Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

51 Tìm hiểu về hoạt động kiểm toán độc lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.34 KB, 31 trang )

GVHD: ThS. Đoàn Thanh Nga Khoa Kế toán
MỤC LỤC
SVTH: Lê Mạnh Ninh 1 Lớp: Kiểm toán 47B
GVHD: ThS. Đoàn Thanh Nga Khoa Kế toán
LỜI MỞ ĐẦU.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt, hoạt động kiểm toán đặc
biệt là kiểm toán độc lập đã trở thành một nhu cầu tất yếu đối với hoạt động
kinh doanh, đối với những người quan tâm như chủ đầu tư, các nhà quản lý,
nhà cung cấp, người lao động… và nâng cao chất lượng quản lý doanh
nghiệp.
Sự gia tăng về số lượng các công ty kiểm toán cũng như số lượng các
dịch vụ cung cấp càng thể hiện tác dụng thiết thực cảu kiểm toán độc lập.
Quan trọng hơn, nó đã khẳng định rằng kiểm toán là hoạt động tịch cực, đảm
bảo cho luật lệ, chuẩn mực tài chính kế toán được thực hiện nghiêm chỉnh, số
liệu kế toán trung thực và hợp lý. Điều này không chỉ cần thiết cho các chủ
doanh nghiệp, cho các cơ quan quản lý Nhà nước mà còn cần thiết cho rất
nhiều đối tượng quan tâm khác.
Ở Việt Nam, ngay từ khi bước sang nền kinh tế thị trường đã xuất hiện
một nhu cầu tất yếu phải hình thành hoạt động kiểm toán độc lập. Sự ra đời
của Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) và Công ty Dịch vụ Tư vấn tài
chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) ngày 13-5-1991 (do Bộ Tài chính thành
lập) đã đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên của dịch vụ kiểm toán độc lập tại Việt
Nam. Đến nay, Việt Nam đã có 123 công ty kiểm toán cung cấp rất nhiều các
dịch vụ trên cả nước như kiểm toán, thuế, tư vấn tài chính, kế toán.
Hoạt động kiểm toán mới chỉ ra đời ở Việt Nam hơn 17 năm nay, do vậy
hoạt động này vẫn còn mới mẻ đối với một số tầng lớp xã hội. Để giúp mọi
người hiểu thêm về kiểm toán độc lập, em đã quyết định chọn đề tài: “Tìm
hiểu về hoạt động kiểm toán độc lập” để làm đề án nghiên cứu. Nội dung đề
án của em bao gồm:
Phần I. Lý luận chung về kiểm toán độc lập.
SVTH: Lê Mạnh Ninh 2 Lớp: Kiểm toán 47B


GVHD: ThS. Đoàn Thanh Nga Khoa Kế toán
Phần II. Đôi nét về kiểm toán độc lập trên thế giới và thực trạng tại Việt
Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của cô giáo TS.Đoàn
Thanh Nga đã giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu đề án này. Tuy
nhiên do điều kiện thời gian và nhận thức còn hạn chế nên không thể tránh
khỏi những thiếu sót, kính mong được tiếp thu những ý kiến đóng góp của các
thầy cô giáo để em có điều kiện hoàn thiện và nâng cao kiến thức của mình.
Sinh viên thực hiện:
Lê Mạnh Ninh
SVTH: Lê Mạnh Ninh 3 Lớp: Kiểm toán 47B
GVHD: ThS. Đoàn Thanh Nga Khoa Kế toán
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán – Trường Đại học Kinh tế quốc dân,
2005.
2. Auditing- An intergrated approach- Alvin A.Arens, James
K.Loebbecke, 1988.
3. Các website:
• www.tapchiketoan.com
• www.vneconomy.vn
• www.aicpa.org
• www.ifac.org
• www.kpmg.com
• www.pwc.com
• www.deloitte.com
• www.ey.com
• www.en.wikipedia.org
• www.kiemtoan.com.vn
• …
SVTH: Lê Mạnh Ninh 4 Lớp: Kiểm toán 47B

GVHD: ThS. Đoàn Thanh Nga Khoa Kế toán
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP.
1. Kiểm toán độc lập trong hệ thống kiểm toán.
1.1. Bản chất của kiểm toán độc lập.
Kiểm toán độc lập trước hết là một loại hình kiểm toán, xuất hiện do
nhu cầu của xã hội. Chính vì vậy, khi chúng ta xem xét bản chất của hoạt
động kiểm toán độc lập, chúng ta cần xem xét đến bản chất của hoạt động
kiểm toán dưới các cách tiếp cận khác nhau.
Hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động kiểm toán độc lập nói
chung trên thế giới chỉ thực sự bùng phát trong thời gian khoảng gần một thế
kỷ trở lại đây. Tuy nhiên cũng đã tồn tại nhiều cách tiếp cận khác nhau về
kiểm toán. Dưới đây ta sẽ viện dẫn một số định nghĩa về kiểm toán được sử
dụng phổ biến hiện nay trên thế giới.
Theo định nghĩa của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán (International
Federation of Accountants –IFAC) thì “ Kiểm toán là việc các kiểm toán viên
độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính.”
Trong giáo trình kiểm toán của các tác giả Alvin A.Rens và James
K.Loebbecker đã định nghĩa: “ Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập
và có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể
định lượng được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo
về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết
lập.”
Định nghĩa khác nêu: “Kiểm toán là thủ pháp xem xét và kiểm tra một
cách khách quan về từng khoản mục bao gồm việc thẩm tra những thông tin
đặc trưng được xác định bởi kiểm toán viên hoặc thiết lập bởi thực hành
chung. Nói tổng quát, mục đích của kiểm toán là trình bày ý kiến hoặc đi đến
SVTH: Lê Mạnh Ninh 5 Lớp: Kiểm toán 47B
GVHD: ThS. Đoàn Thanh Nga Khoa Kế toán
kết luận về cái được kiểm toán”.(trích từ Auditing - Theory & Practice của
John Dunn, University of Strathclyde, Glasgow nhà xuất bản Prentice Hall).

Còn theo Nghị định 105/2004/NĐ-CP của Chính phủ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về Kiểm toán độc lập, kiểm toán độc lập được hiểu
là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán về
tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài chính
của các doanh nghiệp, tổ chức (gọi chung là đơn vị được kiểm toán) khi có
yêu cầu của các đơn vị này.
Dựa trên các khái niệm về kiểm toán như trên, ta có thể rút ra một khái
niệm nêu bật bản chất của kiểm toán độc lập như sau: “Kiểm toán độc lập
được hiểu là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần
được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ
và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán viên độc lập có trình độ nghiệp
vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.
1.2. Mục đích của Kiểm toán độc lập.
Trong nền kinh tế thị trường, các báo cáo tài chính hàng năm do các
doanh nghiệp lập ra là đối tượng quan tâm của nhiều người. Chủ doanh
nghiệp, các cổ đông, các thành viên hội đồng quản trị, ngân hàng và các chủ
đầu tư, nhà cung cấp, khách hàng, các đối tác liên doanh… Tuy mỗi đối tượng
quan tâm đến báo cáo tài chính của doanh nghiệp ở một giác độ khác nhau,
nhưng đều có mong muốn, nguyện vọng chung là sử dụng các thông tin có độ
tin cậy cao, chính xác và trung thực. Do vậy cần phải có một bên thứ ba độc
lập, khách quan, có kỹ năng nghề nghiệp, địa vị và trách nhiệm pháp lý kiểm
tra và đưa ra kết luận là các báo cáo tài chính của doanh n ghiệp lập ra có hợp
thức không, có trung thực và hợp lý hay không. Đó chính là công việc của
kiểm toán viên độc lập thuộc các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp. Các ý kiến
nhận xét của kiểm toán viên về mức độ tin cậy của báo cáo tài chính được
trình bày trong báo cáo kiểm toán.
SVTH: Lê Mạnh Ninh 6 Lớp: Kiểm toán 47B
GVHD: ThS. Đoàn Thanh Nga Khoa Kế toán
Có thể thấy sự khác biệt về mục đích của Kiểm toán độc lập với Kiểm
toán Nhà nước và Kiểm toán nội bộ thong qua việc nói một cách khái quát

mục đích của hai loại hình kiểm toán này:
- Đối với KTNN: nhằm mục đích thông qua hoạt động của mình góp ý
kiến với đơn vị để sửa chữa sai sót, vi phạm để chấn chỉnh công tác quản lý tài
chính; đồng thời kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý các vi phạm của đơn
vị; Đề xuất với Chính phủ để sửa đổi, cải tiến cơ chế quản lý tài chính, kế toán
khi cần thiết.
- Đối với Kiểm toán nội bộ: Tiếp cận với mọi thông tin, sát thực tế, có
quyền từ chối trước khi hoạt động kinh tế xảy ra, hoặc có quyền báo cáo
những phát giác của mình cho người đứng đầu doanh nghiệp nhằm hạn chế,
ngăn ngừa một cách hữu hiệu những thiệt hại trước khi có thể xảy ra.
1.3. Phạm vi của Kiểm toán độc lập.
Để hình thành các ý kiến nhận xét về báo cáo tài chính, kiểm toán viên
phải có được những căn cứ vững chắc cũng như các thông tin cốt yếu trong
việc ghi chép kế toán và các nguồn số liệu đáng tin cậy khác đã được dùng
làm cơ sở cho việc xây dựng các báo cáo tài chính. hay nói cách khác, kiểm
toán viên phải có đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp. Do vậy phạm vi
kiểm toán sẽ là những công việc, thủ tục kiểm toán cần thiết mà kiểm toán
viên xác định và thực hiện trong quá trình kiểm toán để thu thập đầy đủ các
bằng chứng thích hợp cho ý kiến kiểm toán hay nói như chuẩn mực kiểm toán
là để đạt được mục tiêu kiểm toán. Những công việc, thủ tục kiểm toán sẽ phụ
thuộc vào nội dung kiểm toán, tuy nhiên những thủ tục kiểm toán này phải
được xác định trên cơ sở chuẩn mực kiểm toán, phù hợp với yêu cầu của tổ
chức nghề nghiệp, phù hợp với pháp luật và các thoả thuận trong hợp đồng
kiểm toán. Các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp được thu thập
thông qua các thủ nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản và bằng các
phương pháp như kiểm tra, quan sát, điều tra, xác nhận, tính toán và qui trình
SVTH: Lê Mạnh Ninh 7 Lớp: Kiểm toán 47B
GVHD: ThS. Đoàn Thanh Nga Khoa Kế toán
phân tích. Việc thực hiện các phương pháp này một phần tuỳ thuộc vào thời
gian thu thập các bằng chứng kiểm toán.

1.4. Khách thể của kiểm toán độc lập.
Khách thể của kiểm toán độc lập có thể chia ra làm hai loại: Loại bắt
buộc phải có báo cáo tài chính được kiểm toán bởi các tổ chức kiểm toán độc
lập và loại thứ hai là loại tự nguyện.
Ví dụ theo quy định của Việt Nam, báo cáo tài chính của các doanh
nghiệp sau bắt buộc phải được doanh nghiệp kiểm toán kiểm toán:
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
- Tổ chức có hoạt động tín dụng, ngân hàng và Quỹ hỗ trợ phát triển;
- Tổ chức tài chính và doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm;
- Riêng đối với công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có tham
gia niêm yết và kinh doanh trên thị trường chứng khoán thì việc bắt buộc thực
hiện kiểm toán tùy theo quy định của pháp luật về kinh doanh chứng khoán;
nếu vay vốn ngân hàng thì thực hiện kiểm toán theo quy định của pháp luật về
tín dụng.
- Doanh nghiệp nhà nước;
- Báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng của các dự án thuộc nhóm A;
- Các đối tượng khác mà Luật, Pháp lệnh, Nghị định và Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ có quy định.
Còn đối với trường hợp tự nguyện, Nhà nước khuyến khích tất cả các
doanh nghiệp và tổ chức thuê doanh nghiệp kiểm toán thực hiện kiểm toán
báo cáo tài chính hàng năm hoặc báo cáo quyết toán dự án đầu tư trước khi
nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc trước khi công khai tài chính.
Tuy nhiên các doanh nghiệp thường tự nguyện kiểm toán khi:
SVTH: Lê Mạnh Ninh 8 Lớp: Kiểm toán 47B
GVHD: ThS. Đoàn Thanh Nga Khoa Kế toán
- Doanh nghiệp muốn làm ăn chính đáng, luôn đòi hỏi sự chính xác,
trung thực, khách quan của số liệu;
- Khi sát nhập hoặc chia tách doanh nghiệp;
- Khi xảy ra sự cố, rủi ro lớn về kinh tế;


1.5. Chủ thể kiểm toán.
Công việc kiểm toán độc lập do kiểm toán viên độc lập thực hiện.
- Tiêu chuẩn kiểm toán viên.
Tuy có thể gọi tên khác nhau, nhưng nói chung IFAC và pháp luật của
các nước thành viên đều quy định các yêu cầu cơ bản đối với kiểm toán viên
là: có kỹ năng và khả năng nghề nghiệp, chính trực, khách quan, độc lập và
tôn trọng bí mật.
Thứ nhất, kỹ năng và khả năng của kiểm toán viên.
Việc thực hiện kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán phải được tiến hành
một cách thận trọng theo yêu cầu nghề nghiệp và phải do những chuyên gia
được đào tạo tương xứng có trình độ về kiểm toán thực hiện.
Kiểm toán viên có nghĩa vụ duy trì kỹ năng và trình độ nghiệp vụ của
mình trong suốt quá trình hành nghề. Yêu cầu về kỹ năng và khả năng nghề
nghiệp còn lưu ý các kiểm toán viên chỉ làm phần việc mà bản thân hoặc hãng
của mình đủ trình độ và khả năng hoàn thành công việc đó.
Thứ hai, đạo đức của kiểm toán viên.
Kiểm toán viên phải là người thằng thắn, trung thực, có lương tâm nghề
nghiệp; phải là người công minh, chính trực và không được phép để cho sự
định kiến thiên lệch làm lấn át tính khách quan, chính trực.
SVTH: Lê Mạnh Ninh 9 Lớp: Kiểm toán 47B
GVHD: ThS. Đoàn Thanh Nga Khoa Kế toán
Kiểm toán viên phải điều chỉnh mình cho phù hợp với uy tín của ngành
nghề, uy tín của bản thân và của hãng, phải tự kiềm chế những đức tính có thể
phá vớ uy tín nghề nghiệp.
Thứ ba, tính độc lập của kiểm toán viên.
Khi hành nghề kiểm toán thì kiểm toán viên phải thể hiện tính độc lập
của mình, không để cho các ảnh hưởng chủ quan, khách quan hoặc sự chi phối
của vật chất làm mất đi tính độc lập. Trong quá trình kiểm toán, nếu có sự hạn
chế về tính độc lập của kiểm toán viên thì kiểm toán viên phải tìm cách loại
bỏ sự hạn chế này, nếu không hạn chế được thì kiểm toán viên phải diễn đạt

điều này trong báo cáo kiểm toán.
Thứ tư, tính tôn trọng bí mật của kiểm toán viên.
Kiểm toán viên phải tôn trọng các bí mật của thông tin đã thu thập được
trong quá trình kiểm toán, không được tiết lộ một thông tin kiểm toán nào cho
người thứ ba khi không có ủy quyền đặc biệt hoặc trách nhiệm pháp lý, trách
nhiệm yêu cầu công bố.
Thứ năm, tính tôn trọng pháp luật.
Trong hoạt động nghề nghiệp, kiểm toán viên phải luôn tôn trọng và
chấp hành đúng các chế độ, thể lệ nguyên tắc và luật pháp của Nhà nước và
những nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán quốc tế, quốc gia.
Kiểm toán viên cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt
động nghề nghiệp của mình vànhững nhận xét, đánh giá của mình trong báo
cáo kiểm toán.
Thứ sáu, các chuẩn mực nghiệp vụ.
Kiểm toán viên phải tiến hành công việc nghiệp vụ của mình theo
những chuẩn mực nghiệp vụ chuyên ngành phù hợp với công việc đó.
SVTH: Lê Mạnh Ninh 10 Lớp: Kiểm toán 47B
GVHD: ThS. Đoàn Thanh Nga Khoa Kế toán
- Trách nhiệm và quyền hạn của kiểm toán viên.
Thứ nhất, trách nhiệm của kiểm toán viên.
Kiểm toán viên có trách nhiệm:
• Chấp hành các nguyên tắc hoạt động kiểm toán độc lập.
• Trong quá trình thực hiện dịch vụ, kiểm toán viên không được
can thiệp vào công việc của đơn vị đang được kiểm toán.
• Ký báo cáo kiểm toán và chịu trách nhiệm về hoạt động nghề
nghiệp của mình.
• Từ chối làm kiểm toán cho khách hàng nếu xét thấy không đủ
năng lực chuyên môn, không đủ điều kiện hoặc khách hàng vi phạm quy
định của pháp luật có liên quan.
• Thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm

nghề nghiệp.
• Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, quyền của kiểm toán viên.
• Độc lập về chuyên môn nghiệp vụ.
• Được thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính và các dịch vụ đảm
bảo khác mà doanh nghiệp kiểm toán được phép cung cấp.
• Yêu cầu đơn vị được kiểm toán cung cấp đầy đủ, kịp thời tài liệu
kế toán và các tài liệu, thông tin khác có liên quan đến hợp đồng dịch vụ.
• Kiểm tra, xác nhận các thông tin kinh tế, tài chính có liên quan
đến đơn vị được kiểm toán ở trong và ngoài đơn vị. Đề nghị các đơn vị,
cá nhân có thẩm quyền giám định về mặt chuyên môn hoặc làm tư vấn
khi cần thiết.
SVTH: Lê Mạnh Ninh 11 Lớp: Kiểm toán 47B
GVHD: ThS. Đoàn Thanh Nga Khoa Kế toán
2. Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập
Bộ máy kiểm toán độc lập là tổ chức của các kiểm toán viên chuyên
nghiệp kinh doanh dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có liên quan. Là tổ
chức kinh doanh, một đơn vị kiểm toán độc lập phải thực hiện các nghiễa vụ
và quyền lợi như các tổ chức kinh doanh khác. Để thực hiện các loại dịch vụ
này, các tổ chức kiểm toán độc lập có quan hệ với khách hàng tự nguyện hoặc
bắt buộc theo quy định của pháp luật
Bộ máy kiểm toán độc lập có hai mô hình cơ bản là văn phòng kiểm toán
tư và công ty kiểm toán.
2.1. Văn phòng kiểm toán tư
Văn phòng kiểm toán tư được hình thành bởi một hoặc nhiều kiểm toán
viên độc lập để kinh doanh dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có liên
quan. Các văn phòng này được thành lập theo các quy định chung cho các văn
phòng tư.
Chúng được tổ chức theo phương thức trực tuyến và loại hình tập trung.
Ưu điểm có bản của loại hình này là phát huy tính năng động cao của bộ máy

kiểm toán, rất thích ứng với nhu cầu cảu kiểm toán và tư vấn của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ cũng như nhu cầu đại lý thuế cho nhà nước. Tuy vậy, nó
cũng có nhược điểm đó là, ở mô hi nhf này, các văn phòng chỉ giới hạn các
dịch vụ và sức cạnh tranh của mỗi tổ chức cũng hạn chế. Bên cạnh đó, sự hợp
tác, bồi dưỡng kinh nghiệm nghiệp vụ giữa các kiểm toán viên cũng hạn chế.
2.2. Công ty kiểm toán.
Công ty kiểm toán (quy mô lớn) là tổ chức kiểm toán độc lập với số
lượng lớn các kiểm toán viên độc lập. Đây là những công ty quốc gia hoặc
quốc tế. Các công ty kiểm toán thực hiện nhiều loại dịch vụ trên địa bàn rộng
lớn. Do đó chung được tổ chức theo loại hình phân tán và điều hành theo
phương thức chức năng hoặc kết hợp. Do quy mô lớn phân tán và cơ cấu tổ
SVTH: Lê Mạnh Ninh 12 Lớp: Kiểm toán 47B

×