Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.16 KB, 4 trang )
Rễ cỏ tranh chữa bệnh
đường tiết niệu
Rễ cỏ tranh, tên khác là bạch mao căn, nhả cà, lạc cà. Tên
khoa học: Imperata cylindrica (L.) Beauv. họ lúa (Poaceae).
Cỏ tranh là loại cỏ sống lâu năm, mọc rất nhiều ở nước ta.
Bộ phận dùng làm thuốc là thân rễ (bạch mao căn) và hoa.
Trong thân rễ có đường, arundoin, cylindrin, ferneol,
simiarenol…
Theo Đông y, bạch mao căn vị ngọt, tính hàn, vào 2 kinh
phế và vị; tác dụng thông tiểu tiện, lương huyết, chỉ huyết,
thanh nhiệt giải độc. Hoa có vị ngọt tính ôn, vào 3 kinh
tâm, tỳ, vị; có tác dụng thanh nhiệt lương huyết và cầm
máu (thổ huyết, chảy máu cam, tiểu tiện ra máu). Bạch mao
căn chữa bệnh phiền khát, tiểu tiện khó khăn, đái ít, đái
buốt, đái ra máu, viêm phù thận cấp, ho ra máu, chảy máu
cam, hen suyễn. Liều dùng: 12 - 63g. Nếu dùng tươi thì
nhiều hơn. Hoa cỏ tranh chữa ho ra máu, chảy máu cam,
nôn ra máu, vết thương chảy máu. Liều dùng 8 - 15g/ngày
Một số cách dùng cỏ tranh làm thuốc:
Thanh nhiệt giáng hỏa: Các chứng phiền khát do nhiệt ở
trong, hen do nhiệt ở phế, nôn mửa do nhiệt ở vị.
- Bạch mao căn sống 63g. Sắc uống lúc còn ấm. Trị hen do
phế nhiệt.
- Thang mao cát: bạch mao căn 12g, cát căn 12g. Sắc uống
lúc còn ấm. Trị chứng ợ nóng.
Lương huyết, cầm máu: các chứng nhiệt quá thịnh gây thổ
huyết, đổ máu cam.
- Nước tam tiên: bạch mao căn tươi 63g, tiểu kế tươi 20g,
ngẫu tiết tươi 63g. Sắc uống. Trị chứng hư lao trong đờm