Số hóa bởi trung tâm học liệu
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
TẠ MINH CHIẾN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
THÁI NGUYÊN, NĂM 2012
Số hóa bởi trung tâm học liệu
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
TẠ MINH CHIẾN
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
Mã số: 60.34.04.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
THÁI NGUYÊN, NĂM 2012
Số hóa bởi trung tâm học liệu
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tác giả. Các
số liệu và kết quả đưa ra trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa từng
được công bố tại bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Các số liệu và thông tin
trích dẫn trong quá trình nghiên cứu đều được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Số hóa bởi trung tâm học liệu
ii
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu
lý luận và tích lũy kinh nghiệm thực tế của tác giả. Những kiến thức quý báu
mà các thầy cô giáo đã truyền đạt trong quá trình học tập đã làm sáng tỏ ý
tưởng, tư duy của tác giả trong suốt thời gian hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm Phòng quản
lý Đào tạo sau đại học trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh Thái
Nguyên đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc đến PGS.TS
, Người thầy đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Lãnh đạo và các đồng
nghiệp Chi Cục Thống kê, phòng TC-KH, phòng kinh tế và văn phòng
HĐND- UBND Thành phố Việt Trì đã cung cấp cho tôi rất nhiều những tài
liệu, thông tin cần thiết, chính xác, khách quan để tôi có thể hoàn thiện luận
văn của mình hoàn chỉnh nhất.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến những người thân trong gia đình,
bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ và cung cấp cho tôi những kinh nghiệm quý
báu để tôi có thể hoàn thành luận văn trong thời gian quy định.
Thái Nguyên, tháng 12 năm 2012
Tác giả luận văn
Số hóa bởi trung tâm học liệu
iii
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt vi
Danh mục bảng biểu vii
PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 4
1.1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa và tính tất yếu nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa 4
1.1.1. Một số vấn đề về DNNVV 4
1.1.2 Tính tất yếu phải nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV 7
1.1.3. Những ưu điểm, hạn chế và các nhân tố ảnh hưởng tới DNNVV 14
1.2. Nội dung của tiến trình nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV
và các nhân tố vĩ mô ảnh hưởng đến tiến trình đó 17
1.2.1. Nội dung của tiến trình năng lực cạnh tranh của DNNVV 17
1.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV 19
27
27
33
1.3.3. Kinh nghiệm phát triển DNNVV ở một số nước. 34
1.3.4. Một số bài họ
35
Chƣơng 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 38
2.1. Câu hỏi nghiên cứu 38
Số hóa bởi trung tâm học liệu
iv
2.2. Phương pháp nghiên cứu 38
2.2.1. Phương pháp duy vật biện chứng lịch sử 38
38
39
2.2.4. Sử dụng dữ liệu và phương pháp thu thập dữ liệu 40
2.3. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 40
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRAN
46
3.1. 46
3.1.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã h
ảnh hưởng đến phát triển DNNVV 46
52
3.2. Hiện trạng năng lực cạnh tranh của DNNVV trên địa bàn tỉnh 57
3.2.1. Về chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển của DNNVV 57
3.2.2. Về áp dụng khoa học công nghệ mới đối với DNNVV 58
3.2.3. Về chất lượng nguồn nhân lực và tổ chức sản xuất kinh doanh
trong DNNVV 59
3.2.4. Về thị trường của DNNVV 61
. 63
65
3.3.1. Những thành tựu 65
3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 66
Chƣơng 4.
69
4.1. Những căn cứ đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực
69
Số hóa bởi trung tâm học liệu
v
4.1.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế 69
- 73
4.1.3
76
79
4.2.1. Nhóm giải pháp liên quan tới doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp 79
4.2.2. Nhóm giải pháp liên quan đến tỉnh Phú Thọ 81
4.2.3 Nhóm giải pháp liên quan tới Nhà nước 85
4.3.
năm 2020” 90
KẾT LUẬN 99
101
Số hóa bởi trung tâm học liệu
vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DNNVV
: Doanh nghiệp nhỏ và vừa
DN
: Doanh nghiệp
SXKD
: Sản xuất kinh doanh
NQD
: Ngoài quốc doanh
XNK
: Xuất nhập khẩu
UBND
: Ủy ban nhân dân
CCN
: Cụm công nghiệp
KCN
: Khu công nghiệp
TTCN
: Trung tâm công nghiệp
KTXH
: Kinh tế xã hội
TW
: Trung ương
NV
: Nguồn vốn
VSCH
: Vốn chủ sở hữu
TV
: Tổng vốn
LN
: Lợi nhuận
LNST
: Lợi nhuận sau thuế
DT
: Doanh thu
CP
: Chi phí
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
DNNN
: Doanh nghiệp nhà nước
CTCP
: Công ty Cổ phần
CTTN
: Công ty tư nhân
KH&CN
: Khoa học và công nghệ
CNH
: Công nghiệp hóa
HĐH
: Hiện đại hóa
Số hóa bởi trung tâm học liệu
vii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 3.1 Số lượng và quy mô DNNVV Phú Thọ 53
Bảng 3.2 Một số chỉ tiêu kết quả kinh doanh của DNNVV Phú Thọ 56
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế quốc dân, Doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò hết
sức quan trọng và ngày càng thu hút sự quan tâm của xã hội. Các DNNVV -
đầu mối quan trọng của các kênh tiêu dùng và đầu tư - là nơi tạo ra nhiều công
ăn việc làm, góp phần giải quyết tốt nhiều vấn đề kinh tế xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, sự phát triển của khu vực này vẫn chưa tương xứng với khả
năng hiện có, mặc dù đã đạt nhiều kết quả đáng khích lệ. Đứng trước thời cơ
và thách thức mới, các DNNVV cần nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị
trường nội địa và thị trường quốc tế, cần có chiến lược để tự khẳng định vị thế
của chính mình.
Năng lực cạnh canh của DN đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển
của DNNVV trên thương trường. Việc nghiên cứu nâng cao năng lực cạnh
tranh của các DNNVV cho chúng ta biết được những tiềm năng, thế mạnh
chủ quan, cũng như những tiền đề, thuận lợi để biến những tiềm năng thành
hiện thực, giúp DNNVV xác định đúng vị trí, chức năng, vai trò, nhiệm vụ
của mình trong giai đoạn hiện nay.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV vừa mang tính lý luận, vừa
đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra trong quá trình phát triển
.
Phú Thọ là một tỉnh nằm ở phía Bắc nước ta, với những đặc trưng về
kinh tế, địa lý, văn hóa vùng miền và hơn hết là mảnh đất có mối liên hệ khá
mật thiết đối với tôi. Xuất phát phát từ những kiến thức lý luận có được cũng
như thực tế, tôi mong muốn có thể góp phần nhỏ nào đó vào quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Với cách đặt vấn đề như trên, tác giả lựa chọn đề tài "Nâng cao năng
lực cạnh tranh của Doanh nghiệp "
làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế của mình.
Số hóa bởi trung tâm học liệu
2
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là: tìm kiến giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNNVV trên .
Để thực hiện mục tiêu đó, luận văn đặt ra các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Khái quát hóa những vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh của
DNNVV.
- Vận dụng lý luận đó vào phân tích đánh giá thực trạng năng lực cạnh
tranh của các DNNV .
-
.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tƣợng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về năng
l
.
- Về phạm vi nghiên cứu:
.
Thứ nhất, từ góc độ các DNN
.
lực
, bao
gồm các: Công ty cổ phần, TNHH, DN tư nhân, các DN nhỏ sở hữu vốn từ
khu vực Nhà nước. Không nghiên cứu các DN lớn thuộc sở hữu Nhà nước,
các hợp tác xã và các hộ kinh doanh cá thể.
Thời gian nghiên cứu: 2005- 2020.
4. Đóng góp của Luận văn
Luận văn là một công trình nghiên cứu và trình bày một cách tương đối
có hệ thống về cơ sở lý luận, thực tiễn về năng lực
Số hóa bởi trung tâm học liệu
3
.
5. Kết cấu của Luận văn
Kết cấu của luận văn gồm 4 chương:
- Chương 1:
cạnh tranh của DN nhỏ và vừa.
- Chương 2: .
- Chương 3
.
- Chương 4: Phương hướng và giải pháp nâng c
.
Số hóa bởi trung tâm học liệu
4
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa và tính tất yếu nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.1.1. Một số vấn đề về DNNVV
1.1.1.1. Quan niệm về DNNVV
Trên thế giới, định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ được hiểu và quy
định khác nhau tuỳ theo từng nơi. Các tiêu chí để phân loại doanh nghiệp có
hai nhóm: tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Nhóm tiêu chí định tính
dựa trên những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp như chuyên môn hoá thấp,
số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp Các tiêu chí này có
ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên
thực tế. Do đó chúng thường được dùng làm cơ sở để tham khảo trong, kiểm
chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong thực tế. Nhóm tiêu chí định
lượng có thể dựa vào các tiêu chí như số lao động, giá trị tài sản hay vốn,
doanh thu, lợi nhuận. Trong đó: Số lao động: có thể là lao động trung bình
trong danh sách, lao động thường xuyên, lao động thực tế. Tài sản hay vốn: có
thể là tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản (vốn) cố định, giá trị tài sản còn lại.
Doanh thu: có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng/năm. Cũng còn
một số chỉ tiêu khác tùy thuốc vào điều kiện từng nước. Tuy nhiên sự phân
loại theo quy mô lại thường chỉ mang tính tương đối và phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như:
Trình độ phát triển kinh tế của một nước: trình độ phát triển càng cao
thì trị số các chỉ tiêu càng tăng lên Ở một số nước có trình độ phát triển kinh
tế thấp thì các chỉ số về lao động, vốn để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ
sẽ thấp hơn so với các nước phát triển.
Số hóa bởi trung tâm học liệu
5
Tính chất ngành nghề: do đặc điểm của từng ngành, có ngành sử dụng
nhiều lao động như dệt, may, có ngành sử dụng ít lao động nhưng nhiều vốn
như hoá chất, điện Do đó cần tính đến tính chất này để có sự so sánh đối
chứng trong phân loại các DNNVV giữa các ngành với nhau. Trong thực tế, ở
nhiều nước, người ta thường phân chia thành hai đến ba nhóm ngành với các
tiêu chí phân loại khác nhau. Vùng lãnh thổ: do trình độ phát triển khác nhau
nên số lượng và quy mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Do đó cần tính đến cả
hệ số vùng để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh quy mô doanh
nghiệp giữa các vùng khác nhau.)
Khi nói đến doanh nghiệp DNNVV là nói đến cách phân loại doanh
nghiệp dựa trên quy mô của doanh nghiệp. Việc phân loại DNNVV phụ thuộc
vào các tiêu thức sử dụng quy định giới hạn các tiêu thức phân loại quy mô
doanh nghiệp. Cho đến nay, trên thế giới chưa có định nghĩa thống nhất về
DNNVV, cũng như nhận thức chung một cách có hệ thống về vai trò, vị trí và
cơ chế quản lý DNNVV, bởi mỗi quốc gia quy mô nền kinh tế rất khác nhau,
trình độ phát triển kinh tế ở mỗi thời kỳ khác nhau. Mỗi quốc gia căn cứ vào
điều kiện cụ thể của mình trong từng giai đoạn phát triển cụ thể để xác định
các cơ chế, chính sách. Tuy nhiên, qua nghiên cứu phân loại ở các nước có
thể nhận thấy một số tiêu thức chung, phổ biến nhất thường được sử dụng trên
thế giới để xác định DNNVV (số lao động, vốn sản xuất, doanh thu, lợi
nhuận, giá trị gia tăng).
Ở Việt Nam, trước đây theo Công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998
của Chính phủ quy định tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt
Nam là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động
trung bình hàng năm dưới 200 người.
Hiện nay, theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của
Chính phủ, tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa được quy định "doanh
nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh
doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc
số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người".
Số hóa bởi trung tâm học liệu
6
Theo nghị định 56-2009 CP định nghĩa cụ thể về doanh nghiệp nhỏ và
vừa phân theo từng khu vực ngành nghề. Cụ thể, doanh nghiệp nhỏ và vừa là
cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia
thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn
vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của
doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu
tiên), cụ thể như sau:
Quy mô
Khu vực
Doanh
nghiệp
siêu nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp vừa
Số lao
động
Tổng
nguồn
vốn
Số lao
động
Tổng
nguồn vốn
Số lao
động
I. Nông, lâm nghiệp
và thủy sản
10 người
trở xuống
20 tỷ
đồng trở
xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20
tỷ đồng đến
100 tỷ đồng
từ trên 200
người đến
300 người
II. Công nghiệp và
xây dựng
10 người
trở xuống
20 tỷ
đồng trở
xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20
tỷ đồng đến
100 tỷ đồng
từ trên 200
người đến
300 người
III. Thương mại và
dịch vụ
10 người
trở xuống
10 tỷ
đồng trở
xuống
từ trên 10
người đến
50 người
từ trên 10
tỷ đồng đến
50 tỷ đồng
từ trên 50
người đến
100 người
Để thuận tiện trong quá trình nghiên cứu và cập nhập mới nhất văn bản
của pháp luật, luận văn sử dụng tiêu chí DNNVV theo định nghĩa của Nghị
định 56-2009 CP như đã nêu ở trên.
1.1.1.2. Đặc điểm của DNNVV
- Kinh tế tư nhân tuy rộng lớn nhưng về cơ bản là kinh tế hộ quy mô
nhỏ và phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
- Trình độ công nghệ, kỹ thuật lạc hậu so với mức trung bình của thế
giới, hơn nữa tốc độ đổi mới lại quá chậm. Hạn chế về năng lực cán bộ và
công tác nghiên cứu trong doanh nghiệp, nghiên cứu để ứng dụng trong sản
xuất – kinh doanh.
Số hóa bởi trung tâm học liệu
7
- Trình độ quản lý và tay nghề của người lao động còn hạn chế. Tuy
Việt Nam có lượng lao động dồi dào, trình độ học vấn tương đối cao so với
các nước có cùng trình độ phát triển, nhưng chủ yếu là lao động làm việc
giản đơn, tỷ lệ lao động đã đào tạo nghề thấp, sức khỏe hạn chế, năng suất lao
động không cao
- Sức cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ thấp:
+ Sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ: Yếu tố tư bản cấu thành trong
sản phẩm thấp, hàm lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm không cao, tính
độc đáo không cao, giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản phẩm nói chung thấp;
+ Khả năng hạn chế về vốn, khả năng tiếp cận nguồn thông tin của
các DNVVN, sự bảo hộ của Nhà nước đối với khu vực doanh nghiệp nhà
nước đã hạn chế năng lực cạnh tranh của các DNVVN.
- Quản trị nội bộ của DNVVN còn yếu, nhất là quản lý tài chính; ý thức
chấp hành các chế độ chính sách chưa cao; còn lúng túng trong việc liên kết,
nhất là liên kết trong cùng một hội ngành nghề.
1.1.2 Tính tất yếu phải nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV
1.1.2.1. Quan niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của DNNVV
Mỗi doanh nghiệp khi hình thành và phát triển đều đặt trong mối quan
hệ tương quan đối với các doanh nghiệp khác và trong cả nền kinh tế. Khi
nền kinh tế ngày càng phát triển, thì đứng yên đã là một sự tụt hậu lớn. Vì thế
đặt ra sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nói chung và năng lực cạnh
tranh của DNNVV đối với các doanh nghiệp còn lại trong nền kinh tế.
Xu thế cạnh tranh là một xu thế tất yếu của nền kinh tế, đặc biệt là nền
kinh tế thị trường như Việt Nam hiện nay.
Vậy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là gì?
Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đến nay vẫn chưa
được hiểu một cách thống nhất. Dưới đây là một số cách tiếp cận cụ thể về
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đáng chú ý.
Số hóa bởi trung tâm học liệu
8
Một là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và
mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là cách quan niệm khá
phổ biến hiện nay, theo đó năng lực cạnh tranh là khả năng tiêu thụ hàng hóa,
dịch vụ so với đối thủ và khả năng “thu lợi” của các doanh nghiệp. Cách quan
niệm như vậy tương đồng với cách tiếp cận thương mại truyền thống đã nêu
trên. Hạn chế trong cách quan niệm này là chưa bao hàm các phương thức,
chưa phản ánh một cách bao quát năng lực kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng chống chịu
trước sự tấn công của doanh nghiệp khác. Chẳng hạn, Hội đồng Chính sách
năng lực của Mỹ đưa ra định nghĩa: năng lực cạnh tranh là năng lực kinh tế về
hàng hóa và dịch vụ trên thị trường thế giới. Ủy ban Quốc gia về Hợp tác
Kinh tế Quốc tế (CIEM) cho rằng: năng lực cạnh tranh là năng lực của một
doanh nghiệp “không bị doanh nghiệp khác đánh bại về năng lực kinh tế”.
Quan niệm về năng lực cạnh tranh như vậy mang tính chất định tính, không
có thể định lượng.
Ba là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với năng suất lao động. Theo Tổ
chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố
sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp phát triển bền vững trong điều
kiện cạnh tranh quốc tế. Như vậy, năng suất lao động là thức đo duy nhất về
năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, các quan niệm này chưa gắn với việc thực
hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Bốn là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với duy trì và nâng cao lợi thế
cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo dựng, duy
trì, sử dụng và sáng tạo mới các lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo ra lợi thế cạnh tranh, có khả
năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị
phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững.
Số hóa bởi trung tâm học liệu
9
Ngoài ra, không ít ý kiến đồng nhất năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp với năng lực kinh doanh. Như vậy, cho đến nay quan niệm về năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp vẫn chưa được hiểu thống nhất. Để có thể đưa ra
quan niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phù hợp, cần lưu ý thêm
một số vấn đề sau đây.
Một là, quan niệm năng lực cạnh tranh cần phù hợp với điều kiện, bối
cảnh và trình độ phát triển trong từng thời kỳ. Chẳng hạn, trong nền kinh tế
thị trường tự do trước đây, cạnh tranh chủ yếu trong lĩnh vực bán hàng và
năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với việc bán được nhiều hàng hóa hơn đối thủ
cạnh tranh; trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh trên cơ
sở tối đa háo số lượng hàng hóa nên năng lực cạnh tranh thể hiện ở thị phần;
còn trong điều kiện kinh tế tri thức hiện nay, cạnh tranh đồng nghĩa với mở
rộng “không gian sinh tồn”, doanh nghiệp phải cạnh tranh không gian, cạnh
tranh thị trường, cạnh tranh tư bản và do vậy quan niệm về năng lực cạnh
tranh cũng phải phù hợp với điều kiện mới.
Hai là, năng lực cạnh tranh cần thể hiện khả năng tranh đua, tranh giành
của các doanh nghiệp không chỉ về năng lực thu hút và sử dụng các yếu tố sản
xuất, khả năng tiêu thụ hàng hóa mà cả khả năng mở rộng không gian sinh
phát triển của sản phẩm, khả năng sáng tạo sản phẩm mới.
Ba là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần thể hiện được phương
thức cạnh tranh phù hợp, bao gồm cả những phương thức truyền thống và cả
những phương thức hiện đại, không chỉ dựa trên lợi thế so sánh mà còn dựa
vào lợi thế cạnh tranh.
Từ những yêu cầu trên, có thể đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp như sau: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy
trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng
lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi
ích kinh tế cao và đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững.
Số hóa bởi trung tâm học liệu
10
1.1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV
Vai trò của DNNVV:
- Là khu vực thu hút tích cực và có khả năng huy động các nguồn vốn,
nguồn lực của xã hội cho đầu tư và phát triển.
- Đóng góp vào việc tăng trưởng kinh tế và tăng giá trị xuất khẩu của
cả nước.
- Góp phần đáp ứng yêu cầu về hàng tiêu dùng cho xã hội, sản xuất các
sản phẩm công nghiệp, thủ công mỹ nghệ và duy trì, phát huy ngành nghề
truyền thống.
- Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, thực hiện Chiến lược
xóa đói giảm nghèo.
- Góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Là bộ phận cần thiết trong quá trình liên kết sản xuất của doanh
nghiệp lớn, tập đoàn lớn.
- Góp phần đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân - nguồn nhân lực quan trọng
cho phát triển kinh tế-xã hội.
- Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: các doanh nghiệp nhỏ và vừa
thường chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp (Ở
Việt Nam chỉ xét các doanh nghiệp có đăng ký thì tỷ lệ này là trên 95%). Vì
thế, đóng góp của họ vào tổng sản lượng và tạo việc làm là rất đáng kể.
- Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế, các doanh
nghiệp nhỏ và vừa là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều
chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn
định. Vì thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa được ví là thanh giảm sốc cho nền kinh tế.
- Làm cho nền kinh tế năng động: vì doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy
mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động.
- Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: doanh
nghiệp nhỏ và vừa thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được
dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh.
Số hóa bởi trung tâm học liệu
11
- Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường
đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì doanh nghiệp nhỏ và
vừa lại có mặt ở khắp các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào
thu ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.
Tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam:
Ở Việt Nam, cũng như ở nhiều nước khác trên toàn thế giới, các
DNVVN hoạt động trong môi trường chính sách và pháp lý thích hợp sẽ đóng
một vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. DNVVN có tầm quan trọng như sau:
Có thể tạo ra công ăn, việc làm cho số lượng lớn người lao động. Ở
những nước khác, là một trong những nguồn tạo ra nhiều việc làm nhất và
năng động nhất. Rõ ràng đây là một nhân tố quan trọng đối với người chưa có
việc làm ở các khu đô thị hoặc những người sống ở các vùng nông thôn đang
tìm kiếm việc làm. Các cơ hội tăng thêm việc làm sẽ mang lại lợi ích cho tất
cả mọi người, kể cả những người đang thất nghiệp, phụ nữ và những người
tàn tật.
Có thể phát triển và sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính được huy
động trong nước và các nguồn nguyên liệu, vật liệu hoặc các sản phẩm trung
gian có sẵn trong nước.
Có thể đóng góp vào nỗ lực phân bổ các ngành công nghiệp đến nhiều
vùng dân cư khác nhau, nhờ đó giảm bớt được khoảng cách phát triển giữa
các khu vực khác nhau và tạo ra được sự phát triển cân đối giữa các vùng
khác nhau trên toàn quốc.
Có thể bổ trợ cho các ngành công nghiệp lớn, cung cấp đầu vào cho các
ngành này và tạo sự cạnh tranh cần thiết để đẩy mạnh quá trình phát triển và
nâng cao tính cạnh tranh trên toàn quốc.
Có thể đóng góp đáng kể vào việc duy trì và phát triển các ngành
nghềthủ công truyền thống nhằm sản xuất các loại hàng hoá mang bản sắc văn
Số hóa bởi trung tâm học liệu
12
hoá dân tộc. Hiện nay, các DNVVN ở Việt Nam chưa thực sự phát triển đúng
với tiềm năng vốn có của nó. Lý do có thể là những khó khăn trong việc tiến
hành cáchoạt động kinh doanh, là sự thiếu vắng một khung pháp lý hoàn
chỉnh và rõ ràng cho tất cả các doanh nghiệp trong đó có các DNVVN, và là
thiếu vắng các biện pháp thích hợp để kích thích và hỗ trợ DNNVV.
Có thể nói, cho đến những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, không
có quốc gia nào không thấy được vai trò, vị trí của DNNVV trong phát triển
kinh tế xã hội của quốc gia mình. Trên bình diện quốc tế, hàng loạt tổ chức
Chính phủ và phi Chính phủ đã và đang chọn vấn đề thúc đẩy phát triển
DNNVV như là một trong các trọng tâm nghị sự hợp tác. Tuyên bố Hà Nội
2006 của diễn đàn các nền kinh tế thành viên APEC cấp Bộ trưởng và cấp
lãnh đạo các nền kinh tế cũng đã nhấn mạnh vai trò của DNNVV trong nhiều
lĩnh vực và bình diện của sự phát triển. Sở dĩ DNNVV được nhấn mạnh như
là một động lực của tăng trưởng, bởi trước hết đây là lực lượng kinh doanh
đông đảo nhất trong nền kinh tế. Ở các nước châu Âu, DNNVV chiếm tới
99,8% tổng số công ty, 66% tổng lao động xã hội và 65% tổng doanh thu
trong nền kinh tế. Ở các nền kinh tế APEC, DNNVV chiếm 95% tổng số
doanh nghiệp, đóng góp tới 35% tổng doanh số xuất khẩu (vào khoảng 12%
của APEC GDP), thu hút chừng 80% tổng số lao động xã hội
Vai trò của khu vực DNNVV đối với phát triển KT-XH được thể hiện ở
các mặt sau:
Một là, DNNVV là nơi thu hút và huy động các nguồn lực xã hội quan
trọng cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, thông thường khu vực này huy
động khoảng 8-12%GDP cho đầu tư phát triển, chiếm tỷ trọng 25-30% đầu tư
toàn xã hội. Ở nước ta năm 2011, khu vực này đã huy động nguồn vốn cho
đầu tư phát triển khoảng gần 100.000 tỷ đồng, chiếm 9% GDP; số vốn đầu tư
này chiếm khoảng gần 30% tổng đầu tư toàn xã hội (nguồn: Báo cáo số liệu
thống kê kinh tế – xã hội Việt nam 2006).
Số hóa bởi trung tâm học liệu
13
Hai là, góp phần quan trọng tạo ra tăng trưởng kinh tế và tăng giá trị
xuất khẩu của cả nền kinh tế. Ở các nước trong khu vực ASEAN 2004, khu
vực kinh tế này đã góp phần tạo ra 38-42% của tốc độ tăng trưởng kinh tế
chung của đất nước và đóng góp khoảng 30-40% kim ngạch xuất khẩu (theo
tài liệu của Ngân hàng thế giới năm 2005).
Ở nước ta năm 2006, khu vực DNNVV đã thực sự là khu vực kinh tế
phát triển năng động nhất, giá trị sản xuất công nghiệp khu vực này tăng
23,6% (cao hơn bình quân toàn nền kinh tế là 15,9%); đóng góp 46% trong
tổng số kim ngạch xuất khẩu, bước đầu trở thành một động lực phát triển
quan trọng của nền kinh tế.
Ba là, đáp ứng các nhu cầu hàng tiêu dùng cho xã hội, sản xuất các sản
phẩm công nghiệp, thủ công, mỹ nghệ và đầu tư phát triển các ngành nghề
truyền thống. Đây là một thế mạnh hiện tại và trong cả tương lai dài. Để đảm
bảo quan hệ cung cầu hàng hoá trong xã hội, trên cơ sở lợi thế về việc nắm rõ
những nhu cầu của thị trường trong nước, lợi thế về sản xuất và tiêu thụ tại
chỗ. Đối với những ngành nghề thủ công mỹ nghệ, ngành nghề truyền thống
thì thực tế cho thấy rằng chỉ những DNNVV là có thế mạnh bởi bí quyết công
nghệ, quy trình sản xuất, nhu cầu sản phẩm có tính chất đơn chiếc…
Bốn là, trên thế giới và thực tế ở Việt nam đã khẳng định DNNVV là
cơ sở thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, nhất là thực tế nước ta hiện nay với số lao động nông nghiệp chiếm
57%, gần 70% dân số sống trong khu vực nông nghiệp nông thôn, mà khu
vực này chỉ chiếm 20,5% GDP. Do vậy chuyển dịch nền kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một nhu cầu khách quan, bức thiết. Kinh
nghiệm tất cả các nước và 20 năm qua ở Việt nam cho thấy chỉ có thể thông
qua phát triển DNNVV với lợi thế vốn có của nó để đảm đương có hiệu quả,
nhanh chóng nhiệm vụ này.
Năm là, DNNVV làm đối tác liên kết làm tăng sức mạnh của các doanh
nghiệp lớn. Doanh nghiệp lớn có thế mạnh về vốn, công nghệ, quy mô sản
Số hóa bởi trung tâm học liệu
14
xuất kinh doanh, khả năng đáp ứng công nghệ, chương trình lớn về tiếp thị,
phát triển thị trường,… Nhưng phân công lao động xã hội chỉ có doanh
nghiệp lớn sẽ không hiệu quả, không phát huy được lợi thế trong liên kết kinh
tế để tạo ra sức mạnh cạnh tranh của cả nền kinh tế. Đối với nhiều lĩnh vực,
mặt hàng, doanh nghiệp lớn cần liên kết với DNNVV trên cơ sở phân công
lao động hợp lý, hiệu quả để cùng phát triển, nhất là những lĩnh vực như khâu
thu mua nguyên vật liệu cũng như phân phối sản phẩm cần trên diện rộng; các
ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động,…
Sáu là, trong nền kinh tế – xã hội những quốc gia nhất là những nước
có số dân số lớn, tốc độ phát triển dân số cao, nhiệm vụ tạo việc làm cho xã
hội trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng chiến lược của quốc gia,
khi đó DNNVV sẽ là khu vực đáp ứng nhiệm vụ này khá hiệu quả. Thực tế ở
nước ta, khu vực DNNN giai đoạn 2001-2011 vừa qua cơ bản không tạo được
thêm việc làm cho xã hội; khu vực nông nghiệp với diện tích đất canh tác có
xu hướng bị thu hẹp; khi đó nhiệm vụ quan trọng này của DNNVV đã thực
hiện khá tốt, hàng năm tạo trên 1 triệu việc làm cho xã hội.
Bảy là, khu vực DNNVV đã góp phần quan trọng đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực cho toàn xã hội, bởi nguồn nhân lực là cơ sở, là nhân tố quan
trọng cho sự phát triển, là nguồn tài nguyên vô tận của quốc gia; phát triển
đào tạo nguồn nhân lực vừa là điều kiện để DNNVV phát triển, vừa là nhiệm
vụ mà mọi doanh nghiệp đều quan tâm.
1.1.3. Những ƣu điểm, hạn chế và các nhân tố ảnh hƣởng tới DNNVV
1.1.3.1. Ưu điểm của DNNVV
DNNVV có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thoả mãn những nhu
cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hóa, khuynh hướng sử dụng
nhiều lao động với trình độ kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là sự linh hoạt,
nhanh chóng thích nghi với các nhu cầu và thay đổi của thị trường, tổ chức bộ
máy chỉ đạo gọn nhẹ, do đó có những ưu điểm sau:
Số hóa bởi trung tâm học liệu
15
DNNVV dễ dàng khởi sự và nhạy bén, năng động, linh hoạt trong kinh
doanh: DNNVV chỉ cần một số vốn hạn chế, một diện tích nhỏ là có thể khởi
sự SXKD. Do có quy mô vừa và nhỏ, mô hình tổ chức quản lý gọn nhẹ nên
các DNNVV khá năng động, linh hoạt, dễ chuyển đổi sang những lĩnh vực,
ngành nghề kinh doanh khác khi cần thiết. Việc chuyển địa điểm SXKD, cơ
sở vật chất cũng dễ dàng và ít tốn chi phí
DNNVV thu hút nhiều lao động, hoạt động có hiệu quả với chi phí ổn
định thấp: Các DNNVV có nguồn vốn ít, do đó vốn đầu tư vào tài sản cố định
cũng ít, họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn, đặc biệt là các nước có
lực lượng lao động lớn và giá nhân công thấp như nước ta, để tiến hành
SXKD. Do đó, sự phát triển của các DNNVV đã tạo ra nhiều việc làm cho
nền kinh tế - xã hội.
DNNVV nhanh chóng nắm bắt, đổi mới trang thiết bị công nghệ hiện
đại: Với việc cải tiến, áp dụng công nghệ cao trong sản xuất sẽ giảm thiểu
được chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm và sản xuất được những sản
phẩm có giá trị cao, tăng năng suất lao động do đó máy móc thiết bị luôn
cần được đổi mới. Vì vậy, với quy mô nhỏ và vừa, vốn đầu tư ban đầu không
lớn, các DNNVV có thể dễ dàng đổi mới thiết bị công nghệ hơn các doanh
nghiệp lớn, tốn ít chi phí hơn.
1.1.3.2 Hạn chế, khó khăn của DNNVV.
Bên cạnh những ưu điểm đã nêu trên, DNNVV cũng có những hạn chế
nhất định:
DNNVV có nguồn tài chính hạn chế: Để có thể SXKD, mua máy móc
thiết bị, thuê nhân công lao động, doanh nghiệp phải cần vốn, đặc biệt trong
nền kinh tế thị trường hiện nay, nguồn vốn lại càng có vai trò quan trọng
trong việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Quy mô của các
DNNVV thường nhỏ, nguồn vốn tự có thấp, khả năng tiếp cận vốn từ các tổ
chức tín dụng nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng khó khăn nên
Số hóa bởi trung tâm học liệu
16
nhiều DNNVV phải tìm các nguồn tài chính phi chính thức với lãi suất cao để
tài trợ cho hoạt động của mình.
DNNVV thường có thị trường hẹp và khả năng cạnh tranh thấp hơn:
Trong những năm gần đây, cùng với sự quản lý được đổi mới trong cơ chế
chính sách và Luật về doanh nghiệp được ban hành nhiều. Tuy nhiên, do sự
manh mún về số lượng cũng như về chất lượng, sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa thấp hơn và thị trường nhỏ hẹp. Lý do là sự uy tín của các
doanh nghiệp, tâm lý của người tiêu dùng và trình độ quản lý của các chủ
doanh nghiệp.
DNNVV thường có trình độ quản lý hạn chế, nắm pháp luật chưa vững;
trình độ lao động hạn chế: Điều này càng thể hiện rõ nhất của Việt Nam hiện
nay (nhiều chủ doanh nghiệp chưa được đào tạo qua một trường lớp nào,
thiếu những kiến thức cơ bản, chưa hiểu biết pháp luật cặn kẽ, thiếu ý thức
tuân thủ pháp luật. Phần lớn các chủ doanh nghiệp quản lý dựa trên kinh
nghiệm. Nhiều chủ doanh nghiệp không lập được kế hoạch tài chính, không
xây dựng được phương án SXKD khả thi, dẫn tới thua lỗ và thất bại trên thị
trường). Các DNNVV khả năng phát triển khó, nhiều doanh nghiệp không
phát huy cũng như không tạo sự cạnh tranh lớn trên thị trường, điều hành
không những thiệt hại cho bản thân các doanh nghiệp mà còn gây nhiều lãng
phí cho nền kinh tế xã hội.
DNNVV thường có chiến lược sản xuất kinh doanh còn mang tính thời
vụ, chưa có hướng tới mục tiêu lâu dài: Phần lớn các DNNVV của Việt Nam
đều chiếm một thị phần nhỏ trên thị trường; do đó, các doanh nghiệp này
thường không chủ động trên thị trường. Các DNNVV thường chỉ đưa ra được
những kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh mang tính thời vụ đáp ứng nhu
cầu tức thì trên thị trường tại một thời điểm nào đó, chưa mang tính ổn định
và phát triển lâu dài. Nếu DN không đưa ra được một định hướng phát triển
lâu dài thì khi thị trường xảy ra những biến cố, doanh nghiệp rất khó khăn để
thích nghi với hoàn cảnh và có thể dẫn tới nguy cơ phá sản, đổ vỡ.