

Trước tình hình suy thoái kinh tế kéo dài, đặc biệt là vấn đề tài chính
và ngân sách khó khăn, chính phủ Nhật Bản đã quyết định tăng cường các
biện pháp chính sách cải cách nhằm đem lại sự ổn định hơn cho khu vực tài
chính bằng cách tăng cường các biện pháp chính sách cải cách nhằm đem
lại sự ổn định hơn cho khu vực tài chính bằng cách tăng cường các biện
pháp đẩy nhanh sự khôi phục các chức năng tài chính trung gian, giả
i quyết
các khoản nợ khó đòi, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phân bổ lại các nguồn
tài lực cho các lĩnh vực tăng trưởng mới, và hiện thực hoá sự phục hồi của
các nghành tàu chính và công nghiệp Nhật Bản. Chính phủ của Thủ tướng
Koizumi sẽ tiếp tục chương trình cải cách cơ cấu một cách toàn diện dưới
khẩu hiệu “Không có tăng trưởng n
ếu không có cải cách”.
Nhằm lấy lại sức sống cho nền kinh tế Nhật Bản, Chính phủ Nhật
Bản cho rằng cần phải tiến hành tất cả những biện phápchính sách có thể.
Hiện nay, Chính phủ đã và đang đẩy mạnh cải cách cơ cấu thông qua 4 trụ
cột chính là: cải cách hệ thống tài chính, cải cách thuế, cải cách sự can
thiệp của Chính phủ, cải cách cơ cấu chi tiêu củ
a Chính phủ, nhằm đẩy
mạnh những cố gắng theo hướng lấy lại sức sống cho nền kinh tế Nhật Bản,
và nhằm hiện thực hoá sự tăng trưởng bền vững dựa vào cầu của khu vực
tư nhân trong khi khắc phục sự giảm phát. Chính phủ Nhật Bản cũng đã và
đang thực hiện mọi biện pháp có thể nhằm tạo thêm việc làm và mạng lướ
i
an toàn cho các xí nghiệp vừa và nhỏ, phân cấp mạnh mẽ cho các chính
quyền địa phương trong việc giải quyết các khoản nợ khó đòi. Sau đây là
nội dung cụ thể của các chính sách và biện pháp cải cách trong lĩnh vực
kinh tế hiện nay.
1. Cải cách hệ thống tài chính


Đây được coi là lĩnh vực nóng bổng và kho khăn nhất của các cuộc
cải cách hiện nay. Trong lĩnh vực này, Chính phủ Nhật Bản chủ trương:
Cần phải giải quyết ngay vấn đề nợ khó đòi của các ngân hàng chủ yếu
nhằm lấy lại lòng tin cho hệ thống tài chính Nhật Bản và sự quản lý tài
chính cũng như tạo ra một thị trường tài chính được thế giới đánh cao;
Chính phủ đặt mục tiêu giải quyết một bước vấn đề nợ khó đòi vào cuối
năm tài chính 2004 bằng cách giảm một nửa tỷ l
ệ các khoản cho vay không
38

hoạt động của các ngân hàng chủ yếu, và chủ trương tạo ra một hệ thống tài
chính mạnh hơn có thể hỗ trợ cho cải cách cơ cấu; Nhằm xây dựng một
khung khổ mới cho việc quản lý tài chính và tạo thuận lợi cho cải cách cơ
cấu, Chính phủ sẽ tiến hành 3 biện pháp chủ yếu là: Thắt chặt việc đánh giá
tài sản; đảm bảo sự dủ vốn; và t
ăng cường công tác quản lý.
2. Cải cách thuế
Chính phủ sẽ xúc tiến cải cách thuế một cách toàn diện và mạnh mẽ
nhằm làm cho hệ thống thuế thích hợp nhất với tình hình của thế kỷ XXI.
Cuộc cải cách này cũng nhằm tạo ra một hệ thống thuế gọn nhẹ và đơn
giản. Hiện nay các chính sách cải cách thuế đang trong quá trình xem xét
dựa trên cơ sở 6 điểm chính sau đây:
Dành
ưu tiên cao nhất cho sự phục hồi nền kinh tế Nhật Bản
Tính toán đầy đủ đến những đặc trưng và khả năng của mỗi cá nhân
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
Thực hiện cải cách thuế kết hợp với cải cách chi tiêu của Chính phủ
Thực hiện cải cách thuế phù hợp với cải cách hệ thống đảm bảo xã
hội
Thực hiện cải cách thuế kết hợp với giảm sự can thiệp của Chính phủ

và cải cách tài chính ở các đia phương
Chia sẻ gánh nặng một cách công bằng cho tất cả các cá nhân và các
công ty, có tính đến các nhóm thu nhập thấp khi thật sự cần thiết.
3. Cải cách sự can thiệp của Chính phủ
Về vấn đề này, Chính phủ Nhật Bản chủ trương: Thực hiện giảm hơn
nữa s
ự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế nhằm phát huy đến mức tối
đa khả năngcủa khu vực tư nhân và mở rộng kinh doanh tư nhân; Thực
hiện các “Đặc khu dành cho cải cách cơ cấu”. Điều này đã cho phép các
chính quyền địa phương hoặc các hãng tư nhân áp dụng và tận hưởng sự
miễn trừ đặc biệt của Chính phủ, dựa trên cơ sở những đóng góp của
địa
39

phương. Đặc khu cải cách cơ cấu có ý nghĩa quan trọng bởi vì các thực thể
địa phương ở khu vực đó có thể xúc tiến cải cách cơ cấu trên cơ sở sáng
kiến của chính họ.
4. Cải cách chi tiêu của Chính phủ
Cải cách chi tiêu Chính phủ là sự cần thiết tất yếu cho việc lấy lại
sinh khí cho nền kinh tế và giải quyết tình trạng thâm hụt lớn trong ngân
sách. Nói một cách cụ thể
hơn, Chính phủ Nhật Bản đã và đangthwcj hiện
4 biện pháp chủ yếu là: Xem xét lại sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội theo
quan điểm phân bổ một cách có trọng điểm và hiệu quả nguồn vốn đầu tư
công cộng; Thiết lập một hệ thống bền vững dựa trên cơ sở: Cải cách hệ
thống đảm bảo xã hội phù h
ợp với sự thay đổi xã hội, như “Xã hội của
những người cống hiến suốt đời” hoặc “Xã hội không phân biệt giới tính”;
bình đẳng giữa các thế hệ; và cân đối giữa nghĩa vụ và quyền lợi; Thực
hiện mạnh mẽ và toàn diện các cuộc cải cách tài chính và phân cấp cho các

chính quyền địa phương nhằm giảm sựcan thiệp của Chính phủ trung ương
vào các vấn đề
địa phương, cũng như mở rộng quyền và nghĩa vụ của các
chính quyền địa phương; Cải cách một cách toàn diện ngành lương thực;
đồng thời tăng cường năng suất và hiệu quả của khu vực công cộng thông
qua các nguồn lựcbên ngoài và sáng kiến tài chính tư nhân; Thực hiện khẩu
hiệu “Từ công cộng chuyển sang tư nhân”.
Tóm lại, quá trình cải cách kinh tế Nhật Bản đã, đang và sẽ
vẫn còn
tiếp tục được thực hiện. Những thành công bước đầu của cuộc cải cách này
là rất đáng khích lệ, song bên cạnh đó cũng còn tồn tại không ít khó khăn
và bất cập mà hệ thống kinh tế Nhật Bản vẫn đang và sẽ tiếp tục phải
đương đầu. Tương lai của hệ thống này sẽ ra sao vẫn còn là một điều bí ẩn.
Tuy nhiên, chúng ta có thể khẳng
định rằng, hệ thống này đã có những sự
thay đổi cho dù rất chậm chạp và sẽ còn tiếp tục được cải cách theo hướng
một nền kinh tế thị trường mở theo kiểu phương Tây hiện nay – lấy thị
trường vốn và cạnh tranh tự do làm động lực chính cho sự phát triển của
nó.

40

CHƯƠNG III. QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM –
NHẬT BẢN
I. CÁC QUAN ĐIỂM VÀ CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM TRONG
QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
Như chúng ta đã biết, mục tiêu tổng quát phát triển KT-XH Việt
Nam đến năm 2010 đã được khẳng định trong chiến lược phát triển kinh tế
xã hội 10 năm thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX là: "Đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất

và tinh thần của nhân dân tạ
o nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con
người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế,
quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị th
ế nước ta trên thị
trường quốc tế được nâng cao", với mục tiêu kinh tế cụ thể là:
- Đưa GDP năm 2010 tăng ít nhất gấp đôi năm 2000 với nhịp độ tăng
GDP bình quân 7,5%/năm.
- GDP bình quân đầu người đạt 700 - 750 USD.
- Nhịp dộ tăng xuất khẩu gấp 2 lần nhịp độ tăng GDP (15%/năm).
Để thực hiện được mục tiêu trên Đảng ta coi công nghiệp hoá, hi
ện
đại hoá đất nước là nhiện vụ quan trọng hàng đầu. Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ
động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. “Gắn chặt xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế". Đại hộ
i lần thứ IX
của Đảng nhận định “toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan”, và
nền kinh tế độc lập tự chủ không đối lập với việc mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại mà lại là điều kiện quan trọng để nước ta chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, có khả năng đón bắt thời cơ do toàn cầ
u hoá và khu vực hoá
kinh tế mang lại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để
phát triển đất nước.
41

Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước là những

đổi mới về tư duy, lý luận, thực tiễn của Đảng ta nhằm huy động mọi
nguồn lực cho phát triển đất nước được thể hiện tại Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI. Đại hội VI đã khẳ
ng định trong thời kỳ quá độ lâu dài đi lên chủ
nghĩa xã hội, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần bao gồm:
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (kinh tế nhà nước và hợp tác xã) và
thành phần kinh tế khác (sản xuất nhỏ hàng hoá, kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước với các hình thức khác nhau), mở đường cho việc
thu hút nguồn vốn FDI.
Đại hội Đảng toàn qu
ốc lần thứ VI Đảng ta đã đưa ra chủ trương:
"Mở rộng kinh tế với nước ngoài và thiết lập trật tự, kỷ cương trong mọi
hoạt động kinh tế, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hợp tác sản xuất
với Liên Xô, Lào, Cămpuchia và các nước xã hội chủ nghĩa khác, từng
bước phát triển quan hệ kinh tế với một số nước khác, thu hút vốn và kỹ
thuật c
ủa nước ngoài bằng nhiều hình thức: hợp tác sản xuất, gia công,
nhận thầu dịch vụ, hợp doanh, đầu tư toàn bộ, vay vốn dài hạn", "chúng ta
cần mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều nước đang phát triển, với một số
nước hoặc tổ chức tư nhân trong thế giới tư bản chủ nghĩa".
Bằng những khẳng định và cam kết, Nhà nước ta đ
ã thừa nhận và
đảm bảo bằng pháp luật sự tồn tại và quyền lợi của một thành phần kinh tế
mới, đó là kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước, mở ra một
hướng mới cho hợp tác kinh tế quốc tế, khai thông mọi nguốn vốn đầu tư
quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đưa đấ
t
nước ta từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Kinh tế hợp tác, liên doanh với nước ngoài không chỉ là phương thức
chính để thu hút vốn đầu tư bên ngoài mà còn là con đường thích hợp để

tiếp nhận công nghệ, kỹ năng, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, mở lối đi vào
thị trường khu vực và thị trường thế giới, thúc đẩy xuất khẩu, tăng nă
ng lực
cạnh tranh, điều chỉnh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với biến đổi
của tình hình quốc tế, khai thác có hiệu quả những lợi thế so sánh trong
từng thời kỳ phát triển". Với phương hướng: "Cần tích cực cải thiện hơn
42

nữa môi trường đầu tư, đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động hợp tác, liên
doanh với nước ngoài có nhiều hình thức thích hợp để tận dụng mọi nguồn
vốn đầu tư, chú trọng phát triển các mối quan hệ hợp tác với các công ty đa
quốc gia, xuyên quốc gia nhằm tạo thế đứng trong quá trình hội nhập nền
kinh tế khu vực và thế giới; ưu tiên cho đầu tư tr
ực tiệp, nhất là từ những
công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia có tầm cỡ thế giới để tranh thủ chuyển
giao công nghệ hiện đại, kỹ năng quản lý, điều hành tiên tiến, mở lối thâm
nhập vào thị trường khu vực và quốc tế.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (6/1996), Đảng ta tiếp tục
khẳng định: “Chúng ta chủ trương xây dựng một n
ền kinh tế mở, đa
phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất
khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất
chưa có hiệu quả, tranh thủ vốn, công nghệ và thị trường quốc tế để tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá Phát triển rộng rãi các hình thức kinh
tế tư bản Nhà nuớc; áp d
ụng nhiều phương thức hợp tác, liên doanh giữa
Nhà nước với các nhà tư bản trong nước và các công ty tư bản nước ngoài.
Cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý để thu hút có
hiệu quả vốn đầu tư.
II. CÁC QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ

VIỆT NAM – NHẬT BẢN
Trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay, việc mởi rộng hợp tác nói
chung, hợp tác kinh tế nói riêng là nhu cầu t
ất yếu với mọi quốc gia. Tuy
nhiên, mỗi quốc gia phải xuất phát từ thế và lực của mình mà có quan điểm
hợp tác phù hợp với từng đối tác cụ thể. Việt Nam đang trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá rất cần vốn, kỹ thuật và công nghệ
quản lý… Có thể giải quyết nhu cầu đó qua tham gia mở rộng hợp tác quốc
tế, mà Nhật Bản là m
ột đối tác chủ yếu. Việc xác định quan điểm hợp tác
với Nhật Bản, từ đó có những giải pháp cụ thể để tận dụng tốt nhất thế
mạnh, cơ hội từ Nhật Bản là rất có ý nghĩa.
1. Nhu cầu mở rộng hơn nữa hợp tác tương hỗ giữa Nhật Bản và Việt
Nam trong tình hình hiện nay
43

1.1. Đẩy mạnh cải cách ở Nhật Bản sẽ gia tăng nhu cầu mới trong hợp
tác
Có thể thấy từ sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực
Đông Á Nhật Bản đã có những cố gắng xúc tiến mạnh hơn chương trình cải
cách nền kinh tế của mình. Trên thực tế cuộc khủng hoảng đã làm bộc lộ rõ
những điểm hạn chế trong b
ản thân nền kinh tế Nhật Bản, nhất là trong hệ
thống tài chính ngân hàng buộc Nhật Bản phải có sự cải cách toàn diện.
Nhìn lại các cuộc cải cách trong những năm gần đây ta thấy Nhật Bản
không chỉ chú trọng vào phương diện tạo cầu, kích cầu mà còn chú ý cả
khía cạnh cung của nền kinh tế nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý trên
cơ sở phát triển mạnh các ngành kinh t
ế kỹ thuật cao.
Trên phương diện cầu, Chính phủ Nhật Bản đã có nhiều chương

trình kích thích kinh tế hàng năm nhằm mở rộng đầu tư. Bên cạnh đó là
những cố gắng tập trung giải quyết các khoản nợ khó đòi, nhằm tạo sự lành
mạnh trong hệ thống ngân hàng, kích thích các hoạt động đầu tư tư nhân.
Trong các chương trình cải cách của các Thủ tướng Nhật Bản tr
ước ông
Koizumi đều chú trọng tăng đầu tư công cộng, nhưng chính quyền ông
Koizumi lại chú trọng kích thích đầu tư tư nhân, hạn chế, giảm tài trợ đầu
tư công cộng nhằm tiến tới cân bằng ngân sách. Chẳng hạn theo dự toán
ngân sách năm tài chính 2002, công trái được phát hành không quá 30
nghìn tỷ Yên, giảm 10% ODA và giảm đầu tư công cộng 10%. Để kích
thích mạnh hơn đầu tư tư nhân chính phủ đã tập trung vào giải quyết nợ

khó đòi thông qua một số giải pháp mạnh có tính khả thi như bán lại nợ,
cho doanh nghiệp chịu nợ phá sản, ngân hàng tự huỷ bỏ một phần nợ. Cùng
với đó thực hiện giảm thuế để kích thích người dân tăng chi tiêu và đầu tư
phát triển kinh tế.
Trên phương diện cung, nhà nước chú ý đẩy mạnh cải cách cơ cấu và
thể chế kinh tế nhằm tạo môi trường thông thoáng cho các doanh nghiệp
hoạt động. Các chính sách nhà nước tập trung chú trọng phát triển các
ngành công nghệ cao đại diện cho nền kinh tế mới – kinh tế tri thức. Xúc
tiến chương trình phát triển tổng thể vùng kinh tế nhằm gắn kết các khu
vực trong nền kinh tế theo 4 trục chính: Đông – Bắc, ven biển Nhật Bản,
44

ven Thái Bình Dương và trục phía tây Nhật Bản, qua đó phát huy lợi thế so
sánh của từng vùng trong hoạt động kinh doanh hợp tác quốc tế. Nhật Bản
cũng đẩy mạnh tiến trình tự do hoá và hội nhập quốc tế. Bên cạnh gia tăng
các hoạt động hợp tác đa phương, đặc biệt chú trọng hợp tác với ASEAN,
Nhật Bản cũng từng bước mở cửa thị trường nội địa và t
ự do hoá các hoạt

động kinh doanh, thu hút nhiều hơn dòng vốn nước ngoài đổ vào thị trường
Nhật Bản.
Điều đáng chú ý trong các cuộc cải cách gần đây là chú trọng phát
triển kinh tế theo hướng gia tăng nội nhu, lấy nội nhu làm động lực phát
triển. Các chiều hướng cải cách trên đương nhiên có tác động rất lớn đến
quan hệ kinh tế của Nhật Bản với các bạn hàng, trong đó có Việt Nam.Cụ
th
ể nó đặt ra hàng loạtnhu cầu của bản thân nền kinh tế Nhật Bản cần có sự
hợp tác đáp ứng từ phía đối tác.
1.1.1. Trong quá trình cải cách việc tạo lập, mở rộng thị trường hàng hoá
và dịch vụ bên ngoài là rất cần thiết nhằm tăng cầu qua đó kích thích sản
xuất phát triển
Rõ ràng cái khó của nền kinh tế Nhật Bản hiện nay là thúc đẩy tiêu
dùng, tạo cầu cho nền kinh tế
. Việc chú trọng tạo cầu nội địa là hướng quan
trọng, song bước chuyển này đòi hỏi thời gian và hiện tại cũng còn đang
gặp rất nhiều khó khăn. Nền kinh tế Nhật Bản thời gian qua trong tình trạng
suy thoái gắn kiền với giảm phát. Giá cả hàng hoá dịch vụgiảm là khó khăn
cho phục hồi sản xuất. Mặc dù nhà nước chú ý kích cầu qua tăng tiêu dùng
công cộng, song mức chi tiêu công cộng cũ
ng có hạn, hơn nữa quy mô của
chúng rất nhỏ bé so với tổng tiêu dùng nói chung. Đầu tư công cộng năm
2000 trên thực tế chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ 7,2 % trong tổng cầu của nền
kinh tế. Chi tiêu cá nhân tuy chiếm tỷ lệ lớn 55,9% tổng cầu nhưng tâm lý
tích luỹ hạn chế chi tiêu trong dân chúng đang tăng lên do tình hình kinh tế
– chính trị không ổn định trong những năm qua làm cho mức gia tăng của
khoản chi này c
ũng ít triển vọng. Rõ ràng trong tình hình này việc mở rộng
thị trường bên ngoài vẫn có ý nghĩa quan trọng với sự phát triển kinh tế.
Có thể thấy ASEAN là thị trường truyền thống của Nhật Bản. Hàng

năm ASEAN nhập khẩu một khối lượng lớn hàng hoá và dịch vừt Nhật
45

Bản. Theo số liệu thống kê năm 1990 tỷ trọng hàng xuất khẩu của Nhật
Bản vào các nước ASEAN chiếm 11,49% tổng mức xuất khẩu của Nhật
Bản, tương đương 33,7% mức xuất khẩu của Nhật Bản vào Châu Á. Tính
trung bình trong thời gian 1990 – 1997 xuất khẩu của Nhật Bản tới ASEAN
5 chiếm khoảng 30%. Trong các sản phẩm xuất khẩu thì các hàng hoá thiết
bị giao thông vận tải, máy móc chiếm tớ
i 96% giá trị hàng xuất khẩu của
Nhật Bản vào ASEAN. Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu Á 1997
đã tác động đến nhu cầu hàng hoá dịch vụ của ASEAN với nền kinh tế
Nhật Bản, cộng với đó những khó khăn trong nền kinh tế Mỹ, nhất là sau
sự kiện 11/9/2001 làm giảm nhu cầu sản phẩm hàng hoá. Chính điều này
ảnh hưởng đến hoạt động ngoại thương của Nhậ
t Bản, mức dư thừa trong
kim ngạch thương mại có xu hướng giảm sút. Hoạt động kinh tế đối ngoại
khó khăn càng làm cho việc phục hồi nền kinh tế Nhật Bản thêm nan giải.
Đáng chú ý trong những năm gần đây sự phát triển của nền kinh tế
Trung Quốc và Việt Nam đã tạo ra nhu cầu mới ngày càng tăng về sản
phẩm hàng hoá mà Nhật Bản có thể đáp ứ
ng. Trên thực tế mức tăng xuất
khẩu của Nhật Bản vào Châu Á, phần quan trọng là từ Trung Quốc. Thị
trường Việt Nam tuy tỷ trọng nhập khẩu từ Nhật Bản còn khiêm tốn, song
đây là thị trường tiềm năng có sức tăng trưởng cao, có thể nhập nhiều loại
sản phẩm hàng hoá từ Nhật Bản. Năm 1998 tỷ trọng của Việt Nam trong
kim ngạch xuất kh
ẩu của Nhật Bản khoảng 0,5%, trong khi đó con số
tương ứng của Trung Quốc là 13,2%; của Singapo là 2,9%; Malaixia:
2,7%; Thái Lan: 2,6%; Inđônêxia: 2,3% và Philipin:1,7% (TS. Vũ Văn Hà

(chủ biên). Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản trong những năm1990 và
triển vọng. Nxb.KHXH, Hà Nội). Nếu xét về chiều hướng tăng trưởng thì
thị trường Việt Nam sẽ ngày càng chiếm tỷ lệ cao hơn trong tổng xuất khẩu
của Nhật Bả
n, do nhu cầu gia tăng về sản lượng hàng hoá trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam cũng như việc quan
tâm, thúc đẩy giải quyết các vấn đề tồn đọng trong quan hệ thương mại
giữa hai nước, như vấn đề nợ thương mại, chất lượng sản phẩm, cơ chế
chính sách… nhằm đi tới ký hiệp địnhthwơng mại song phương.
46

1.1.2. Trong quá trình cải cách nền kinh tế Nhật Bản sẽ đẩy đến gia tăng
nhu cầu đầu tư ra bên ngoài nhằm khai thác lợi thế công nghệ và nguồn
vốn cũng như tận dụng nguyên vật liệu và lao động tại thị trường bản địa
Nền kinh tế Nhật Bản đang trong quá trình chuyển dịch từ nền công
nghiệp chín muồi sang nền kinh tế mới – kinh tế tri thức. Điều rõ ràng là
Nhật Bản đã có bước phát triển vượt trước các nền kinh tế trong khu vực.
Trong bước chuyển này, một mặt Nhật Bản phải đầu tư nghiên cứu các
công nghệ mới xây dựng các ngành công nghiệp mới; mặt khác sẽ phải
đồng thời chuyển giao các công nghệ của nền công nghiệp hoá, cái mà
Nhật Bản đang có thế mạnh và các quốc gia khu vực trong đó có Việt Nam
đang rất cần. Trên thực tế
quá trình chuyển giao công nghệ của Nhật Bản
đã được thực hiện ngay trong những thập niên trước đây và dặc biệt được
đẩy mạnh sau năm 1985 khi mà đồng Yên tăng giá mạnh.
Việc chuyển giao các cơ sở công nghệ của nền công nghiệp hoá
không chỉ là yêu cầu dặt ra trong bước đường cải cách cơ cấu mà thông qua
các hoạt động chuyển giao này Nhật Bản có thể thâm nhập thị trường, phát
huy ưu th
ế về công nghệ để tăng lợi nhuận, qua đó có điều kiện cải cách cơ

cấu, phát triển các hoạt động kinh doanh mới.
Tình trạng suy thoái kinh tế kéo dài, tỷ xuất lợi nhuận thấp, nhất là
tình trạng giải pháp vẫn chưa khác phục được đã không tạo ra được môi
trường kích thích các hoạt động đầu tư nội địa. Việc tăng các hoạt động
kinh tế đối ngo
ại, kể cả đầu tư và thương mại sẽ được xem như một kích
thích từ bên ngoài đối với các hoạt động bên trong, tạo điều kiện cho các
giải pháp khắc phục suy thoái.
Trong quan hệ với Việt Nam, Nhật Bản nhìn nhận Việt Nam là thị
trường đầu tư tiềm năng còn ít được khai thác so với các quốc gia lân cận.
Nhật Bản có nguồn tài chính lớn cần có nơi đầu tư. Vi
ệt Nam có thể tiếp
nhận các nguồn vốn và kỹ thuật của Nhật Bản để xây dựng các ngành kinh
tế của mình. Trong những năm qua đầu tư của Nhật Bản vào thị trường
Việt Nam tuy chiếm tỷ lệ cao trong các đối tác đầu tư vào Việt Nam nhưng
so với tiềm năng và nhu cầu của 2 bên vẫn còn là khiêm tốn.
47

Do quá trình đông Yên tăng giá làm giảm lợi thế đầu tư bên trong đã
đẩy Nhật Bản tăng đầu tư ra bên ngoài. Điều này vừa cho phép Nhật Bản
phát huy ưu thế công nghệ, đồng thời qua đó tận dụng được các nguồn lao
động rẻ ở các quốc gia bản địa, khai thác tài nguyên nhằm kiếm lời và tạo
nguồn sản phẩm cung cấp phục vụ thị trường Nhật Bản. Vi
ệt Nam là quốc
gia có nguồn tài nguyên phong phú và thị trường lao động có lợi thế trong
cạnh tranh, nên các công ty Nhật Bản cũng rất quan tâm.
1.1.3. Do chuyển đổi cơ cấu sản xuất và sự thay đổi của cơ cấu nhu cầu
của một xã hội phát triển dẫn đến gia tăng nhập khẩu sản phẩm tiêu dùng
và nhu cầu lao động
Trên thực tế trong thời gian gần đây có sự thay đổi đáng kể trong cơ


cấu nhập khẩu hàng hoá của Nhật Bản. Mức nhập khẩu lương thực có sự
gia tăng đi liền với đó là các sản phẩm chế tạo. Nếu thập kỷ 60 – 70 việc
nhập các sản phẩm chế tạo chiếm trung bình 20 – 30% tổng mức nhập khẩu
thì thập kỷ 90 tăng lên xấp xỉ 60%. Trong xu hướng cải cách cơ cấu ngành
kinh tế, Nhật Bản tiế
p tục chuyển giao các cơ sở sản xuất công nghiệp máy
móc, kể cả trong lĩnh vực giao thông xây dựng và đóng tàu, sản xuất thép
mà tập trung vào phát triển các ngành kinh tế dịch vụ, sinh học, điện tử. Do
vậy chắc chắn nhu cầu nhập khẩu các hàng hoá liên quan thuộc nhóm
ngành kinh tế khu vực I và II nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế sẽ gia
tăng. Điều này thúc đẩy hướng hợp tác trên cơ
sở phát huy lợi thế so sánh
của nền kinh tế Việt Nam trong việc xuất khẩu các nông sản thực phẩm.
Trong những năm qua xuất khẩu các nông sản thực phẩm của Việt Nam
vào thị trường Nhật Bản ngày một tăng.
Điều đáng chú ý là bên cạnh những sản phẩm hàng hoá phục vụ nhu
cầu sản xuất và tiêu dùng, do sự thay đổi trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu
dân số làm cho nhu cầu nhập khẩu lao động nước ngoài trong đó có nhập từ
Việt Nam gia tăng, năm 1993 ở Nhật Bản có tới 23 vạn lao động nước
ngoài, năm 1999 là 28 vạn. Đối với Việt Nam trong thời gian từ 1992 –
2000 đã xuất khẩu sang Nhật Bản 7500 lao động. Thực tế cho thấy với sự
phát triển của các ngành và lĩnh vực sản xuất gắn với công nghệ cao đã thu
hút giớ
i trẻ Nhật Bản, còncác lĩnh vực dịch cụ lao động giản đơn ít
48

đượcchú ý nên đẩy đến tình trạng thiếu lao động trong khu vực này. Bản
thân quá trình già hoá dân số không những đặt ra nhu cầu lao động mà còn
làm thay đổi cơ cấu nhu cầu trong dân cư đòi hỏi được thoả mãn. Măt khác

chính quá trình cải cách mở cửa, gia tăng giao lưu đã phá vỡ tính khép kín
của thị trường lao động Nhật Bản dẫn đến gia tăng lao động nước ngoài.
Trong xu thế này khong chỉ là gia tăng nhu cầu lao động giản đơn mà c

lao động phức tạp, lao động trong các ngành công nghệ cao. Bản thân Nhật
Bản cũng có chính sách thu hút chất xám bên ngoài phục vụ nhu cầu
nghiên cứu và phát triển công nghệ mới. Chính vì vậy trong tương lai nhu
cầu nhập khẩu lao động của v tiếp tục gia tăng và đây cũng là cơ hội gia
tăng lao động Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Việc này một mặt giải
quyết tình trạngdư thừa lao độ
ng ở Việt Nam, mặt khác qua thực tếngười
lao độnh có thể tiếp thukỹ thuật kinh nghiệm quản lý của Nhật Bản.
1.1.4. Nhu cầu gia tăng hợp tác kinh tế với Việt Nam xuất phát từ lợi ích
chiến lược phát triển chung của Nhật Bản
Nhật Bản hiện nay không chỉ đang phải phục hồi nền kinh tế mà còn
phải thực hiện một cuộc cải cách toàn diệ
n, them chí có người còn cho rằng
cần có một cuộc cách mạng kiểu Minh Trị ở giai đoạn hiện tại nhằm tạo lập
một nước Nhật Bản mới không chỉ mạnh về kinh tế mà còn có vai trò chính
trị quan trọng trong khu vực cũng như trên trường quốc tế. Đó cũng chính
là mục tiêu phấn đấu của các giới chức Nhật Bản hiện nay.
Nhật Bản vốn là cườ
ng quốc kinh tế thế giới trong 2 thập niên qua,
song cũng do tình trạng suy thoái, vị trí, vai trò kinh tế của Nhật Bản đang
bị thách thức. Theo nhiều dự đoán đến 2010 nền kinh tế Trung Quốc sẽ
chiếm vị trí thứ 4, năm 2020 chiếm vị trí thứ 3 và năm 2040 sẽ dành vị trí
thứ 2 sau Mỹ. Đại hội 16 Đảng cộng sản Trung Quốc đã hoạch định rõ mục
tiêu xây dựng toàn diện mộ
t xã hội khá giả, trong đó rất chú trọng đến kinh
tế đối ngoại. Một trong những hướng ưu tiên là đẩy mạnh hợp tác với

ASEAN, Trung Quốc đã đạt được thoả thuận khung về một khu vực
thương mại tự do ASEAN + Trung Quốc. Điều này đã đẩy Nhật Bản muốn
phát triển và khẳng định vai trò kinh tế và chính trị của mình thì phải tạo ra
được quan hệ hợp tác hoà bình ch
ặt chẽ với ASEAN. Về truyền thống Nhật

×