Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Các giải pháp cải thiện chỉ số chi phí gia nhập thị trường nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh khánh hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.41 KB, 113 trang )


i


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU i
CHƯƠNG 1: NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP TỈNH VÀ CHỈ SỐ CHI PHÍ
GIA NHẬP THỊ TRƯỜNG 6
1.1. Một số khái niệm: 6
1.1.1. Năng lực cạnh tranh: 6
1.1.2. Năng lực cạnh tranh quốc gia: 7
1.1.3. Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 8
1.1.4. Năng lực cạnh tranh ngành 11
1.1.5. Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp 11
1.1.6. Năng lực cạnh tranh sản phẩm 13
1.2. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 13
1.2.1. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 13
1.2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của PCI 14
1.2.1.2. Các chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. 16
1.2.1.3. Phương pháp xây dựng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 22
1.2.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 26
1.3. Chỉ số chi phí gia nhập thị trường trong đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 32
1.3.1. Khái niệm: 32
1.3.2. Vai trò của chỉ số chi phí gia nhập thị trường trong đánh giá năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh. 32
1.3.3. Chỉ tiêu và cách thức đo lường các chỉ tiêu 34
1.3.4. Kinh nghiệm của một số địa phương về cải thiện chỉ số chi phí gia nhập thị
trường nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 42
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 46
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHỈ SỐ CHI PHÍ GIA NHẬP THỊ TRƯỜNG


TỈNH KHÁNH HOÀ GIAI ĐOẠN 2005 – 2011 47

ii


2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Khánh Hoà. 47
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên: 47
2.1.1.1. Vị trí địa lý: 47
2.1.1.2 Điều kiện tự
nh
i
ê
n
47
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 48
2.1.2.1. Tốc độ tăng trưởng, cơ cấu kinh tế và khả năng thu hút đầu tư của tỉnh
Khánh Hoà 49
2.1.2.2. Tình hình lao động, việc làm và cơ cấu dân cư 51
2.2. Thực trạng xếp hạng chỉ số chi phí gia nhập thị trường của tỉnh Khánh Hoà giai
đoạn 2005 – 2011 54
2.2.1. Phân tích biến động của chỉ số PCI của tỉnh Khánh Hoà qua các năm từ 2005 –
2011 54
2.2.2. Phân tích biến động của chỉ số chi phí gia nhập thị trường 56
2.2.2.1. Phân tích chung qua các năm 56
2.2.2.2. So sánh với cả nước 60
2.2.2.3. So sánh với các tỉnh Duyên Hải miền Trung 62
2.2.2.4. So sánh với tỉnh có điều kiện tương đồng với Khánh Hoà là tỉnh Quảng
Ninh và tỉnh cạnh tranh Bình Định……… 69
2.3. Đánh giá chung. 84
2.3.1. Kết quả đạt được 84

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 85
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 88
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM CẢI THIỆN CHỈ SỐ CHI PHÍ GIA
NHẬP THỊ TRƯỜNG 89
3.1. Tổng hợp đánh giá về tình hình chỉ số chi phí gia nhập thị trường của tỉnh Khánh
Hoà… 89
3.2. Định hướng phát triển kinh tế xã hội của Khánh Hòa đến năm 2020 90
3.2.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế 90

iii


3.2.1.1. Tác động của bối cảnh quốc tế trong nước 90
3.2.1.2. Các yếu tố phát triển nội sinh 91
3.2.3. Quan điểm và mục tiêu phát triển của tỉnh Khánh Hòa 92
3.2.3.2.Mục tiêu phát triển kinh tế 93
3.3. Các giải pháp nhằm nâng cao chỉ số chi phí gia nhập thị trường của tỉnh Khánh
Hoà 94
3.3.1. Hoàn thiện hơn nữa cơ chế một cửa liên thông 95
3.3.2. Cải thiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin 97
3.3.3. Đào tạo nâng cao kiến thức chuyên môn; kỹ năng giao tiếp, đặc biệt là thái độ
ứng xử cho cán bộ công chức. Đặc biệt quan trọng nhất là nhân viên hướng dẫn thủ
tục cho DN (trực tiếp, qua điện thoại hay qua mạng…) 98
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 100
KẾT LUẬN 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO 103

















iv


DANH MỤC VIẾT TẮT
STT

Viết tắt Tiếng Việt Tiếng Anh
1 CCHCC Cải cách hành chính công
2 CCHC Cải cách hành chính

3 CIEM Viện Nghiên Cứu Quản Lý Trung Ương

4 CN Chứng nhận

5 CP Chi phí
6 ĐKKD Đăng kí kinh doanh
7 DN Doanh nghiệp
8 DNNN Doanh nghiệp Nhà nước

9 GDP Tổng sản phẩm quốc nội
10 IMD Viện Quốc tế về quản lý và phát triển
11 KD Kinh doanh

12 NLCT Năng lực cạnh tranh quốc gia
13
PCI
Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
Provincial Competitiveness
Index
14 TB Trung bình

15 THCS Trung học Cơ sở
16 TNHH Trách nhiệm hữu hạn
17 TW Trung Ương
18 USAID Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ
19 USD Đô la Mỹ
20 VAT Thuế giá trị gia tăng

21
VCCI
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam
Vietnam Champer of
Commerce and Industry
22
VNCI
Dự án nâng cao năng lực cạnh tranh Việt
Nam
Vietnam Competitiveness

Initiative
23 WEF Diễn đàn kinh tế thế giới
World economic Forum
24 WTO Tổ chức thương mại Thế giới World trade organization








v


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Trọng số của các chỉ số thành phần 27
Bảng 1.2. Bảng phân chia trọng số các chỉ số thành phần 36
Bảng 1.3: Xếp hạng PCI tỉnh Lào Cai giai đoạn 2006 - 2011 46
Bảng 2.1. Cơ cấu lao động 55
Bảng 2.2. Tổng hợp kết quả chỉ số PCI tỉnh Khánh Hòa 58
Bảng 2.3. Xếp hạng điểm số chỉ số chi phí gia nhập thị trường trong cả nước năm 2005
- 2011 64
Bảng 2.4. Xếp hạng của tỉnh Khánh Hoà từ năm 2009 – 2011 trong khu vực Duyên
Hải miền Trung 66
Bảng 2.5. Điểm số và xếp hạng của tỉnh Khánh Hoà so với các tỉnh trong khu vực
Duyên Hải miền Trung năm 2009 67
Bảng 2.6. Điểm số và xếp hạng của tỉnh Khánh Hoà so với các tỉnh trong khu vực
Duyên Hải miền Trung năm 2010 69
Bảng 2.7. Điểm số và xếp hạng của tỉnh Khánh Hoà so với các tỉnh trong khu vực

Duyên Hải miền Trung năm 2011 71












vi


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1.Xếp hạng PCI của tỉnh Khánh Hoà giai đoạn 2005 – 2011 59
Biểu đồ 2.2. Điểm số và xếp hạng của chỉ số chi phí gia nhập thị trường của Khánh
Hoà giai đoạn 2005 - 2011 64
Biểu đồ 2.4: So sánh chỉ tiêu thời gian ĐKKD – số ngày của Khánh Hoà so với Bình
Định, Quảng Ninh và giá trị trung bình của cả nước 77
Biểu đồ 2.5: So sánh chỉ tiêu thời gian ĐKKD bổ sung – số ngày của Khánh Hoà so
với Bình Định, Quảng Ninh và giá trị trung bình của cả nước 79
Biểu đồ 2.6: So sánh chỉ tiêu tổng số giấy đăng ký và giấy phép cần thiết để chính thức
hoạt động của Khánh Hoà so với Bình Định, Quảng Ninh và giá trị trung bình của cả
nước 81
Biểu đồ 2.7: So sánh chỉ tiêu thời gian chờ đợi để được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử
dụng đất của Khánh Hoà so với Bình Định, Quảng Ninh và giá trị trung bình của cả
nước 83

Biểu đồ 2.8: So sánh chỉ tiêu % DN phải chờ hơn một tháng để hoàn thành tất cả các
thủ tục để bắt đầu hoạt động của Khánh Hoà so với Bình Định, 85
Quảng Ninh và giá trị trung bình của cả nước 85
Biểu đồ 2.9: So sánh chỉ tiêu % DN phải chờ hơn ba tháng để hoàn thành tất cả các thủ
tục để bắt đầu hoạt động của Khánh Hoà so với Bình Định, 87
Quảng Ninh và giá trị trung bình của cả nước 87
Biểu đồ 2.10: So sánh chỉ tiêu % cần thêm giấy phép kinh doanh khác của Khánh Hoà
so với Bình Định, Quảng Ninh và giá trị trung bình của cả nước 88
Biểu đồ 2.11: Điểm số chỉ số chi phí gia nhập thị trường giai đoạn 2005 – 2011 của
tỉnh Khánh Hoà so với TB chung của cả nước 90



vii


DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH
Sơ đồ 1.1: Mô hình kim cương trong lợi thế cạnh tranh quốc gia của Micheal Porter
Error! Bookmark not defined.
Hình 1.1: Phương pháp tổng hợp điểm số PCI Error! Bookmark not defined.
Hình 2.1. Kết quả 9 chỉ số thành phần 2010-2011 Error! Bookmark not defined.
Hình 2.2. Chỉ số chi phí gia nhập thị trường qua các năm Error! Bookmark not
defined.
Hình 2.3. Xếp hạng và điểm số của chỉ số chi phí gia nhập thị trường của khu vực năm
2009 Error! Bookmark not defined.
Hình 2.4. Xếp hạng và điểm số của chỉ số chi phí gia nhập thị trường của khu vực năm
2010 Error! Bookmark not defined.
Hình 2.5. Xếp hạng và điểm số của chỉ số chi phí gia nhập thị trường của khu vực năm
2011 Error! Bookmark not defined.
Sơ đồ 2.1: Quy trình ĐKKD theo cơ chế một cửa liên thông Error! Bookmark not

defined.










1




LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của nghiên cứu đề tài:
Như chúng ta đã biết, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức
Thương mại Thế giới WTO từ năm 2007. Từ đó đến nay sau hơn 4 năm gia nhập, cuộc
cạnh tranh gay gắt trong WTO cùng với ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ công
năm 2008 đã đẩy nước ta vào tình trạng hết sức khó khăn. Hàng ngàn DN phá sản do
không đủ sức cạnh tranh với DN nước ngoài. Mà hiện nay cuộc cạnh tranh đó không
chỉ diễn ra giữa sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp mà như Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định: “ Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước với
nhà nước trong việc hoạch định chính sách và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội
lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy được lợi thế so
sánh hay không, có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt trước” trong một thế giới
biến đổi nhanh chóng hay không. Chính sách quản lý có tạo được chi phí giao dịch xã
hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay không, có tạo được môi trường kinh doanh,

đầu tư thông thoáng, thuận lợi hay không…Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh sẽ tạo nên
sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia”. (Trích bài: : “Gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới – Cơ hội, thách thức và hành động của chúng ta”,
công bố trên báo chí ngày 08/11/2006). Chính vì thế có thể nói nước ta sẽ phải chịu sức
ép cạnh tranh mạnh hơn ở tất cả các cấp độ nhưng trong đó cấp độ nhà nước là cấp độ
chịu sức ép lớn nhất từ thị trường thế giới cũng như các nước trong khu vực. Bởi vậy,
Nhà nước ta cần phải tìm mọi biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho Việt
Nam một cách hiệu quả nhất.
Theo báo cáo về năng lực cạnh tranh toàn cầu định nghĩa thì: “Năng lực cạnh
tranh quốc gia là khả năng nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về

2


mức sống, nghĩa là đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao xác định sự thay đổi tổng sản
phẩm quốc nội từ đầu người theo thời gian”. Nói theo cách này chúng ta có thể hiểu
NLCT quốc gia phụ thuộc vào năng lực sử dụng nguồn lực con người, tài nguyên và
vốn của một quốc gia. Còn theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), NLCT
của một quốc gia là khả năng đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao, là tăng năng lực
sản xuất bằng việc đổi mới, sử dụng công nghệ cao hơn, đào tạo kỹ năng liên tục, quan
tâm đến công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Bởi vậy, chúng ta cần quan tâm và cải
thiện nhiều hơn nữa hệ thống các tiêu chí về năng lực cạnh tranh như: quản lý kinh tế
vĩ mô, cơ chế chính sách, hệ thống pháp luật, cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng,
thông tin và nguồn nhân lực…. Bởi nếu không kịp thời được hoàn thiện thì tất yếu sẽ
gây khó khăn, trở ngại rất lớn cho các nhà đầu tư trong nước và quốc tế.
Mà để nâng cao NLCT tầm vĩ mô (NLCT quốc gia) thì chúng ta cần phải từng
bước nâng cao NLCT ở tầm vi mô. Trong đó cấp đầu tiên trong tầm vi mô có sức ảnh
hưởng trực tiếp đến NLCT ở tầm vĩ mô đó là NLCT cấp tỉnh. Nếu mỗi tỉnh đều cố
gắng và liên tục hoàn thiện các chỉ số để nâng cao NLCT của mình thì sẽ tạo nên một
tổng thể môi trường kinh doanh lành mạnh, thu hút đầu tư hiệu quả nhất. Như vây, thực

chất NLCT cấp tỉnh là khả năng ganh đua giữa các tỉnh nhằm thu hút đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội trên cơ sở lợi thế của địa phương trong mối quan hệ liên kết với những
địa phương khác trong phạm vi quốc gia. Trong đó, chính quyền địa phương và doanh
nghiệp là hai nhân tố đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao NLCT cấp tỉnh.
Chính quyền địa phương là cơ quan có nhiệm vụ tích cực tạo ra môi trường kinh doanh
tốt trên cơ sở lợi thế so sánh của địa phương nhằm thu hút đầu tư của các doanh
nghiệp. Còn doanh nghiệp tạo ta lợi thế cạnh tranh so với đối thủ để từ đó tăng năng
suất và chất lượng sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường, tạo ta thu nhập cao cho người lao
động và phát triển bền vững cho DN. Từ đó góp phần vào sự phát triển của kinh tế - xã
hội và môi trường kinh doanh trong tỉnh.
Mặt khác, trong hệ thống chính quyền địa phương, chính quyền cấp tỉnh là cấp
hành chính cao nhất và các quyết định của họ có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển

3


nói chung của tỉnh. Trong khi cấp TW chỉ có thể ban hành những chủ trương, chính
sách, biện pháp ở tầm vĩ mô mà khó có thể điều tiết ở tầm vi mô của từng tỉnh. Do đó
những quy định, kế hoạch, chính sách cụ thể thực thi những quyết định của TW giao
xuống cho tỉnh sẽ là cầu nối tạo điều kiện giúp DN phát triển hay gây khó khăn đó là
vấn đề quan trọng nhất hiện nay. Chính điều đó đã lý giải tại sao có sự khác nhau giữa
môi trường kinh doanh ở các tỉnh. Cũng cùng một Nhà nước điều hành, cùng một chế
độ nhưng sao có những tỉnh khả năng thu hút đầu tư và tốc độ tăng trưởng rất nhanh
nhưng cũng có những tỉnh lại không mấy nhà đầu tư suy xét đến. Đó là vấn đề nan giải
cho cả chính quyền địa phương cũng như các DN hiện nay. Như chúng ta thấy, có ai
mà không muốn mình giàu thêm, có DN nào mà không muốn mở rộng, phát triển thị
trường. Nhưng một trong số những vấn đề điển hình mà hầu như DN nào cũng gặp
phải khi bắt đầu khởi sự kinh doanh đó là chi phí (CP) gia nhập thị trường. Hiện nay
theo điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam(VCCI) thì chỉ số này
đang có sự khác nhau khá lớn ở các tỉnh, vùng, miền trong cả nước. Theo báo cáo của

VCCI kết hợp với Dự án Nâng cao Năng lực Cạnh tranh Việt Nam (VNCI) thì để đo
lường chỉ số này người ta căn cứ theo các chỉ tiêu cụ thể như sau:
- Thời gian đăng ký kinh doanh – số ngày.
- Thời gian đăng ký kinh doanh bổ sung.
- Số lượng giấy đăng ký, giấy phép kinh doanh cần thiết để chính thức hoạt
động.
- Thời gian chờ đợi để được cấp giấy phép chứng nhận quyền sử dụng đất.
- % DN mất hơn 1 tháng để khởi sự kinh doanh.
- % DN mất hơn 3 tháng để khởi sự kinh doanh.
Bởi như chúng ta đã biết, theo Luật DN và các văn bản hướng dẫn thi hành,
trình tự và thủ tục đăng ký kinh doanh là thống nhất ở tất cả các tỉnh, thành nhưng trên
thực tế thì các trình tự và thời gian hoàn tất thủ tục luôn khác nhau ở mỗi tỉnh, mỗi
vùng và đối với mỗi DN. Chính điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến NLCT chung

4


của mỗi tỉnh. Nó làm hạn chế sự phát triển của các DN hiện tại và khó thu hút đầu tư
nội địa cũng như nước ngoài về địa bàn đó.
Một ví dụ điển hình mà chúng ta có thể nhận thấy nhất đó là tỉnh Khánh Hòa
chúng ta. Khánh Hòa, một tỉnh nằm dọc Duyên hải Nam Trung Bộ với nhiều điều kiện
thiên nhiên được tự nhiên ưu đãi. Là vùng đất có những điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ
tầng thuận lợi. Tuy nhiên nếu nhìn chung vào xu hướng phát triển chung của các ngành
nghề trong tỉnh thì hầu như ai cũng nhận thấy được đặc điểm nổi bật nhất đó là tỉnh ta
chủ yếu tập trung vào phát triển các loại hình kinh doanh về mảng dịch vụ du lịch, nhà
hàng, khách sạn còn về các ngành nghề kinh doanh khác thuộc lĩnh vực công nghiệp
thì tỉnh ta còn rất chậm phát triển. Vậy tại sao chúng ta lại không có “sức hút” giống
như Đà Nẵng, TP. HCM,…vào các ngành công nghiệp khác như họ mà phải dựa trên
nguồn tài nguyên sẵn có của địa phương để phát triển như hiện nay. Liệu 10 năm, 20
năm nữa khi tài nguyên thiên nhiên không còn sức tái tạo và sử dụng được nữa thì

chúng ta sẽ ra sao? Xuất phát từ thực tế đó em chọn đề tài: “Các giải pháp cải thiện
chỉ số chi phí gia nhập thị trường nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh
Khánh Hòa”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
2.1. Mục tiêu chung:
Dựa trên các nghiên cứu của VCCI và VNCI làm rõ lý thuyết về NLCT cấp tỉnh
(PCI)và nghiên cứu các chỉ số thành phần của PCI.
2.2. Mục tiêu cụ thể:
Nghiên cứu lý thuyết về chỉ số chi phí gia nhập thị trường. Từ đó liên hệ, xử lý,
đánh giá chỉ số đó của tỉnh Khánh Hòa qua các năm. Đồng thời từ số liệu của VCCI và
kết quả khảo sát thực tế đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện chỉ số CP gia nhập thị
trường nhằm nâng cao năng lực cạnh trnah của tỉnh Khánh Hòa trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tương nghiên cứu:

5


Đề tài lấy đối tượng nghiên cứu là chung các chỉ số PCI và cụ thể về chỉ số CP
gia nhập thị trường qua các năm của tỉnh Khánh Hòa và liên hệ với một số địa khác.
Đồng thời khảo sát thực nghiệm các DN và một số cơ quan chính quyền trên địa bàn
tỉnh Khánh Hòa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài đi sâu nghiên cứu chỉ số CP gia nhập thị trường của tỉnh Khánh Hòa trong
đó có liên hệ với một số tỉnh, thành khác và chọn thời nghiên cứu từ tháng 2/2012 đến
6/2012.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận, nghiên cứu này dự kiến sẽ áp dụng một số
phương pháp cụ thể như sau:
(1) Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:

- Hệ thống lại các lý thuyết liên quan đến NLCT, NLCT quốc gia, NLCTcấp tỉnh
- Các chỉ số đánh giá NLCT cấp tỉnh và đi sâu vào chỉ số CP gia nhập thị trường.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến NLCT cấp tỉnh.
(2) Phương pháp thu thập thông tin: nghiên cứu sẽ tiến hành thu thập thông tin thứ
cấp.
- Thông tin thứ cấp sẽ được thu thập từ các cơ quan quản lý ngành, từ báo cáo của
VCCI, từ web PCI.
(3) Phương pháp xử lý thông tin: nghiên cứu sẽ áp dụng phương pháp phân tích
thống kê, phương pháp tổng hợp so sánh.
5. Ý nghĩa của đề tài:
- Ý nghĩa khoa học: Hiện nay cơ sở lý thuyết về xếp hạng NLCT cấp tỉnh vẫn
chưa được làm rõ tuy nhiên đề tài vận dụng những lý thuyết về cạnh tranh để làm rõ
vấn đề từ đó áp dụng nó vào thực tế.
- Ý nghĩa thực tế: Từ kết quả đánh giá chỉ số chi phí gia nhập thị trường của tỉnh
Khánh Hòa so sánh với một số địa phương khác đề tài đã khẳng định được những nỗ
lực và chỉ ra những bất cập của chính quyền tỉnh Khánh Hòa trong cải thiện môi trường

6


kinh doanh, xác định rõ trọng tâm đổi mới hoạt động của chính quyền tỉnh trong thời
gian tới. Đồng thời đề tài này có thể làm tài liệu tham khảo và mở ra các hướng nghiên
cứu mới cho những đề tài nghiên cứu sau này.
Mặt khác đối với chính quyền địa phương, chỉ số PCI giúp chính quyền nhận ra
được điểm mạnh, điểm yếu của địa phương mình trong công tác điều hành kinh tế, tạo
áp lực thúc đẩy cải cách; chỉ ra những sáng kiến, chính sách tốt để các tỉnh tham khảo,
học hỏi. Đối với các nhà đầu tư, chỉ số này cũng là một nguồn thông tin tham khảo
trước khi đưa ra quyết định đầu tư vào địa phương nào.
6. Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì đề tài được chia làm 3 chương:

Chương 1: NLCT cấp tỉnh và chỉ số CP chi phí gia nhập thị trường.
Chương 2: Thực trạng chỉ số CP gia nhập thị trường giai đoạn 2005 - 2011.
Chương 3: Một số giải pháp cải thiện chỉ số CP gia nhập thị trường nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh của tỉnh Khánh Hòa.















7


CHƯƠNG 1: NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP TỈNH VÀ CHỈ
SỐ CHI PHÍ GIA NHẬP THỊ TRƯỜNG
1.1. Một số khái niệm:
1.1.1. Năng lực cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh là khái niệm tổng hợp được xây dựng trên cơ sở kết nối và tổ
hợp hệ thống nhiều yếu tố cả bên trong và bên ngoài ở các cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp
DN với tư cách là những thực thể độc lập. Theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt thì:
“Năng lực” là “những điều kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì đó” hay “là khả

năng đủ để thực hiện tốt một công việc” còn “Cạnh tranh là hành động ganh đua, đấu
tranh chống lại các cá nhân hay các nhóm, các loài vì mục đích giành được sự tồn tại,
sống còn, giành được lợi nhuận, địa vị, sự kiêu hãnh, các phần thưởng hay những thứ
khác”. Từ đó ta có thể có khái niệm năng lực cạnh tranh là tập hợp những điều kiện
vốn có hoặc khả năng đủ để giành thắng lợi, tạo lập được những thuận lợi hay lợi thế
của chủ thể cạnh tranh (cá nhân hay tổ chức, DN hay quốc gia…) vì một mục tiêu nào
đó.
Tuy đến nay những vấn đề liên quan đến cạnh tranh đã thu hút sự quan tâm lớn của
các nhà hoạch định chính sách, các doanh nhân và các nhà nghiên cứu nhưng vẫn còn
nhiều quan niệm khác nhau về NLCT trên các cấp độ: quốc gia, DN và sản phẩm. Vẫn
chưa có một lý thuyết nào hoàn toàn được thừa nhận về vấn đề này, do đó lý thuyết
“chuẩn” vẫn là một câu hỏi cho tất cả những ai quan tâm. Thậm chí NLCT cùng cấp độ
cũng có những phương pháp đánh giá khác nhau, chẳng hạn như đánh giá NLCT ở cấp
độ quốc gia thì trên thế giới cũng đã có hai hệ thống lý thuyết với hai phương pháp
đánh giá: Phương pháp thứ nhất do Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) thiết lập trong Báo
cáo cạnh tranh toàn cầu; phương pháp thứ hai do Viện Quốc tế về quản lý và phát triển
(IMD) đề xuất trong cuốn niên giám cạnh tranh thế giới. Cả hai phương pháp này đều
do một số Giáo sư đại học Havard như Michael Porter, Jeffrey Shach và một số chuyên
gia của WEF như Cornelius, Mache Levison tham gia xây dựng.

8


1.1.2. Năng lực cạnh tranh quốc gia:
Năng lực cạnh tranh quốc gia được hiểu theo nhiều cách tiếp cận khác nhau. Báo
cáo về tính cạnh tranh tổng thể của diễn đàn kinh tế thế giới WEF(1997) đã nêu: Năng
lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân nhằm
đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững
tương đối và các đặc trưng kinh tế khác. Theo đó để nâng cao năng lực cạnh tranh cho
một nền kinh tế thì quốc gia đó phải làm thế nào để tăng tăng năng suất sản xuất quốc

gia. Mà năng suất sản xuất của một quốc gia là yếu tố phụ thuộc vào năng suất sử dụng
các nguồn lực con người, tài nguyên và vốn. Bởi chính tăng năng suất tăng năng lực
sản xuất bằng việc đổi mới, sử dụng các công nghệ cao hơn, đào tạo lỹ năng liên tục,
quan tâm đến công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Chính vì thế chúng ta có thể hiểu năng lực cạnh tranh quốc gia được xác định trước
hết bằng mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân và sự có mặt (hay thiếu vắng)
các yếu tố quy định khả năng tăng trưởng kinh tế dài hạn trong các chính sách kinh tế
đã được thực hiện. Năng lực cạnh tranh không phải là việc một quốc gia cạnh tranh
trong lĩnh vực gì để thịnh vượng mà là quốc gia đó cạnh tranh hiệu quả như thế nào
trong các lĩnh vực.
Các quốc gia cạnh tranh trong việc tạo ra môi trường kinh doanh và đầu tư hiệu quả
nhất, tức là mang lại năng suất cao nhất. Chính phủ và DN là hai nhân đóng vai trò
quyết định trong việc nâng cao NLCT để phát triền kinh tế.
Như vậy NLCT của một quốc gia là năng lực của một nền kinh tế đạt được sự tăng
trưởng bền vững, hấp dẫn, thu hút được đầu tư trong và ngoài nước, bảo đảm ổn định
kinh tế - xã hội, nâng cao mức sống cho người dân.
1.1.3. Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
Như chúng ta đã biết, tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng của
mọi quốc gia, mọi địa phương. Để thực hiện điều đó thì mỗi quốc gia, mỗi địa phương
đều cần những chính sách và bước đi phù hợp với điều kiện của mình. Như nước ta
hiện nay, để phù hợp với công cuộc đổi mới sau khi gia nhập WTO chính phủ đang

9


từng bước thực hiện chính sách phi tập trung hóa trong quản lý các địa phương đặc biệt
là cấp tỉnh, thành. Theo đó, chính quyền Trung ương sẽ phân chia quyền hạn, trách
nhiệm và thẩm quyền về quản lý kinh tế cho mỗi tỉnh, thành trên cả nước. Chính vì thế
trong phạm vi quốc gia, hiện tại cũng xuất hiện sự ganh đua, cạnh tranh giữa các tỉnh,
thành để tăng tốc độ phát triển, thu hút đầu tư nhiều hơn về tỉnh mình.

Từ đó ta có khái niệm khả năng một địa phương cấp tỉnh trong thu hút các DN, các
tổ chức và cá nhân đầu tư phát triển kinh tế - xã hội theo những mục tiêu đã định được
gọi là năng lực cạnh tranh của tỉnh đó. Do vậy, một tỉnh có NLCT cao thể hiện ở sự
hấp dẫn về đầu tư và phát triển kinh doanh đối với các DN, nhà đầu tư hay tạo lập được
môi trường kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh đó.
Trong khi cạnh tranh giữa các quốc gia là khả năng thu hút đầu tư để phát triển kinh
tế - xã hội có tính chất và phương thức cạnh tranh gay gắt hơn, đa dạng hơn thì trong
phạm vi một quốc gia, cạnh tranh giữa các tỉnh lại có mức độ mềm dẻo và linh hoạt
hơn. Đó là sự cạnh tranh giữa các tỉnh nhằm thu hút đầu tư, phát triển kinh tế xã hội
dựa trên cơ sở lợi thế của địa phương đó đồng thời trong sự ganh đua có sự hợp tác,
liên kết cùng phát triển. Vấn đề liên kết, hợp tác ở đây là sự liên kết và hợp tác giữa các
ngành liên quan nhằm bổ sung, duy trì và hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình phát triển
giữa các tỉnh, thành. Sự liên kết đó không chỉ nhằm xóa bỏ mức độ giới hạn về địa giới
để tạo ra các nguồn lực đầu vào (tài nguyên, đất đai, nguồn nhân lực ) với quy mô lớn
hơn cho các nhà đầu tư mà còn giúp phân chia nguồn lực một cách hiệu quả nhất.
Chính vì thế, liên kết giữa các địa phương, giữa các ngành trong các vùng mang tính bổ
sung, hỗ trợ lẫn nhau, giúp duy trì và tăng cường NLCT cho các tỉnh.







10













Sơ đồ 1.1: Mô hình kim cương trong lợi thế cạnh tranh quốc gia
của Micheal Porter
Vận dụng mô hình kim cương vào nghiên cứu xác định NLCT cấp tỉnh qua sơ
đồ trên cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của chính quyền cấp tỉnh. Trong điều kiện
phân cấp mạnh mẽ, chính quyền cấp tỉnh có thể tác động trực tiếp hay gián tiếp, tích
cực hay tiêu cực đến sức hấp dẫn của các yếu tố đầu vào (nguồn nhân lực, nguồn tài
nguyên thiên nhiên, nguồn tri thức nguồn vốn và cơ sở hạ tầng…); các yếu tố liên
quan đầu ra(quy mô thị trường, tập quán tiêu dùng…); hệ thống các DN và nhà đầu tư
tại địa phương, các ngành dịch vụ hỗ trợ và liên quan.
Đối với các yếu tố sản xuất thể hiện chủ yếu ở lĩnh vực đào tạo lao động (số
lượng và chất lượng hệ thống giáo dục, đào tạo, dạy nghề, thông tin thị trường lao
động…) và chất lượng cơ sở hạ tầng (đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh…)
Trong phạm vi địa phương, chính quyền cấp tỉnh có thể trực tiếp thực hiện các
dịch vụ hỗ trợ DN (trợ giúp pháp lý, xúc tiến thương mại đầu tư…) hoặc khuyến
khích khu vực kinh tế tư nhân phát triển các dịch vụ hỗ trợ này.
Đối với điều kiện cầu chính quyền địa phương có thể tác động lên thị trường
tiêu thụ sản phẩm của DN thông qua những dự báo, định hướng sản xuất nhưng sự
Cơ hội
Chính phủ
Đi
ều kiện các
nhân tố
Các ngành h

ổ trợ v
à
liên quan
Điều kiện cầu
C
ấu trúc, chiến l
ư
ợc
và cạnh tranh DN

11


ảnh hưởng này không rõ nét như ở cấp quốc gia. Chính quyền tỉnh cũng có thể đóng
vai trò là khách hàng trong một số trường hợp cần thiết.
Sự ảnh hưởng của chính quyền cấp tỉnh lên yếu tố cơ cấu hệ thống DN, nhà đầu
tư tại tỉnh khá rõ nét. Xuất phát từ định hướng chiến lược phát triển các ngành kinh tế
của địa phương, chính quyền cấp tỉnh sẽ có những cơ chế chính sách cụ thể (như
chính sách thuế, hỗ trợ, ưu đãi đầu tư, liên kết…) để khuyến khích mở rộng hay hạn
chế đầu tư vào lĩnh vực nào đó. Do đó có thể thay đổi cơ cấu, hệ thống DN, nhà đầu
tư tại tỉnh.
Ngoài ra, cơ hội cũng có vai trò ảnh hưởng nhất định lên các nhân tố trong mô
hình như sự phát triển khoa học công nghệ, cơ chế chính sách riêng của TW, hoạt
động liên kết hợp tác của các địa phương khác đối với tỉnh.
Như vậy, thực chất NLCT cấp tỉnh là khả năng cạnh tranh giữa các tỉnh nhằm thu
hút đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở lợi thế so sánh của địa phương trong
mối quan hệ liên kết với những địa phương khác trong một quốc gia.
1.1.4. Năng lực cạnh tranh ngành
Năng lực cạnh tranh của một ngành là khả năng của đạt năng suất cao, sử dụng đầu
vào thấp nhất để tạo được nhiều đầu ra nhất trong một ngành. Trong cạnh tranh ngành

chủ thể cạnh tranh là ngành. Cũng có thể hiểu năng lực cạnh tranh của một ngành là
khả năng của ngành đó trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn các ngành khác
trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
Năng lực cạnh tranh ngành bị ảnh hưởng bởi các nhóm nhân tố : điều kiện tự nhiên
và tài nguyên thiên nhiên; trình độ phát triển khoa học- công nghệ; nguồn nhân lực; kết
cấu hạ tầng; trình độ tổ chức quản lý ngành; thể chế kinh tế- xã hội.
1.1.5. Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp trong việc tạo
ra và duy trì lợi thế cạnh tranh, mở rộng thị phần, tạo thu nhập cao và phát triển bền
vững.

12


Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là
yếu tố nội lực của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công
nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp…một cách riêng biệt mà cần
đánh giá, so sánh với các đối thủ cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực,
cùng một thị trường. Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong
doanh nghiệp được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách tương ứng với các
đối thủ cạnh tranh. Trên cơ sở so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi
doanh nghiệp phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối thủ của mình. Nhờ lợi thế này,
doanh nghiệp có thể thỏa mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như
lôi kéo được khách hàng của đối thủ cạnh tranh.
Thực tế cho thấy, không có một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất
cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt này và
hạn chế về mặt khác. Nhưng không phải vì thế mà các doanh nghiệp không thể tạo
dựng được lợi thế cạnh tranh cho riêng mình, có thể thông qua việc tạo ra sự khác biệt
sản phẩm và dịch vụ, thỏa mãn được thị hiếu khách hàng bằng những cách thức mà đối
thủ cạnh tranh không thể thực hiện hoặc bằng cách đi trước đón đầu, tạo ra nhu cầu

mới cho khách hàng, tận dụng những nguồn lực có sẵn để tăng giá trị cho khách hàng
đồng thời hạ thấp chi phí và giảm giá cả.
Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào thực lực và lợi thế của mình e chưa đủ bởi trong điều
kiện toàn cầu hóa kinh tế lợi thế bên ngoài đôi khi là yếu tố quyết định. Thực tế chứng
minh một số doanh nghiệp rất nhỏ, không có lợi thế nội tại, thực lực bên trong còn yếu
nhưng vẫn tồn tại và phát triển trong một thế giới cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Như vậy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là việc khai thác, sử dụng thực lực
và lợi thế bên trong, bên ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm - dịch vụ hấp dẫn người
tiêu dùng để tồn tại và phát triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao, cải tiến vị trí so
với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, cần phải xác định được các
yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động khác nhau và cần

13


thực hiện việc đánh giá bằng cả định lượng và định tính. Các doanh nghiệp hoạt động
sản xuất kinh doanh ở các ngành, lĩnh vực khác nhau có các yếu tố đánh giá năng lực
cạnh tranh khác nhau. Mặc dù vậy, vẫn có thể tổng hợp được các yếu tố đánh giá năng
lực cạnh tranh của một doanh nghiệp bao gồm: giá cả sản phẩm và dịch vụ; chất lượng
sản phẩm và bao gói; kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng, thông tin và xúc
tiến thương mại; năng lưc nghiên cứu và phát triển, thương hiệu và uy tín của doanh
nghiệp; trình độ lao động; thị phần sản phẩm doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng thị
phần, vị thế tài chính; năng lực tổ chức và quản trị doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp có thể sản xuất kinh doanh một hay nhiều sản phẩm dịch vụ nên
người ta còn phân biệt NLCT của DN với NLCT của sản phẩm dịch vụ.
1.1.6. Năng lực cạnh tranh sản phẩm
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng sản phẩm đó tiêu thụ được nhanh
hay chậm khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên thị trường. Điều đó chứng
tỏ năng lực cạnh tranh của sản phẩm được thể hiện bởi những lợi thế của sản phẩm so

với đối thủ cạnh tranh. Nó được đo bằng thị phần của sản phẩm đó trên thị trường và
phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, tốc độ cung ứng, dịch vụ đi kèm, uy tín của DN,
thương hiệu, quảng cáo và điều kiện mua bán. Chính vì thế ta có thể nói năng lực cạnh
tranh của sản phẩm được tạo ra từ năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. NLCT của
sản phẩm cao không thể cao khi NLCT của bản thân doanh nghiệp thấp. Điều này cho
thấy NLCT DN ảnh hưởng cơ bản và lâu dài đến NLCT sản phẩm.
1.2. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh.
1.2.1. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI).
Ngày nay, hầu hết ở các nước trên thế giới sự vững mạnh của khu vực kinh tế tư
nhân được xem có vai trò then chốt đối với sự thịnh vượng của một nền kinh tế. Các
nước có môi trường kinh tế thuận lợi, thúc đẩy cơ chế thị trường đều đạt được thành
công trong khuyến khích đầu tư tư nhân, tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều việc làm và góp
phần xoá đói giảm nghèo. Những năm gần đây chúng ta đều có thể nhìn thấy rõ điều
này. Từ khi Luật Doanh nghiệp 2000 được đưa vào thực hiện đến nay đã gỡ bỏ bớt

14


đáng kể những rào cản gia nhập thị trường và nhiều rào cản pháp lý khác cho doanh
nghiệp. Đặc biệt Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của khu vực tư
nhân. Nhưng ngay sau đó người ta đã phát hiện ra nhiều điều đáng chú ý trong mô hình
phát triển của Việt Nam. Đó là tuy tổng thể nền kinh tế của cả nước tăng khá nhanh
nhưng nó lại không phát triển đồng đều trên tất cả các địa bàn của cả nước mà nó chỉ
tập trung phát triển ở một số vùng nhất định. Còn một số vùng thì tỏ ra tụt hậu và kém
năng động hơn rất nhiều và khó lòng bắt kịp với các địa phương khác.
Chính vì thế năm 2002, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và
Quỹ Châu Á đã thực hiện dự án nghiên cứu đầu tiên tại 14 tỉnh thành. Nghiên cứu này
tập trung vào quan hệ tương tác giữa các yếu tố điều hành kinh tế và sự phát triển kinh
tế giữa các tỉnh, thành đó. Kết quả của dự án này đã là tiền đề cho VNCI – Cơ quan
Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ nghiên cứu nhằm xác định được vai trò

then chốt của các nhân tố điều hành kinh tế với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Dự
án này với tên gọi PCI – Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh về môi trường kinh doanh
của Việt Nam.
Như vậy vai trò của chính quyền địa phương là tạo môi trường thúc đẩy thu
hút đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh nhằm phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn
tỉnh.
1.2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của PCI
Ý tưởng xây dựng chỉ số PCI bắt nguồn từ một nghiên cứu trước đây của Qũy
châu Á và VCCI. Đó là nghiên cứu “Những thực tiễn tốt trong điều hành kinh tế cấp
tỉnh ở Việt Nam”, được thực hiện vào năm 2003 - 2004 tại 14 tỉnh của Việt Nam.
Nghiên cứu này tập trung vào quan hệ tương tác giữa các yếu tố điều hành kinh tế và
sự phát triển của tỉnh, thành đó. Kết quả của dự án nghiên cứu này sau đó đã trở thành
cơ sở khởi động một dự án nghiên cứu khác có quy mô lớn hơn, nghiên cứu về sự
khác biệt giữa các tỉnh, thành. Dự án nghiên cứu thứ hai do VNCI đảm nhận. VNCI là
dự án phát triển kinh tế do Cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ kết
hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) hợp tác nghiên cứu.

15


Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh về môi trường kinh doanh tại Việt Nam (PCI)
là kết quả hợp tác nghiên cứu giữa VNCI và VCCI. Chỉ số PCI được xây dựng nhằm
mục đích lý giải nguyên nhân tại sao trong cùng một nước, một số tỉnh, thành có sự
phát triển năng động của khu vự tư nhân, tạo ra việc làm và tăng trưởng kinh tế … tốt
hơn các tỉnh, thành khác. Bằng cách thực hiện điều tra mới đối với DN để tìm hiểu
đánh giá của các DN đối với môi trường kinh doanh ở tỉnh, thành; kết hợp dữ liệu
điều tra với các dữ liệu khác thu thập được từ các nguồn chính thức về các địa
phương.
Năm 2005, chỉ số PCI được công bố rộng rãi trên các phương tiện truyền thông và
thu hút được sự quan tâm từ cộng đồng các DN, các nhà tài trợ cũng như chính quyền

địa phương, đồng thời cũng ghi nhận nhiều đóng góp ý kiến từ các chuyên gia kinh tế
trong và ngoài nước. Theo Báo cáo chi tiết chỉ số PCI năm 2005 do VCCI công bố,
chỉ số PCI được cấu thành từ 9 chỉ số thành phần, bao gồm: (1) Chi phí gia nhập thị
trường, (2) Tiếp cận đất đai, (3) Tính minh bạch và tiếp cận thông tin, (4) Chi phí về
thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước, (5) Chi phí không chính thức, (6)
Thực hiện chính sách của Nhà nước, (7) Ưu đãi đối với DNNN, (8) Tính năng động
và tiên phong của lãnh đạo tỉnh, (9) Chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Đến năm 2006, đã có sự thay đổi trong các chỉ số cấu thành nên chỉ số tổng hợp
PCI. Chỉ số Thực hiện chính sách của Nhà nước được thay thế bằng hai chỉ số mới là:
Đào tạo lao động và Thiết chế pháp lý, hình thành nên 10 chỉ số thành phần. Nguyên
nhân của sự thay đổi này:
 Đào tạo lao động: trong nhiều năm qua, các DN liên tục phàn nàn về năng lực
yếu kém của lực lượng lao động. Các DN gặp khó khăn trong việc tìm kiếm và tuyển
dụng lao động đã qua đào tạo chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp. Chính vì vậy,
việc chính quyền địa phương tập trung vào việc nâng cao chất lượng lực lượng lao
động địa phương sẽ có ý nghĩa cự kỳ quan trọng đối với môi trường kinh doanh trên
địa bàn.

16


 Thiết chế pháp lý: việc phát triển pháp luật và giải quyết các tranh chấp một
cách chính quy luôn là một mắc xích trong quá trình cải cách, chuyển đổi ở Việt Nam.
Tăng cường thể chế cho các cơ quan tư pháp và tòa án địa phương trở nên cấp thiết
khi Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO. Ngoài ra, có rất ít DN thực sự hiểu biết một
cách thấu đáo về các trình tự, thủ tục pháp lý để có thể phân biệt rạch ròi, chi tiết các
thiết chế pháp lý khác nhau.
Đến năm 2009, khi quá trình cổ phần hóa các DNNN diễn ra một cách mạnh mẽ,
ảnh hưởng của các DNNN không còn tác động mạnh đến khu vực kinh tế tư nhân,
nhóm nghiên cứu của VCCI đã thay thế chỉ số Ưu đãi đối với DNNN và Chính sách

phát triển khu vực kinh tế tư nhân bằng chỉ số mới: Dịch vụ hỗ trợ DN. Thông qua
việc đối thoại với các lãnh đạo tỉnh, doanh nghiệp, đại diện các hiệp hội và các
chuyên gia nghiên cứu cho thấy nên bổ sung chỉ số này vào các chỉ số thành phần. Tất
cả các chuyên gia đều đồng tình với quan điểm các dịch vụ hỗ trợ DN có vai trò then
chốt để các DN thành công trong hoạt động kinh doanh. Tại thời điểm này, những đơn
vị cung cấp dịch vụ hỗ trợ tư nhân như: các công ty tư vấn, công ty kế toán, tư vấn
chiến lược, và các luật sư vốn vẫn còn “xa lạ” đối với số đông các DN Việt Nam và
cũng chỉ tập trung tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. Trong khi đó,
các DN lại có nhu cầu sử dụng các dịch vụ hỗ trợ này nhưng lại thiếu đi những dịch
vụ mang tính chuyên nghiệp và đáng tin cậy.
Cho đến nay, VCCI đã công bố thường niên Báo cáo chi tiết chỉ số PCI (từ năm
2005 - 2011), các Báo cáo này đã đóng góp một phần rất lớn trong việc cải thiện môi
trường kinh doanh tại các tỉnh, thành trên cả nước; giúp cho các chính quyền địa
phương nhận biết được đâu là điểm mạnh và điểm yếu của địa phương mình, từ đó đề
ra hướng giải quyết nhằm phát huy điểm mạnh và khắc phục điểm yếu, đưa kinh tế
địa phương phát triển.
1.2.1.2. Các chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh.
Có nhiều cách để phân loại các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường đầu tư cấp tỉnh,
trong đó có cách phân loại theo nhóm yếu tố truyền thống (như điều kiện tự nhiên –

17


địa lý, xã hội, hệ thống cơ sở hạ tầng, quy mô thị trường…) và nhóm yếu tố nguồn lực
mềm bao gồm những khía cạnh quan trọng khác nhau của môi trường kinh doanh cấp
tỉnh, những khía cạnh này chịu tác động trực tiếp từ thái độ và hành động của chính
quyền cấp tỉnh. Nhóm yếu tố truyền thống là những nhân tố căn bản, quan trọng cho
hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng rất khó hoặc thậm chí không đạt ñược trong thời
gian ngắn. Nhóm yếu tố nguồn lực mềm là nhân tố quyết định đến sự hấp dẫn ñầu tư
và phát triển sản xuất kinh doanh của DN. Vì vậy, NLCT cấp tỉnh được xác ñịnh theo

các tiêu chí xác định khả năng của nguồn lực mềm và chỉ số NLCT cấp tỉnh hiện nay
ñược cấu thành từ hệ thống các chỉ số thành phần sau:
(1) Chi phí gia nhập thị trường: là chỉ số thành phần xác định về thời gian hoàn
thành các thủ tục và giấy tờ cần thiết để DN chính thức đi vào hoạt động. Chỉ số này
nhằm đánh giá sự khác biệt về chi phí gia nhập thị trường của các DN mới thành lập
giữa các tỉnh với nhau. Được đo lường bởi các chỉ tiêu cụ thể như sau:
- Thời gian đăng ký kinh doanh – số ngày.
- Thời gian đăng ký kinh doanh bổ sung – số ngày.
- Số lượng giấy đăng ký, giấy phép kinh doanh cần thiết để chính thức hoạt động.
- Thời gian chờ đợi để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- % doanh nghiệp mất hơn 1 tháng để khởi sự kinh doanh.
- % doanh nghiệp mất hơn 3 tháng để khởi sự kinh doanh.
(2) Tiếp nhận đất đai và sự ổn định tròn sử dụng đất: là chỉ số đo lường về hai
khía cạnh là việc DN tiếp cận đất dễ dàng không và có được đảm bảo về sự ổn định khi
có được mặt bằng kinh doanh hay không. Được đo lường bởi các chỉ tiêu sau:
- % doanh nghiệp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- % diện tích đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Doanh nghiệp đánh giá rủi ro bị thu hồi đất (1: Rất cao đến 5: Rất thấp).
- Nếu bị thu hồi đất, doanh nghiệp sẽ được bồi thường thỏa đáng (% luôn luôn
hoặc thường xuyên).

18


- Sự thay đổi khung giá đất của tỉnh phù hợp với sự thay đổi của giá thị trường (%
đồng ý).
- DN không gặp cản trở về mặt bằng kinh doanh.
(3) Tính minh bạch và tiếp cận thông tin: là chỉ số đo lường khả năng tiếp cận
các kế hoạch của tỉnh và các văn bản pháp lý cần thiết cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, liệu doanh nghiệp có thể tiếp cận một cách công bằng các văn bản này,

các chính sách và quy định mới có được tham khảo ý kiến của doanh nghiệp và khả
năng tiên liệu trong việc triển khai thực hiện các chính sách quy định đó và mức độ tiện
dụng của trang web tỉnh đối với doanh nghiệp. Nó được đo lường bởi các chỉ tiêu sau:
- Tính minh bạch của các tài liệu kế hoạch.
- Tính minh bạch của các tài liệu pháp lý.
- Cần có "mối quan hệ" để có được các tài liệu kế hoạch của tỉnh (% quan trọng).
- Thương lượng với cán bộ thuế là phần thiết yếu trong hoạt động kinh doanh (%
đồng ý).
- Khả năng tiên liệu việc thực thi pháp luật của tỉnh (% Luôn luôn hoặc Thường
xuyên).
- Độ mở của trang web tỉnh.
- Các hiệp hội doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong xây dựng và phản biện
các chính sách, quy định của tỉnh (% Quan trọng hoặc Rất quan trọng).
(4) Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước: là chỉ số dùng để
đo lường thời gian doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện các thủ tục hành chính cũng
như mức độ thường xuyên và thời gian doanh nghiệp phải tạm dừng kinh doanh để các
cơ quan Nhà nước của địa phương thực hiện việc thanh tra, kiểm tra. Nó được đo
lường bởi các chỉ tiêu:
- % doanh nghiệp sử dụng hơn 10% quỹ thời gian để thực hiện các quy định của
Nhà nước.
- Số lần thanh tra (tất cả các cơ quan).
- Số giờ làm việc với thanh tra thuế.

×