Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Đề tài: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội tỉnh Nam Định pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 71 trang )

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI
Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
tại Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội tỉnh
Nam Định
1
MỤC LỤC
1.1. Tín dụng và các hình thức tín dụng của Ngân hàng 7
1.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế và với chính sách xã hội
12
1.3. Chất lượng tín dụng Ngân hàng 18
Chương 2: Phân tích đánh giá thực trạng và chất lượng tín dụng của sở giao dịch-Ngân
hàng chính sách xã hội Nam Định 32
2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI 32
Biểu đồ 1: So sánh các chỉ tiêu sử dụng vốn qua các năm 40
Đơn vị : Tỷ đồng 42
Đơn vị : Tỷ đồng 43
2.3. Đánh giá chất lượng tín dụng tại Sở giao dịch – Ngân hàng Chính Sách Xã hội Nam
Định 50
Chương 3. Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở giao dịch- Ngân
hàng chính sách xã hội Nam Định 55
3.1. Phương hướng hoạt động tín dụng của Sở giao dịch- Ngân hàng chính sách xã hội
Nam Định 55
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở giao dịch 57
3.3. Thực hiện nghiêm túc các thể lệ, chế độ tín dụng hiện hành và giải quyết cho vay
theo đúng quy trình công việc 64
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 68
3.1. Kết luận 68
3.2. Kiến nghị 69
2
Lời cảm ơn


Sau quá trình thực tập, em đã hoàn thành được đề tài thực tập cuối khoá
này. Em xin chân thành cảm ơn sự hươngd dẫn tận tình của thầy giáo PGS _
TS Hoàng Hữu Hoà, sự giúp đỡ và động viên của quí thầy cô và các bạn trong
Đại Học Kinh tế Huế.
Nhân đây, em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Ban
Giám Đốc, toàn thể cán bộ - công nhân viên trong chi nhánh Ngân hàng chính
sách xã hội tỉnh Nam Định đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và cơ hội cho em
được tiếp xúc với thực tiễn hoạt động của Ngân hàng nhằm nâng cao sự hiểu
biết và tích luỹ kinh nghiệm cho bản thân.
Do thời gian nghiên cứu tương đối ngắn và kiến thức còn hạn chế, nên
đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp
của quí thầy cô, các anh chị trong Ngân hàng và các bạn sinh viên để có thể rút
kinh nghiệm cho bản thân và hoàn thiện đề tài này.
Em xin chân thanh cảm ơn!
Nam Định, tháng 4 năm 2006
Sinh viên thực hiện: Phạm Thị Lan Anh
Lớp K36 B _ Kinh tế và phát triển
3
PHẦN MỞ ĐẦU
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, sau 20 năm
đổi mới Việt Nam đã từng bước vươn lên bước đầu khẳng định uy tín, chinh phục
được khách hàng chiếm lĩnh thị trường lớn ổn định góp phần nâng cao vị thế của
mình trên chính trường quốc tế. Hiện nay cơ chế mở cửa, các thành phần kinh tế
hoạt động một cách bình đẳng theo hiến pháp và pháp luật. Nhiều loại hình doanh
nghiệp ra đời và pháp triển mạnh mẽ. Cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắt giữa
các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp luôn
luôn đổi mới công nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất do đó cần thiết phải có
một lượng vốn lớn mà các Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho các doanh nghiệp
các thành phần kinh tế một cách có hiệu quả .
Trong nền kinh tế thị trường với hệ thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng

Nhà nước thực hiện quản lý Nhà nước và cấp kinh doanh là các Ngân hàng thương
mại. Cùng với việc triển khai pháp lệnh ngân hàng ở nước ta trong thời gian qua
đã tạo ra những chuyển biến rõ nét cả về tổ chức, hoạt động và trình độ nghiệp vụ
của hệ thống Ngân hàng góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng
tiền Các tổ chức tín dụng hình thành mạng lưới trên hầu khắp các địa bàn cả
nước. Nghiệp vụ Ngân hàng cũng được đổi mới và từng bước hiện đại hoá, tiếp
cận với công nghệ và thông lệ quốc tế. Với hoạt động tín dụng và các dịch vụ đa
dạng Ngân hàng đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của khách hàng, góp phần
đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước .Ngày nay, Ngân hàng đã trở
thành một mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền
kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác Ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn
thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo môi trường đầu tư thuận lợi,
tạo công ăn việc làm cho người lao động, phát triển thị trường ngoại hối.
4
Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế đang trong thời kỳ mới chuyển đổi
sang cơ chế thị trường, môi trường kinh tế chưa ổn định, môi trường pháp lý đang
dần được hoàn thiện nên hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đang gặp khó khăn
nhất là về chất lượng tín dụng chưa cao mà biểu hiện là nợ quá hạn, nợ khó đòi
lớn. Việc phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên nhân phát sinh rủi ro
tín dụng, từ đó đề ra các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng là một nhiệm vụ
cơ bản, thường xuyên của ngành Ngân hàng. Vấn đề càng trở nên bức xúc và cần
thiết đối với hệ thống Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội có thị trường tín dụng chủ
yếu là ở khu vực nông thôn .
Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội được thành lập và đi và hoạt động nhằm
khắc phục những khiếm khuyết, những mặt hạn chế do kinh tế thị trường gây ra,
giúp những đối tượng ít có cơ hội vay vốn theo cơ chế thị trường được vay vốn
Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội để sản xuất và giải quyết việc làm giúp cho đời
sống ổn định, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo trong xã hội, tạo cho xã hội phát
triển ổn định, bền vững .
Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định cùng ra đời và phát triển trong

bối cảnh và yêu cầu chung của cả nước.Xuất phát từ đó trong thời gian thực tập
cuối khoá làm chuyên đề tốt nghiệp của mình, em quyết định chọn đề tài tốt
nghiệp: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân Hàng Chính Sách
Xã Hội tỉnh Nam Định”
Mục đích của đề tài là:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về tín dụng và
Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội
- Phân tích đánh giá thực trạng và chất lượng hoạt động của Ngân hàng
Chính Sách Xã Hội Nam Định trong thời kỳ 2002-2004
- Đề xuất định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại
NHCSXH Nam Định trong thời kỳ 2005-2010
5
Để đạt được mục đích và yêu cầu nghiên cứu, đề tài đã sử dụng các phương pháp:
- Phép biện chứng duy vật được vận dụng làm cơ sở phương pháp
luận xuyên suốt đề tài.
- Vận dụng phương pháp thống kê kinh tế để thu thập, tổng hợp và
phân tích tài liệu nhằm đáp ứng mục đích nghiên cứu.
- Các phương pháp phân tích kinh tế, phương pháp chuyên gia kinh
tế được vận dụng để tìm hiểu chuyên sâu các nội dung nghiên cứu.
- Phương pháp hệ thống và các phương pháp khác được sử dụng để
rút ra các kết luận khoa học và xây dựng các giải pháp nâng cao
chất lượng tín dụng.
Do trình độ lý luận cùng như kinh nghiệm còn hạn chế và thời gian nghiên cứu
có hạn nên đề tài không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được
ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo, cán bộ công chức của NHCSXH Nam Định
và các đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
6
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1: Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn vè tín dụng và Ngân
Hàng chính Sách Xã Hội

1.1. Tín dụng và các hình thức tín dụng của Ngân hàng
1.1.1. Tín dụng - Sự cần thiết của tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế quốc
dân
Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay
và người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất
định.Hay nói một cách khác, tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan
hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một
khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những
ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Trải qua quá trình phát triển đã có nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Đầu
tiên là tín dụng nặng lãi xuất hiện ở thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ.
Trong thời kỳ này do lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động xã hội mở
rộng, xã hội đã có sự phân chia giai cấp kẻ giầu người nghèo. Trong quá trình đầu
tiên chủ yếu là cho vay bằng hiện vật, về sau chủ yếu cho vay bằng tiền. Đây là
hình thức cho vay nặng lãi với lãi suất rất cao, không có giới hạn và là hình thức
tín dụng tiêu dùng, chủ yếu để giải quyết nhu cầu sinh hoạt hằng ngày.
Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản cho thấy tín dụng nặng lãi không
còn phù hợp nữa, nó cản trở sự phát triển của nền kinh tế bởi các nhà tư bản kinh
doanh với mục đích lợi nhuận không thể vay với mức lãi suất cao hơn tỷ suất lợi
nhuận. Vì vậy hoạt động của nó ngày càng thu hẹp và tín dụng thương mại xuất
7
hiện. Đây là hình thức tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau do đó
chủ thể tham gia quá trình vay mượn này cũng là các nhà sản xuất kinh doanh.
Trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao hơn
giá bán bằng tiền mặt, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem bán
chịu. Quan hệ mua bán chịu chỉ diễn ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp với
nhau. Vì vậy nó không đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của nền sản xuất
hàng hoá và tín dụng ngân hàng ra đời.
Mặt khác, do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất, xã hội
thường xuyên xuất hiện hiên tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức cá nhân này và

nhu cầu thiếu vốn ở các tổ chức cá nhân khác. Hiện tượng thừa, thiếu vốn phát
sinh do có sự chênh lệch về thời gian. Trong khi đó số lượng các khoản thu nhập
và chi tiêu ở các tổ chức cá nhân khác trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải
được tiến hành một cách liên tục. Vậy để khắc phục tình trạng này thì chỉ có ngân
hàng- một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết được
những mâu thuẫn đó.
Vậy tín dụng ngân hàng là gì?
“Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiên tệ mà một bên là ngân
hàng- một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các
tổ chức, cá nhân trong xã hội trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay,
vừa là người cho vay”.
Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn đáp
ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt, đầy đủ và kịp thời.
Thật vậy, chúng ta xem xét trường hợp sau:
Giả sử: Đã vào đầu mùa hè, nhu cầu về nước giải khát rất lớn và nếu tôi
biết tận dụng cơ hội này thì việc sản xuất ra nước giải khát phục vụ trong hè không
những đem lại lợi nhuận cho tôi mà còn đem lại sự phát triển của nền kinh tế.
8
Song để mua được một dây chuyền sản xuất nước giải khát thì phải cần một lượng
vốn rất lớn mà nếu mình tôi sẽ không đủ vốn. Trong khi đó có một số người khác
có một món tiết kiệm do tích luỹ được trong nhiều năm. Nếu tôi và những người
đó gặp nhau và những người đó cung cấp vốn cho tôi thì kế hoạch của tôi sẽ trở
thành hiện thực.
Nhưng một vấn đề được đặt ra là liệu tôi- người thiếu vốn và những người
thừa vốn đó có gặp nhau không? Và trong nền kinh tế thị trường hàng ngày, hàng
giờ diễn ra không biết bao nhiêu mối quan hệ như vậy? Nó đã hình thành nên: một
bên là những người có tiền tích luỹ, có khả năng cung cấp và bên kia là những
người có nhu cầu vay cho đầu tư phát triển. Như vậy nảy sinh vấn đề là làm thế
nào để họ có thể tìm gặp được nhau và làm thế nào để cùng một lúc thoả mãn
được nhu cầu vốn đa dạng và to lớn trong khi các nguốn tiết kiệm còn đang nằm

phân tán trong xã hội. Không phải bất kỳ ai cũng có khả năng đầu tư hoặc vay
vốn trên thị trường tài chính, ngoài ra khi giao dịch trên thị trường tài chính, đòi
hỏi chi phí về tiền bạc và thời gian rất lớn. Do đó, các ngân hàng với chức năng cơ
bản là trung gian tài chính hoạt động như một chiếc cầu nối liền giữa khả năng
cung ứng và nhu cầu về vốn tiền tệ trong xã hội đã cơ bản giải quyết được những
vấn đề nảy sinh trên. Đồng thời với tư cách là một trung gian tín dụng ngân hàng
đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là người có tiền cho vay và một bên là
người có nhu cầu vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường bằng những biện pháp
kinh tế năng động và áp dụng các phương pháp kỹ thuật hiện đại tiên tiến, ngân
hàng co khả năng thu hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ tiết kiệm dự trữ trong
xã hội để chuyển giao đúng nơi, đúng lúc phù hợp với nhu cầu vốn trong sản xuất
kinh doanh. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà những đồng tiền tạm thời nhàn
rỗi đã trở thành tiền hoạt động, biến những đồng tiền phân tán thành nguồn vốn
tập trung, phục vụ cho nhu cầu kinh doanh. Qua đó thúc đẩy hoạt động sản xuất
kinh doanh giúp cho nền kinh tế ngày càng phát triển.
9
1.1.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế với xu hướng tự do hoá, các ngân
hàng phải luôn luôn nghiên cứu và đưa ra các hình thức tín dụng khác nhau để có
thể đáp ứng một các tốt nhất nhu cầu của quá trình tái sản xuất, từ đó đa dạng hoá
danh mục đầu tư để mở rộng tín dụng, thu hút khách hàng, tăng lợi nhuận và thực
hiện phân tán rủi ro.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau mà chúng ta tiến hành phân loại các hình
thức tín dụng ngân hàng :
-Căn cứ vào mục đích sử dụng có các hình thức tín dụng sau:
+ Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
+ Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và
dịch vụ.

+ Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất
như : phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc,lao động
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân: là loại cho vay đáp ứng các tiêu dùng như
mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn thực hiện cho vay để
trang trải chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng .
- Căn cứ tài sản thế chấp có các hình thức tín dụng ngân hàng sau:
+ Cho vay tài sản thế chấp: Ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng
để đảm bảo cho việc trả nợ của khách hàng .
+ Cho vay cầm cố: Là việc ngân hàng cắn cứ vào tài sản khách hàng mang
đến cầm cố tại ngân hàng. Tài sản của khách hàng là do ngân hàng bảo quản, trong
suốt thời gian cầm cố khách hàng không được sử dụng nhượng bán, cho thuê
10
+ Cho vay thế chấp: Là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng
để bảo đảm khả năng trả nợ của khách hàng. Tài sản không cần mang đến ngân
hàng, khách hàng có quyền sử dụng nhưng không có quyền bán, cho thuê
+ Cho vay không có tài sản thế chấp (Tín chấp): Ngân hàng cho vay trên cơ
sở tin tưởng khách hàng, tài sản thế chấp là uy tín, danh dự của khách hàng. Ngoài
ra còn có hình thức cho vay thông qua việc bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức
đoàn thể chính trị - xã hội cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn.
Ví dụ: Hội nông dân Viẹt Nam , Hội phụ nữ Việt Nam.
-Căn cứ vào hình thái giá trị tín dụng có các hình thức tín dụng ngân hàng sau:
+ Cho vay bằng tiền: Là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được
cung cấp bằng tiền như: Thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp
+ Cho vay bằng tài sản: Phổ biến là tài trợ thuê mua.
- Căn cứ vào xuất xứ tín dụng có các hình thức tín dụng sau:
+ Cho vay trực tiếp: Ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho khách hàng và khách
hàng trực tiếp trả lãi và gốc cho Ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua
lại các khế ước hoặc các chứng từ nợ đã phát sinh và còn lại trong thời hạn thanh
toán gồm các hình thức.

+ Chiết khấu thương mại:
Mua các khoản nợ của các doanh nghiệp : Là dịch vụ mua các yêu cầu
(giấy đòi nợ) của các công ty sau đó nhận tiền thanh toán về các yêu cầu này. Các
yêu cầu ở đây thường là các giấy đòi nợ ngắn hạn phát sinh do cung cấp hàng hoá.
- Căn cứ vào thời hạn cho vay có các hình thức tín dụng sau:
+ Tín dụng ngắn hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn không quá 12
tháng (1 năm) . Được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động phát sinh trong
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của
cá nhân
11
+ Tín dụng trung hạn: Là những khoản tín dụng có thời hạn từ trên 12
tháng đến 60 tháng. Mục đích là vay vốn để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài sản
cố định hoặc cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất, đổi mới quy trình công nghệ và
xây dựng mới những công trình thu nhỏ, thời hạn thu hồi vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: Là những khoản tín dụng có thời hạn từ 60 tháng trở
lên. Mục đích sử dụng là để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài sản cố định, đổi mới
công nghệ và xây dựng mới đối với những công trình mới thời hạn thu hồi vốn
lâu.
1.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế và với chính sách
xã hội
Cho đến hiện nay, mọi người đều thống nhất ý kiến cho rằng kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần tạo ra động lực lớn, đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế, tăng
thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, đưa lại sự phồn vinh kinh tế cho nước ta
trong những năm qua. Và để đạt được kết quả như vậy thì phải kể đến một nhân tố
góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế đất nước đó chính là tín dụng Ngân
hàng. Khác so với tín dụng trước đây, trong thời kỳ bao cấp tín dụng được coi như
là một công cụ cấp phát thay ngân sách, vì lẽ đó mà xảy ra tình trạng có nơi cần
vốn sản xuất thì không có hoặc không kịp thời để đáp ứng nhu cầu sản xuất trong
khi đó vẫn có nơi lại có một lượng vốn ứ đọng tương đối lớn trong xã hội. Ngày
nay khi chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có điều tiết của Nhà nước thì

tín dụng Ngân hàng được sử dụng như một đòn bẩy kinh tế, điều hoà vốn từ nơi
thừa vốn đến nơi thiếu vốn một cách hiệu quả, giúp cho nền kinh tế ngày càng
phát triển .
12
1.2.1. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn nhàn rỗi
trong xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Sự ra đời của tín dụng Ngân hàng đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát
triển kinh tế trong những thập kỷ qua. Với chức năng là trung gian tài chính đứng
giữa người gửi tiền và người đi vay Ngân hàng đã biến mọi nguồn ngoại tệ phân
tán trong xã hội thành nguồn vốn tập trung, qua đó điều hoà quan hệ cung cầu về
tiền tệ trong xã hội, thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng.
Là đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với mục đích lợi nhuận, các Ngân
hàng luôn luôn tìm mọi cách để tối đa hoá lợi nhuận của mình. Lợi tức thu được
của Ngân hàng được hình thành từ hai hoạt động đó là: Hoạt động tín dụng và các
dịch vụ của Ngân hàng trong đó thu từ hoạt động tín dụng là chủ yếu. Tín dụng ở
đây chúng ta hiểu là hoạt động cho vay của Ngân hàng . Vậy Ngân hàng lấy vốn ở
đâu ra để cho vay? Phải chăng là vốn tự có của Ngân hàng. Ở đây các Ngân hàng
phải huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, cá nhân và các tầng lớp dân cư trong xã
hội sau đó phân phối vốn trở lại một cách hợp lý. Chính nhờ có tín dụng Ngân
hàng mà các chủ kinh tế thừa vốn có cơ hội không những bảo toàn vốn mà còn tạo
thu nhập (thu lãi), còn đối với chủ thể thiếu vốn tín dụng Ngân hàng giúp cho họ
bổ sung vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc đời sống . Trong công
tác huy động vốn một mặt các Ngân hàng phải cố gắng đưa ra những mức lãi suất
hấp dẫn đối với chủ thể thiếu vốn tín dụng Ngân hàng giúp họ bổ sung vốn để đáp
ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc đời sống. Trong công tác huy động vốn một
mặt các Ngân hàng phải cố gắng đưa ra những mức lãi suất hấp dẫn đối với khách
hàng mặt khác phải đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng.
Nguồn vốn nhàn rỗi mà Ngân hàng huy động bao gồm:
+ Vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế: Đó là thu nhập bằng tiền của
xí nghiệp để bù đắp hao phí vật chất trong quá trình sản xuất, thu nhập thuần

tuý sáng tạo từ các xí nghiệp sản xuất
13
+ Vốn tạm thời nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư
Bằng các hình thức khác nhau Ngân hàng đã động viên, tập trung các
nguồn vốn đó về một mối. Trên cơ sở các nguồn tài chính tạm thời Ngân hàng sẽ
tiến hành khai thác và sử dụng một cách triệt dể nhằm mang lại hiệu quả kinh tế
cao tránh tình trạng vốn chết, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Thông qua công tác tín dụng, Ngân hàng đã đáp ứng được hầu hết các nhu
cầu về vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội, giúp cho quá trình sản xuất
được liên tục, đẩy mạnh quá trình tái sản xuất. Đồng thời việc tập trung và phân
phối vốn tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế quốc dân từ nơi
thừa đến nơi thiếu. Bên cạnh việc đáp ứng vốn kịp thời đầy đủ cho các doanh
nghiệp, các Ngân hàng còn có ý kiến đóng góp cho phương án sản xuất kinh
doanh, lựa chọn đối tác thông qua quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp
Ngoài ra khi sử dụng vốn vay Ngân hàng các doanh nghiệp bị ràng buộc
bởi trách nhiệm hoàn trả vốn gốc+lãi trong thời gian nhất định khi ký kết hợp
đồng tín dụng Do đó, buộc các doanh nghiệp phải hết sức nỗ lực, tận dụng hết khả
năng của mình để sử dụng một cách hiệu quả nhất nguồn vốn tín dụng bằng cách
động viên vật tư hàng hoá, thúc đẩy quá trình ứng dụng khoa học kỹ thuật để đẩy
nhanh quá trình tái sản xuất xã hội đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và bảo
đảm nghĩa vụ với Ngân hàng. Như vậy, hoạt động tín dụng của Ngân hàng góp
phần đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân.
1.2.2. Tín dụng Ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở
rộng và tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ
Thực tế cho thấy bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động và sản xuất
kinh doanh cũng phải cần có một lượng vốn nhất định, trong trường hợp muốn mở
rộng sản xuất kinh doanh cần có một lượng vốn lớn hơn. Hiên nay, trong nền kinh
tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp đòi hỏi
14
các doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới và mở rộng sản xuất. Vậy lấy vốn ở đâu

ra? Và tín dụng Ngân hàng là nguồn vốn cơ bản hình thành nên vốn cố định và
vốn lưu động của doanh nghiệp. Thông qua việc đầu tư tín dụng, tín dụng Ngân
hàng sẽ góp phần hình thành cơ cấu hợp lý cho các doanh nghiệp. Ở nước ta hiện
nay cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, mở
cửa thông thương với nhiều nước trên thế giới do vậy nhu cầu về vốn ngày càng
cao, các thành phần kinh tế đang rất cần vốn để đổi mới công nghệ, mở rộng sản
xuất kinh doanh phù hợp với sự phát triển của xã hội đòi hỏi các Ngân hàng cần
phải nỗ lực hơn nữa để đáp ứng nhu cầu về vốn ngày càng lớn của các doanh
nghiệp. Muốn vậy, các Ngân hàng cần phải làm tốt công tác huy động vốn tạm
thời nhàn rỗi và xây dựng cho mình những chiến lược kinh doanh hợp lý, phù hợp
với xu thế phát triển của các thành phần kinh tế. Có như vậy, các Ngân hàng mới
có thể đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần đẩy
nhanh quá trình tái sản xuất đưa nền kinh tế nước nhà ngày càng phát triển.
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng của mình, các Ngân hàng đã
huy động và tập trung lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội, đồng thời rút ra khỏi lưu
thông một bộ phận tiền tệ không cần thiết góp phần giảm lạm phát. Bởi việc Ngân
hàng Nhà nước phát hành tiền để tạo ra nguồn vốn đầu tư phát triển sẽ làm tăng
khối lượng tiền tệ trong lưu thông, gây mất cân đối trong quan hệ tiền hàng dẫn
đến lạm phát trong nền kinh tế. Mặt khác, dựa vào quy luật của lưu thông tiền tệ
trong quá trình cân đối nguồn vốn tín dụng với nhu cầu vay mà Ngân hàng Nhà
nước Trung ương thực hiện pháp lệnh đưa tiền vào lưu thông. Do đó, sự vận động
của vốn tín dụng là dựa trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế để tổ chức điều
hoà lưu thông tiền tệ.
Hơn nữa quá trình hoạt động tín dụng Ngân hàng gắn liền với việc thanh
toán không dùng tiền mặt góp phần giảm bớt lượng tiền mặt lưu thông trôi nổi trên
thị trường mà không có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục đích ổn định, lưu
15
thông tiền tệ. Điều này đồng nghĩa với việc làm giảm lạm phát-một vấn đề mà nền
kinh tế phải đương đầu khi có tốc độ tăng trưởng gia tăng nhanh.
Như vậy, tín dụng Ngân hàng được coi là một công cụ có thể điều hoà vốn

trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.2.3. Tín dụng Ngân hàng góp phần tăng cường việc chấp hành chế độ hạch
toán trong các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Trong quá trình nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng trước khi cho vay Ngân
hàng có nghiệp vụ giúp đỡ các đơn vị vay vốn xây dựng kế hoạch vay vốn dựa
trên cơ sở các kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính. Khi xét duyệt cho vay, Ngân
hàng còn căn cứ vào tình hình chấp hành các nguyên tắc cơ bản của chế độ tín
dụng Ngân hàng, tình hình thực hiện nghĩa vụ hợp đồng kinh tế đối với các đơn vị
bạn cũng như tôn trọng các quy chế thủ tục cho vay. Đặc biệt cần phải có các báo
cáo tài chính kế hoạch sản xuất kinh doanh trong đó nêu rõ các mục đích và khẳng
định tính khả thi và mức sinh lợi của dự án. Như vậy, muốn vay được vốn các
doanh nghiệp cần phải thực hiện các chế độ hạch toán thật tốt. Tất cả những công
tác trên giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả, Ngân hàng có khả năng
thu hồi được vốn.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng Ngân hàng lá sự vận động trên cơ sở hoàn
trả cả gốc lẫn lãi của các con nợ đối với Ngân hàng. Các đơn vị kinh tế, cá nhân
khi vay vốn Ngân hàng đều phải cam kết thực hiện đầy đủ các điều kiện mà Ngân
hàng đưa ra nhằm đảm bảo sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, phù hợp với điều
kiện sản xuất kinh doanh của đơn vị và hoàn trả vốn lẫn lãi đúng thời hạn. Trong
trường hợp các đơn vị vay vốn không thực hiện đúng cam kết thì ngân hàng sẽ
dùng các biện pháp chế tài tín dụng. Dovậy các đơn vị sản xuất kinh doanh luôn
luôn tìm mọi biện pháp để tăng hiệu quả sử dụng vốn như: Đẩy nhanh vòng quay
vốn, tăng năng suất, giảm giá thành nhằm tạo ra lợi nhuận, để có thể hoàn trả cả
16
gốc lẫn lãi đúng thời hạn. Điều này đã thúc đẩy đơn vị sản xuất kinh doanh tăng
cường khâu hạch toán kế toán một cách chặt chẽ đảm bảo doanh lợi ngày càng
cao, tăng hiệu quả sử dụng vốn tín dụng. Để tránh rủi ro tín dụng Ngân hàng chỉ
thực hiện đầu tư tập trung vào các đơn vị có triển vọng sản xuất kinh doanh.
1.2.4. Tín dung Ngân hàng góp phần giải quyết các vấn đề xã hội
Trong những năm qua, với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà

nước cùng với sự cố gắng của tất cả các thành viên trong xã hội nước ta đã và
đang từng bước đi lên và đạt được những thành tựu đáng kể như: Tốc độ tăng
trưởng tương đối cao, tăng thu nhập, đời sống nhân dân được cải thiện Nhưng
cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước đã nảy sinh các vấn đề xã hội lớn:
Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt, chênh lệch giữa nông thôn và thành thị
ngày càng doãng rộng, tham nhũng có dấu hiệu gia tăng cả về quy mô và số vụ,
thất nghiệp ở tỷ lệ cao Nhận thức sâu sắc thực trạng này, các nghị quyết của
Đảng luôn luôn nhấn mạnh yêu cầu phải kết hợp tăng trưởng với công bằng, giải
quyết các yêu cầu về công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng bước tăng
trưởng và tín dụng Ngân hàng được sử dụng như một công cụ để khắc phục tình
trạng này.
Thông qua cơ chế tín dụng ưu tiên và ưu đãi chúng ta đang dần khắc phục
được các vấn đề xã hội. Tín dụng ưu tiên là hình thức tập trung nguồn vốn cho
một vùng, giới, ngành trong một thời gian nhất định nhằm đạt tới mục tiêu nào đó.
Tín dụng ưu đãi là cho vay các đối tượng cần ưu đãi với lãi suất thấp hơn lãi suất
thị trường gọi là lãi suất ưu đãi.
Bằng cách các Ngân hàng cung cấp nguồn vốn với lãi suất ưu đãi cho người
nghèo, người gặp khó khăn để họ có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh, áp dụng kỹ thuật, mở rộng thị trường từ đó tăng thu nhập. Với mức lãi suất
ưu đãi, tín dụng Ngân hàng có vai trò to lớn trong việc giúp người nghèo tự vươn
17
lên, tự giải quyết được tình trạng nghèo đói của mình. Đồng thời, chúng ta khẳng
định rằng giúp người nghèo bằng tín dụng là giải quyết vấn đế công bằng theo
quan điểm hiện đại, coi trọng sự nỗ lực và tham gia của bản thân người nghèo. Đó
là sự giúp đỡ tích cực "Cho cần câu chứ không cho xâu cá”. Song để đạt được mục
đích trên các Ngân hàng cần phải có một cơ chế giám sát chặt chẽ bởi thực tế cho
thấy do lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thị trường cán bộ tín dụng có cơ hội lạm
dụng quyền hạn để cho vay với những đòi hỏi ngoài lãi suất làm cho người nghèo
khó lòng đáp ứng.
Ngoài ra , các cán bộ tín dụng Ngân hàng cần phải quan tâm đến vấn đề

làm sao để vốn được sử dụng đúng mục đích là phát triển sản xuất, cải tiến kỹ
thuật để tăng thu nhập, tránh rủi ro cho Ngân hàng không thu hồi được vốn
Trong điều kiện hiện nay chúng ta hy vọng rằng tín dụng Ngân hàng sẽ
phát huy tốt vai trò to lớn của mình trong việc cung cấp nguồn lực để giải quyết
các vấn đề xã hội theo hướng chủ động, tích cực, phù hợp với kinh tế thị trường.
1.3. Chất lượng tín dụng Ngân hàng
1.3.1. Sự cần thiết phai nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
được thì phải thắng trong cạnh tranh. Khi nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát
triển thì cạnh tranh ngày càng gay gắt. Cạnh tranh diễn ra trên 3 phương diện: Số
lượng, chất lượng, giá cả trong đó chất lượng đóng vai trò quan trọng hàng đầu,
tạo điều kiện nâng cao tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường.
Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và
có tác động rất lớn tới toàn bộ nền kinh tế bởi thực tế cho thấy nguyên nhân của
hầu hết các các cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra đều bắt đầu từ ngân hàng. Do
đó vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng là rất cần thiết.
Vậy ta hiểu chất lượng tín dụng Ngân hàng là như thế nào?
18
“ Chất lượng tín dụng Ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu
của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) trong quan hệ tín dụng, đảm
bảo an toàn hay hạn chế rủi ro về vốn, tăng lợi nhuận cho Ngân hàng phù hợp và
phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội”.
Việt Nam trong điều kiện hiện nay với sự bung ra của cơ chế mới ngoài các
Ngân hàng quốc doanh đã xuất hiện hàng loạt các loại hình Ngân hàng khác nhau
như: Các Ngân hàng liên doanh, các Ngân hàng cổ phần, các chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài. Chính sự xuất hiện nàt, đã làm cho mức độ canh tranh trên thị
trường Ngân hàng ngày càng tăng. Điều này đòi hỏi các Ngân hàng phải luôn luôn
tìm ra giải pháp nhằm thắng lợi trong cạnh tranh, nâng cao uy tín vị thế của mình
trên thị trường. Một trong những biện pháp đó chính là phải nâng cao chất lượng
tín dụng. Chất lượng tín dụng được thể hiện cụ thể qua các chỉ tiêu có thể tính toán

được như: kết quả kinh doanh, dư nợ, nợ quá hạn , đồng thời nó cũng được thể
hiện qua khả năng thu hút khách hàng và mức độ tác động tới nền kinh tế. Để có
được chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín
dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín. Hiểu đúng bản chất của tín
dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân của những tồn tại về
chất lượng sẽ giúp cho ngân hàng tìm được những biện pháp thích hợp để có thể
đứng vững trong nền kinh tế thị trường.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín
dụng Ngân hàng cũng không ngừng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương
tiện để đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng tăng của xã hội đòi hỏi chất lượng tín
dụng cần phải được quan tâm hơn. Hơn nữa, việc đảm bảo chất lượng tín dụng là
điều kiện để Ngân hàng làm tốt vai trò trung tâm thanh toán của mình. Chất lượng
đảm bảo sẽ tăng vòng quay của vốn tín dụng để có thể tạo ra số lần giao dịch lớn
hơn, làm giảm lượng tiền trong lưu thông, mở rộng phạm vi thanh toán không
dùng tiền mặt từ đó giảm chi phí lưu thông trong xã hội. Như vậy, nghiệp vụ tín
19
dụng của Ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với số lượng tiền mặt trong lưu thông –
nguyên nhân tiềm ẩn của lạm phát. Làm tốt công tác tín dụng sẽ giảm bớt lượng
tiền trong lưu thông, góp phần kiềm chế lạm phát, điều hoà và ổn định lưu thông
tiền tệ.
Mặt khác, chúng ta thấy rằng với một chính sách tín dụng đún đắn và được
thực hiện có chất lượng không những hỗ trợ cho các ngành kém phát triển, thúc
đẩy các ngành mũi nhọn mà còn góp phần vào việc tăng hiệu quả sản xuất kinh tế
xã hội đảm bảo sự cân đối giữa các vùng, giải quyết các vấn đề mang tính xã hội
tạo điều kiện đưa đất nước ta tiến nhanh trên con dường công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
Thông qua khâu phân tích khả năng phát triển của đối tượng định đầu tư để
đánh giá chất lượng khoản tín dụng từ đó đưa ra những quyết định đầu tư đúng
đắn sẽ khai thác tốt tiềm năng về tài nguyên, lao động tăng cường năng lực sản
xuất, cung ứng ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội, giải quyết việc làm,

tăng thu nhập cho người lao động. Việc thực hiện đúng nguyên tắc tín dụng sẽ
góp phần cho vay đúng đối tượng, hạn chế và xoá bỏ nạn cho vay nặng lãi ở các
vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh.
Một lý do quan trọng mà ta phải đề cập đến là việc nâng cao chất lượng tín
dụng có vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Bởi chất
lượng tín dụng có tốt mới tăng khả năng cung cấp dịch vụ do tạo thêm được nguồn
vốn từ việc quay vòng vốn tín dụng, thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình
thức sản phẩm dịch vụ đa dạng. Chất lượng tín dụng Ngân hàng tốt sẽ làm tăng
khả năng sinh lời do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản
lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn đã cho vay. Từ đó, tạo ra thế
mạnh và nâng cao uy tín cho ngành Ngân hàng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ
của mình. Chính nhờ đó mà tạo ra điều kiện cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của
20
Ngân hàng.Vì vậy, các Ngân hàng luôn luôn phải quan tâm tới việc nâng cao chất
lượng tín dụng.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng
1.3.2.1. Tổng vốn huy động
Tổng vốn huy động cho biết tổng nguồn tiền mà Ngân hàng huy động được
trong nền kinh tế. Chỉ tiêu này cho thấy Ngân hàng có hoạt động uy tín, có được
người gửi tin tưởng không, mức giá mà Ngân hàng đưa ra có phù hợp không, có
khuyến khích được nhân dân gửi tiền vào không? Đồng thời, cho thấy Ngân hàng
đã tham gia vào các hình thức huy động vốn và các dịch vụ Ngân hàng như thế
nào?
1.3.2.2. Tỷ trọng từng loại tiền gửi trên tổng nguồn vốn huy động
Thông thường nguồn vốn huy động của Ngân hàng bao gồm các loại tiền
gửi như: Tiền gửi của các doanh nghiệp (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có thể
phát hành séc ), tiền gửi tiết kiệm (không kỳ hạn, có kỳ hạn). Mỗi loại tiền gửi
khác nhau có các mức lãi suất khác nhau. Chỉ tiêu này, xác định kết cấu của
nguồn vốn huy động, để phát hiện ra mặt mạnh, mặt yếu của Ngân hàng trong kinh
doanh từ đó để đưa ra các biện pháp để đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng một

cách phù hợp. Trong trường hợp Ngân hàng có tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn cao
hơn Ngân hàng đó sẽ có nhiều lợi nhuận bởi lãi suất của loại hình tiền gửi này
tương đối thấp. Ngược lại nếu tỷ lệ tiền gửi với lãi suất cao chiếm tỷ trọng lớn thì
Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc giải quyết đầu ra của nguồn vốn. Song đây
mới chỉ xét về một khía cạnh là lãi suất, còn việc đem lại lợi nhuận cao hay thấp
và độ rủi ro ra sao thì còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.
1.3.2.3. Tổng dư nợ
21
Chỉ tiêu này cho biết Ngân hàng cho vay được nhiều hay ít, mối quan hệ
giữa Ngân hàng với khách hàng như thế nào? Chỉ tiêu này cho thấy Ngân hàng
đã tạo được uy tín với khách hàng, cung cấp nhiều dịch vụ đa dạng phong phú
thu hút được khách hàng.
1.3.2.4. Hiệu suất sử dụng vốn vay
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn vay =

Tổng vốn huy động
Chỉ tiêu này giúp cho các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của Ngân
hàng với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn
huy động. Vậy tỷ lệ này lớn là tốt hay nhỏ là tốt? Chúng ta chưa thể khẳng định
được bởi: Nếu tiền gửi ít hơn tiền cho vay thì Ngân hàng phải tìm kiếm nguồn vốn
có chi phí cao hơn, còn nếu tiền gửi nhiều hơn tiền cho vay thì Ngân hàng rơi vào
tình trạng thừa vốn.
1.3.2.5. Tỷ lệ quá hạn trên tổng dư nợ
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này thể hiện chất lượng của những khoản vay. Khi tỉ lệ này vượt
quá một giới hạn cho phép thì nó thể hiện sự yếu kém của hoạt động tín dụng

22
(Mức giới hạn của mỗi nước là khác nhau, ở Việt Nam hiện nay chấp nhận tỷ lệ
này là 5%)
Theo thời gian, tỷ lệ này có thể phân làm 2 trường hợp:
Nợ quá hạn bình thường + Nợ quá hạn có vấn
đề
Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 12 tháng =
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn khó thu hồi
Tỷ lệ nợ quá hạn trên 12 tháng =
Tổng dư nợ
Qua việc phân loại nợ quá hạn, ta có thể biết rõ các khoản nợ đang gặp khó
khăn hay những khoản nợ không thể thu hồi được từ đó đưa ra các biện pháp hợp
lý rủi ro tới mức thấp nhất.
1.3.2.6. Tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Tỷ suất lợi nhuận =
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng. Lợi nhuận ở đây phản
ánh chênh lệch giữa chi phí đầu vào (lãi suất huy động) và thu lãi đầu ra.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng
Hiện nay vấn đề chất lượng tín dụng đang được các Ngân hàng rất quan
tâm và đang tìm mọi cách để có thể nâng cao chất lượng tín dụng một cách tốt
nhất. Để quản lý và đưa ra những biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng một
23
cách có hiệu quả đòi hỏi chúng ta phải có sự hiểu biết sâu sắc các nhận tố tác động
đến nó. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng chúng
ta có thể phân thành các nhóm nhân tố như
1.3.3.1. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh tế và pháp lý
Ở đây chúng ta xét đến cả môi trường kinh tế trong nước và quốc tế:

Khi nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng Ngân hàng
phát triển, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được tiến
hành một cách bình thường, không bị ảnh hưởng bởi lạm phát, khủng hoảng tài
chính dẫn đến khả năng cho vay và khả năng cho vay và khả năng trả nợ vay
không có biến động lớn. Tuy nhiên để xã hội phát triển đi lên đòi đỏi nền kinh tế
phải có sự tăng trưởng mà tăng trưởng thì dẫn đến lạm phát. Nếu chúng ta không
quản lý tốt để lạm phát ở con số cao thì Ngân hàng sẽ là người chịu thiệt thòi nhất
do đồng tiền bị mất giá và như vậy chất lượng tín dụng sẽ bị giảm sút nghiêm
trọng. Ngoài ra do chính sách vĩ mô của Nhà nước ưu tiên hay hạn chế phát triển
một số ngành nghề kinh tế đảm bảo cho sự ổn định phát triển chung cho nền kinh
tế cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng Ngân hàng .
Hiện nay với chủ trương chuyển từ đối đầu sang đối thoại nước ta đã có
quan hệ với nhiều nước trên thế giới và đem lại nhiều thuận lợi. Song việc đầu tư
nước ngoài vào trong nước một cách ồ ạt sẽ làm mất cân bằng cung cầu tiền tệ gây
ra lạm phát làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng một cách sâu sắc. Do vậy với
hệ thống Ngân hàng nước ta hiện nay chưa thực sự phát triển, chúng ta cần phải cố
gắng hơn nữa trong vấn đề kiểm soát luồng tiền từ nước ngoài vào trong nước bởi
luồng tiền từ nước ngoài vào trong nước bởi luồng tiền này sẽ làm tăng khôí lượng
tiền trong lưu thông gây ra lạm phát ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng.
Chu kỳ phát triển kinh tế cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Trong
thời kỳ sản xuất kinh doanh đình chệ, nhu cầu vốn tín dụng giảm gây nên tình
24
trạng ứ đọng vốn và các khoản tín dụng đã được thực hiện cũng khó hoàn trả.
Ngược lại trong thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế, các doanh nghiệp đua nhau
mở rộng sản xuất kinh doanh dẫn đến nhu cầu vay vốn ngày càng lớn. Trong một
vài trường hợp do sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế đã gây ra những bất lợi
cho doanh nghiệp làm cho khả năng trả những khoản nợ sẽ gặp nhiều khó khăn.
Một yếu tố mà chúng ta cần phải đề cập đến ở đây đó chính là lãi sất tín
dụng cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng. Với phương châm “đi
vay để cho vay” các Ngân hàng luôn phải cố gắng để có thể đưa ra một mức lãi

suất hợp lý sao cho vừa thu hút được vốn nhàn rỗi vừa thu đem lại lợi nhuận. Bởi
nếu lãi suất huy động tiền nhàn rỗi quá thấp sẽ không khuyến khích được các tổ
chức, cá nhân gửi tiền vào Ngân hàng dẫn đến Ngân hàng không đủ vốn để đáp
ứng nhu cầu của khách hàng. Ngược lại nếu lãi suất huy động đậưt ra cao sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới lợi ích của Ngân hàng, Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong vấn
đề cho vay. Và đối với lãi suất cho vay cũng vậy. Trường hợp đưa ra mức lãi suất
cao sẽ đẫn đến tình trạng không cho vay được, ứ đọng vốn hoặc có cho vay được
cũng khó thu hồi bởi khách hàng của Ngân hàng không phải tất cả đều làm ăn có
hiệu quả mà có những khách hàng làm ăn không có lãi hoặc lãi thấp sẽ khó có thể
trả được những khoản nợ lớn của Ngân hàng gây rủi ro cho hoạt động của Ngân
hàng.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng nói riêng cũng như hoạt động của nền kinh
tế nói chung muốn hoạt động có hiệu quả thì cần phải có một hệ thống pháp luật
đồng bộ, thống nhất, đầy đủ đi kèm hỗ trợ. Pháp luật đã trở thành một bộ phận
không thể thiếu trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, không có
pháp luật hoặc một hệ thống pháp luật không đầy đủ, không phù hợp với những
yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động trong nền kinh tế sẽ trở nên
hỗn độn, không thể tiến hành trôi chảy. Pháp luật đã tạo lập hành lang pháp lý
giúp cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận tiện và đạt kết quả
25

×