Lời cảm ơn
Sau quá trình thực tập, em đã hoàn thành được đề tài thực tập cuối khoá
này. Em xin chân thành cảm ơn sự hươngd dẫn tận tình của thầy giáo PGS _ TS
Hoàng Hữu Hoà, sự giúp đỡ và động viên của quí thầy cô và các bạn trong Đại
Học Kinh tế Huế.
Nhân đây, em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Ban
Giám Đốc, toàn thể cán bộ - công nhân viên trong chi nhánh Ngân hàng chính
sách xã hội tỉnh Nam Định đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và cơ hội cho em được
tiếp xúc với thực tiễn hoạt động của Ngân hàng nhằm nâng cao sự hiểu biết và
tích luỹ kinh nghiệm cho bản thân.
Do thời gian nghiên cứu tương đối ngắn và kiến thức còn hạn chế, nên đề
tài không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của
quí thầy cô, các anh chị trong Ngân hàng và các bạn sinh viên để có thể rút kinh
nghiệm cho bản thân và hoàn thiện đề tài này.
Em xin chân thanh cảm ơn!
Nam Định, tháng 4 năm 2006
Sinh viên thực hiện: Phạm Thị Lan Anh
Lớp K36 B _ Kinh tế và phát triển
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, sau 20 năm
đổi mới Việt Nam đã từng bước vươn lên bước đầu khẳng định uy tín, chinh phục
được khách hàng chiếm lĩnh thị trường lớn ổn định góp phần nâng cao vị thế của
mình trên chính trường quốc tế. Hiện nay cơ chế mở cửa, các thành phần kinh tế
hoạt động một cách bình đẳng theo hiến pháp và pháp luật. Nhiều loại hình doanh
nghiệp ra đời và pháp triển mạnh mẽ. Cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các
doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn
đổi mới công nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất do đó cần thiết phải có một
lượng vốn lớn mà các Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho các doanh nghiệp các
thành phần kinh tế một cách có hiệu quả .
Trong nền kinh tế thị trường với hệ thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Nhà
nước thực hiện quản lý Nhà nước và cấp kinh doanh là các Ngân hàng thương mại.
Cùng với việc triển khai pháp lệnh ngân hàng ở nước ta trong thời gian qua đã tạo
ra những chuyển biến rõ nét cả về tổ chức, hoạt động và trình độ nghiệp vụ của hệ
thống Ngân hàng góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền...Các tổ
chức tín dụng hình thành mạng lưới trên hầu khắp các địa bàn cả nước. Nghiệp vụ
Ngân hàng cũng được đổi mới và từng bước hiện đại hoá, tiếp cận với công nghệ
và thông lệ quốc tế. Với hoạt động tín dụng và các dịch vụ đa dạng Ngân hàng đã
đáp ứng được phần lớn nhu cầu của khách hàng, góp phần đáng kể vào sự nghiệp
phát triển kinh tế đất nước .Ngày nay, Ngân hàng đã trở thành một mắt xích quan
trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành
kinh tế khác Ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế
và đẩy lùi lạm phát, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tạo công ăn việc làm cho
người lao động, phát triển thị trường ngoại hối.
2
Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế đang trong thời kỳ mới chuyển đổi
sang cơ chế thị trường, môi trường kinh tế chưa ổn định, môi trường pháp lý đang
dần được hoàn thiện nên hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đang gặp khó khăn
nhất là về chất lượng tín dụng chưa cao mà biểu hiện là nợ quá hạn, nợ khó đòi lớn.
Việc phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín
dụng, từ đó đề ra các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng là một nhiệm vụ cơ
bản, thường xuyên của ngành Ngân hàng. Vấn đề càng trở nên bức xúc và cần thiết
đối với hệ thống Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội có thị trường tín dụng chủ yếu là ở
khu vực nông thôn .
Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội được thành lập và đi và hoạt động nhằm
khắc phục những khiếm khuyết, những mặt hạn chế do kinh tế thị trường gây ra,
giúp những đối tượng ít có cơ hội vay vốn theo cơ chế thị trường được vay vốn
Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội để sản xuất và giải quyết việc làm giúp cho đời
sống ổn định, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo trong xã hội, tạo cho xã hội phát
triển ổn định, bền vững .
Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định cùng ra đời và phát triển trong bối
cảnh và yêu cầu chung của cả nước.Xuất phát từ đó trong thời gian thực tập cuối
khoá làm chuyên đề tốt nghiệp của mình, em quyết định chọn đề tài tốt nghiệp:
“Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội
tỉnh Nam Định”
Mục đích của đề tài là:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về tín dụng và
Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội
- Phân tích đánh giá thực trạng và chất lượng hoạt động của Ngân hàng
Chính Sách Xã Hội Nam Định trong thời kỳ 2002-2004
- Đề xuất định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại
NHCSXH Nam Định trong thời kỳ 2005-2010
3
Để đạt được mục đích và yêu cầu nghiên cứu, đề tài đã sử dụng các phương pháp:
- Phép biện chứng duy vật được vận dụng làm cơ sở phương pháp
luận xuyên suốt đề tài.
- Vận dụng phương pháp thống kê kinh tế để thu thập, tổng hợp và
phân tích tài liệu nhằm đáp ứng mục đích nghiên cứu.
- Các phương pháp phân tích kinh tế, phương pháp chuyên gia kinh tế
được vận dụng để tìm hiểu chuyên sâu các nội dung nghiên cứu.
- Phương pháp hệ thống và các phương pháp khác được sử dụng để
rút ra các kết luận khoa học và xây dựng các giải pháp nâng cao
chất lượng tín dụng.
Do trình độ lý luận cùng như kinh nghiệm còn hạn chế và thời gian nghiên cứu
có hạn nên đề tài không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được ý
kiến đóng góp của các thầy, cô giáo, cán bộ công chức của NHCSXH Nam Định và
các đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
4
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1: Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn vè tín dụng
và Ngân Hàng chính Sách Xã Hội
1.1. Tín dụng và các hình thức tín dụng của Ngân hàng
1.1.1. Tín dụng - Sự cần thiết của tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế quốc
dân
Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và
người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất
định.Hay nói một cách khác, tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ
kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một khối
lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những ràng
buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Trải qua quá trình phát triển đã có nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Đầu
tiên là tín dụng nặng lãi xuất hiện ở thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ.
Trong thời kỳ này do lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động xã hội mở
rộng, xã hội đã có sự phân chia giai cấp kẻ giầu người nghèo. Trong quá trình đầu
tiên chủ yếu là cho vay bằng hiện vật, về sau chủ yếu cho vay bằng tiền. Đây là hình
thức cho vay nặng lãi với lãi suất rất cao, không có giới hạn và là hình thức tín dụng
tiêu dùng, chủ yếu để giải quyết nhu cầu sinh hoạt hằng ngày.
Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản cho thấy tín dụng nặng lãi không
còn phù hợp nữa, nó cản trở sự phát triển của nền kinh tế bởi các nhà tư bản kinh
doanh với mục đích lợi nhuận không thể vay với mức lãi suất cao hơn tỷ suất lợi
5
nhuận. Vì vậy hoạt động của nó ngày càng thu hẹp và tín dụng thương mại xuất
hiện. Đây là hình thức tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau do đó
chủ thể tham gia quá trình vay mượn này cũng là các nhà sản xuất kinh doanh.
Trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao hơn
giá bán bằng tiền mặt, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem bán chịu.
Quan hệ mua bán chịu chỉ diễn ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp với nhau. Vì
vậy nó không đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của nền sản xuất hàng hoá và
tín dụng ngân hàng ra đời.
Mặt khác, do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất, xã hội
thường xuyên xuất hiện hiên tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức cá nhân này và
nhu cầu thiếu vốn ở các tổ chức cá nhân khác. Hiện tượng thừa, thiếu vốn phát sinh
do có sự chênh lệch về thời gian. Trong khi đó số lượng các khoản thu nhập và chi
tiêu ở các tổ chức cá nhân khác trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến
hành một cách liên tục. Vậy để khắc phục tình trạng này thì chỉ có ngân hàng- một
tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết được những mâu
thuẫn đó.
Vậy tín dụng ngân hàng là gì?
“Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiên tệ mà một bên là ngân
hàng- một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các
tổ chức, cá nhân trong xã hội trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay,
vừa là người cho vay”.
Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn đáp
ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt, đầy đủ và kịp thời.
Thật vậy, chúng ta xem xét trường hợp sau:
Giả sử: Đã vào đầu mùa hè, nhu cầu về nước giải khát rất lớn và nếu tôi biết
tận dụng cơ hội này thì việc sản xuất ra nước giải khát phục vụ trong hè không
6
những đem lại lợi nhuận cho tôi mà còn đem lại sự phát triển của nền kinh tế. Song
để mua được một dây chuyền sản xuất nước giải khát thì phải cần một lượng vốn
rất lớn mà nếu mình tôi sẽ không đủ vốn. Trong khi đó có một số người khác có
một món tiết kiệm do tích luỹ được trong nhiều năm. Nếu tôi và những người đó
gặp nhau và những người đó cung cấp vốn cho tôi thì kế hoạch của tôi sẽ trở thành
hiện thực.
Nhưng một vấn đề được đặt ra là liệu tôi- người thiếu vốn và những người
thừa vốn đó có gặp nhau không? Và trong nền kinh tế thị trường hàng ngày, hàng
giờ diễn ra không biết bao nhiêu mối quan hệ như vậy? Nó đã hình thành nên: một
bên là những người có tiền tích luỹ, có khả năng cung cấp và bên kia là những
người có nhu cầu vay cho đầu tư phát triển. Như vậy nảy sinh vấn đề là làm thế nào
để họ có thể tìm gặp được nhau và làm thế nào để cùng một lúc thoả mãn được nhu
cầu vốn đa dạng và to lớn trong khi các nguốn tiết kiệm còn đang nằm phân tán
trong xã hội. Không phải bất kỳ ai cũng có khả năng đầu tư hoặc vay vốn trên thị
trường tài chính, ngoài ra khi giao dịch trên thị trường tài chính, đòi hỏi chi phí về
tiền bạc và thời gian rất lớn. Do đó, các ngân hàng với chức năng cơ bản là trung
gian tài chính hoạt động như một chiếc cầu nối liền giữa khả năng cung ứng và nhu
cầu về vốn tiền tệ trong xã hội đã cơ bản giải quyết được những vấn đề nảy sinh
trên. Đồng thời với tư cách là một trung gian tín dụng ngân hàng đóng vai trò là
người môi giới giữa một bên là người có tiền cho vay và một bên là người có nhu
cầu vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường bằng những biện pháp kinh tế năng động
và áp dụng các phương pháp kỹ thuật hiện đại tiên tiến, ngân hàng co khả năng thu
hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ tiết kiệm dự trữ trong xã hội để chuyển giao
đúng nơi, đúng lúc phù hợp với nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh. Chính nhờ
có tín dụng ngân hàng mà những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi đã trở thành tiền hoạt
động, biến những đồng tiền phân tán thành nguồn vốn tập trung, phục vụ cho nhu
7
cầu kinh doanh. Qua đó thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh giúp cho nền kinh
tế ngày càng phát triển.
1.1.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế với xu hướng tự do hoá, các ngân
hàng phải luôn luôn nghiên cứu và đưa ra các hình thức tín dụng khác nhau để có
thể đáp ứng một các tốt nhất nhu cầu của quá trình tái sản xuất, từ đó đa dạng hoá
danh mục đầu tư để mở rộng tín dụng, thu hút khách hàng, tăng lợi nhuận và thực
hiện phân tán rủi ro.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau mà chúng ta tiến hành phân loại các hình
thức tín dụng ngân hàng :
-Căn cứ vào mục đích sử dụng có các hình thức tín dụng sau:
+ Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
+ Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch
vụ.
+ Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như
: phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc,lao động...
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân: là loại cho vay đáp ứng các tiêu dùng như mua
sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn thực hiện cho vay để trang trải
chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng .
- Căn cứ tài sản thế chấp có các hình thức tín dụng ngân hàng sau:
+ Cho vay tài sản thế chấp: Ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng để
đảm bảo cho việc trả nợ của khách hàng .
8
+ Cho vay cầm cố: Là việc ngân hàng cắn cứ vào tài sản khách hàng mang
đến cầm cố tại ngân hàng. Tài sản của khách hàng là do ngân hàng bảo quản, trong
suốt thời gian cầm cố khách hàng không được sử dụng nhượng bán, cho thuê...
+ Cho vay thế chấp: Là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng để
bảo đảm khả năng trả nợ của khách hàng. Tài sản không cần mang đến ngân hàng,
khách hàng có quyền sử dụng nhưng không có quyền bán, cho thuê
+ Cho vay không có tài sản thế chấp (Tín chấp): Ngân hàng cho vay trên cơ
sở tin tưởng khách hàng, tài sản thế chấp là uy tín, danh dự của khách hàng. Ngoài
ra còn có hình thức cho vay thông qua việc bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn
thể chính trị - xã hội cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn.
Ví dụ: Hội nông dân Viẹt Nam , Hội phụ nữ Việt Nam.
-Căn cứ vào hình thái giá trị tín dụng có các hình thức tín dụng ngân hàng sau:
+ Cho vay bằng tiền: Là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được
cung cấp bằng tiền như: Thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp...
+ Cho vay bằng tài sản: Phổ biến là tài trợ thuê mua.
- Căn cứ vào xuất xứ tín dụng có các hình thức tín dụng sau:
+ Cho vay trực tiếp: Ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho khách hàng và khách
hàng trực tiếp trả lãi và gốc cho Ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua
lại các khế ước hoặc các chứng từ nợ đã phát sinh và còn lại trong thời hạn thanh
toán gồm các hình thức.
+ Chiết khấu thương mại:
Mua các khoản nợ của các doanh nghiệp : Là dịch vụ mua các yêu cầu (giấy
đòi nợ) của các công ty sau đó nhận tiền thanh toán về các yêu cầu này. Các yêu cầu
ở đây thường là các giấy đòi nợ ngắn hạn phát sinh do cung cấp hàng hoá.
- Căn cứ vào thời hạn cho vay có các hình thức tín dụng sau:
9
+ Tín dụng ngắn hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn không quá 12 tháng
(1 năm) . Được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động phát sinh trong quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá
nhân...
+ Tín dụng trung hạn: Là những khoản tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng
đến 60 tháng. Mục đích là vay vốn để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài sản cố định
hoặc cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất, đổi mới quy trình công nghệ và xây dựng
mới những công trình thu nhỏ, thời hạn thu hồi vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: Là những khoản tín dụng có thời hạn từ 60 tháng trở lên.
Mục đích sử dụng là để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài sản cố định, đổi mới công
nghệ và xây dựng mới đối với những công trình mới...thời hạn thu hồi vốn lâu.
1.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế và với chính
sách xã hội
Cho đến hiện nay, mọi người đều thống nhất ý kiến cho rằng kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần tạo ra động lực lớn, đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế, tăng
thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, đưa lại sự phồn vinh kinh tế cho nước ta
trong những năm qua. Và để đạt được kết quả như vậy thì phải kể đến một nhân tố
góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế đất nước đó chính là tín dụng Ngân
hàng. Khác so với tín dụng trước đây, trong thời kỳ bao cấp tín dụng được coi như
là một công cụ cấp phát thay ngân sách, vì lẽ đó mà xảy ra tình trạng có nơi cần vốn
sản xuất thì không có hoặc không kịp thời để đáp ứng nhu cầu sản xuất trong khi đó
vẫn có nơi lại có một lượng vốn ứ đọng tương đối lớn trong xã hội. Ngày nay khi
chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có điều tiết của Nhà nước thì tín dụng
Ngân hàng được sử dụng như một đòn bẩy kinh tế, điều hoà vốn từ nơi thừa vốn
đến nơi thiếu vốn một cách hiệu quả, giúp cho nền kinh tế ngày càng phát triển .
10
1.2.1. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn nhàn rỗi
trong xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Sự ra đời của tín dụng Ngân hàng đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát
triển kinh tế trong những thập kỷ qua. Với chức năng là trung gian tài chính đứng
giữa người gửi tiền và người đi vay Ngân hàng đã biến mọi nguồn ngoại tệ phân tán
trong xã hội thành nguồn vốn tập trung, qua đó điều hoà quan hệ cung cầu về tiền tệ
trong xã hội, thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng.
Là đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với mục đích lợi nhuận, các Ngân
hàng luôn luôn tìm mọi cách để tối đa hoá lợi nhuận của mình. Lợi tức thu được của
Ngân hàng được hình thành từ hai hoạt động đó là: Hoạt động tín dụng và các dịch
vụ của Ngân hàng trong đó thu từ hoạt động tín dụng là chủ yếu. Tín dụng ở đây
chúng ta hiểu là hoạt động cho vay của Ngân hàng . Vậy Ngân hàng lấy vốn ở đâu
ra để cho vay? Phải chăng là vốn tự có của Ngân hàng. Ở đây các Ngân hàng phải
huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, cá nhân và các tầng lớp dân cư trong xã hội
sau đó phân phối vốn trở lại một cách hợp lý. Chính nhờ có tín dụng Ngân hàng mà
các chủ kinh tế thừa vốn có cơ hội không những bảo toàn vốn mà còn tạo thu nhập
(thu lãi), còn đối với chủ thể thiếu vốn tín dụng Ngân hàng giúp cho họ bổ sung vốn
để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc đời sống . Trong công tác huy động
vốn một mặt các Ngân hàng phải cố gắng đưa ra những mức lãi suất hấp dẫn đối
với chủ thể thiếu vốn tín dụng Ngân hàng giúp họ bổ sung vốn để đáp ứng nhu cầu
sản xuất kinh doanh hoặc đời sống. Trong công tác huy động vốn một mặt các Ngân
hàng phải cố gắng đưa ra những mức lãi suất hấp dẫn đối với khách hàng mặt khác
phải đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng.
Nguồn vốn nhàn rỗi mà Ngân hàng huy động bao gồm:
11
+ Vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế: Đó là thu nhập bằng tiền của xí
nghiệp để bù đắp hao phí vật chất trong quá trình sản xuất, thu nhập thuần tuý
sáng tạo từ các xí nghiệp sản xuất...
+ Vốn tạm thời nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư...
Bằng các hình thức khác nhau Ngân hàng đã động viên, tập trung các nguồn
vốn đó về một mối. Trên cơ sở các nguồn tài chính tạm thời Ngân hàng sẽ tiến hành
khai thác và sử dụng một cách triệt dể nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao tránh tình
trạng vốn chết, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Thông qua công tác tín dụng, Ngân hàng đã đáp ứng được hầu hết các nhu
cầu về vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội, giúp cho quá trình sản xuất
được liên tục, đẩy mạnh quá trình tái sản xuất. Đồng thời việc tập trung và phân
phối vốn tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế quốc dân từ nơi thừa
đến nơi thiếu. Bên cạnh việc đáp ứng vốn kịp thời đầy đủ cho các doanh nghiệp, các
Ngân hàng còn có ý kiến đóng góp cho phương án sản xuất kinh doanh, lựa chọn
đối tác thông qua quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp..
Ngoài ra khi sử dụng vốn vay Ngân hàng các doanh nghiệp bị ràng buộc bởi
trách nhiệm hoàn trả vốn gốc+lãi trong thời gian nhất định khi ký kết hợp đồng tín
dụng Do đó, buộc các doanh nghiệp phải hết sức nỗ lực, tận dụng hết khả năng của
mình để sử dụng một cách hiệu quả nhất nguồn vốn tín dụng bằng cách động viên
vật tư hàng hoá, thúc đẩy quá trình ứng dụng khoa học kỹ thuật để đẩy nhanh quá
trình tái sản xuất xã hội đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và bảo đảm nghĩa vụ
với Ngân hàng. Như vậy, hoạt động tín dụng của Ngân hàng góp phần đẩy lùi lạm
phát, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân.
1.2.2. Tín dụng Ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở
rộng và tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ
12
Thực tế cho thấy bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động và sản xuất
kinh doanh cũng phải cần có một lượng vốn nhất định, trong trường hợp muốn mở
rộng sản xuất kinh doanh cần có một lượng vốn lớn hơn. Hiên nay, trong nền kinh
tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp đòi hỏi các
doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới và mở rộng sản xuất. Vậy lấy vốn ở đâu ra?
Và tín dụng Ngân hàng là nguồn vốn cơ bản hình thành nên vốn cố định và vốn lưu
động của doanh nghiệp. Thông qua việc đầu tư tín dụng, tín dụng Ngân hàng sẽ góp
phần hình thành cơ cấu hợp lý cho các doanh nghiệp. Ở nước ta hiện nay cơ cấu
kinh tế đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, mở cửa thông
thương với nhiều nước trên thế giới do vậy nhu cầu về vốn ngày càng cao, các
thành phần kinh tế đang rất cần vốn để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh
doanh phù hợp với sự phát triển của xã hội đòi hỏi các Ngân hàng cần phải nỗ lực
hơn nữa để đáp ứng nhu cầu về vốn ngày càng lớn của các doanh nghiệp. Muốn
vậy, các Ngân hàng cần phải làm tốt công tác huy động vốn tạm thời nhàn rỗi và
xây dựng cho mình những chiến lược kinh doanh hợp lý, phù hợp với xu thế phát
triển của các thành phần kinh tế. Có như vậy, các Ngân hàng mới có thể đáp ứng
một cách tốt nhất nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần đẩy nhanh quá trình
tái sản xuất đưa nền kinh tế nước nhà ngày càng phát triển.
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng của mình, các Ngân hàng đã
huy động và tập trung lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội, đồng thời rút ra khỏi lưu
thông một bộ phận tiền tệ không cần thiết góp phần giảm lạm phát. Bởi việc Ngân
hàng Nhà nước phát hành tiền để tạo ra nguồn vốn đầu tư phát triển sẽ làm tăng
khối lượng tiền tệ trong lưu thông, gây mất cân đối trong quan hệ tiền hàng dẫn đến
lạm phát trong nền kinh tế. Mặt khác, dựa vào quy luật của lưu thông tiền tệ trong
quá trình cân đối nguồn vốn tín dụng với nhu cầu vay mà Ngân hàng Nhà nước
Trung ương thực hiện pháp lệnh đưa tiền vào lưu thông. Do đó, sự vận động của
13
vốn tín dụng là dựa trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế để tổ chức điều hoà
lưu thông tiền tệ.
Hơn nữa quá trình hoạt động tín dụng Ngân hàng gắn liền với việc thanh
toán không dùng tiền mặt góp phần giảm bớt lượng tiền mặt lưu thông trôi nổi trên
thị trường mà không có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục đích ổn định, lưu thông
tiền tệ. Điều này đồng nghĩa với việc làm giảm lạm phát-một vấn đề mà nền kinh tế
phải đương đầu khi có tốc độ tăng trưởng gia tăng nhanh.
Như vậy, tín dụng Ngân hàng được coi là một công cụ có thể điều hoà vốn
trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.2.3. Tín dụng Ngân hàng góp phần tăng cường việc chấp hành chế độ hạch
toán trong các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Trong quá trình nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng trước khi cho vay Ngân
hàng có nghiệp vụ giúp đỡ các đơn vị vay vốn xây dựng kế hoạch vay vốn dựa trên
cơ sở các kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính. Khi xét duyệt cho vay, Ngân hàng
còn căn cứ vào tình hình chấp hành các nguyên tắc cơ bản của chế độ tín dụng Ngân
hàng, tình hình thực hiện nghĩa vụ hợp đồng kinh tế đối với các đơn vị bạn cũng
như tôn trọng các quy chế thủ tục cho vay. Đặc biệt cần phải có các báo cáo tài
chính kế hoạch sản xuất kinh doanh trong đó nêu rõ các mục đích và khẳng định
tính khả thi và mức sinh lợi của dự án. Như vậy, muốn vay được vốn các doanh
nghiệp cần phải thực hiện các chế độ hạch toán thật tốt. Tất cả những công tác trên
giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả, Ngân hàng có khả năng thu hồi
được vốn.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng Ngân hàng lá sự vận động trên cơ sở hoàn trả
cả gốc lẫn lãi của các con nợ đối với Ngân hàng. Các đơn vị kinh tế, cá nhân khi
vay vốn Ngân hàng đều phải cam kết thực hiện đầy đủ các điều kiện mà Ngân hàng
đưa ra nhằm đảm bảo sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, phù hợp với điều kiện
14
sản xuất kinh doanh của đơn vị và hoàn trả vốn lẫn lãi đúng thời hạn. Trong trường
hợp các đơn vị vay vốn không thực hiện đúng cam kết thì ngân hàng sẽ dùng các
biện pháp chế tài tín dụng. Dovậy các đơn vị sản xuất kinh doanh luôn luôn tìm mọi
biện pháp để tăng hiệu quả sử dụng vốn như: Đẩy nhanh vòng quay vốn, tăng năng
suất, giảm giá thành nhằm tạo ra lợi nhuận, để có thể hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng
thời hạn. Điều này đã thúc đẩy đơn vị sản xuất kinh doanh tăng cường khâu hạch
toán kế toán một cách chặt chẽ đảm bảo doanh lợi ngày càng cao, tăng hiệu quả sử
dụng vốn tín dụng. Để tránh rủi ro tín dụng Ngân hàng chỉ thực hiện đầu tư tập
trung vào các đơn vị có triển vọng sản xuất kinh doanh.
1.2.4. Tín dung Ngân hàng góp phần giải quyết các vấn đề xã hội
Trong những năm qua, với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước cùng với sự cố gắng của tất cả các thành viên trong xã hội nước ta đã và đang
từng bước đi lên và đạt được những thành tựu đáng kể như: Tốc độ tăng trưởng
tương đối cao, tăng thu nhập, đời sống nhân dân được cải thiện... Nhưng cùng với
sự phát triển của nền kinh tế đất nước đã nảy sinh các vấn đề xã hội lớn: Sự phân
hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt, chênh lệch giữa nông thôn và thành thị ngày càng
doãng rộng, tham nhũng có dấu hiệu gia tăng cả về quy mô và số vụ, thất nghiệp ở
tỷ lệ cao...Nhận thức sâu sắc thực trạng này, các nghị quyết của Đảng luôn luôn
nhấn mạnh yêu cầu phải kết hợp tăng trưởng với công bằng, giải quyết các yêu cầu
về công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng bước tăng trưởng và tín dụng Ngân
hàng được sử dụng như một công cụ để khắc phục tình trạng này.
Thông qua cơ chế tín dụng ưu tiên và ưu đãi chúng ta đang dần khắc phục
được các vấn đề xã hội. Tín dụng ưu tiên là hình thức tập trung nguồn vốn cho một
vùng, giới, ngành trong một thời gian nhất định nhằm đạt tới mục tiêu nào đó. Tín
dụng ưu đãi là cho vay các đối tượng cần ưu đãi với lãi suất thấp hơn lãi suất thị
trường gọi là lãi suất ưu đãi.
15
Bằng cách các Ngân hàng cung cấp nguồn vốn với lãi suất ưu đãi cho người
nghèo, người gặp khó khăn để họ có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh, áp dụng kỹ thuật, mở rộng thị trường từ đó tăng thu nhập. Với mức lãi suất
ưu đãi, tín dụng Ngân hàng có vai trò to lớn trong việc giúp người nghèo tự vươn
lên, tự giải quyết được tình trạng nghèo đói của mình. Đồng thời, chúng ta khẳng
định rằng giúp người nghèo bằng tín dụng là giải quyết vấn đế công bằng theo quan
điểm hiện đại, coi trọng sự nỗ lực và tham gia của bản thân người nghèo. Đó là sự
giúp đỡ tích cực "Cho cần câu chứ không cho xâu cá”. Song để đạt được mục đích
trên các Ngân hàng cần phải có một cơ chế giám sát chặt chẽ bởi thực tế cho thấy
do lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thị trường cán bộ tín dụng có cơ hội lạm dụng
quyền hạn để cho vay với những đòi hỏi ngoài lãi suất làm cho người nghèo khó
lòng đáp ứng.
Ngoài ra , các cán bộ tín dụng Ngân hàng cần phải quan tâm đến vấn đề làm
sao để vốn được sử dụng đúng mục đích là phát triển sản xuất, cải tiến kỹ thuật để
tăng thu nhập, tránh rủi ro cho Ngân hàng không thu hồi được vốn...
Trong điều kiện hiện nay chúng ta hy vọng rằng tín dụng Ngân hàng sẽ phát
huy tốt vai trò to lớn của mình trong việc cung cấp nguồn lực để giải quyết các vấn
đề xã hội theo hướng chủ động, tích cực, phù hợp với kinh tế thị trường.
1.3. Chất lượng tín dụng Ngân hàng
1.3.1. Sự cần thiết phai nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
được thì phải thắng trong cạnh tranh. Khi nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát
triển thì cạnh tranh ngày càng gay gắt. Cạnh tranh diễn ra trên 3 phương diện: Số
lượng, chất lượng, giá cả trong đó chất lượng đóng vai trò quan trọng hàng đầu, tạo
điều kiện nâng cao tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường.
16
Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và
có tác động rất lớn tới toàn bộ nền kinh tế bởi thực tế cho thấy nguyên nhân của hầu
hết các các cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra đều bắt đầu từ ngân hàng. Do đó vấn
đề nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng là rất cần thiết.
Vậy ta hiểu chất lượng tín dụng Ngân hàng là như thế nào?
“ Chất lượng tín dụng Ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu
của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) trong quan hệ tín dụng, đảm bảo
an toàn hay hạn chế rủi ro về vốn, tăng lợi nhuận cho Ngân hàng phù hợp và phục
vụ sự phát triển kinh tế xã hội”.
Việt Nam trong điều kiện hiện nay với sự bung ra của cơ chế mới ngoài các
Ngân hàng quốc doanh đã xuất hiện hàng loạt các loại hình Ngân hàng khác nhau
như: Các Ngân hàng liên doanh, các Ngân hàng cổ phần, các chi nhánh Ngân hàng
nước ngoài. Chính sự xuất hiện nàt, đã làm cho mức độ canh tranh trên thị trường
Ngân hàng ngày càng tăng. Điều này đòi hỏi các Ngân hàng phải luôn luôn tìm ra
giải pháp nhằm thắng lợi trong cạnh tranh, nâng cao uy tín vị thế của mình trên thị
trường. Một trong những biện pháp đó chính là phải nâng cao chất lượng tín dụng.
Chất lượng tín dụng được thể hiện cụ thể qua các chỉ tiêu có thể tính toán được như:
kết quả kinh doanh, dư nợ, nợ quá hạn..., đồng thời nó cũng được thể hiện qua khả
năng thu hút khách hàng và mức độ tác động tới nền kinh tế. Để có được chất lượng
tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết
lập trên cơ sở tin cậy và uy tín. Hiểu đúng bản chất của tín dụng hiện tại cũng như
xác định chính xác các nguyên nhân của những tồn tại về chất lượng sẽ giúp cho
ngân hàng tìm được những biện pháp thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh
tế thị trường.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín
dụng Ngân hàng cũng không ngừng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện
để đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng tăng của xã hội đòi hỏi chất lượng tín dụng
17
cần phải được quan tâm hơn. Hơn nữa, việc đảm bảo chất lượng tín dụng là điều
kiện để Ngân hàng làm tốt vai trò trung tâm thanh toán của mình. Chất lượng đảm
bảo sẽ tăng vòng quay của vốn tín dụng để có thể tạo ra số lần giao dịch lớn hơn,
làm giảm lượng tiền trong lưu thông, mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền
mặt từ đó giảm chi phí lưu thông trong xã hội. Như vậy, nghiệp vụ tín dụng của
Ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với số lượng tiền mặt trong lưu thông – nguyên
nhân tiềm ẩn của lạm phát. Làm tốt công tác tín dụng sẽ giảm bớt lượng tiền trong
lưu thông, góp phần kiềm chế lạm phát, điều hoà và ổn định lưu thông tiền tệ.
Mặt khác, chúng ta thấy rằng với một chính sách tín dụng đún đắn và được
thực hiện có chất lượng không những hỗ trợ cho các ngành kém phát triển, thúc đẩy
các ngành mũi nhọn mà còn góp phần vào việc tăng hiệu quả sản xuất kinh tế xã hội
đảm bảo sự cân đối giữa các vùng, giải quyết các vấn đề mang tính xã hội... tạo điều
kiện đưa đất nước ta tiến nhanh trên con dường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thông qua khâu phân tích khả năng phát triển của đối tượng định đầu tư để
đánh giá chất lượng khoản tín dụng từ đó đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn
sẽ khai thác tốt tiềm năng về tài nguyên, lao động... tăng cường năng lực sản xuất,
cung ứng ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội, giải quyết việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động. Việc thực hiện đúng nguyên tắc tín dụng sẽ góp phần cho vay
đúng đối tượng, hạn chế và xoá bỏ nạn cho vay nặng lãi ở các vùng nông thôn xa
xôi hẻo lánh.
Một lý do quan trọng mà ta phải đề cập đến là việc nâng cao chất lượng tín
dụng có vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Bởi chất
lượng tín dụng có tốt mới tăng khả năng cung cấp dịch vụ do tạo thêm được nguồn
vốn từ việc quay vòng vốn tín dụng, thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình
thức sản phẩm dịch vụ đa dạng. Chất lượng tín dụng Ngân hàng tốt sẽ làm tăng khả
năng sinh lời do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý,
các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn đã cho vay. Từ đó, tạo ra thế mạnh
18
và nâng cao uy tín cho ngành Ngân hàng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của
mình. Chính nhờ đó mà tạo ra điều kiện cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của
Ngân hàng.Vì vậy, các Ngân hàng luôn luôn phải quan tâm tới việc nâng cao chất
lượng tín dụng.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng
1.3.2.1. Tổng vốn huy động
Tổng vốn huy động cho biết tổng nguồn tiền mà Ngân hàng huy động được
trong nền kinh tế. Chỉ tiêu này cho thấy Ngân hàng có hoạt động uy tín, có được
người gửi tin tưởng không, mức giá mà Ngân hàng đưa ra có phù hợp không, có
khuyến khích được nhân dân gửi tiền vào không? Đồng thời, cho thấy Ngân hàng
đã tham gia vào các hình thức huy động vốn và các dịch vụ Ngân hàng như thế nào?
1.3.2.2. Tỷ trọng từng loại tiền gửi trên tổng nguồn vốn huy động
Thông thường nguồn vốn huy động của Ngân hàng bao gồm các loại tiền gửi
như: Tiền gửi của các doanh nghiệp (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có thể phát
hành séc...), tiền gửi tiết kiệm (không kỳ hạn, có kỳ hạn). Mỗi loại tiền gửi khác
nhau có các mức lãi suất khác nhau. Chỉ tiêu này, xác định kết cấu của nguồn vốn
huy động, để phát hiện ra mặt mạnh, mặt yếu của Ngân hàng trong kinh doanh từ đó
để đưa ra các biện pháp để đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng một cách phù hợp.
Trong trường hợp Ngân hàng có tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn cao hơn Ngân hàng
đó sẽ có nhiều lợi nhuận bởi lãi suất của loại hình tiền gửi này tương đối thấp.
Ngược lại nếu tỷ lệ tiền gửi với lãi suất cao chiếm tỷ trọng lớn thì Ngân hàng sẽ gặp
khó khăn trong việc giải quyết đầu ra của nguồn vốn. Song đây mới chỉ xét về một
khía cạnh là lãi suất, còn việc đem lại lợi nhuận cao hay thấp và độ rủi ro ra sao thì
còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.
19
1.3.2.3. Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này cho biết Ngân hàng cho vay được nhiều hay ít, mối quan hệ
giữa Ngân hàng với khách hàng như thế nào? Chỉ tiêu này cho thấy Ngân hàng
đã tạo được uy tín với khách hàng, cung cấp nhiều dịch vụ đa dạng phong phú
thu hút được khách hàng.
1.3.2.4. Hiệu suất sử dụng vốn vay
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn vay =
Tổng vốn huy động
Chỉ tiêu này giúp cho các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của Ngân
hàng với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn
huy động. Vậy tỷ lệ này lớn là tốt hay nhỏ là tốt? Chúng ta chưa thể khẳng định
được bởi: Nếu tiền gửi ít hơn tiền cho vay thì Ngân hàng phải tìm kiếm nguồn vốn
có chi phí cao hơn, còn nếu tiền gửi nhiều hơn tiền cho vay thì Ngân hàng rơi vào
tình trạng thừa vốn.
1.3.2.5. Tỷ lệ quá hạn trên tổng dư nợ
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
20
Chỉ tiêu này thể hiện chất lượng của những khoản vay. Khi tỉ lệ này vượt quá
một giới hạn cho phép thì nó thể hiện sự yếu kém của hoạt động tín dụng (Mức giới
hạn của mỗi nước là khác nhau, ở Việt Nam hiện nay chấp nhận tỷ lệ này là 5%)
Theo thời gian, tỷ lệ này có thể phân làm 2 trường hợp:
Nợ quá hạn bình thường + Nợ quá hạn có vấn đề
Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 12 tháng =
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn khó thu hồi
Tỷ lệ nợ quá hạn trên 12 tháng =
Tổng dư nợ
Qua việc phân loại nợ quá hạn, ta có thể biết rõ các khoản nợ đang gặp khó
khăn hay những khoản nợ không thể thu hồi được từ đó đưa ra các biện pháp hợp lý
rủi ro tới mức thấp nhất.
1.3.2.6. Tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Tỷ suất lợi nhuận =
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng. Lợi nhuận ở đây phản
ánh chênh lệch giữa chi phí đầu vào (lãi suất huy động) và thu lãi đầu ra.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng
Hiện nay vấn đề chất lượng tín dụng đang được các Ngân hàng rất quan tâm
và đang tìm mọi cách để có thể nâng cao chất lượng tín dụng một cách tốt nhất. Để
quản lý và đưa ra những biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng một cách có hiệu
21
quả đòi hỏi chúng ta phải có sự hiểu biết sâu sắc các nhận tố tác động đến nó. Có rất
nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng chúng ta có thể phân
thành các nhóm nhân tố như
1.3.3.1. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh tế và pháp lý
Ở đây chúng ta xét đến cả môi trường kinh tế trong nước và quốc tế:
Khi nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng Ngân hàng
phát triển, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được tiến
hành một cách bình thường, không bị ảnh hưởng bởi lạm phát, khủng hoảng tài
chính dẫn đến khả năng cho vay và khả năng cho vay và khả năng trả nợ vay không
có biến động lớn. Tuy nhiên để xã hội phát triển đi lên đòi đỏi nền kinh tế phải có
sự tăng trưởng mà tăng trưởng thì dẫn đến lạm phát. Nếu chúng ta không quản lý tốt
để lạm phát ở con số cao thì Ngân hàng sẽ là người chịu thiệt thòi nhất do đồng tiền
bị mất giá và như vậy chất lượng tín dụng sẽ bị giảm sút nghiêm trọng. Ngoài ra do
chính sách vĩ mô của Nhà nước ưu tiên hay hạn chế phát triển một số ngành nghề
kinh tế đảm bảo cho sự ổn định phát triển chung cho nền kinh tế cũng có ảnh hưởng
không nhỏ tới chất lượng tín dụng Ngân hàng .
Hiện nay với chủ trương chuyển từ đối đầu sang đối thoại nước ta đã có
quan hệ với nhiều nước trên thế giới và đem lại nhiều thuận lợi. Song việc đầu tư
nước ngoài vào trong nước một cách ồ ạt sẽ làm mất cân bằng cung cầu tiền tệ gây
ra lạm phát làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng một cách sâu sắc. Do vậy với hệ
thống Ngân hàng nước ta hiện nay chưa thực sự phát triển, chúng ta cần phải cố
gắng hơn nữa trong vấn đề kiểm soát luồng tiền từ nước ngoài vào trong nước bởi
luồng tiền từ nước ngoài vào trong nước bởi luồng tiền này sẽ làm tăng khôí lượng
tiền trong lưu thông gây ra lạm phát ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng.
Chu kỳ phát triển kinh tế cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Trong
thời kỳ sản xuất kinh doanh đình chệ, nhu cầu vốn tín dụng giảm gây nên tình trạng
22
ứ đọng vốn và các khoản tín dụng đã được thực hiện cũng khó hoàn trả. Ngược lại
trong thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế, các doanh nghiệp đua nhau mở rộng sản
xuất kinh doanh dẫn đến nhu cầu vay vốn ngày càng lớn. Trong một vài trường hợp
do sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế đã gây ra những bất lợi cho doanh nghiệp
làm cho khả năng trả những khoản nợ sẽ gặp nhiều khó khăn.
Một yếu tố mà chúng ta cần phải đề cập đến ở đây đó chính là lãi sất tín
dụng cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng. Với phương châm “đi vay
để cho vay” các Ngân hàng luôn phải cố gắng để có thể đưa ra một mức lãi suất hợp
lý sao cho vừa thu hút được vốn nhàn rỗi vừa thu đem lại lợi nhuận. Bởi nếu lãi suất
huy động tiền nhàn rỗi quá thấp sẽ không khuyến khích được các tổ chức, cá nhân
gửi tiền vào Ngân hàng dẫn đến Ngân hàng không đủ vốn để đáp ứng nhu cầu của
khách hàng. Ngược lại nếu lãi suất huy động đậưt ra cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới
lợi ích của Ngân hàng, Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong vấn đề cho vay. Và đối với
lãi suất cho vay cũng vậy. Trường hợp đưa ra mức lãi suất cao sẽ đẫn đến tình trạng
không cho vay được, ứ đọng vốn hoặc có cho vay được cũng khó thu hồi bởi khách
hàng của Ngân hàng không phải tất cả đều làm ăn có hiệu quả mà có những khách
hàng làm ăn không có lãi hoặc lãi thấp sẽ khó có thể trả được những khoản nợ lớn
của Ngân hàng gây rủi ro cho hoạt động của Ngân hàng.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng nói riêng cũng như hoạt động của nền kinh tế
nói chung muốn hoạt động có hiệu quả thì cần phải có một hệ thống pháp luật đồng
bộ, thống nhất, đầy đủ đi kèm hỗ trợ. Pháp luật đã trở thành một bộ phận không thể
thiếu trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, không có pháp luật hoặc
một hệ thống pháp luật không đầy đủ, không phù hợp với những yêu cầu phát triển
của nền kinh tế thì mọi hoạt động trong nền kinh tế sẽ trở nên hỗn độn, không thể
tiến hành trôi chảy. Pháp luật đã tạo lập hành lang pháp lý giúp cho mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh tiến hành thuận tiện và đạt kết quả cao. Chỉ trong trường hợp
các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng, chấp hành luật pháp một cách nghiêm minh
23
thì quan hệ tín dụng mới đạt kết quả mong muốn đem lại chất lượng cho hoạt động
tín dụng Ngân hàng .
Trong điều kiện nước ta, hệ thống văn bản chưa được hoàn thiện dã gây khó
khăn cho hoạt động của mình như: Hiện nay văn bản quy định về biện pháp đảm
bảo tiền vay đối với các tổ chức Đảng chưa được ban hành trong khi đó, các tổ chức
này đang có nhu cầu vay vốn của Ngân hàng nông nghiệp. Vì vậy, Ngân hàng Nhà
nước và các ban nghành có liên quan sớm ban hành thêm các văn bản cần thiết tạo
điều kiện thuậnlợi cho các Ngân hàng trong hoạt động của mình góp phần nâng cao
chất lượng tín dụng.
1.3.3.2. Nhóm nhân tố về phía Ngân hàng và khách hàng
Đây là những nhân tố thuộc về bản thân nội tại của Ngân hàng có liên quan
ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng bao gồm
• Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng có một ý nghĩa to lớn quyết định đến sự thành công hay
thất bại của cả hệ thông Ngân hàng. Do vây khi xây dựng chính sách tín dụng cần
phải đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của người gửi tiền, của Ngân hàng
và của ngưới sử dụng vố vay. Đồng thới chính sách tín dụng phải phù hợp với
đường lối chính sách tín dụng của Đảng, Nhà nước và cần được dựa trên những cơ
sở thực tiễn và khoa học nhất định.
Đối với các Ngân hàng, một chính sách tín dụng đúng đắn phải đảm bảo khả
năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật
và đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước đảm bảo công bằng xã hội .
• Công tác tổ chức của Ngân hàng
Tổ chức của Ngân hàng cần phải được cụ thể hoá và sắp xếp một cách có
khoa học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng đã được quy
định cả về huy động vốn cũng như cho vay, quản lý được cơ cấu tài sản nợ, tài sản
24
có của Ngân hàng. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Do
hoạt động tín dụng là loại hình kinh doanh tiên tệ có rủi ro rất lớn nên cần có sự
phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, bộ phận trong từng Ngân hàng,
trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng, giữa Ngân hàng với các cơ quan khác như tài
chinh, pháp lý,... Việc thiết lập các mối quan hệ tạo điều kiện cho việc quản lý có
hiệu quả các khoản vốn tín dụng, phát hiện và giải quyết kịp thời các vấn đề có liên
quan đến tín dụng khi cầc thiết.
• Chất lượng nhân sự
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng
nói riêng và trong hoạt động của Ngân hàng nói chung. Hiện nay khi hoạt động
nghiệp vụ của Ngân hàng ngày càng phát triển thì đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày
càng cao để có thể sử dụng các phương tiện làm việc hiện đại, phù hợp với sự phát
triển nghiệp vụ không ngừng. Do vậy, việc tuyển chọn nhân sự cần phải được tiến
hành kỹ lưỡng, cán bộ tín dụng phải là người có trách nhiêm cao, có đạo đức nghề
nghiệp tốt, phải có chuyên môn giỏi thì mới có thể ngăn ngừa những sai phạm khi
thực hiện chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng, đồng thời tăng khả năng cạnh
tranh của Ngân hàng mình trên thị trường và đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu đa
dạng của một xã hội ngày càng phát triển .
- Quy trình tín dụng
Đây là những giai đoạn, công việc cần phải thực hiện theo một thủ tục nhất
định trong việc cho vay, thu nợ bắt đầu từ việc xét đơn xin vay của khách hàng cho
đến khi thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng phụ thuộc
vào việc lập ra một quy trình tín dụng cũng như sự phối hợp nhịp nhàng giữa các
giai đoạn như thế nào?
Quy trình tín dụng gồm 3 giai đoạn chính
+ Xét đề nghị vay của khách hàng và thực hiện cho vay: Đây là giai đoạn rất
quan trọng trong quy trình tín dụng, nó quyết định đến chất lượng tín dụng của
25