Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

110 Vấn đề vận dụng và hoàn thiện chuẩn mực kế toán tài chính ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.71 KB, 71 trang )


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu:
Báo cáo tài chính là sự tổng hợp số liệu từ các sổ sách kế toán theo các
chỉ tiêu kinh tế tài chính nhất đònh một cách có hệ thống nhằm cung cấp thông
tin cần thiết, quan trọng về tình hình tài chính của doanh nghiệp cho các đối
tượng sử dụng thông tin có liên quan khác nhau. Trong nền kinh tế thò trường,
đối tượng sử dụng thông tin kế toán không chỉ giới hạn là những người quản lý ở
bên trong các doanh nghiệp hay phục vụ cho việc kiểm tra, kiểm soát của các cơ
quan quản lý nhà nước mà còn bao gồm cả các đối tượng, các thể nhân, pháp
nhân bên ngoài doanh nghiệp như các nhà đầu tư, các chủ nợ, ngân hàng thương
mại, công ty bảo hiểm, các đối tác kinh doanh... mỗi đối tượng sử dụng thông tin
kế toán với mục đích rất khác nhau.
Để đáp ứng kòp thời với tình hình thực tế về yêu cầu cung cấp thông tin
phù hợp, đa dạng và tạo điều kiện hội nhập với hệ thống thông tin trong khu
vực, trên thế giới cũng như theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế, Bộ Tài chính đã
ban hành mười sáu (16) chuẩn mực kế toán Việt Nam. Các chuẩn mực này được
xây dựng trên nền tảng của các chuẩn mực quốc tế về kế toán có tính đến những
điều chỉnh cho phù hợp với đặc thù kinh tế - xã hội của Việt Nam. Bên cạnh đó,
Bộ Tài chính cũng đã ban hành các thông tư hướng dẫn việc áp dụng các chuẩn
mực này vào công tác kế toán. Đó là các Thông tư số 89/2002/TT - BTC ngày
09/10/2002 hướng dẫn kế toán bốn (04) chuẩn mực kế toán và Thông tư số
105/2003/TT -BTC ngày 04/11/2003 hướng dẫn kế toán sáu (06) chuẩn mực kế
toán. Tuy nhiên, để hệ thống hoá và giúp cho việc vận dụng các chuẩn mực kế
toán đặc biệt là chuẩn mực kế toán về báo cáo tài chính vào thực tế của các
doanh nghiệp Việt Nam được dễ dàng thuận tiện và phù hợp hơn, chúng tôi xin


2
đưa ra một số ý kiến cùng trao đổi thêm với các bậc thầy và các bạn về vấn đề


này, với giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ riêng về hệ thống báo cáo tài chính
trong hệ thống báo cáo kế toán của doanh nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở khái quát lý luận về hệ thống chuẩn mực kế toán về báo cáo
tài chính, chuẩn mực kế toán quốc tế và tìm hiểu thực trạng vận dụng chuẩn mực
kế toán báo cáo tài chính áp dụng tại các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
nhằm đề ra một số ý kiến giúp việc vận dụng chuẩn mực kế toán về báo cáo tài
chính được tốt hơn và đưa ra phương hướng hoàn thiện hệ thống báo cáo tài
chính.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài, một mặt là chuẩn mực kế toán về báo
cáo tài chính được ban hành ở Việt Nam, mặc khác là nghiên cứu tính hình vận
dụng vào doanh nghiệp Việt Nam hiện nay để từ đó nghiên cứu và đề xuất một
số ý kiến để góp phần thúc đẩy quá trình vận dụng chuẩn mực kế toán vào
doanh nghiệp Việt Nam, từng bước hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính và về
mặt lý luận và thực tiễn cho phù hợp với tình hình thực tế của nước ta hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu chủ đạo là phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lòch sử, nghiên cứu các vấn đề trong mối quan hệ phổ biến và trong sự
vận động, phát triển; kết hợp sử dụng đồng bộ phương pháp phân tích, phương
pháp đối chiếu, so sánh và quá trình nghiên cứu được chia thành 3 bước cơ bản:
- Bước 1: Nêu lên một cái nhìn chung về mặt lý luận về hệ thống báo cáo
tài chính cũng như các chuẩn mực kế toán có liên quan đến báo cáo tài chính,
các thủ tục, nguyên tắc lập báo cáo tài chính.


3
- Bước 2: Nêu lên thực trạng vận dụng chuẩn mực kế toán vào báo cáo tài
chính tại các doanh nghiệp Việt Nam và những vấn đề cần bổ sung, hoàn thiện.
- Bước 3: Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích trên, đề xuất một số giải

pháp nhằm giúp cho việc vận dụng chuẩn mực kế toán về báo cáo tài chính vào
doanh nghiệp Việt Nam được thuận tiện hơn và đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn
thiện hơn nữa để hệ thống báo cáo tài chính gần với tình hình thực tiễn của nước ta.
5. Bố cục:
Ngoài phần mở đầu và kết luận (4 trang) đề tài gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN “TRÌNH BÀY
BÁO CÁO TÀI CHÍNH”. (15 Trang)
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG CHUẨN MỰC KẾ TOÁN
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM. (25 Trang)
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VẬN DỤNG VÀ HOÀN THIỆN CHUẨN
MỰC KẾ TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM. (27 Trang)





4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN “TRÌNH BÀY
BÁO CÁO TÀI CHÍNH”

1.1 Vò trí của thông tin kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh:
1.1.1 Mục đích và ý nghóa của thông tin kế toán:
Trong bất kỳ một nền kinh tế nào, thông tin là một yếu tố cực kỳ quan
trọng. Kinh tế xã hội ngày càng phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng
tiên tiến, trình độ phát triển kinh tế ngày càng cao, mức độ cạnh tranh để tồn tại,
để phát triển trên thò trường càng trở nên gay gắt thì nhu cầu thông tin cũng ngày
càng trở nên bức thiết.Tất cả các đơn vò, khi tiến hành hoạt động trong bất kỳ
lónh vực nào đều phải tiếp nhận thông tin như là một yếu tố cần thiết để có thể
đưa ra những quyết đònh đúng đắn trong quá trình điều hành các hoạt động sản

xuất kinh doanh cũng như tiến hành các hoạt động đầu tư, liên doanh, hợp tác …
Có thể nói, kế toán ra đời, tồn tại và phát triển cùng với nền văn minh
nhân loại là một trong những phát minh to lớn nhất và là hệ thống thông tin kinh
doanh được sử dụng rộng rãi và lâu đời nhất. Nó theo dõi, phản ảnh và báo cáo
hoạt động kinh doanh và các sự kiện kinh tế khác trong từng đơn vò. Hệ thống
thông tin này dựa vào việc lưu giữ thông tin trên các loại sổ sách kế toán thông
qua khái niệm ghi sổ kép đã có từ rất lâu cũng như các khái niệm kế toán khác
hiện đại hơn như khái niệm trách nhiệm, khái niệm lợi tức … Hệ thống này còn
ghi chép và báo cáo các dòng vốn lưu chuyển qua doanh nghiệp dựa trên các số
liệu phát sinh và đưa ra các bản báo cáo tài chính như bảng cân đối kế toán, báo
cáo kết quả kinh doanh. Ngoài ra hệ thống này còn lập nên các dự toán về tình
hình tương lai như các báo cáo tài chính dự tính và dự toán ngân sách tài chính;


5
sau đó, tình hình thực hiện tài chính thực tế được đem đối chiếu với các dự tính
trên cơ sở các báo cáo kế toán phân tích khác nhau.
1.1.2 Bản chất và vai trò của Báo cáo tài chính:
1.1.2.1 Bản chất của báo cáo tài chính:
Qua nghiên cứu về thông tin của báo cáo kết toán, ta biết rằng báo cáo tài
chính là một hệ thống báo cáo tổng hợp được xử lý bởi “công nghệ kế toán”,
cung cấp thông tin tài chính cho các đối tượng sử dụng để đưa ra các quyết đònh
kinh tế.
Theo Viện kế toán viên công chứng Hoa kỳ (AICPA) thì: “Hệ thống báo
cáo tài chính được lập nhằm mục đích phục vụ cho việc xem xét đònh kỳ hoặc
báo cáo về quá trình hoạt động của nhà quản lý, về tình hình đầu tư trong kinh
doanh và những kết quả đạt được trong thời kỳ báo cáo. Hệ thống báo cáo tài
chính phản ánh sự kết hợp của những sự kiện được ghi nhận, những nguyên tắc
kế toán và những đánh giá của cá nhân, mà trong đó những đánh giá và nguyên
tắc kế toán được áp dụng có ảnh hưởng chủ yếu đến việc ghi nhận các sự kiện.

Những đánh giá đúng đắn tuỳ thuộc vào khả năng và sự trung thực của người lập
báo cáo, đồng thời phụ thuộc vào sự tuân thủ đối với những nguyên tắc kế toán
đã được chấp nhận rộng rãi”.
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS): Báo cáo tài chính được lập nhằm
đáp ứng nhu cầu của người sử dụng bao gồm: Các nhà đầu tư, nhà quản lý và
nhân viên, những người cho thuê, các nhà cung cấp, các khách hàng, chính phủ,
công chúng.
Như vậy, có thể nói, bản chất của báo cáo tài chính là thể hiện sự kết hợp
của những sự kiện xảy ra trong quá khứ với những nguyên tắc kế toán đã được
thừa nhận và những đánh giá của cá nhân nhằm chủ yếu là cung cấp thông tin
tài chính hữu ích cho các đối tượng sử dụng ở bên ngoài doanh nghiệp. Đồng


6
thời báo cáo tài chính yêu cầu phải được kiểm toán bởi một tổ chức kiểm toán
độc lập vì thông tin trình bày trên báo cáo tài chính chủ yếu chòu sự chi phối bởi
những đánh giá của người lập báo cáo tài chính cũng như có sự tách biệt giữa sự
sở hữu và khả năng kiểm soát của những người cung cấp vốn cho hoạt động của
doanh nghiệp.
1.1.2.2 Vai trò của báo cáo tài chính:
Vai trò của báo cáo tài chính được xem xét thông qua một số đối tượng
liên quan chủ yếu như sau:
- Đối với Nhà nước: Báo cáo tài chính cung cấp thông tin cần thiết giúp
cho việc thực hiện chức năng quản lý vó mô của nhà nước đối với nền kinh tế;
giúp cho việc thực hiện kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan tài chính Nhà nước
đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như làm cơ sở
cho việc tính thuế và các khoản nộp khác của doanh nghiệp đối với ngân sách
nhà nước.
- Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp: Các nhà quản lý cần công bố
công khai các thông tin trên báo cáo tài chính đònh kỳ về hoạt động của doanh

nghiệp nhằm thuyết phục các nhà đầu tư cũng như các chủ nợ rằng doanh nghiệp
đang có mức lợi nhuận cao nhất với độ rủi ro thấp nhất. Hơn nữa, thông tin trên
báo cáo tài chính cũng phục vụ cho công tác điều hành quản lý hoạt động sản
xuất kinh doanh của nhà quản lý.
- Đối với các nhà đầu tư: họ cần thông tin trên báo cáo tài chính để giám
sát và bắt buộc các nhà quản lý phải thực hiện theo đúng hợp đồng đã ký kết,
thông tin về các rủi ro tiềm tàng trong các doanh nghiệp có liên quan đến khoản
đầu tư của họ. Nếu là công ty cổ phần, những thông tin trên báo cáo tài chính
giúp họ quyết đònh lúc nào nên mua, nên giữ hay nên bán các chứng khoán. Và


7
họ càng quan tâm hơn vì những thông tin này giúp họ đánh giá khả năng chi trả
cổ tức của công ty.
- Đối với các kiểm toán viên độc lập: Báo cáo tài chính là đối tượng của
kiểm toán độc lập vì các nhà đầu tư và cung cấp tín dụng yêu cầu tính chính xác,
trung thực của các thông tin trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán, để họ có
thể có những quyết đònh đúng đắn nhất.
- Đối với nhân viên: họ quan tâm đến thông tin về tính ổn đònh và khả
năng sinh lời của doanh nghiệp và những thông tin giúp họ đánh giá khả năng
chi trả lương các khoản trợ cấp và thời cơ tuyển dụng.
- Khách hàng: quan tâm đến những thông tin về khả năng tiếp tục hoạt
động của doanh nghiệp khi họ có mối liên quan dài hạn hoặc phụ thuộc với
doanh nghiệp.
Với những vai trò và nhu cầu nêu trên của người sử dụng, đòi hỏi báo cáo
tài chính cần được trình bày một cách rõ ràng, dễ hiểu, trung thực, hợp lý và đầy đủ
để những người sử dụng có sự đánh giá chính xác về tình hình tài chính của doanh
nghiệp, từ đó họ có thể đưa ra những quyết đònh liên quan đến doanh nghiệp.
1.2 Chuẩn mực kế toán:
1.2.1 Đònh nghóa chuẩn mực kế toán:

Hiểu theo nghóa chung nhất, chuẩn mực là thuật ngữ diễn tả những quy
đònh mực thước có thể đònh lượng được để đo lường chất lượng một công việc, nó
là những ràng buộc nhằm đònh hướng công việc chuyên môn đi vào những
nguyên tắc chung.
Hoạt động kế toán cũng tương tự như các hoạt động khác, chỉ có thể hoạt
động một cách hữu hiệu khi có những chuẩn mực riêng cho mình. Thật vậy, chức
năng của kế toán là cung cấp các thông tin để người sử dụng có thể ra quyết
đònh. Muốn vậy, thông tin kế toán phải phản ánh trung thực tình hình và kết quả


8
hoạt động kinh doanh. Nó phải làm cho người sử dụng hiểu được, tin cậy và phải
giúp so sánh các thông tin tài chính.
Để đạt được các mục đích đó, cần có những phương pháp và thước đo để
giúp nhận diện những vấn đề hợp lý và không hợp lý liên quan đến việc ghi
nhận, phân tích, trình bày và truyền đạt thông tin tài chính. Bởi lẽ, thực tế đã
chứng minh rằng cùng một số liệu kế toán nhưng nếu áp dụng phương pháp đánh
giá, ghi nhận khác nhau sẽ đưa đến kết quả khác biệt đáng kể. Vì thế, cần có
những quy đònh làm khuôn mẫu giúp đánh giá, ghi nhận và trình bày thông tin
tài chính, và đó chính là những chuẩn mực kế toán.
Do vậy, có thể đònh nghóa một cách tổng quát: Chuẩn mực kế toán là
những quy ước, nguyên tắc, thủ tục được công nhận như những hướng dẫn cho
nghề nghiệp kế toán trong việc soạn thảo báo cáo tài chính và là cơ sở đánh giá
chất lượng công việc kế toán.
1.2.2 Nội dung chuẩn mực “Trình bày báo cáo tài chính” và một số
chuẩn mực khác có liên quan:
Về vấn đề trình bày báo cáo tài chính, chuẩn mực kế toán Việt Nam có
đưa ra chuẩn mực dành riêng cho báo cáo tài chính, và ở mỗi chuẩn mực cho
từng phần hành kế toán cũng đưa ra cách thức trình bày trên báo cáo tài chính.
đây, chúng tôi chỉ xin trình bày tóm tắt nội dung của ba (03) chuẩn mực có liên

quan trực tiếp đến báo cáo tài chính.
• Chuẩn mực số 01: Chuẩn mực chung.
Mục đích của chuẩn mực này là quy đònh và hướng dẫn các nguyên tắc và
yêu cầu kế toán cơ bản, các yếu tố và ghi nhận các yếu tố của báo cáo tài chính
của doanh nghiệp, nhằm:
a) Làm cơ sở xây dựng và hoàn thiện các chuẩn mực kế toán và chế độ
kế toán cụ thể theo khuôn mẫu thống nhất.


9
b) Giúp cho doanh nghiệp ghi chép kế toán và lập báo cáo tài chính theo
các chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán đã ban hành một cách thống nhất và
xử lý các vấn đề chưa được quy đònh cụ thể nhằm đảm bảo cho các thông tin trên
báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý.
c) Giúp cho kiểm toán viên và người kiểm tra kế toán đưa ra ý kiến về sự
phù hợp của báo cáo tài chính với chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán.
d) Giúp cho người sử dụng báo cáo tài chính hiểu và đánh giá thông tin tài
chính được lập phù hợp với các chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán.
Các nguyên tắc, yêu cầu kế toán cơ bản và các yếu tố của báo cáo tài
chính quy đònh trong chuẩn mực này được quy đònh cụ thể trong từng chuẩn mực
kế toán, phải được áp dụng đối với mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế trong phạm vi cả nước.
Chuẩn mực chung chỉ rõ: chuẩn mực này không thay thế các chuẩn mực
kế toán cụ thể, mà khi thực hiện doanh nghiệp phải căn cứ vào chuẩn mực kế
toán cụ thể. Trường hợp chuẩn mực kế toán cụ thể chưa quy đònh thì thực hiện
theo chuẩn mực chung. Chuẩn mực chung cũng quy đònh các yếu tố của báo cáo
tài chính, theo đó, báo cáo tài chính phản ảnh tình hình tài chính của doanh
nghiệp bằng cách tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế, tài chính có cùng tính chất
kinh tế thành các yếu tố của báo cáo tài chính. Các yếu tố có liên quan trực tiếp
đến việc xác đònh tình hình tài chính trong bảng cân đối kế toán là tài sản, nợ

phải trả và vốn chủ sở hữu. Các yếu tố liên quan trực tiếp đến đánh giá tình hình
và kết quả kinh doanh trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là doanh thu,
thu nhập khác, chi phí và kết quả kinh doanh. Trong đó, tài sản là nguồn lực do
doanh nghiệp kiểm soát và có thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai, nợ
phải trả là nghóa vụ hiện tại của doanh nghiệp phát sinh từ các giao dòch và sự
kiện đã qua mà doanh nghiệp phải thanh toán từ các nguồn lực của mình, còn


10
vốn chủ sở hữu là giá trò vốn của doanh nghiệp, được tính bằng số chênh lệch
giữa giá trò tài sản của doanh nghiệp trừ (-) nợ phải trả.
Khi xác đònh các khoản mục trong các yếu tố của báo cáo tài chính phải
chú ý đến hình thức sở hữu và nội dung kinh tế của chúng. Trong một số trường
hợp, tài sản không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng căn cứ vào nội
dung kinh tế của tài sản thì được phản ảnh trong các yếu tố của báo cáo tài
chính. Ví dụ, trường hợp thuê tài chính, nghiệp vụ thuê tài chính làm phát sinh
khoản mục “Tài sản” và khoản mục “Nợ phải trả” trong Bảng cân đối kế toán
của doanh nghiệp đi thuê.
Báo cáo tài chính phải ghi nhận các yếu tố về tình hình tài chính và tình
hình kinh doanh của doanh nghiệp; trong các yếu tố đó phải được ghi nhận theo
từng khoản mục. Một khoản mục được ghi nhận trong báo cáo tài chính khi thoả
mãn cả hai tiêu chuẩn (chắc chắn thu được lợi ích kinh tế hoặc làm giảm lợi ích
kinh tế trong tương lai và khoản mục đó có giá trò và xác đònh được giá trò một
các đáng tin cậy).
• Chuẩn mực số 21: Trình bày báo cáo tài chính
Mục đích của chuẩn mực này là quy đònh và hướng dẫn các yêu cầu và
nguyên tắc chung về việc lập và trình bày báo cáo tài chính gồm: Mục đích, yêu
cầu, nguyên tắc lập báo cáo tài chính; kết cấu và nội dung chủ yếu của các báo
cáo tài chính.
Chuẩn mực này áp dụng trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính phù

hợp với chuẩn mực kế toán Việt Nam.
Chuẩn mực nêu lên mục đích của báo cáo tài chính là cung cấp các thông
tin về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và các luồng tiền của doanh
nghiệp, đáp ứng nhu cầu hữu ích cho số đông những người sử dụng trong việc
đưa ra các quyết đònh kinh tế.


11
Trách nhiệm lập và trình bày báo cáo tài chính thuộc về giám đốc hoặc
người đứng đầu doanh nghiệp.
Hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp gồm: Bảng cân đối kế toán;
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; Báo cáo lưu chuyển tiền tệ; Bảng thuyết
minh báo cáo tài chính.
Việc lập và trình bày báo cáo tài chính phải tuân thủ các nguyên tắc:
Hoạt động liên tục; Cơ sở dồn tích; Nhất quán; Trọng yếu và tập hợp; Bù trừ; Có
thể so sánh.
Trong chuẩn mực còn đưa ra kết cấu và nội dung chủ yếu của báo cáo tài
chính, cụ thể là của Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh và thuyết
minh báo cáo tài chính. Còn nội dung của báo cáo lưu chuyển tiền tệ được trình
bày trong chuẩn mực kế toán số 24.
• Chuẩn mực số 24: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Mục đích của chuẩn mực này là quy đònh và hướng dẫn các nguyên tắc,
phương pháp lập và trình bày Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một bộ phận hợp thành của Báo cáo tài
chính, nó cung cấp thông tin giúp người sử dụng đánh giá các thay đổi trong tài
sản thuần, cơ cấu tài chính, khả năng chuyển đổi của tài sản thành tiền, khả
năng thanh toán và khả năng của doanh nghiệp trong việc tạo ra các luồng tiền
trong quá trình hoạt động. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ làm tăng khả năng đánh
giá khách quan tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và khả năng so
sánh giữa các doanh nghiệp vì nó loại trừ được các ảnh hưởng của việc sử dụng

các phương pháp kế toán khác nhau cho cùng giao dòch và hiện tượng.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ dùng để xem xét và dự đoán khả năng về số
lượng, thời gian và độ tin cậy của các luồng tiền trong tương lai; dùng để kiểm
tra lại các đánh giá, dự đoán trước đây về các luồng tiền; kiểm tra mối quan hệ


12
giữa khả năng sinh lời với lượng lưu chuyển tiền thuần và những tác động của
thay đổi giá cả.
Chuẩn mực cũng giải thích các thuật ngữ sử dụng trong chuẩn mực như
tiền (gồm tiền tại quỹ, tiền đang chuyển và các khoản tiền gửi không kỳ hạn),
tương đượng tiền (là các khoản đầu tư ngắn hạn không quá 3 tháng, có khả năng
chuyển đổi dễ dàng thành một lượng tiền xác đònh và không có nhiều rủi ro
trong chuyển đổi thành tiền), luồng tiền (là luồng vào và luồng ra của tiền và
tương đương tiền trong doanh nghiệp), hoạt động kinh doanh (là các hoạt động
mua sắm, xây dựng, thanh lý, nhượng bán các tài sản dài hạn và các khoản đầu
tư khác không thuộc các khoản tương đương tiền), hoạt động tài chính (là các
hoạt động tạo ra các thay đổi về quy mô và kết cấu của vốn chủ sở hữu và vốn
vay của doanh nghiệp).
Chuẩn mực này cũng quy đònh, doanh nghiệp phải trình bày các luồng
tiền trong kỳ trên Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo 3 loại hoạt động: hoạt động
kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính.
Chuẩn mực cũng đề cập đến 2 phương pháp lập Báo cáo lưu chuyển tiền
tệ, đó là phương pháp trực tiếp (là phương pháp phản ánh các chỉ tiêu liên quan
đến các luồng tiền vào các luồng tiền ra được trình bày trên báo cáo và được xác
đònh bằng cách phân tích và tổng hợp trực tiếp các khoản tiền thu và chi theo
từng nội dung thu, chi từ các ghi chép kế toán của doanh nghiệp hoặc bằng cách
điều chỉnh doanh thu, giá vốn hàng bán và các khoản mục khác trong báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh cho các thay đổi trong kỳ của hàng tồn kho, các
khoản phải thu và các khoản phải trả từ hoạt động kinh doanh; cho các khoản

mục không phải bằng tiền khác và cho các luồng tiền liên quan đến hoạt động
đầu tư và hoạt động tài chính) và phương pháp gián tiếp (là phương pháp phản
ánh các khoản chi tiêu về luồng tiền được xác đònh trên cơ sở lấy tổng lợi nhuận


13
trước thuế và điều chỉnh cho các khoản liên quan đến doanh thu, chi phí không
phải bằng tiền như khấu hao TSCĐ, dự phòng; lãi, lỗ chênh lệch tỷ giá hối đoái
chưa thực hiện;…)
Bên cạnh các chuẩn mực nêu trên, hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam
còn giới thiệu một số chuẩn mực khác (Phụ lục 1), trên mỗi chuẩn mực đều yêu
cầu nội dung phải trình bày trên báo cáo tài chính.
1.2.3 Chuẩn mực kế toán”Trình bày báo cáo tài chính” ở Việt Nam và
Quốc tế:
Ngày 29/06/1973, Uỷ ban Chuẩn mực quốc tế về Kế toán (IASC) đã ra
đời vơi sự tham gia của các tổ chức kế toán của 10 quốc gia là Úc, Canada,
Pháp, Tây Đức, Nhật, Mexico, Hà Lan, Anh, Ái Nhó Lan và Mỹ. IASC có nhiệm
vụ thu hẹp những khác biệt do hoàn cảnh lòch sử, văn hoá, môi trường kinh
doanh, hoặc do yêu cầu của người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính ở mỗi
quốc gia, bằng cách soạn thảo các quy đònh, các thủ tục và chuẩn mực kế toán
có liên quan để cho ra đời chuẩn mực quốc tế nhằm mục đích:
- Hình thành và công bố những chuẩn mực kế toán làm cơ sở cho việc lập
báo cáo tài chính, nhằm phục vụ cho quyền lợi của nhiều đối tượng sử dụng khác
nhau và để nâng cao sự chấp nhận và tôn trọng trên toàn thế giới.
- Tiến tới việc cải tiến và tạo nên sự hoà hợp các quy đònh, các chuẩn
mực và thủ tục kế toán liên quan đến việc soạn thảo và trình bày báo cáo tài
chính.
Cho đến nay, IASC đã ban hành và công bố được ba mươi tám (38) chuẩn
mực kế toán liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau trong kế toán. Với xu
hướng toàn cầu hoá hiện nay, xuất hiện các nhu cầu ngày càng cao về tiêu

chuẩn hoá và hài hoà các nội dung, nguyên tắc kế toán giữa các quốc gia khác
nhau, đặc biệt là hài hoà thống nhất trong việc lập và trình bày báo cáo tài


14
chính. Vì vậy có rất nhiều các quốc gia quan tâm đến việc nghiên cứu, xây dựng
và công bố chuẩn mực kế toán quốc gia trên cơ sở vận dụng chuẩn mực kế toán
quốc tế (IAS).
Hệ thống chuẩn mực kế toán mới ban hành của nước ta cũng căn cứ vào
chuẩn mực kế toán quốc tế, đặc biệt là chuẩn mực “Trình bày báo cáo tài chính”.
(1) Chuẩn mực kế toán quốc tế số 01 – “Trình bày báo cáo tài chính” và
sự phù hợp trong việc vận dụng vào xây dựng chuẩn mực kế toán ở Việt Nam:
Báo cáo tài chính là sản phẩm cuối cùng của công tác kế toán, cung cấp
các thông tin hữu ích cho người sử dụng trong việc đánh giá tình hình tài chính
và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tại một thời điểm và trong
một khoảng thời gian nhất đònh. Vì vậy, việc trình bày báo cáo tài chính một
cách trung thực, hợp lý, phù hợp với khuôn mẫu được quốc tế thừa nhận là vô
cùng quan trọng, nhằm đáp ứng nhu cầu hữu ích cho số đông những người sử
dụng thông tin tài chính trong việc điều hành và đưa ra các quyết đònh kinh tế.
Chuẩn mực kế toán quốc tế số 01 đưa ra những quy đònh về yêu cầu tối
thiểu cần thiết và các nguyên tắc chung trong việc lập và trình bày báo cáo tài
chính cho từng năm tài chính của mỗi doanh nghiệp và báo cáo tài chính hợp
nhất của tập đoàn. Ngoài ra, liên quan đến việc trình bày báo cáo tài chính,
IFAC còn đưa ra 04 chuẩn mực kế toán khác quy đònh cho việc trình bày báo cáo
tài chính cho các trường hợp đặc thù: IAS 14 – “Báo cáo tài chính bộ phận”; IAS
27 – “Báo cáo tài chính hợp nhất và các khoản đầu tư vào công ty con”; IAS 30
– “Báo cáo tài chính cho ngân hàng và các tổ chức tài chính tương tự”; IAS 34 –
“Báo cáo tài chính giữa niên độ”. Nhưng ở Việt Nam thì việc vận dụng IAS 01
và 04 IAS liên quan nêu trên để xây dựng các chuẩn mực kế toán tương ứng cho
Việt Nam là hoàn toàn cần thiết và phù hợp.



15
(2) Về hệ thống thông tin trên báo cáo tài chính và hệ thống báo cáo tài
chính:
IAS 01 quy đònh các báo cáo tài chính phải đảm bảo cung cấp đầy đủ
những thông tin của một doanh nghiệp về: Tài sản; Nợ phải trả; Vốn chủ sở hữu;
Doanh thu, thu nhập và chi phí; Lãi và lỗ; Các luồng tiền. Các thông tin này
cùng với các thông tin tài chính sẽ giúp người sử dụng dự đoán được các luồng
tiền trong tương lai và đặc biệt là thời điểm và mức độ chắc chắn của việc tạo ra
các luồng tiền và các khoản tương đương tiền.
Các thông tin này được thể hiện trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp
bao gồm: Bảng cân đối kế toán; Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; Báo cáo
biến động vốn chủ sở hữu; Báo cáo lưu chuyển tiền tệ; Thuyết minh Báo cáo tài
chính.
Việc vận dụng những quy đònh của IAS 01 về hệ thống thông tin trên báo
cáo tài chính và hệ thống báo cáo tài chính là hoàn toàn cần thiết và phù hợp.
Tuy nhiên, chúng ta đã ghép nội dung của “Báo cáo biến động vốn chủ sở hữu”
vào “Thuyết minh báo cáo tài chính” để làm gọn nhẹ hơn hệ thống báo cáo tài
chính.
(3) Về yêu cầu lập và trình bày báo cáo tài chính, chính sách kế toán:
IAS 01 đặt ra yêu cầu là báo cáo tài chính phải phản ánh một cách trung
thực và hợp lý tính hình tài chính, tình hình và kết quả kinh doanh và các luồng
tiền của doanh nghiệp. Nhằm đạt được điều này, báo cáo tài chính phải được lập
và trình bày trên cơ sở tuân thủ các chuẩn mực kế toán quốc tế kèm theo các
thông tin bổ sung cần thiết.
Đối với chính sách kế toán thì doanh nghiệp phải lựa chọn và áp dụng các
chính sách kế toán cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính phù hợp với quy đònh
của từng chuẩn mực kế toán. Trường hợp chưa có quy đònh ở chuẩn mực kế toán



16
hiện hành. Ban giám đốc doanh nghiệp phải thiết lập các phương pháp kế toán hợp
lý nhằm đảm bảo báo cáo tài chính cung cấp được các thông tin cần thiết mà thích
hợp với nhu cầu ra các quyết đònh kinh tế của người sử dụng và đáng tin cậy.
Những yêu cầu trên là những yêu cầu hết sức khách quan, mang tính bản
chất của công cụ kế toán, và chuẩn mực kế toán về báo cáo tài chính của Việt
Nam cũng đã tiếp thu và thể hiện đầy đủ.
(4) Về nguyên tắc lập và trình bày báo cáo tài chính:
Theo IAS 01 thì các nguyên tắc mà doanh nghiệp phải tuân thủ khi lập và
trình bày báo cáo tài chính là: Hoạt động liên tục; Cơ sở dồn tích; Nhất quán;
Trọng yếu và tập hợp; Bù trừ; So sánh được. Trên chuẩn mực số 21 cũng trình
bày và phân tích rất đầy đủ các nguyên tắc này.
(5) Về kết cấu và nội dung chủ yếu của báo cáo tài chính:
Trong chế độ kế toán Việt Nam quy đònh nợ dài hạn là các khoản nợ mà
thời gian trả nợ trên một (01) năm, còn nợ ngắn hạn là khoản tiền mà doanh
nghiệp có trách nhiệm trả trong vòng một chu kỳ hoạt động kinh doanh bình
thường hoặc trong vòng một năm. Như vậy, xét về điều kiện để xác đònh một
khoản nợ ngắn hạn hay dài hạn, thì quy đònh của chuẩn mực quốc tế về kế toán
có nội dung rộng hơn và do đó tỏ ra phù hợp hơn so với quy đònh của Việt Nam.
Theo quy đònh của chuẩn mực kế toán Việt Nam, nguồn vốn chủ sở hữu
gồm: Vốn của các nhà đầu tư, thặng dư vốn cổ phần, lợi nhuận giữ lại, các quỹ,
lợi nhuận chưa phân phối, chênh lệch tỷ giá và chênh lệch đánh giá lại tài sản.
Riêng đối với công ty cổ phần, chuẩn mực quốc tế về kế toán đưa ra một
số vấn đề như: Vốn cổ phần là phần giá trò còn lại của tài sản sau khi trừ đi mọi
khoản công nợ. Trên bảng cân đối kế toán, vốn cổ phần được phân thành từng
nhóm như: vốn của doanh nghiệp do các cổ đông đóng góp, lợi nhuận để lại,
khoản dự trữ về phân chia lợi nhuận và các khoản dự trữ về điều chỉnh bảo toàn



17
vốn có thể được trình bày riêng. Cách phân nhóm như vậy có thể phù hợp với
các yêu cầu ra quyết đònh kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính khi chúng
chỉ ra các giới hạn về pháp lý hoặc các giới hạn khác về năng lực của doanh
nghiệp trong việc phân phối hoặc áp dụng các hình thức góp vốn khác, chúng có
thể phản ánh một thực tế là các bên tham gia góp vốn của doanh nghiệp có
quyền lợi khác nhau khi nhận cổ tức hoặc nhận lại phần góp vốn. Giá trò vốn cổ
phần trong bảng cân đối kế toán phụ thuộc vào cách xác đònh đánh giá tài sản
và công nợ. Thông thường giá trò vốn cổ phần chỉ trùng hợp tương ứng với tổng
trò giá cổ phiếu hoặc tổng số tiền có thể thu được từ việc thanh lý dần các tài sản
ròng trên cơ sở khái niệm doanh nghiệp đang hoạt động.
Theo IAS 1, các thông tin tối thiểu sau đây phải được diễn giải tại báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh hoặc phần ghi chú: doanh thu, lợi nhuận, các chi
phí tài chính thuần, thu từ các khoản đầu tư, lãi hoặc lỗ trước thuế trong niên độ,
thuế lợi tức, cổ phần thiểu số, lãi hay lỗ thuần từ các hoạt động bình thường, các
khoản mục bất thường, lãi hay lỗ trong niên độ.
IAS cũng quy đònh phải trình bày trên báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh hoặc phần ghi chú các khoản sau đây:
- Việc phân tích các khoản chi phí và thu nhập được sử dụng trong quá trình
tính lợi nhuận từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua việc phân loại dựa
trên tính chất hoặc chức năng các khoản chi phí trong nội bộ doanh nghiệp.
- Một bảng phân tích chi tiết về thu nhập từ các khoản đầu tư, phản ánh
các khoản lãi hoặc lỗ của công ty con (nếu báo cáo chưa được hợp nhất), lãi
hoặc lỗ từ các công ty thành viên và liên doanh theo phương pháp vốn cổ phần,
thu nhập từ lãi tiền cho vay từ các khoản đầu tư khác.
- Lãi trên mỗi cổ phiếu đã thanh toán hoặc dự kiến, cho niên độ kế toán
của báo cáo tài chính.


18

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1:
Vò trí, vai trò của thông tin kinh tế trong bất kỳ nền kinh tế nào cũng đều
cực kỳ quan trọng, đặc biệt trong thời đại ngày nay, khi khoa học kỹ thuật ngày
càng phát triển, điều này lại càng được khẳng đònh. Báo cáo tài chính là một bộ phận
chủ yếu của báo cáo kế toán được hình thành từ việc ghi nhận, phản ảnh, tính toán, đo
lường, tổng hợp của nghiệp vụ kế toán tài chính nhằm chủ yếu cung cấp các thông
tin tài chính hữu ích cho các đối tượng sử dụng bên ngoài doanh nghiệp.
Kế toán được phát sinh và phát triển trong những môi trường kế toán cụ
thể với các yếu tố làm tác động đến hoạt động của kế toán.
Tuy nhiên, những thông tin của kế toán chỉ thực sự hữu ích khi nó đáp ứng
được các tiêu chuẩn như: Dễ hiểu, thích hợp, đáng tin cậy, dễ sử dụng. Những
thông tin này đã được quy đònh thành nội dung cụ thể trong chuẩn mực kế toán
Việt Nam vừa để phục vụ việc cung cấp thông tin theo đặc thù của nền kinh tế
nước ta, vừa đảm bảo vào sự hoà nhập chung với kế toán quốc tế.


19
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG CHUẨN MỰC KẾ TOÁN
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM.
2.1 Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống báo cáo tài chính
và các chuẩn mực kế toán tại Việt Nam:
Cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế nước ta từ kế hoạch
hoá tập trung sang cơ chế thò trường có sự điều tiết vó mô của Nhà nước, hệ
thống kế toán nước ta với tư cách là công cụ quản lý cũng từng bước được đổi
mới. Khởi đầu từ Quyết đònh 233 CP ngày 1/12/1970 vào thời kỳ kế hạch hoá
tập trung đến khi thực sự đi vào cơ chế thò trường, được đánh dấu bằng Quyết
đònh 1141/TC/QĐ/CĐKT ban hành ngày 1/1/1995 của Bộ Tài chính, hệ thống kế
toán nước ta từng bước được đổi mới, đặc biệt là hệ thống báo cáo tài chính.
Được xây dựng trên cơ sở của quan điểm và nhận thức mới về đối tượng

sử dụng thông tin trong nền kinh tế thò trường, các chỉ tiêu trong báo cáo tài
chính được xây dựng vừa nhằm đáp ứng nhu cầu kiểm tra, kiểm soát của Nhà
nước, vừa đáp ứng nhu cầu đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp, giúp
cho đối tượng quan tâm đến hoạt động của doanh nghiệp có thể đưa ra quyết
đònh phù hợp. Tuy nhiên, những quy đònh mang tính nguyên tắc, chuẩn mực về
hình thức văn bản không được quy đònh riêng rẽ nên hiệu lực pháp lý chưa cao.
Hạn chế này nếu như không được khắc phục kòp thời sẽ làm cho kế toán không
thể xứng đáng với vò thế công cụ quản lý quan trọng, thúc đẩy quá trình mở cửa,
hội nhập kinh tế với quốc tế và khu vực, thu hút các nguồn tài chính từ bên
ngoài để phát triển, tăng trưởng kinh tế.
Nhận thức rõ điều này, từ hơn mười năm qua, Chính phủ, Bộ Tài chính đã
chỉ đạo, triển khai tích cực công cuộc đổi mới căn bản hệ thống kế toán. Những


20
đổi mới đáng kể về khuôn khổ pháp lý đối với kế toán chứa đựng trong Luật kế
toán và chuẩn mực kế toán.
Quá trình soạn thảo, công bố chuẩn mực kế toán doanh nghiệp Việt Nam
với mục tiêu khắc phục những hạn chế trên làm cho kế toán Việt Nam tiếp cận
và hài hoà với kế toán của đa số quốc gia trên thế giới, làm cho báo cáo tài
chính của doanh nghiệp Việt Nam phản ánh trung thực, hợp lý, khách quan tình
hình tài chính, tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh, có khả năng so sánh
cao, thích hợp và hữu dụng đối với tất cả những người sử dụng.
Quá trình soạn thảo chuẩn mực kế toán đã được triển khai một cách thận
trọng, công phu, nghiêm túc với sự chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo Bộ Tài chính,
với sự tư vấn của Hội đồng quốc gia về kế toán Việt Nam, với sự tham gia nhiệt
tình của đông đảo các chuyên gia được cử đến từ các cơ quan Nhà nước, các
trường Đại học, Trung học có chuyên ngành tài chính kế toán, các doanh nghiệp,
các công ty kiểm toán với sự trợ giúp tích cực và có hiệu quả của các chuyên gia
của Dự án kế toán kiểm toán của Liên minh Châu u và dự án “Tăng cường

trách nhiệm tài chính tại Việt Nam” của Ngân hàng Thế giới. Do đó, việc soạn
thảo, công bố chuẩn mực kế toán đảm bảo chất lượng và nội dung về tính khả thi
về những nội dung quy đònh trong các chuẩn mực. Với mục tiêu khẩn trương
công bố chuẩn mực kế toán, Ban soạn thảo chuẩn mực kế toán đã lựa chọn tiến
trình soạn thảo và công bố chuẩn mực kế toán theo ưu tiên sau: Những chuẩn
mực kế toán phản ánh các giao dòch kinh tế và sự kiện mang tính phổ biến ở các
doanh nghiệp Việt Nam thì được ưu tiên soạn thảo và công bố trong cùng đợt.
Đầu tiên là bốn chuẩn mực kế toán ban hành tại Quyết đònh số
149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2002, gồm:
- Chuẩn mực số 02 – Hàng tồn kho;
- Chuẩn mực số 03 – Tài sản cố đònh hữu hình.


21
- Chuẩn mực số 04 – Tài sản cố đònh vô hình.
- Chuẩn mực số 14 – Doanh thu và thu nhập khác.
Luật kế toán và bốn (04) chuẩn mực đầu tiên được ban hành đã thổi một
luồng sinh khí mới vào hoạt động kế toán tại các doanh nghiệp, đây là những sự
kiện rất quan trọng của sự phát triển và cải cách hệ thống kế toán Việt Nam, là
khuôn khổ pháp lý mới để các doanh nghiệp tổ chức công tác kế toán.
Tiếp theo đó ngày 31/12/2002 Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Quyết
đònh số 165/002/QĐ-BTC ban hành và công bố sáu (06) chuẩn mực kế toán Việt
Nam đợt 2 gồm:
- Chuẩn mực số 01 – Chuẩn mực chung;
- Chuẩn mực số 06 – Thuê tài sản;
- Chuẩn mực số 10 – nh hưởng của việc thay đổi tỷ giá hối đoái;
- Chuẩn mực số 15 – Hợp đồng xây dựng;
- Chuẩn mực số 16 – Chi phí đi vay;
- Chuẩn mực số 24 – Báo cáo lưu chuyển tiền tệ;
và tiếp theo là công bố sáu (06) chuẩn mực kế toán đợt 3 ban hành theo

quyết đònh số 234/2003/QĐ-BTC ngày30/12/2003 gồm:
- Chuẩn mực số 05 – Bất động sản đầu tư;
- Chuẩn mực số 07 – Kế toán các khoản đầu tư vào công ty liên kết;
- Chuẩn mực số 08 – Thông tin tài chính vào các khoản vốn góp liên
doanh;
- Chuẩn mực số 21 – Trình bày báo cáo tài chính;
- Chuẩn mực số 25 – Báo cáo tài chính hợp nhất và kế toán đầu tư vào
công ty con;
- Chuẩn mực số 26 – Thông tin về các bên liên quan.


22
Chuẩn mực kế toán đã thống nhất hoá và chuẩn mực hoá các nguyên tắc
và phương pháp kế toán dựa trên cơ sở chuẩn mực kế toán quốc tế và đặc điểm
nền kinh tế Việt Nam để hạch toán và trình bày các yếu tố, khoản mục của báo
cáo tài chính. Chuẩn mực kế toán ra đời hình thành khuôn khổ pháp lý quan
trọng thứ hai (dưới Luật kế toán) làm căn cứ cho các doanh nghiệp tổ chức thực
hiện công tác kế toán, lập và trình bày báo cáo tài chính. Các báo cáo tài chính
của các doanh nghiệp được lập, trình bày và công khai theo các chuẩn mực kế
toán sẽ hữu dụng, thích hợp cho những người sử dụng, đảm bảo độ tin cậy, tính
trung thực, hợp lý, dễ hiểu và có khả năng so sánh cao, đáp ứng yêu cầu đề ra
các quyết đònh kinh tế của người sử dụng bên ngoài doanh nghiệp. Chuẩn mực
kế toán Việt Nam đã xác lập tính độc lập của kế toán với chính sách thuế và cơ
chế tài chính doanh nghiệp.
Với một số nghiên cứu về tình hình thực hiện chuẩn mực của một số
doanh nghiệp chúng ta có thể nhận thấy rằng, việc ban hành Luật kế toán và các
chuẩn mực kế toán của Bộ Tài chính là một bước khởi đầu cho công cuộc hội
nhập của kế toán nước nhà, tuy nhiên, để các doanh nghiệp có thể vận dụng một
cách hoàn hảo thì chưa được bởi vì hệ thống chuẩn mực còn có một số điều chưa
được quy đònh rõ ràng, và chưa lường hết mọi tình huống phát sinh trong thực tế.

Vì vậy, việc ban hành thêm các chuẩn mực kế toán bổ sung, đi kèm với các
chuẩn mực kế toán đã ban hành và hoàn thiện thêm nội dung của các chuẩn mực
kế toán trên là một điều hoàn toàn tất yếu.
2.2 Thực trạng việc vận dụng chuẩn mực kế toán trong các doanh
nghiệp Việt Nam:
2.2.1 Việc vận dụng các chuẩn mực kế toán (ngoại trừ chuẩn mực 01, 21,
24) trong các doanh nghiệp Việt Nam:


23
2.2.1.1 Các chuẩn mực ban hành theo Quyết đònh số 149/2001/QĐ-BTC
ngày 31/12/2001:
Nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nên loại hình
doanh nghiệp ở nước ta rất đa dạng. Mỗi doanh nghiệp chỉ tham gia vào một số
lónh vực kinh doanh nhất đònh nên trong hoạt động kế toán chỉ áp dụng một số
chuẩn mực vào đơn vò mình tuỳ theo tình hình thực tế phát sinh.
Bằng sự trợ giúp của các phương tiện thông tin đại chúng, các chương
trình tập huấn, hầu hết các doanh nghiệp đều nắm được nội dung của hệ thống
Luật và chuẩn mực kế toán Việt Nam, các thông tư hướng dẫn thực hiện từ đó tổ
chức triển khai đến các thành viên trong đơn vò mình. Do đó, khi chuẩn mực ban
hành, tất cả các doanh nghiệp đều tuân thủ theo chuẩn mực trong công tác kế
toán tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, chúng ta quan tâm đến hiệu quả của việc vận
dụng này nhiều hơn. Vì đây là lần đầu tiên Bộ Tài chính ban hành hệ thống
chuẩn mực kế toán mới dựa trên cơ sở tham khảo hệ thống chuẩn mực kế toán
quốc tế nên có nhiều điều còn chưa phù hợp với tình hình thực tế, nhiều khái
niệm, quy đònh trong chuẩn mực chưa rõ ràng gây hiểu lầm và khó khăn cho
người làm kế toán, chưa tạo được tính thống nhất trong toàn hệ thống.
(1) Chuẩn mực kế toán số 02 “Kế toán hàng tồn kho” đề cập đến một bộ
phận tài sản có giá trò lớn tại doanh nghiệp. Việc xác đònh đúng, đủ giá gốc hàng
tồn kho đóng vai trò quan trọng trong quá trình quản lý, tổ chức hoạt động sản

xuất kinh doanh; sử dụng có hiệu quả tài sản, vật tư… của doanh nghiệp. Tính
đúng, tính đủ giá gốc hàng tồn kho là một trong những nhân tố quan trọng quyết
đònh chính xác lợi nhuận của doanh nghiệp. Chuẩn mực kế toán hàng tồn kho
được Bộ Tài chính ban hành giúp doanh nghiệp có cơ sở xác đònh giá gốc cho
hàng tồn kho của mình do đó được doanh nghiệp hưởng ứng và tham gia thực
hiện chuẩn mực. Tuy nhiênviệc xác đònh đúng, đủ giá gốc hàng tồn kho theo quy


24
đònh của chuẩn mực là việc không đơn giản, có một số quy đònh chưa quan tâm
đến các yếu tố khách quan đối với trường hợp chi phí thoát ly đònh mức theo
chiều hướng tăng, hoặc việc phân bổ chi phí sản xuất chung cố đònh vào chi phí
chế biến cho mỗi đơn vò sản phẩm cũng là điều đáng bàn. Song, chúng ta quan
tâm đến việc trình bày khoản mục hàng tồn kho trên báo cáo tài chính. Qua
khảo sát, chúng tôi nhận thấy, các doanh nghiệp chỉ trình bày trên báo cáo tài
chính các chính sách kế toán áp dụng trong việc đánh giá hàng tồn kho, gồm cả
phương pháp tính giá trò hàng tồn kho; giá trò dự phòng giảm giá hàng tồn kho;
giá trò hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho và trình bày chi phí về hàng
tồn kho trên Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh được phân loại theo
chi phí chức năng nhưng trên báo cáo tài chính không thể hiện rõ những trường
hợp hay sự kiện dẫn đến việc trích lập thêm hoặc hoàn nhập dự phòng giảm giá
hàng tồn kho.
(2) Được ban hành cùng với chuẩn mực kế toán số 02 là chuẩn mực kế
toán số 03 “Tài sản cố đònh hữu hình” và chuẩn mực số 04 “Tài sản cố đònh vô
hình”. Đây là thời điểm sau khi có Quyết đònh 166 nên giữa các văn bản này có
điểm chưa đồng nhất. Điều này đã gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp
trong quá trình thực hiện. Vừa qua, việc ban hành Quyết đònh số 206/2003/QĐ-
BTC của Bộ Tài chính, ngày 12/12/2003, ban hành chế độ quản lý, sử dụng, trích
khấu hao tài sản cố đònh, thay thế cho Quyết đònh số 166/1999/QĐ-BTC ngày
30/12/1999 đã có những quy đònh cụ thể và thống nhất với chuẩn mực kế toán.

Riêng tiêu chuẩn giá trò để nhận biết tài sản cố đònh được nâng lên là 10.000.000
đồng là phù hợp với sự biến động của giá cả trong thời gian qua và giúp nhiều
doanh nghiệp đơn giản hoá phương thức quản lý tài sản, đồng thời quy đònh lại
thời điểm trích khấu hao hoặc thôi trích khấu hao, các phương pháp trích khấu
hao có thể áp dụng đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp. Tuy


25
nhiên, doanh nghiệp chỉ chú trọng đến tài sản cố đònh hữu hình mà quên tầm
quan trọng của tài sản cố đònh vô hình. Việc trình bày trên báo cáo tài chính theo
chỉ dẫn của hai chuẩn mực này cũng chưa được tuân thủ triệt để, vẫn còn sự thể
hiện ngắn gọn các thông tin tiên quan đến tài sản cố đònh trên Thuyết minh báo
cáo tài chính, chỉ thường dừng lại ở phần liệt kê các thông tin về nguyên giá, hao
mòn, giá trò còn lại. Đặc biệt, tài sản cố đònh vô hình vẫn còn chiếm tỷ lệ 0%
trên phần tài sản của bảng cân đối kế toán.
(3) Chuẩn mực số 14 “Doanh thu và thu nhập khác” cũng được ban hành
trong đợt này. Mục đích của chuẩn mực này là quy đònh và hướng dẫn nguyên
tắc kế toán doanh thu và thu nhập khác, làm cơ sở để ghi sổ kế toán và lập báo
cáo tài chính. Việc ban hành chuẩn mực số 14 đã thống nhất cách hiểu biết về
chiết khấu thương mại, chiết khấu thanh toán, giảm giá hàng bán, xác đònh
doanh thu và ghi nhận doanh thu… từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thống
nhất nội dung đào tạo và thực hiện kế toán nói chung, kế toán doanh thu bán
hàng nói riêng. Hầu hết các doanh nghiệp đều vận dụng nội dung này để phân
loại rõ ràng và trình bày trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và trên
Thuyết minh báo cáo tài chính. Tương tự như các chuẩn mực khác, các doanh
nghiệp đều đưa chuẩn mực vào thực hiện nhưng chưa chú tâm lắm đến phần
hướng dẫn trình bày trên báo cáo tài chính của chuẩn mực.
Như vậy, bốn chuẩn mực kế toán đầu tiên ban hành đã được doanh nghiệp
đón tiếp và vận dụng theo Thông tư hướng dẫn, tuỳ theo tình hình thực tế mà có
cách vận dụng khác nhau nhưng đa số chỉ dừng lại ở động tác hạch toán còn

phần trình bày trên báo cáo tài chính, đặc biệt là thuyết minh thì chưa được
doanh nghiệp quan tâm thể hiện.


×