Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

GIA NHẬP WTO VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI TÌNH HÌNH PHÂN PHỐI THU NHẬP Ở VIỆT NAM - 2 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.34 KB, 17 trang )



18/82
Thuế quan trung bình của Việt Nam nằm ở mức tương đương với Trung Quốc vào thời
điểm trước khi nước này gia nhập WTO, nhưng lại cao hơn rất nhiều so với mức thuế
quan của Inđônêxia, Malayxia và Philipin. Mức thuế quan trung bình của Việt Nam cũng
cao hơn rất nhiều so với mức thuế quan trung bình hiện nay của Trung Quốc (Ngân
hàng Thế giới, 2006).

Việt Nam cũng cam kết tổng hợp
5
các mức thuế quan áp dụng cho phần lớn các sản
phẩm, với các mức thuế từ 0% đến 35% (Bảng 6). Mức thuế quan áp dụng đối với ôtô
và xe máy vẫn duy trì ở mức cao, vì Việt Nam có chính sách bảo hộ ngành công nghiệp
này ở trong nước (ngành công nghiệp ôtô của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc lắp ráp
với số lượng nhỏ). Một số mặt hàng nhạy cảm (trứng, thuốc lá,
đường, muối) sẽ tiếp tục
được bảo hộ bằng biện pháp hạn ngạch. Việc cắt giảm đối với các mức thuế quan tổng
hợp sẽ được thực hiện trong thời hạn 12 năm, giảm từ mức trung bình 17,4%, năm
2007 xuống 13,6%, năm 2019.

Mức thuế suất trung bình áp dụng đối với hàng nông sản sẽ giảm từ 27,3%, đầu năm
2007 xuống 21,7% năm 2019. T
ỷ lệ này thấp hơn so với các nước láng giềng của Việt
Nam: Thái Lan và Philipin áp dụng mức thuế quan đối với các sản phẩm này tương ứng
là 36% và 34%.

Việt Nam đã ký Hiệp định đa phương về công nghệ thông tin. Trong khuôn khổ Hiệp
định này, Việt Nam cam kết cắt giảm mức thuế quan xuống còn 0% đối với nhiều mặt
hàng điện tử và tin học trong thời hạn từ 0 đến 8 nă
m tùy theo từng mặt hàng.




5
Thuế quan tổng hợp = mức thuế quan tối đa mà một nước cam kết áp dụng cho một sản phẩm
cụ thể trong khuôn khổ của WTO.


19/82
Bảng 6 : Cam kết của Việt Nam về thuế quan sau khi gia nhập WTO (%)

2005
(Trước khi gia
nhập)
(1)
2007
(Khi gia
nhập)
2019
(Mức thuế quan
cuối cùng)
Lịch trình thực
hiện
Trung bình
chung đơn
giản
18,5 17,4 13,6 Cho đến 12 năm
Hàng nông sản
29,4 27,3 21,7 Cho đến 5 năm
Hàng phi nông
sản

17,0 16,0 12,5 Cho đến 12 năm
- Sắt
9,7 17,7 13,0 Cho đến 2 năm
- Dầu lửa
14,6 27,2 27,1 Cho đến 2 năm
- Dệt-may
36,6 13,6 13,5 Ngay từ khi gia nhập
- Da giày
45,0 35,8 27,2 Ngay từ khi gia nhập
- Ô tô
63,6 84,8 58,7 Cho đến 12 năm
- Xe máy
100,0 100,0 74,3 Cho đến 12 năm
- Linh kiện điện
tử
13,3 13,9 9,5 5 năm
Mức thuế tối đa
150 150 85
Số dòng thuế
10.689 10.444 10.444
Nguồn : IMF (2007)

(1) Quy chế tối huệ quốc (MFN) được áp dụng đối với phần lớn các nước ngoài ASEAN.

Biện pháp hạn ngạch nhập khẩu vẫn được áp dụng đối với hai mặt hàng : Từ cuối năm
2005, chỉ còn sản phẩm đường và dầu lửa còn chịu áp dụng hạn ngạch nhập khẩu, với
việc ấn định khối lượng tối đa được nhập khẩ
u.

Ngoài ra, còn có 7 mặt hàng khác chịu áp dụng hạn ngạch nhập khẩu, nhưng không ấn

định khối lượng tối đa được nhập khẩu : sữa, trứng, ngô, thuốc lá, muối và bông. Đối
với các mặt hàng này, nếu khối lượng nhập khẩu vượt quá mức quy định thì sẽ phải
chịu một mức thuế quan cao hơn.


Bãi bỏ các biện pháp miễn thuế quan

Hai loại hình miễn thuế quan chính nhằm khuyến khích xuất khẩu hoặc hạn chế nhập
khẩu sẽ bị bãi bỏ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, vì trái với các quy định của WTO.

duty drawbacks (hoàn thuế) : trước khi Việt Nam gia nhập WTO, việc nhập khẩu các
hàng hóa tiêu thụ trung gian dùng để sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế nhập
khẩu (cơ chế này được gọi là duty drawbacks - hoàn thuế). Điều kiệ
n để được miễn
thuế đó là hàng sản xuất ra phải được xuất khẩu trong thời hạn dưới 275 ngày kể từ
ngày nhập khẩu hàng hóa được miễn thuế.



20/82
Cơ chế này có mục đích khuyến khích xuất khẩu, nhưng việc quản lý rất phức tạp và
tạo kẽ hở cho nhiều trường hợp vi phạm, lạm dụng (Dimaranan, 2005). Hình thức miễn
thuế này sẽ phải được bãi bỏ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, vì nó được coi là một
hình thức trợ cấp cho xuất khẩu trái với quy định của WTO (xem phần dưới).

Các quy định về tỷ lệ nộ
i địa hóa : trong nhiều lĩnh vực (xe gắn máy, sản phẩm cơ khí,
điện, điện tử, kể cả máy thu hình), có sự tồn tại một hình thức trợ cấp ngầm thể hiện
dưới dạng áp dụng mức thuế quan ưu đãi cho việc nhập khẩu hàng thành phẩm và linh
kiện của các doanh nghiệp thỏa mãn các tiêu chuẩn về nội địa hóa.


Biện pháp này trước đây đ
ã từng được áp dụng ở các nước đang phát triển khác
(trường hợp của Nam Phi đối với ngành ôtô) và đã bị cấm theo các quy định của WTO.
Việt Nam đã bãi bỏ hình thức ưu đãi này từ năm 2003 đối với xe máy và từ đầu năm
2007 đối với ôtô.

Duy trì thuế xuất khẩu

Theo các quy định của WTO, Việt Nam được quyền áp thuế xuất khẩu sản phẩm trong
các lĩnh vực mà Việt Nam không có ưu thế nổi trội trên thị trường thế giới. Việc áp dụng
thuế xuất khẩu này nhằm đảm bảo các mục tiêu mang tính chiến lược, bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm đã qua
chế tạo.

Thuế xuất kh
ẩu được áp dụng đối với xuất khẩu dầu thô (5%) (chiếm khoảng 20% kim
ngạch xuất khẩu) và khoáng sản. Tháng 6/ 2007, Việt Nam công bố quyết định áp dụng
thuế xuất khẩu đối với xuất khẩu quặng đồng (10%) và niken (5%).

2.2. Các biện pháp khác ngoài thuế quan

Ngoài các biện pháp thuế quan, Việt Nam cũng có các cam kết ở mức rất cao so với
các cam kết theo quy định của WTO, đặc biệt là liên quan đến vấn đề bãi bỏ trợ cấp
xuất khẩu và mở cửa cho đầu tư nước ngoài.

Cấm trợ cấp cho xuất khẩu

Theo quy định của Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp bù trừ (ASMC), những nước
có GDP/đầu người cao hơn 1000USD bị cấm các hình thức trợ cấp cho xuất khẩu các

sản phẩm công nghiệp. Những nước có GDP/đầu người thấp hơn mức này vẫn được
tiếp tục duy trì các hình thức trợ cấp này.

Tuy nhiên, các nước thành viên mới gia nhập WTO không được hưởng quy định này.
Như vậy, trên thự
c tế có trường hợp 2 nước có trình độ phát triển tương đương nhau
(tính theo GDP/đầu người), ví dụ Việt Nam và Ấn Độ, sẽ được áp dụng các chế độ rất
khác nhau trong lĩnh vực này : Việt Nam bị cấm mọi hình thức trợ cấp, còn Ấn Độ, với
quy mô nền kinh tế và mức độ ảnh hưởng đến nền thường mại toàn cầu lớn hơn Việt
Nam nhiều lần, l
ại được hưởng quyền tự do trong việc áp dụng các biện pháp trợ cấp.

Đối với trường hợp của Việt Nam, việc bị cấm áp dụng các biện pháp trợ cấp sẽ buộc
Việt Nam phải thay đổi chế độ của các khu đặc miễn hiện đang sử dụng hàng trăm


21/82
nghìn lao động (đến nay chưa có con số chính thức về số lao động đang làm việc trong
các khu đặc miễn). Những ưu đãi giành cho doanh nghiệp trong các khu vực này sẽ
không còn được gắn với điều kiện về tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm của doanh nghiệp.

Việt Nam cũng đã phải cam kết ngừng trợ cấp cho xuất khẩu nông sản. Khi gia nhập
WTO vào cuối năm 2003, Campuchia cũ
ng đã phải đưa ra cam kết này. Việc cấm các
biện pháp trợ cấp cho xuất khẩu nông sản rõ ràng đã tạo ra một sự phân biệt đối xử đối
với 2 nước thành viên mới này của WTO bởi vì các nước công nghiệp lớn vẫn tiếp tục
được trợ cấp ồ ạt cho xuất khẩu nông sản của mình.

Cho dù bị cấm các biện pháp trợ cấp cho xuất khẩu, Việt Nam, v
ới tư cách là một nước

đang phát triển, vẫn được tiếp tục trợ cấp cho nông nghiệp với điều kiện mức trợ cấp
thấp hơn 10% chi phí sản xuất sản phẩm. Trên thực tế, chỉ có ngành mía đường sẽ bị
cắt giảm trợ cấp do ảnh hưởng của quy định này (ADB, 2006).

Cải tổ sâu sắc khung pháp luật kinh tế và tư pháp

Trong quá trình chuẩn bị gia nhập WTO những năm qua, Việt Nam đã có những cải tổ
sâu sắc khung pháp luật kinh tế và thủ tục pháp lý của mình. Các quy định pháp luật về
hợp đồng, quyền sở hữu, giải quyết tranh chấp kinh tế đã được đơn giản hóa và hiện
đại hóa đáng kể (ADB, 2006) ; đã ban hành Luật cạnh tranh và Luật phá sản doanh
nghiệp.

Khi gia nhập WTO, Việt Nam cam kết không phân biệt đối xử
giữa các doanh nghiệp
nước ngoài và doanh nghiệp trong nước (Nguyên tắc đối xử quốc gia). Trong tinh thần
này, Việt Nam đã ban hành Luật doanh nghiệp năm 2005, tạo khuôn khổ pháp lý chung
cho các doanh nghiệp trong nước (doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân)
và doanh nghiệp nước ngoài.

Một trong những hệ quả của việc áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia đó là Nhà nước
không được tiếp tục trợ cấp cho các doanh nghiệp trong nước nữa. Hiện nay, các
khoản trợ cấp này có hình thức rất đa dạng (cho vay ưu đãi, tín dụng xuất khẩu…).
Trong tương lai, các khoản trợ giúp này sẽ được giành cho tất cả các doanh nghiệp,
không phân biệt doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp nước ngoài.

Với những lý do này, trong thủ tục đấu thầu của các doanh nghiệp Nhà nước, phải có
sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần, không phân biệt doanh nghiệp
trong nước hay doanh nghiệp nước ngoài, và chỉ dự
a trên những tiêu chí thuần túy kinh
tế.


Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam phải tuân thủ các quy định của Hiệp định TRIPS. Trên
thực tế, trước khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tuân thủ phần lớn các quy định của Hiệp
định này đối với doanh nghiệp Mỹ trong khuôn khổ Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa
Kỳ (USBTA). Việt Nam cũng sẽ phải tuân thủ ngay những quy định của Hiệp định về các
biện pháp vệ
sinh dịch tễ và bảo vệ thực vật (SPS) và Hiệp định về các rào cản kỹ thuật
đối với thương mại (TBT).

Edited by Foxit Reader
Copyright(C) by Foxit Software Company,2005-2007
For Evaluation Only.


22/82
Tăng cường mở cửa cho đầu tư nước ngoài

Các biện pháp được áp dụng trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài nằm trong
khuôn khổ quy định của Hiệp định TRIMS (Trade-Related Investment Measures).

Từ khi Việt Nam gia nhập WTO đầu năm 2007, các ngân hàng nước ngoài có thể thành
lập chi nhánh 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam. Thực ra, mức độ mở cửa bổ sung
cũng không lớn lắm so với thời điểm trước khi gia nhập WTO, vì trong khuôn khổ Hiệp
định th
ương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, Việt Nam cũng đã cho phép các công ty Mỹ thành
lập chi nhánh 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam vào thời điểm năm 2010. Dù thế nào
chăng nữa, biện pháp mở cửa này sẽ buộc Việt Nam phải đẩy nhanh quá trình cải tổ
các ngân hàng quốc doanh của mình.

Trong lĩnh vực viễn thông, theo quy định của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ,

các doanh nghiệp Mỹ được đầu tư vào th
ị trường điện thoại di động và Internet từ cuối
năm 2005 và thị trường điện thoại cố định từ cuối năm 2007. Kể từ nay, tất cả các
doanh nghiệp nước ngoài đều được hưởng quyền này. Tỷ lệ góp vốn tối đa trong các
lĩnh vực này tương ứng là 49% và 45%.

Tiếp tục quá trình cổ phẩn hóa

Chính sách cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước (equitization) được khởi động
trong những năm 1990. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước lớn đã được cổ phần hóa (Công
ty sữa Việt Nam VINAMILK, Song Hinh-Vinh Son Hydroelectric Plant, Hochiminh City
Insurance). Việt Nam công bố rằng sẽ chỉ giữ lại những doanh nghiệp Nhà nước (Nhà
nước nắm giữ 100% vốn) trong những lĩnh vực chiến lược và một số doanh nghiệp Nhà
nước lớn. Dự kiến trong năm 2007 và 2008 s
ẽ tiến hành cổ phần hóa 600 doanh nghiệp
Nhà nước, trong đó có các doanh nghiệp lớn như Mobiphone, Vinaphone và
VietcomBank (Gide, Loyrette et Nouel, 2007). Sắp tới, Việt Nam cũng sẽ tiến hành cổ
phần hóa một phần Tổng công ty hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) và một số
ngân hàng quốc doanh. Nhà đầu tư nước ngoài được quyền tham gia góp vốn một cách
bình đẳng vào quá trình cổ phần hóa này (thực hiện dưới hình thức niêm yết trên thị
trường chứng khoán). Đầu tư nước ngoài trong ngành ngân hàng vẫn còn bị
kiểm soát
chặt chẽ hơn so với các ngành khác.

Các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực này có tính chất tương đối khác với các cam
kết trong các lĩnh vực khác và khá chung chung, mơ hồ. Việt Nam cam kết hàng năm sẽ
gửi báo cáo cho các nước thành viên WTO về tiến độ thực hiện chương trình cổ phần
hóa của mình. Điều này nhằm thực hiện mục tiêu được các nước thành viên công nhận
Việt Nam có nền kinh tế thị tr
ường (xem phần 2.3 dưới đây).


2.3. Xóa bỏ hạn ngạch xuất khẩu nhưng hàng hóa Việt Nam vẫn gặp nhiều
khó khăn trong việc tiếp cận các thị trường lớn

Xóa bỏ hạn ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ và châu Âu

Một trong những lợi ích lớn Việt Nam thu được khi gia nhập WTO đó là được các nước
công nghiệp phát triển xóa bỏ hạn ngạch xuất khẩu đối với hàng dệt may của Việt Nam.
Edited by Foxit Reader
Copyright(C) by Foxit Software Company,2005-2007
For Evaluation Only.


23/82

Kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam được áp dụng khuôn khổ quy định đa phương mới
đối với xuất khẩu hàng dệt may. Từ đầu năm 2005, Việt Nam được xóa bỏ hạn ngạch
đã được áp dụng trong 3 thập kỷ trước trong khuôn khổ các Hiệp định Đa sợi (AMF) :

- Mỹ áp đặt hạn ngạch đối với Việt Nam trong khuôn khổ Hiệp định thương mại song
phương, nh
ưng đã xóa bỏ các hạn ngạch này kể từ đầu năm 2007 ;

- Sau khi ký Hiệp định song phương về ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO năm 2004, Liên
minh châu Âu đã xóa bỏ hạn ngạch đối với Việt Nam ngay từ đầu năm 2005, tức là
trước khi Việt Nam gia nhập WTO.

Ngoài ra, với quy mô nền kinh tế nhỏ và tác động đối với thị trường Mỹ không lớn, Việt
Nam không bị áp dụng các biện pháp tự v
ệ và các biện pháp tự vệ khẩn cấp đối với

hàng dệt may giống như các biện pháp Mỹ đang tạm thời được áp dụng đối với Trung
Quốc kể từ khi nước này gia nhập WTO
6
.

Việt Nam vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường Mỹ và châu
Âu

Việt Nam gia nhập WTO theo một quy chế riêng giành cho các nước chưa có nền kinh
tế thị trường (tiếng Anh là « non market economy » hay NME ; Xem Khung 1). Với việc
áp đặt quy chế riêng nay cho Việt Nam trong thời hạn 12 năm (cho đến 2019) (Trung
Quốc cũng bị áp dụng quy chế này khi gia nhập WTO vào năm 2001), WTO đã gây khó
khăn cho hàng hóa xuất khẩu Việt Nam tiếp cận thị trường quốc tế. Theo quy chế riêng
này, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ phải chịu m
ột phương pháp riêng trong việc
xem xét các trường hợp bán phá giá (chi phí được tính toán dựa trên chi phí của các
nước khác), và phương pháp này giảm nhẹ rất nhiều nghĩa vụ chứng minh (Oxfam,
2004). Như vậy, Việt Nam gia nhập WTO với tư cách là thành viên «hạng hai », giống
như Trung Quốc (Mc Carty và Kalapesi, 2003).

Quy chế là một nước chưa có nền kinh tế thị trường cũng làm hạn chế rất nhiều một
trong những lợi ích quan trọng của việc gia nhập WTO, đ
ó là cơ may thắng kiện trong
trường Việt Nam kiện đối tác thương mại ra trước cơ quan giải quyết tranh chấp về việc
áp đặt các biện pháp chống bán phá giá đối với mình (ADB, 2006)
7
.

Mỹ mới chỉ tạm thời trao cho Việt Nam quy chế tối huế quốc (MFN). Quốc hội Mỹ chưa
thông qua quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn cho Việt Nam (PNTR- Permanent

Normal Trade Relation » ) (lần bỏ phiếu mới nhất là vào tháng 11/2006). Như vậy, hàng
năm, Mỹ có quyền xem xét lại vấn đề cấp quy chế tối huệ quốc cho Việt Nam , điều
được WTO cho phép. Thật vậy, theo quy định tại
Điều XXXV, Hiệp định GATT (và Điều
XIII, Hiệp định WTO), một nước thành viên có quyền không thực hiện các nghĩa vụ đa

6
Các biện pháp tự vệ khi được áp dụng đối với bất kỳ sản phẩm nào sẽ có hệ quả ngăn chặn sự tăng
trưởng nhập khẩu sản phẩm đó, nếu sự tăng trường này được cho là quá nhanh và có thể làm rối loạn thị
trường nội địa. Các biện pháp đặc biệt đối với hàng dệt may còn đi xa hơn thế : chúng cho phép ngăn chặn
việc nhậ
p khẩu (chứ không chỉ ngăn chặn sự tăng trưởng nhập khẩu) các sản phẩm dệt may trong một thời
hạn nhất định, nếu việc nhập khẩu này làm rối loạn thị trường trong nước.
7
Năm 2004, tức là trước khi Việt Nam gia nhập WTO, Mỹ đã áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối
với sản phẩm cá da trơn của Việt Nam. Quy chế « quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường » sẽ làm giảm
thiểu cơ may thắng kiện của Việt Nam trong vụ kiện này trong khuôn khổ của WTO.

Edited by Foxit Reader
Copyright(C) by Foxit Software Company,2005-2007
For Evaluation Only.


24/82
phương của mình đối với một nước thành viên khác vì những lý do chính trị hay một lý
do khác. Trong trường hợp của Mỹ, lý do đưa ra là quy định cấm cư trú, đi lại đối với
các công dân Mỹ (Luật Jackson Vanik ngăn cản việc bình thường hóa quan hệ thương
mại với các nước thuộc khối XHCN cũ)
8
.


Khung 1
Quy chế « quốc gia nước chưa có nền kinh tế thị trường » (NME)

Theo yêu cầu của Mỹ, Việt Nam bị áp dụng quy chế của một nước chưa có nền kinh tế
thị trường (Non Market Economy) khi gia nhập WTO. Quy chế này cũng đã được áp
dụng đối với Trung Quốc khi nước này gia nhập WTO vào năm 2001 (và vẫn được duy
trì cho đến ngày nay). Ngoài hai nước này ra, chỉ còn một số nước thuộc Liên Xô cũ
(Kirgưxtan, Mônđavi) bị áp dụng quy chế này.

Đối với quốc gia bị áp dụng quy chế « quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường », các
quốc gia thành viên khác của WTO có quyền áp dụng các tiêu chí riêng để tính mức chi
phí sản xuất hàng xuất khẩu của quốc gia đó, theo đó thay vì sử dụng tiêu chí chi phí
hiện hành tại quốc gia đó để tính mức chi phí sản xuất hàng xuất khẩu của quốc gia đó,
các quốc gia thành viên của WTO có quyền sử dụng số liệu về chi phí sản xuất của một
hay một nhóm nước « thay thế » mà ở đó các quy tắc vận hành của nền kinh tế thị
trường được áp dụng và tuân thủ một cách thực sự. Như vậy, một quốc gia thành viên
WTO khi muốn áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với một quốc gia « chưa
có nền kinh tế thị trường », thì sẽ dễ dàng hơn trong việc chứng minh sự tồn tại của
hành vi bán phá giá, vì chỉ cần tìm ra một quốc gia « thay thế » phù hợp để tính mức chi
phí sản xuất hàng xuất khẩu của quốc gia sẽ bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá
đó, ngay cả khi hai quốc gia này có trình độ phát triển và các điều kiện sản xuất hàng
hóa rất khác nhau (Nguyễn, Nguyễn và Lê Thanh, 2007).

Từ khi Trung Quốc gia nhập WTO, số lượng các thủ tục kiện yêu cầu áp dụng biện pháp
chống bán phá giá đối với nước này đã tăng gấp đôi: Khoảng 40 đơn kiện/năm trong
giai đoạn 2002-2005 so với 20 đơn kiện/năm trong những năm trước đó (1995-2001).
Tất nhiên, nguyên nhân làm gia tăng số đơn kiện này không hoàn toàn bắt nguồn từ
việc Trung Quốc bị xếp vào quy chế « quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường », mà còn
do sự tăng trưởng xuất khẩu quá mạnh của Trung Quốc gây ra sự lo ngại từ các nước

khác. Tuy nhiên, quy chế Trung Quốc là « quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường » là
chất xúc tác làm gia tăng số đơn kiện chống bán phá giá đối với nước này, vì đơn kiện ít
có nguy cơ bị bác bỏ bởi WTO trong trường hợp đối tượng bị kiện là Trung Quốc.

Khi Liên minh châu Âu áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với mặt hàng giày
da xuất khẩu của Việt Nam vào năm 2006 (tức là trước khi Việt Nam gia nhập WTO),
Liên minh châu Âu cũng đã viện dẫn quy chế « quốc gia chưa có nền kinh tế thị
trường » áp dụng cho Việt Nam
9
. Từ năm 2006, Liên minh châu Âu đã áp dụng mức
thuế chống bán phá giá là 16,8% dựa trên cơ sở so sánh với mức chi phí sản xuất mặt

8
Ngược lại, Việt NamViệt Nam cũng không bắt buộc phải thực hiện các nghĩa vụ mở cửa thị
trường với các doanh nghiệp Mỹ giống như đã làm với các đối tác khác (trong trường hợp Mỹ
không cấp MFN cho Việt NamViệt Nam ).
9
Quy chế « quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường » cũng được các nước thành viên WTO áp
dụng cho các nước không phải là thành viên của WTO, ví dụ Ucraina bí áp dụng quy chế này
cho đến thời gian gần đây mới được bãi bỏ.


25/82
hàng này ở Braxin. Việc áp dụng các biện pháp này đã làm giảm mạnh lượng xuất khẩu
giày da của Việt Nam.

Tuy nhiên, các nước thành viên WTO (hoặc một số nước thành viên) có thể xem xét
công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường trước thời hạn quy định (2019). Năm
2007, các nước thành viên ASEAN (Việt Nam là thành viên của tổ chức này) đã quyết
định công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường (và qua đó, cam kết

không áp dụng các quy định riêng về chống bán phá giá đối với Việt Nam). Ngoài ra,
một nước đối tác của Việt Nam cũng có thể xem xét áp dụng quy chế « kinh tế thị
trường » đối với một ngành hay lĩnh vực cụ thể của Việt Nam (chứ không phải cho toàn
bộ nền kinh tế).

Khái niệm « quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường » là một khái niệm rất mơ hồ, việc
xác định một quốc gia có nền kinh tế thị trường thị trường hay chưa được thực hiện dựa
trên những căn cứ tùy tiện, những căn cứ chứng minh để áp dụng các biện pháp chống
bán phá giá đối với quốc gia này cũng rất võ đoán, tùy tiện. Chính vì vậy, việc Việt Nam
bị áp dụng quy chế « quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường » sẽ là một điều bất lợi
tiềm tàng đối với nền kinh tế Việt Nam. Vũ khí này rất dễ bị các đối tác lạm dụng vì
những mục đích khác không thuần túy mang tính kinh tế hay cạnh tranh lành mạnh,
thậm chí vì những mục đích chính trị. Do đó, Việt Nam cần phải loại bỏ nguy cơ tiềm
tàng này trong thời hạn nhanh nhất.


Việc Mỹ áp dụng biện pháp này sẽ đặt Việt Nam vào tình thế bấp bênh trong quan hệ
với Mỹ, hàng hóa Việt Nam không được đảm bảo chắc chắn trong việc tiếp cận thị
trường Mỹ (trong khi một trong những mục tiêu của việc gia nhập WTO là được đảm
bảo sự tiếp cận thị trường này), nhất là năm 2007, Mỹ áp dụng cơ chế giám sát chặt
chẽ hàng dệt may nhậ
p khẩu có nguồn gốc từ Việt Nam.

Việc Liên minh châu Âu áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với mặt hàng giày
da của Việt Nam vào năm 2006 và việc Mỹ áp dụng cơ chế giám sát hàng dệt may nhập
khẩu từ Việt Nam cho thấy Việt Nam đang nằm trong sự giám sát của 2 cường quốc
thương mại trên thế giới và thành tích xuất khẩu của Việt Nam vào 2 thị trường này có
thể bị ảnh hưởng bấ
t kỳ lúc nào.


2.4. Hiệp định gia nhập WTO bao trùm tất cả các ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế

Qua phân tích các điều kiện Việt Nam gia nhập WTO có thể thấy sự kiện gia nhập WTO
không thể được xem xét dưới góc độ là một sự kiện đơn lẻ thể hiện sự thay đổi bước
ngoặt trong chính sách kinh tế, thương mại của Việt Nam, mà phải được đặt trong một
quá trình lâu dài đã diễn ra từ hơn 1 thập kỷ qua. Phân tích những cam kết chính của
Việt Nam khi gia nhập WTO sẽ cho phép xác định đượ
c các yếu tố cơ bản cần tính đến
khi đánh giá mức độ ảnh hưởng của việc gia nhập WTO đối với Việt Nam.


Thứ nhất, xét trên khía cạnh trao đổi hàng hóa, tác động của WTO đối với thuế quan là
không đáng kể, vì mức thuế quan của Việt Nam đã được cắt giảm đáng kể trong những
năm qua trước khi Việt Nam gia nhập WTO ; tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu về tự



26/82
do hóa thương mại (ở Việt Nam cũng như ở các nước khác) đều chỉ tập trung vào phân
tích tác động của việc cắt giảm thuế quan này. Việc xóa bỏ hạn ngạch hải quan (nhất là
trên thị trường Mỹ) là một sự kiện quan trọng nhưng khó có thể mô hình hóa được nhất
là khi quy chế « quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường » áp dụng đối với Việt Nam như
một « lưỡi g
ươm Damoclès » treo trên đầu, có thể tác động bất cứ lúc nào đến sự tiếp
cận của hàng hóa Việt Nam đối với các thị trường lớn.

Thứ hai, phần lớn những cải cách được tiến hành trong quá trình chuẩn bị gia nhập
WTO tập trung vào các lĩnh vực khác, chứ không chỉ có tự do hóa trao đổi hàng hóa.
Tác động tích cực của chính sách tự do hóa các ngành dịch vụ (viễn thông, ngân hàng

…) đối với việc thu hút vốn đầu tư trực ti
ếp nước ngoài sẽ kết hợp với những tác động
tích cực từ việc áp dụng các quy định mới của Luật cạnh tranh, Luật đầu tư, chính sách
cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước và cải thiện tiếp cận thị trường nước ngoài của
hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng rất tiếc là tác động của các biện pháp này rất
khó đánh giá được bằng các công cụ thông thường.

Nhìn chung, có một sự chênh lệch lớn giữa mức độ tác động mong đợi từ các quy định
khác nhau của Hiệp định WTO đối với Việt Nam (phần lớn các cam kết và tác động liên
quan đến các ngành dịch vụ, đầu tư và các quy định khác) và các biến số thường được
đưa vào các mô hình tính toán với tư cách là biến số ngoại sinh, tập trung vào sự biến
đổi của tỷ lệ bảo hộ thuế quan ; sự chênh lệch này làm gi
ảm lợi ích của các nghiên cứu
chỉ tập trung xử lý các yếu tố này. Trong phần sau, chúng tôi sẽ cố gắng mở rộng phạm
vi các kịch bản phỏng đoán, nhằm đưa vào các tác động khác có thể có của việc gia
nhập WTO.

3. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO: Điểm qua kết quả của các
công trình nghiên cứu

Sau sự kiện thành lập WTO (1995) và với việc hầu hết các nước đang phát triển chuyển
sang áp dụng chính sách tăng trưởng dựa vào xuất khẩu do các định chế quốc tế khởi
xướng, nhiều công trình nghiên cứu đã cố gắng đánh giá mức độ tác động của các
chính sách thương mại đối với tăng trưởng và phân phối thu nhập.

Trong phần này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số k
ết quả chung rút ra từ các công trình
nghiên cứu này, trên cơ sở liên hệ với các cơ sở lý thuyết kinh tế và quan sát thực tiễn.
Tiếp theo, chúng tôi sẽ điểm qua kết quả của một số công trình nghiên cứu về trường
hợp của Việt Nam, tập trung vào các công trình nghiên cứu có sử dụng các mô hình cân

đối chung (EGC), là những mô hình tỏ ra phù hợp nhất để đánh giá những tác động kinh
tế vĩ mô của chính sách thương mại. Bên cạnh nhữ
ng kết quả liên quan đến vấn đề
tăng trưởng và những chỉ số kinh tế chính, chúng tôi cũng chú ý đến các tác động đối
với vấn đề phân phối thu nhập (vấn đề đói nghèo và bất bình đẳng).

Giống như các nghiên cứu thuộc dạng này liên quan đến các nước đang phát triển
khác
10
, những đánh giá được thực hiện cho đến nay về tác động của việc Việt Nam gia
nhập WTO đối với tăng trưởng (GDP, xuất khẩu….) đều cho thấy mức độ tác động của
việc gia nhập này là không đáng kể. Điều này có thể được lý giải bởi việc những mô

10
Ngoại trừ các nghiên cứu có bổ sung các giả thiết ad hoc về tác động đối với hiệu suất sản xuất và tăng
trưởng thương mại, điều này cho phép làm tăng tác động của các chính sách thương mại này.


27/82
hình được sử dụng để tính toán đều gặp khó khăn trong việc tích hợp tất cả các yếu tố,
các tác động có thể có. Các tính toán này thường chỉ tính đến tác động của chính sách
tự do hóa thương mại đối với trao đổi hàng hóa, trong khi đó những tác động chính lại
xảy ra trong các lĩnh vực khác (dịch vụ, đầu tư trực tiếp nước ngoài, cải cách thể chế ).
Do vậy, những nghiên cứu đánh giá tác động
đối với phân phối thu nhập và tình trạng
nghèo đói cũng mang lại những kết quả hạn chế, và thường đi đến kết luận là có sự gia
tăng của tình trạng bất bình đẳng song song với việc giảm đói nghèo.

3.1. Tác động của việc gia nhập WTO đối với vấn đề tăng trưởng, đói
nghèo và bất bình đẳng


Từ những năm 1990, các nghiên cứu kinh tế đều quan tâm đến tác động của chính sách
tự do hóa thương mại trong các nước đang phát triển. Nhiều công trình nghiên cứu tập
trung đánh giá tác động kinh tế của của các biện pháp cắt giảm thuế quan được áp
dụng trong khuôn khổ WTO (đa phương) hoặc trong các khuôn khổ khác (đơn phương,
khu vực ). Trong giai đoạn vừa qua và trong mối liên hệ với việc định hướng lại chính
sách phát tri
ển tập trung vào vấn đề xóa đói giảm nghèo, các công trình nghiên cứu kinh
tế đã mở rộng phạm vi nghiên cứu, đi vào đánh giá tác động của chính sách thương mại
đối với vấn đề phân phối thu nhập và xóa đói, giảm nghèo.

Tác động kinh tế vĩ mô (tăng trưởng và thương mại)

Để đánh giá tác động kinh tế vĩ mô của việc gia nhập WTO, hầu hết các công trình
nghiên cứu đều sử dụng các mô hình cân bằng tổng thể EGC. Theo hiểu biết của chúng
tôi, chỉ có 2 công trình nghiên cứu sử dụng một phương pháp khác dựa trên các mô
hình lực hấp dẫn (xem Khung 2).

Khung 2
Các mô hình lực lực hấp dẫn và mô hình cân bằng tổng thể được sử dụng
để đánh giá tác động của các chính sách thương mại

Mô hình lực hấp dẫn là mô hình kinh tế lượng được sử dụng để đánh giá mức độ trao
đổi thương mại giữa hai nước nói riêng và giữa một nước với tất cả các đối tác nói
chung.

Mô hình lực hấp dẫn hoạt động dựa trên lý thuyết về trọng lực và lực hấp dẫn. Trên cơ
sở liện hệ với định luật vạn vật hấp dẫn của Newton, mô hình lực hấp dẫn đánh giá
cường độ trao đổi thương mại giữa hai nước phụ thuộc vào quy mô của nền kinh tế của
hai nước đó (thể hiện bằng GDP) và gắn với chi phí giao dịch giữa hai nước. Các mức

chi phí giao dịch này được xác định tuỳ theo khoảng cách giữa các nước và một số yếu
tố khác (sự biệt lập, lãnh thổ biển đảo, có đường biên giới chung ). Điều này tương
ứng với giả thiết rằng chi phí thương mại tăng cùng với khoảng cách địa lý ; tình trạng
biệt lập của một nước làm tăng chi phí giao dịch của nước đó ; chi phí giao dịch sẽ thấp
hơn khi đó là hai nước láng giềng. Việc đặt tham số cho các yếu tố này được thực hiện
bằng các công cụ kinh tế lượng.

Các mô hình lực hấp dẫn thường được sử dụng để đánh giá tác động của các Hiệp định
mậu dịch tự do. Thời gian gần đây, các mô hình này cũng được sử dụng để đánh giá
tác động của việc gia nhập WTO đối với trao đổi ngoại thương của một nước. Các mô


28/82
hình này rất có hiệu quả trong việc đánh giá các luồng trao đổi thương mại song
phương.

Các mô hình cân bằng tổng thể (EGC) không phải là mô hình kinh tế lượng, chúng
thường được sử dụng để mô tả nền kinh tế của một nước. Các mô hình này hoạt động
dựa trên giả thiết các tác nhân kinh tế có hành vi ứng xử hợp lý, tối đa hoá lợi ích. Giả
thiết này là nền tảng của lý thuyết cân bằng tổng thể của Walras. Theo lý thuyết này (lý
thuyết tân cổ điển), các gia đình tối đa hoá lợi ích thu được trong giới hạn thu nhập của
mình, và các doanh nghiệp cũng đi tìm lợi nhuận tối đa.

Nếu lấy trường hợp của các hộ gia đình, có thể thấy rằng các hộ gia đình vừa là người
tiêu dùng, vừa là người cung ứng các yếu tố sản xuất (lao động, tiền vốn ). Thu nhập
của các hộ gia đình được sử dụng để tiêu dùng, từ đó thu được một lợi ích nhất định.
Các mô hình cân bằng tổng thể EGC dựa trên lý thuyết «tác nhân tiêu biểu» (hộ gia
đình, doanh nghiệp). Theo giả thiết này, tất cả các hộ gia đình đều có những đặc điểm
giống nhau (ít ra là trong một nhóm nhất định, ví dụ nhóm những người lao động có tay
nghề) về hàm lợi ích và hàm các yếu tố sản xuất.


Các mô hình EGC dựa trên hai loại dữ liệu : 1/ Một ma trận hạch toán xã hội (MCS),
dựa trên những tài khoản quốc gia của một đất nước, mô tả bằng phương pháp kế toán
những tác động qua lại giữa các ngành và các tác nhân kinh tế. Mỗi ngành kinh tế được
thể hiện bằng dòng (nguồn thu nhập) và cột (nguồn chi phí). 2/ các hàm về hành vi ứng
xử của các tác nhân kinh tế (ví dụ hàm tiêu dùng), từ đó chọn lọc các thông số.

Các giả thiết đơn giản hoá dựa trên cơ sở các mô hình EGC đã dần được nâng cao nhờ
những tiến bộ trong lĩnh vực mô hình hoá và lý thuyết kinh tế :

- tất cả các mô hình đầu tiên đều là các mô hình tĩnh, và người ta đã đưa dần vào đó
các yếu tố động;
- giả thiết cạnh tranh hoàn hảo không còn được áp đặt cho mọi giao dịch và mọi ngành
kinh tế nữa ; đặc biệt, sự tồn tại của các hàm xuất khẩu và nhập khẩu dựa trên giả thiết
cạnh tranh không hoàn hảo và có sự phân hoá các sản phẩm trao đổi trên phạm vi quốc
tế;
- cuối cùng, giả thiết tác nhân kinh tế tiêu biểu không cho phép đánh giá một cách thực
thụ tác động của những cú sốc đối với tình hình phân phối thu nhập ; như vậy, cần phải
có sự phân hoá giữa các hộ gia đình và đó chính là đối tượng của các mô hình mô
phỏng, ở đó mỗi hộ gia đình được xem xét một cách riêng lẻ.

Các mô hình EGC là công cụ được sử dụng nhiều nhất để đánh giá tác động của các
chính sách kinh tế (và đặc biệt là các chính sách thương mại). Ưu điểm của các mô
hình này là mang lại câu trả lời mang tính định lượng chính xác về tác động của sự thay
đổi chính sách, đồng thời đảm bảo sự thống nhất của các kết quả xét trên bình diện lý
luận.

Nguồn : Piermartini và Teh (2005)





29/82
Nghiên cứu thứ nhất (Frankel và Rose, 2002) kết luận rằng một khi tính đến các tác
động của lực hấp dẫn, thì sẽ không còn tồn tại tác động bổ sung đáng kể đối với thương
mại gắn với việc gia nhập WTO (trừ khi dưa vào những hệ quả cố định-quốc gia, có tính
đến tình hình đặc thù của mỗi quốc gia). Nghiên cứu thứ hai (Subramanian và Wei,
2003) đưa ra kết quả ngược lại khi đánh giá cùng m
ột loại mô hình như vậy, tức là việc
gia nhập WTO sẽ làm cho thương mại của các nước thành viên mới tăng trưởng
khoảng 30%, với mức tác động khiêm tốn hơn đối với các nước đang phát triển nghèo
nhất.

Tuy nhiên, việc sử dụng các mô hình lực hấp dẫn có hai nhược điểm chính: thứ nhất, nó
không dựa trên bất kỳ một mô hình lý thuyết nào ; thứ hai, nó không cho phép đánh giá
tác động của WTO
đối với một nước cụ thể. Cuối cùng, các mô hình lực hấp dẫn cho
phép đánh giá sự chênh lệch cho giai đoạn quá khứ (ex post) giữa những điều quan sát
được với những điều dự kiến trong mô hình,và có thể gán với một số giả thiết có liên
quan đến WTO. Nhưng các mô hình này không cho phép dự kiến tác động của WTO
cho giai đoạn tương lai (ex ante) (trong khi đây mới là điều cần nghiên c
ứu đối với
trường hợp của Việt Nam ). Vì hai lý do này, trong phần sau, chúng tôi sẽ chỉ giới hạn
bình luận các công trình nghiên cứu sử dụng các mô hình EGC, đây cũng là những
công trình chiếm số lượng nhiều nhất.

Các mô hình cân bằng tổng thể (EGC) thường được sử dụng để đánh giá tác động của
các Hiệp định thương mại đa phương trong khuôn khổ của WTO, tác động của chính
sách tự do hóa thương m
ại đơn phương và tác động của các Hiệp định tự do hóa

thương mại khu vực. Tuy nhiên, cần phải nhận thấy rằng các mô hình này thường tập
trung phân tích tác động của các biện pháp tự do hóa thương mại được áp dụng khi gia
nhập WTO, ít tính đến các loại biện pháp khác gắn với quá trình gia nhập WTO (như
những biện pháp sửa đổi, bổ sung khung pháp luật kinh tế), là những biện pháp rất khó
để mô hình hóa.

Các công trình nghiên cứu kinh tế lượng th
ường tập trung phân tích các mối quan hệ
thực tế dựa trên các số liệu của quá khứ (ví dụ trường hợp các mô hình trọng lực). Trái
lại, các nghiên cứu sử dụng mô hình bằng tổng thể EGC vốn có cấu trúc được xây dựng
dựa trên lý thuyết tân cổ điển, thường dựa vào các giả thiết mạnh : hành vi ứng xử của
hộ gia đình, doanh nghiệp…; sự vận hành của thị trường ; chọ
n lọc các thông số mang
tính cơ cấu.

Với những đặc điểm đó, việc sử dụng các mô hình cân bằng tổng thể cho phép phân
tích các cơ chế vận hành, chứ không cho phép lượng hóa tác động của các chính sách
kinh tế. Các mô hình này chủ yếu được sử dụng để mô phỏng, phỏng đoán tác động
của các chính sách thương mại trong giai đoạn tương lai (ex ante), chứ không được sử
dụng để phân tích những tác
động của các chính sách này trong quá khứ (ex post).

Phần lớn các mô hình cân bằng tổng thể EGC đều dựa trên các giả thiết cạnh tranh
hoàn hảo trên thị trường hàng hóa và yếu tố sản xuất, giả thiết về năng suất cận biên
không đổi, giả thiết sử dụng hết các yếu tố sản xuất và giả thiết về tính liên thông lao
động hoàn hảo giữa các ngành nghề. Có hai loại mô phỏng (hay kịch bản) vẫ
n thường
được thực hiện dựa trên các mô hình này (nếu chúng ta loại trừ các chính sách tự do
hóa thương mại khu vực không thuộc phạm vi nghiên cứu của chúng tôi), biết rằng việc
gia nhập WTO sẽ kết hợp 2 tác động này với nhau trong một chừng mực nhất định:




30/82
Tác động của việc tự do hóa thương mại đa phương (ví dụ vòng đàm phán Doha) được
đánh giá dựa trên các mô hình đa quốc gia. Việc cắt giảm hoặc xóa bỏ thuế quan trên
phạm vi toàn thế giới đối với một sản phẩm nào đó sẽ làm gia tăng thương mại toàn cầu
đối với sản phẩm đó. Điều này sẽ làm tăng thu nhập trên phạm vi toàn cầu nhờ tăng
hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất tại mỗi nước và làm tăng sức mua bổ sung gắn
với việc tiêu thụ hàng hóa có mức giá thấp hơn (kết luận rút ra từ mô hình mẫu
Hecksher-Ohlin). Tùy theo từng nước, sự thay đổi về khối lượng trao đổi (mối quan hệ
giữa giá xuất khẩu hay nhập khẩu) có thể làm tăng hoặc giảm mức lợi ích thu được này
(yếu t
ố có số lượng nhiều hơn sẽ thu được lợi ích nhiều hơn (tăng thu nhập từ yếu tố đó
do tăng cầu đối với yếu tố đó trên thị trường) và yếu tố có số lượng ít hơn sẽ thu lợi ích
hơn.

Lợi ích thu được từ việc sử dụng hiệu quả hơn các yếu tố sản xuất trên phạm vi toàn
cầu đượ
c phân chia giữa các nước, biết rằng tác động từ thay đổi khối lượng giao dịch
(mối quan hệ giữa giá xuất khẩu hoặc nhập khẩu) có thể làm tăng hay giảm mức lợi ích
thu được tùy theo từng nước. Tác động chuyển lợi ích gắn với những thay đổi này là
bằng 0 trên phạm vi toàn cầu.

Nhóm GTAP (Global Trade Analysis Project) là nhóm đứng đầu thế giới trong việc thực
hiện loại nghiên cứu này
11
. Hàng năm, Ngân hàng thế giới tiến hành đánh giá những lợi
ích có thể có từ một Hiệp định nào đó của WTO dựa trên các dữ liệu về bảo hộ thương
mại do GTAP cung cấp. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (2005), một Hiệp định tự

do hóa thương mại tổng thể (xóa bỏ thuế quan và hạn ngạch đối với tất cả các loại hàng
hóa, xóa bỏ trợ cấp nông nghiệp) ký k
ết trong khuôn khổ vòng đàm phán Doha sẽ mang
lại một mức lợi ích tổng thể là 1,2 % thu nhập quốc dân đối với các nước đang phát triển
từ nay đến năm 2015 (0,8 % đối với toàn bộ nền kinh tế thế giới), nhưng được phân bổ
rất khác nhau giữa các nước.

Tác động của việc tự do hóa thương mại đơn phương (ví dụ chương trình điều chỉnh cơ
c
ấu) tiến hành tại một nước đơn lẻ, sẽ được đánh giá dựa trên các mô hình quôc gia.
Nếu đó là một nước nhỏ (price taker, không ảnh hưởng đến giá trên thị trường thế giới,
và đối với nước đó, giá là một yếu tố ngoại sinh), tự do hóa thương mại đơn phương
luôn được nhìn nhận một cách tích cực xét trên quan điểm lợi ích tổng thể mà nó mang
lại; nó góp phần làm giả
m những sai lệch do sự tồn tại của hàng rào thuế quan gây ra
và góp phần cải thiện hiệu quả sản xuất.

Dù đi theo kịch bản nào, các mô hình này cũng đưa ra kết luận rằng tác động (tiêu cực
hay tích cực) đối với mỗi nước là không lớn, tối đa chỉ bằng một vài điểm trong GDP
(Cling, 2006). Qua quan sát, phân tích mối quan hệ thực tế giữa chính sách thương mại
và tăng trưởng (nghiên cứu quố
c gia) cũng có thể thấy tác động thực tế cũng không lớn
lắm, phù hợp với kết quả nghiên cứu ứng dụng các mô hình cân bằng tổng thể EGC.
Hiện nay, các nhà kinh tế đều thống nhất rằng tác động của các chính sách thương mại
đã được đánh giá quá mức so với tác động của các loại chính sách khác hay các yếu tố
kinh tế khác (Ngân hàng thế giới, 2005) và trong một số trường hợp, việc tự do hóa
th
ương mại đơn phương hay đa phương cũng có thể có tác động tiêu cực đối với một
số nước (đặc biệt là các nước kém phát triển ở châu Phi).



11
Xem danh mục các ấn phẩm trên trang web: www.gtap.agecon.purdue.edu/about/project.asp.


31/82
Có hai lý do chính giải thích vì sao các mô hình EGC mang lại những kết quả khiêm tốn
như vậy : Không tính đến tất cả những tác động có thể có của các chính sách, quá giản
đơn trong việc phân tích các chính sách ; khó khăn trong việc lượng hóa các tác động
của WTO, ngoại trừ tác động của tự do hóa trao đổi hàng hóa. Việc cải thiện các mô
hình và các kịch bản mô phỏng sẽ cho phép tính toán được mức tác động cao hơn của
các chính sách thương mại. Ngoài những lý do về mặt khóa học, việc c
ải thiện các mô
hình cũng đáp ứng yêu cầu đánh giá cơ sở của các chính sách thương mại và vì những
lý do trong nội bộ của giới nghiên cứu (đạt được những kết quả có ý nghĩa hơn).

Nói một cách cụ thể hơn và trong khuôn khổ sử dụng các mô hình cân bằng tổng thể
EGC
12
, cách làm này nhằm đưa ra những giả thiết đơn giản thường thấy : giả thiết cạnh
tranh hoàn hảo, giả thiết năng suất tăng dần, giả thiết về các yếu tố ngoại sinh (ví dụ
chuyển giao công nghệ) tạo ra bởi sự tăng trưởng khối lượng trao đổi cùng với việc
nâng cao hiệu suất sản xuất ; đưa vào yếu tố thất nghiệp và thiếu việ
c làm ; giả thiết
tăng đầu tư trực tiếp bổ sung Phần lớn các giả thiết này chỉ có ý nghĩa nhất thời.
Robinson và Thierfelder (2002) đã gọi cách phóng đại này bằng cụm từ « tìm kiếm
những con số lớn » (« The quest for large numbers », đề mục của bài nghiên cứu).

Phần lớn các mô hình cân bằng tổng thể EGC đều là các mô hình tĩnh (có nghĩa là chỉ
tính đến một khoảng thời gian nhất định : như vậ

y, vốn sản xuất là cố định, đầu tư chỉ có
tác động đối với cầu, chứ không tác động đối với cung sản xuất). Từ một số năm nay,
người ta đã tập trung xây dựng các mô hình động : Trong khuôn khổ của các mô hình
này, các nhân tố được phân tích trong sự tác động qua lại lẫn nhau và không giới hạn
trong một khoảng thời gian nhất định ; quyết định đầu tư đưa ra hôm nay phụ thu
ộc vào
triển vọng thu được lợi nhuận trong tương lai ; vốn sản xuất biến đổi tùy theo mức đầu
tư và tình trạng xuống cấp của trang thiết bị.

Việc sử dụng các mô hình động, như mô hình đa quốc gia Mirage của CEPII (Bchir,
2002) cho phép tích hợp những tác động của các chính sách thương mại đối với tăng
trưởng. Tuy nhiên, việc đánh giá các tác động này sẽ gặp khó khăn do chúng ta còn
thiếu kiến th
ức lý thuyết cũng như thực tế về mối quan hệ giữa mở cửa và tăng trưởng
(Cling, 2006).

Xét một cách tổng thể, mặc dù các mô hình EGC ngày càng trở nên tinh vi hơn (tính
đến các yếu tố động, cạnh tranh hoàn hảo….) và mang tính phát hiện nhiều hơn, nhưng
chúng cũng mang lại những kết quả không chắc chắn. Các mô hình này cung cấp các
đại lượng về tác động của các chính sách kinh tế tùy theo các giả thiết được đưa ra.

n nữa, do không tính đến tất cả các tác động có thể có, nên chúng chủ yếu nghiên
cứu các tác động dài hạn (cùng với nghịch lý rằng các cơ chế tác động dài hạn, vì dụ
tác động của chính sách mở cửa đối với đầu tư trực tiếp, sẽ rất khó tích hợp được vào
các mô hình này).


12
Mức tác động tiềm tàng sẽ cao hơn nếu tính theo giá trị tuyệt đối, nhưng trên thực tế có thể thấp hơn ,
thậm chí là âm.



32/82
Tác động đối với vấn đề đói nghèo và bất bình đẳng


Phân tích tác động của tự do hóa thương mại đối với vấn đề bất bình đẳng và đói nghèo
là một nội dung nghiên cứu rất mới. Lý thuyết kinh tế chuẩn về thương mại quốc tế cung
cấp một mô hình đánh giá sự thay đổi về phân phối thu nhập do phát triển thương mại.
Trong khuôn khổ đơn giản nhất (mô hình của Heckscher-Ohlin), các yếu tố sản xuất
càng dồi dào thì nhu cầu đố
i với chúng càng tăng và thu nhập tương đối mà chúng
mang lại cũng tăng lên (định lý Stolper-Samuelson) cùng với sự gia tăng trao đổi. Đối
với một nước đang phát triển có lực lượng lao động phổ thông dồi dào (nhưng ít lao
động có tay nghề), thì sẽ nhận thấy đồng thời hai hiện tượng : giảm bất bình đẳng và
giảm đói nghèo (mức độ bất bình đẳng trong nội nhóm giữa các gia đình của người lao
độ
ng có tay nghề và các gia đình của người lao động phổ thông thay đổi không đáng
kể).

Mối quan hệ trực tiếp giữa thương mại và nghèo đói chỉ được nhận thấy ở phần dưới
của bảng phân phối thu nhập. Một biện pháp tự do hóa thương mại (ví dụ giảm thuế
quan đối với gạo nhập khẩu) có thể có tác động trực tiếp đối với người nghèo theo m
ột
cách tiếp cận tĩnh (tác động tích cực đối với người tiêu dùng thông qua việc giảm giá,
hoặc tác động tiêu cực đối với người nông dân do giá bán sản phẩm bị sụt giảm, thêm
vào đó cần bổ sung tác động đối với cầu các yếu tố sản xuất). Nhưng biện pháp này
cũng có thể có những tác động theo một cách tiếp cận động. Chẳng hạn, nếu việc mở
c
ửa có tác động tích cực đối với tăng trưởng, thì cũng có thể có tác động làm giảm đói

nghèo. Nhưng sự tác động này phụ thuộc vào những thay đổi có thể có về mức độ bất
bình đẳng (tự do hóa thương mại thường làm gia tăng bất bình đẳng), biết rằng sự gia
tăng bất bình đẳng sẽ làm gia tăng nghèo đói (gọi là « tăng trưởng nghèo hóa ») và mức
độ bất bình đẳng cao sẽ làm gi
ảm độ co dãn của nghèo đói so với tăng trưởng
(Bourguignon, 2003 ; Cling, 2004). Như vậy, chúng ta thấy các tác động có thể rất mẫu
thuẫn nhau, và khó có thể xác định được kết quả cuối cùng.

Những phân tích dựa trên mô hình cân bằng tổng thể cho phép đánh giá đồng thời tác
động trên nhiều bình diện khác nhau (giá hàng hóa và các yếu tố sản xuất, thu chi ngân
sách Nhà nước, tác động đối với đầu tư và tăng trưởng trong trường hợp sử dụng các
mô hình
động) và có tính đến mức độ phản ứng của các tác nhân đối với những tác
động này. Các mô hình cân bằng tổng thể EGC được sử dụng để đánh giá tác động
tổng thể của việc tự do hóa thương mại (xem Khung trên) cũng có thể được sử dụng để
đánh giá tác động của việc tự do hóa thương mại đối với đói nghèo và bất bình đẳng,
với điều kiện phả
i phân nhóm rất cụ thể các gia đình theo từng loại và từng mức thu
nhập.

Cách tiếp cận theo các mô hình vi mô-vĩ mô còn đi xa hơn nữa, vì nó còn phân nhỏ hơn
nữa các hộ gia đình (đưa ra giả thiết về người đại diện gia đình) và mô hình hóa hành vi
ứng xử cá nhân trên cơ sở có tính đến tác động của hành vi ứng xử này trong mô hình
kinh tế vĩ mô (Cogneau, Grimm và Robilliard, 2003). Nó dựa trên sự phát triển các mô
hình mô phỏng vi mô (kết hợp các mô hình EGC và các mô hình vi mô), dựa trên các dữ
li
ệu thu được từ các cuộc điều tra đốii với các hộ gia đình và tăng sức mạnh tính toán
của các công cụ tin học. Theo nghiên cứu của Winters, McCulloch và McKay (2004),
những mô phỏng cho giai đoạn tương lai (ex ante) thực hiện bằng các mô hình này cho
phép xác định được các nhóm hộ gia đình dễ bị tổn thương bởi loại tác động này.


Edited by Foxit Reader
Copyright(C) by Foxit Software Company,2005-2007
For Evaluation Only.


33/82
Những mô phỏng về tác động của việc tự do hóa thương mại đối với vấn đề phân phối
thu nhập thực hiện dựa trên các mô hình cân bằng tổng thể EGC mang lại những kết
quả tương đối trái ngược nhau. Theo Mabugu và Chitiga (2007), đối với trường hợp của
Nam Phi, tự do hóa thương mại có tác động tiêu cực đối với người nghèo về ngắn hạn,
nhưng lại có tác động tích cực v
ề dài hạn. Nghiên cứu của Annabi (2005) cũng có kết
luận tương tự đối với trường hợp của Xênêgan. Các tác giả Bannister và Thugge (2001)
có dẫn chứng các công trình nghiên cứu (Nam Phi, Inđônêxia) đánh giá rằng tự do hóa
thương mại có tác động tiêu cực đối với nhóm các hộ gia đình nghèo nhất. Robilliard và
Robinson (2005) mô phỏng tác động của các kịch bản tự do hóa thương mại khác nhau
dựa trên mô hình mô phỏng vi mô và đều cho kết quả là giảm nghèo đói nhưng không
có thay đổ
i về mức độ bất bình đẳng về thu nhập.

Quan sát tình hình của các nước đang phát triển cho thấy, mặc dù có mở cửa kinh tế,
nhưng mức độ bất bình đẳng (đặc biệt là tiền lương) có xu hướng tăng lên (Ngân hàng
thế giới, 2000 ; Goldberg và Pavcnik, 2007), đặc biệt là trường hợp của các nước Mỹ
Latinh, Trung Quốc và Việt Nam; và tác động của tự do hóa thương mại đối với nghèo
đói có vẻ như không
đáng kể (Wade, 2004). Những nhận xét này mâu thuẫn với các nội
dung của lý thuyết kinh tế chuẩn và với các kết quả nghiên cứu sử dụng mô hình cân
bằng tổng thể EGC (cũng thường dựa trên lý thuyết này).


Từ đầu những năm 2000, nhiều nhà kinh tế tìm cách lý giải sự trái ngược này bằng
cách đưa ra các luận điểm gắn với mức độ dồi dào của các yếu tố sản xuất t
ại các
nước, phương thức vận hành của các thị trường, và các luận điểm này có thể không
hoàn toàn phù hợp với các giả thiết của lý thuyết kinh tế chuẩn.

Các mô hình sử dụng các yếu tố đặc thù cho rằng một số yếu tố chỉ được sử dụng trong
một ngành cụ thể, ví dụ yếu tố lao động có tay nghề chỉ được sử dụng trong ngành
hàng không, mà không có khả năng di chuy
ển đến các ngành khác (Jones, 1971). Trong
một mô hình như vậy, sự thay đổi mức giá sẽ có tác động rõ ràng đối với mức thu nhập
mang lại từ các yếu tố đặc thù (độc lập với cường độ vốn hóa). Thương mại quốc tế có
lợi cho yếu tố sản xuất đặc thù trong lĩnh vực xuất khẩu của mỗi nước; nó làm suy giảm
vị thế của yếu tố sả
n xuất đặc thù trong lĩnh vực nhập khẩu cạnh tranh ; nhưng tác động
cuối cùng đối với yếu tố động (ví dụ lao động) lại không xác định được: mức thu nhập
tương đối do lao động phổ thông mang lại trong các nước đang phát triển có thể giảm đi
sau khi mở cửa kinh tế.

Trong các nước có nguồn lao động phổ thông tương đối dồi dào, tự do hóa thương mại
có xu hướ
ng làm giảm nghèo đói thông qua tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm mà
việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều lao động. Trái lại, đối với những nước có lợi thế so
sánh chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào (trường hợp của các nước
Mỹ La tinh và châu Phi), tự do hóa thương mại sẽ có tác động kích thích các ngành sử
dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên thay vì các ngành sử dụng nhiều lao động (Wood,
1997).

Nếu theo gi
ả thiết trình độ của người lao động lành nghề trong các nước đang phát triển

chỉ tương đương với trình độ của người lao động kém lành nghề trong các nước công
nghiệp phát triển, thì những người lao động thuộc diện này trong các nước đang phát
triển sẽ là những người được hưởng lợi từ sự gia tăng trao đổi (Freeman, 2003).



34/82
Dù sao chăng nữa, với những tác động tiêu cực đã từng nhận thấy trong quá khứ tại
các nước đang phát triển, rất cần thiết phải đánh giá tác động tiềm tàng của việc Việt
Nam gia nhập WTO, nhằm ngay từ bây giờ nghiên cứu đưa ra những chính sách điều
chỉnh phù hợp.

3.2. Tác động của việc gia nhập WTO : Trường hợp của Việt Nam

Việt Nam là nước mới nổi đầu tiên gia nhập WTO sau khi Trung Quốc gia nhập tổ chức
này vào năm 2001, biết rằng quá trình đàm phán kéo dài gần 12 năm với điểm khởi đầu
là năm 1995. Do đó, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh
giá tác động của sự kiện này, xét cả trên bình diện kinh tế vĩ mô và tác động đối với vấn
đề phân phối thu nhập. Trong phần này, chúng tôi gi
ới thiệu tóm tắt kết quả của các
công trình nghiên cứu này, rút ra những kết luận chính và những khiếm khuyết của các
mô hình được sử dụng
13
.

Như đã nêu trong phần đầu của nghiên cứu này, mô hình tăng trưởng của nền kinh tế
Việt Nam, với nhiều điểm tương đồng với nền kinh tế Trung Quốc nhưng có quy mô nhỏ
hơn, thể hiện hai đặc điểm chính kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới vào
năm 1986 và gia nhập WTO đầu năm 2007 :


- Tốc độ tăng trưởng kinh tế rấ
t nhanh (gần 8%/năm trong 2 thập kỷ vừa qua) kèm
theo mức độ mở cửa kinh tế cũng rất nhanh (gần +20%/năm đối với xuất khẩu
trong cùng thời kỳ, và một tỷ lệ tăng trưởng tương ứng đối với nhập khẩu) ;

- Quá trình giảm nghèo về tiền tệ cũng rất nhanh (từ 58% dân số năm 1993 xuống
24% năm 2004) song song với tình trạng gia tăng bất bình đẳng ; giố
ng như
Trung Quốc, vấn đề phân phối các thành quả của sự tăng trưởng và mở cửa
kinh tế là vấn đề mấu chốt nhằm đảm bảo sự gắn kết xã hội và ổn định chính trị
của đất nước.

Trong bối cảnh này, việc nghiên cứu tác động của WTO đối với tăng trưởng kinh tế (liệu
sẽ có gia tăng thu nhập hay tăng trưởng bổ
sung kể từ thời điểm năm 2007 ?), đối với
tình trạng bất bình đẳng và nghèo đói có một tầm quan trọng đặc biệt.


Tác động đối với tăng trưởng


Có nhiều công trình nghiên cứu đã đánh giá tác động của việc gia nhập WTO đối với
nền kinh tế Việt Nam dựa trên các mô hình cân đối chung EGC. Các nghiên cứu này
được thực hiện trước khi Việt Nam gia nhập WTO, và như vậy đã tiến hành các mô
phỏng ex ante (xem phần định nghĩa phía trên).


Các mô hình được sử dụng có nhiều đặc điểm chung: phần lớn đều dựa trên các giả
thiết cạnh tranh hoàn hảo (trừ
Vanzetti và Hương, 2006, có tính đến yếu tố thất

nghiệp) ; không có nghiên cứu nào tính đến yếu tố năng suất tăng dần ; mặc dù có các

13
Phần này trình bày lại nội dung những bình luận rút ra từ các nghiên cứu của Abbott (2007).
Edited by Foxit Reader
Copyright(C) by Foxit Software Company,2005-2007
For Evaluation Only.

×