Trang
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
KHOA KINH TẾ
– & —
ĐỖ THỊ MINH HƯƠNG
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH CÔNG
TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM ĐỔ HỘP CÁC LOẠI
CỦA CHI NHÁNH CÔNG TY CỔ PHẦN ĐỒ HỘP
HẠ LONG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: KINH TẾ THỦY SẢN
Khóa (lớp) : 44KTTS
MSSV : 44D4193
Giáo viên hướng dẫn : TS. DƯƠNG TRÍ THẢO
Nha Trang, tháng 11 năm 2006
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang
2
CHƯƠNG 1 :
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM.
1.1 Khái niệm, ý nghĩa, vai trò công tác tiêu thụ sản phẩm.
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang
3
1.1.1 Khái niệm.
Tiêu thụ sản phẩm là một trong 6 chức năng hoạt động cơ bản của doanh nghiệp :
tiêu thụ, sản xuất, hậu cần kinh doanh, tài chính, kế toán, quản trị doanh nghiệp. Tiêu
thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của chu kỳ sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm là
quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa, qua tiêu thụ hàng hóa
chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và vòng chu chuyển vốn của đơn vị
được hoàn thành.
Tiêu thụ sản phẩm trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là quá
trính bán hàng của doanh nghiệp nhằm thu được một khoản lợi nhuận trong tiến trình
sản xuất kinh doanh. Nhưng hoạt động tiêu thụ không chỉ đơn thuần là bán hàng mà là
quá trình trong đó nhà sản xuất tìm kiếm một sự thỏa thuận bắt nguồn từ sự gặp gỡ
giữa một phía là nhà sản xuất, một phía là khách hàng biểu hiện một nhu cầu. Trong
quá trình sản xuất kinh doanh doanh nghiệp sẽ cố tìm ra giải pháp tốt nhất để thuận lợi
cho cả hai.
Như vậy, tiêu thụ sản phẩm là một hoạt động liên quan đến việc tổ chức điều
hành, vận chuyển hàng hóa, dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng nhằm đạt
hiệu quả cao nhất. Nó bao gồm toàn bộ quá trình hoạt động theo thời gian, không gian
từ lúc kết thúc sản xuất đến khi khách hàng nhận được sản phẩm tiêu thụ.
1.1.2 Vai trò và ý nghĩa của công tác tiêu thụ sản phẩm.
¨ Vai trò:
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa như trước kia các chỉ tiêu hướng dẫn từ
trên xuống cho các doanh nghiệp công nghiệp định sẵn những nguồn cung ứng, số
lượng, chất lượng các yếu tố đầu vào. Khâu tiêu thụ thì do ngành thương nghiệp đảm
nhận theo kế hoạch từ trên xuống tách rời nhiệm vụ sản xuất và tiêu thụ. Cả khâu đầu
vào và khâu đầu ra trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được Nhà nước định,
nên quan hệ trao đổi mang tính chất hiện vật. Công tác tiêu thụ sản phẩm cũng như
việc cung ứng sản xuất được đánh đồng, về vai trò chỉ thực hiện những mệnh lệnh
cứng nhắc, sự bao thầu của Nhà nước, nên tình hình tiêu thụ không thể là căn cứ chính
xác để đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Ngày nay trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chủ động sản xuất
kinh doanh, chủ động vấn đề cung ứng cũng như việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh thì phải buộc phải
quan tâm đến tiêu thụ sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp cho phép đánh
giá thống nhất quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Bởi sự liên quan chặt chẽ giữa các giai đoạn trong quá trình sản xuất kinh doanh,
nên tiêu thụ sản phẩm là khâu không thể thiếu trong quá trình tái sản xuất. Nó là điều
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang
4
kiện tiền đề quan trọng đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp diễn ra
liên tục nhịp nhàng.
Công tác tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp nó góp phần hình thành nên cơ cấu sản phẩm. Tiêu thụ
làm gia tăng hiệu quả kinh tế về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Tổ
chức tốt công tác tiêu thụ sẽ làm cho chi phí tiêu thụ, dự trữ thành phẩm ở mức vừa
phải. Ngoài ra, tổ chức tốt khâu bốc dỡ sẽ làm giảm được chi phí bốc dỡ, việc vận dụng
tối đa các phương tiện vận tải cũng ảnh hưởng trực tiếp đến việc giảm giá thành tiêu
thụ.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm đánh giá kết quả cuối cùng của quá trình sản xuất
kinh doanh phản ánh thành công nhất định của doanh nghiệp trên thị trường cạnh tranh.
Để tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải luôn tự hoàn thiện mình bằng cách sản xuất
các mặt hàng đáp ứng các nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng từ đó góp phần quan
trọng trong việc phát triển mở rộng thị trường, duy trì mối quan hệ chặt chẽ của doanh
nghiệp với khách hàng, đồng thời góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
¨ Ý nghĩa
Tổ chức tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả thực sự là điều kiện để đặt được môi
trường tối đa hóa lợi nhuận và góp phần giải quyết các mối quan hệ tài chính, kinh tế,
xã hội của doanh nghiệp.
Tiêu thụ sản phẩm là điều kiện để doanh nghiệp công nghiệp nâng cao hoặc cắt
giảm bớt khối lượng sản xuất, đa dạng mặt hàng hoặc hạn chế sản phẩm nhằm khai
thác nhu cầu của thị trường. Tiêu thụ sản phẩm thuận tiện, sẽ thu hồi vốn nhanh có lợi
nhuận để tích lũy và đầu tư vào việc nghiên cứu khoa học kĩ thuật ứng dụng cho việc
chế tạo sản phẩm nhằm gia tăng ngày càng nhiều khối lượng sản phẩm đồng thời sản
phẩm ngày một có chất lượng tốt hơn, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, tạo ra uy tín
của doanh nghiệp trên thị trường.
Tiêu thụ sản phẩm là một quá trình hết sức quan trọng đối với bản thân doanh
nghiệp và đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Có tiêu thụ được mới thu được vốn và
thực hiện được tái sản xuất tăng nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tuân theo các quy luật của
thị trường là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh; nên khi thực hiện
tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp đã góp phần giải quyết các mâu thuẫn trên thị trường,
đáp ứng được những quy luật kết quả tất yếu doanh nghiệp sẽ có được sự cạnh tranh tốt
trên thị trường.
1.1.3 Các quan điểm cơ bản trong công tác tiêu thụ sản phẩm.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang
5
1.1.3.1 Quan điểm của doanh nghiệp.
Tiêu thụ sản phẩm phải biết giữ mối với khách hàng cũ, lôi kéo khách hàng đã
mất, tìm kiếm thu hút khách hàng mới sao cho khách hàng không chỉ mua sản phẩm
của doanh nghiệp một lần mà là nhiều lần và khi có nhu cầu thì khách hàng nhớ ngay
đến sản phẩm của doanh nghiệp.
Phương châm : bán những gì khách hàng cần chứ không phải những gì doanh nghiệp
có. Tiêu thụ sản phẩm không chỉ là đáp ứng những nhu cầu hiện có của khách hàng mà
phải biết đi trước đón đầu đáp ứng những nhu cầu trong tương lai.
Đặt mình vào vị trí của khách hàng khi tiêu thụ sản phẩm : Doanh nghiệp thường
muốn bán với giá cao, chi phí bỏ ra thấp để thu được nhiều lợi nhuận; còn khách hàng
thì muốn mua với giá thấp, sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp. Muốn giải quyết
được mâu thuẫn này, doanh nghiệp phải đặt mình vào vị trí của khách hàng, phải cân
nhắc hài hòa lợi ích của hai bên. Nếu doanh nghiệp chỉ biết đến lợi ích của bản thân
doanh nghiệp thì sự tồn tại phát triển lâu dài là khó đạt được.
1.1.3.2 Quan điểm của Nhà nước.
Tiêu thụ sản phẩm sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển đẩy mạnh giao lưu hợp tác kinh
tế trong nước và quốc tế, ổn định giá cả, nâng cao mức sống của người dân, giải quyết
được tình trạng thất nghiệp thúc đẩy phân công lao động xã hội và quá trình tái sản
xuất mở rộng. Qua đó tạo ra sự tích lũy vốn cho doanh nghiệp cho nền kinh tế, góp
phần thực hiện chức năng điều hành quản lý vĩ mô của Nhà nước.
1.2.Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ sản phẩm trong doanh nghiệp
1.2.1 Nhân tố bên ngoài.
1.2.1.1 Quan hệ cung cầu hàng hóa dịch vụ trên thị trường.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, sự tồn tại của các quy luật kinh tế là điều kiện
khách quan trong đó quy luật cung cầu là điển hình nhất và quan trọng nhất. Sự biến
động theo hàng hóa kéo theo sự biến động của tình hình tiêu thụ. Khi cầu lớn hơn cung
thì công tác tiêu thụ của doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi, ngược lại khi cầu nhỏ hơn
cung thì những sản phẩm làm ra bị ứ đọng, lúc này việc thay đổi cải tiến mẫu mã, nâng
cao chất lượng đều được các đơn vị kinh tế áp dụng nhằm thúc đẩy khả năng tiêu thụ
của mình. Thật không dễ dàng để sản phẩm được tiêu thụ liên tục nếu không đổi mới
sản phẩm.
Cung cầu là yếu tố quyết định mức độ và số lượng sản phẩm được tiêu thụ trên
thị trường do đó cần nắm bắt kịp thời chính xác nguồn thông tin để đưa ra những biện
pháp thúc đẩy tiêu thụ hữu hiệu.
1.2.1.2 Nhân tố về thị trường.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang
6
Quyết định tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nào, thời điểm nào và với giá cả bao
nhiêu, là công việc quan trọng đòi hỏi phải có sự phân tích tỉ mỉ những thông tin liên
quan đến thị trường. Mục đích các doanh nghiệp là làm sao để sản phẩm của mình tung
ra được thị trường chấp nhận và như thế khả năng tiêu thụ mới được thực hiện, nhu cầu
càng cao là điều kiện thuận lợi cho công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
1.2.1.3 Nhân tố cơ chế chính sách điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Trước đây cơ chế quan liêu bao cấp với hệ thống kế hoạch hóa tập trung có quá
nhiều chỉ tiêu pháp lệnh cứng nhắc làm trì trệ quá trình sản xuất và tiêu thụ thì ngày
nay trong cơ chế thị trường mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng với nhau và tự do
cạnh tranh. Sự thay đổi cơ chế chính sách tạo cho các doanh nghiệp có khả năng về vốn
và nhân lực không ngần ngại đầu tư cho sản xuất kinh doanh, tự chủ về mọi mặt, lựa
chọn đối tác làm ăn và thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp cần phải tuân
thủ các chính sách của Nhà nước để tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh một cách
hợp pháp.
1.2.1.4 Các đối thủ cạnh tranh.
Cùng một mặt hàng có rất nhiều nhà sản xuất trên thị trường, chính vì vậy mà áp
lực của các đối thủ cạnh tranh là một áp lực thường xuyên và đe dọa trực tiếp đối với
các doanh nghiệp. Khi áp lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp càng tăng thì khả năng
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp càng khó khăn, ngược lại nếu mức độ cạnh tranh
yếu thì đó là cơ hội để doanh nghiệp đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ. Vì vậy việc nghiên cứu
các đối thủ cạnh tranh để có kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp là cần thiết và
không thể thiếu đối với mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Các nhà kinh tế khẳng định rằng cạnh tranh là một động lực phát triển kinh tế, do
sức ép của cạnh tranh buộc các nhà sản xuất phải tìm mọi biện pháp nhằm phát huy thế
mạnh, khắc phục điểm yếu của mình, đánh vào điểm yếu của đối thủ để tiêu thụ sản
phẩm mở rộng thị trường.
1.2.1.5 Nhà cung ứng.
Bất kỳ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào cũng có mối quan hệ đối với các
nhà cung ứng để được cung cấp nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị… phục vụ sản xuất
. Thế nên việc tạo mối quan hệ tốt với các nhà cung ứng là cần thiết, nếu có các mối
quan hệ tốt, có nhiều nhà cung ứng cho doanh nghiệp thì đầu vào của quá trình sản
xuất sẽ được cung cấp liên tục, kịp thời, chất lượng tốt… đảm bảo cho quá trình sản
xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp không bị gián đoạn.
1.2.1.6 Khách hàng.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang
7
Khách hàng là nhân tố quan trọng quyết định thành bại của doanh nghiệp. Nó
càng thể hiện tính quan trọng trong công tác tiêu thụ sản phẩm, có khách hàng thì mới
có tiêu thụ. Vì vậy doanh nghiệp phải đặc biệt quan tâm đến việc nghiêm cứu, tìm hiểu
để luôn luôn đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, phải biến các đối tượng thành
khách hàng của mình.
1.2.2 Nhân tố bên trong.
1.2.2.1 Đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp.
Đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn đến công tác tiêu thụ
sản phẩm. Bởi vì mỗi một loại hình kinh doanh, một lĩnh vực kinh doanh, một chủng
loại sản phẩm sẽ quyết định các phương thức tiêu thụ sản phẩm khác nhau, cho những
đối tượng khách hàng khác nhau trên những thị trường khác nhau. Doanh nghiệp phải
nắm vững và hiểu rõ đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp mình để có những định
hướng chính sách sản xuất và tiêu thụ cho hợp lý.
1.2.2.2 Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật.
Doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động sản xuất kinh doanh tốt khi có đầy đủ các
điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết để phục vụ cho sản xuất. Có điều kiện cơ sở
vật chất kỹ thuật tốt doanh nghiệp còn có thể ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ
thuật hiện đại vào sản xuất, từ đó tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm đồng thời còn tạo
điều kiện tốt phục vụ cho công tác tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy doanh nghiệp phải chú
trọng nâng cao cơ sở vật chất, khoa học công nghệ của mình để không bị già nua so
với các đối thủ cạnh tranh, với sự phát triển của xã hội.
1.2.2.3 Các yếu tố đầu vào.
Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào cũng cần có yếu tố đầu vào để phục vụ
sản xuất đó là: vốn, nguyên vật liệu, lao động, máy móc thiết bị, khoa học kỹ thuật,
thông tin…Đây là những yếu tố hàng đầu quyết định khả năng sản xuất của doanh
nghiệp. Bất kỳ doanh nghiệp nào trước khi bước vào sản xuất kinh doanh cũng phải
chuẩn bị chu đáo các yếu tố đầu vào, tuỳ từng lĩnh vực kinh doanh mà chú trọng đến
yếu tố nào nhiều hơn, ưu tiên cho yếu tố nào trước, yếu tố nào sau. Doanh nghiệp cũng
cần phải có kế hoạch lâu dài để đảm bảo cung cấp các yếu tố đầu vào trong tương laivà
tạo lập các mối quan hệ tốt với các nhà cung ứng.
1.2.2.4 Mục tiêu, chính sách, chiến lược kinh doanh của công ty.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang
8
Cho dù doanh nghiệp có đầy đủ các yếu tố trên nhưng không xác định đúng mục
tiêu, đưa ra những chính sách chiến lược kinh doanh sai thì doanh nghiệp cũng không
thể tồn tại và phát triển lâu dài được.
Xác định được mục tiêu để biết được cần phải làm gì, mục tiêu xuyên suốt của
doanh nghiệp là lợi nhuận nhưng trong từng giai đoạn phát triển khác nhau doanh
nghiệp sẽ có những mục tiêu khác nhau, có thể mục tiêu là thâm nhập thị trường, mở
rộng thị trường, dẫn đầu thị trường…Khi đã xác định được mục tiêu doanh nghiệp cần
đưa ra những chính sách, chiến lược dài hạn, ngắn hạn để cụ thể hóa các công việc cần
làm nhằm đạt được mục tiêu.
1.3 Nội dung của công tác tiêu thụ sản phẩm trong doanh nghiệp.
1.3.1 Nghiên cứu thị trường.
1.3.1.1 Khái niệm về thị trường.
Thị trường ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời của sản xuất hàng hóa, sản
xuất hàng hóa đã phát triển qua nhiều thế kỷ và có rất nhiều quan điểm, khái niệm hiểu
về thị trường khác nhau.
Theo khái niệm cụ thể và phổ biến nhất thì thị trường được hiểu là nơi mua bán
trao đổi hàng hóa giữa người bán và người mua. Theo nghĩa rộng thì thị trường là môi
trường thực hiện các hoạt động thương mại của doanh nghiệp là một trong những yếu
tố cấu thành hoạt động thương mại. Như vậy sự hình thành thị trường có đủ 3 yếu tố
sau:
- Đối tượng tham gia trao đổi : người bán và người mua.
- Đối tượng trao đổi : sản phẩm, dịch vụ.
- Điều kiện trao đổi : khả năng thanh toán.
Qua thị trường chúng ta có thể xác định được mối tương quan giữa cung và cầu
của thị trường về hàng hóa và dịch vụ, hiểu được phạm vi qui mô của việc thực hiện
cung cầu dưới hình thức mua bán hàng hóa dịch vụ trên thị trường.Số lượng người
mua, người bán nhiều hay ít phản ánh qui mô của thị trường lớn hay nhỏ, việc xác định
nên mua hay nên bán hàng hóa và dịch vụ với khối lượng và giá cả bao nhiêu do cung
cầu quyết định.
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hóa, ba vấn đề
cơ bản của kinh tế là : sản xuất sản phẩm gì? sản xuất như thế nào? sản xuất sản phẩm
cho ai? đều được giải quyết thông qua thị trường. Như vậy thị trường có vai trò to lớn
gắn việc sản xuất với tiêu dùng, liên kết nền kinh tế trong nước với các quá trình kinh
tế thế giới. Trong xu hướng mở cửa kinh tế thì việc tìm hiểu thị trường Việt Nam
ngoài mục đích hoạt động thương mại còn nhằm tạo nên mối quan hệ hợp tác hữu nghị
giữa các dân tộc, tạo điều kiện cho các nước hiểu biết về đất nước và con người Việt
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang
9
Nam. Qua đó tạo cơ hội cho chúng ta tiếp cận với nền văn minh nhân loại, học hỏi
cách quản lý có hiệu quả cao.
Thị trường có vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết sản xuất và lưu thông
hàng hóa. Doanh nghiệp phải nhận biết được nhu cầu của thị trường cũng như thế
mạnh của mình trong sản xuất kinh doanh để có chiến lược kế hoạch và phương án
kinh doanh phù hợp đáp ứng được sự đòi hỏi của thị trường. Thị trường có các chức
năng sau:
- Chức năng thừa nhận của thị trường : chức năng này được thể hiện ở chỗ hàng
hóa hay dịch vụ của doanh nghiệp có bán được hay không? nếu bán được có nghĩa là
được thị trường chấp nhận, tức là đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng và quá
trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện.
- Chức năng thực hiện của thị trường : chức năng này được thể hiện ở chỗ thị
trường là nơi diễn ra các hành vi mua bán hàng hóa và dịch vụ.
1.3.1.2 Phân loại thị trường.
Một trong những bí quyết quan trọng nhất để thành công trong kinh doanh là sự
hiểu biết cặn kẽ tính chất của từng thị trường. Phân loại thị trường là cần thiết, là
khách quan để nắm bắt được bản chất của từng thị trường, nhận biết được các đặc
điểm của từng thị trường, xu hướng hình thành và vận động của thị trường, của giá cả.
Có nhiều cách phân loại thị trường theo các tiêu thức khác nhau:
- Phân loại thị trường theo lãnh thổ :
+ Thị trường địa phương. thị trường vùng.
+ Thị trường toàn quốc, thị trường quốc tế.
- Phân loại thị trường theo quan hệ giữa người mua và người bán :
+ Thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
+ Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.
+ Thị trường độc quyền.
- Phân loại thị trường theo mục đích sử dụng hàng hóa :
+ Thị trường tư liệu sản xuất.
+ Thị trường tiêu dùng.
- Phân loại theo mặt hàng mua bán :
+ Thị trường nông sản.
+ Thị trường vật liệu xây dựng.
+ Thị trường tiền tệ…
Do tính chất và giá trị sử dụng của từng mặt hàng, nhóm hàng khác nhau, các thị
trường chịu sự tác động với các mức độ khác nhau của các nhân tố ảnh hưởng.
1.3.1.3 Nội dung và phương pháp nghiên cứu.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang 10
Nghiên cứu thị trường là công việc có ý nghĩa rất quan trọng, nó quyết định sự
tồn tại và phát triển của bất kỳ doanh nghiệp kinh doanh nào. Vì thế công tác nghiên
cứu thị trường phải được tiến hành thường xuyên và liên tục trong suốt quá trình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nội dung nghiên cứu thị trường gồm :
Ø Nghiên cứu đặc điểm của thị trường :
Là chúng ta nghiên cứu tính quy luật của việc hình thành nhu cầu trên thị
trường, kể cả thị trường dễ tính và khó tính. ta biết rằng mỗi quốc gia mỗi khu vực đều
có những luật lệ riêng, thị trường cũng vậy. Nghiên cứu những nguyên tắc những luật
lệ riêng của thị trường, tập quán của thị trường để có biện pháp thâm nhập vào thị
trường và thích ứng được với thị trường đó.
Ø Nghiên cứu nhu cầu người tiêu dùng :
Doanh nghiệp cần nghiên cứu xem qui mô của thị trường lớn hay nhỏ? có các đối
thủ cạnh tranh nào? khối lượng hàng hóa được giao dịch trên thị trường là bao nhiêu?
xu hướng phát triển của thị trường giai đoạn hiện nay và trong tương lai như thế nào?.
Doanh nghiệp cần nghiên cứu những yêu cầu của thị trường đối với hàng hóa
như : chất lượng, chủng loại, mẫu mã bao bì, giá cả, cách sử dụng và bảo quản
Hoạt động tiêu thụ cần nghiên cứu cách thức phân phối trong từng thị trường có
thể là bán hàng trực tiếp hoặc thông qua các trung gian phân phối… để có thể thâm
nhập, mở rộng thị trường mới.
Ø Nghiên cứu xu hướng vận của thị trường :
Là việc nghiên cứu khối lượng hàng hóa sẽ tiêu thụ và giá cả hàng hóa đó trên thị
trường trong tương lai. Kết quả của việc nghiên cứu này sẽ là cơ sở để xây dựng
những chính sách hợp lý cho doanh nghiệp.
Ø Lựa chọn thị trường mục tiêu :
Thị trường mục tiêu của doanh nghiệp là thị trường trọng tâm và có triển vọng
nhất trong các thị trường mà doanh nghiệp muốn xâm nhập, mở rộng. Để lựa chọn
được thị trường mục tiêu, các nhà kinh doanh thường so sánh các thị trường với nhau
theo các tiêu chuẩn sau: lợi nhuận, sản lượng, khả năng cạnh tranh, vị trí thị trường,
yêu cầu về chất lượng, chính sách bảo hộ mậu dịch, khả năng xúc tiến bán hàng,…
Trong thực tiễn kinh doanh người ta thường áp dụng các phương pháp marketing
để điều tra nhu cầu, chủ yếu là điều tra tại chỗ, điều tra hiện trường và phương pháp
bán hàng. Việc áp dụng các phương pháp này được thực hiện thông qua các hình thức
điều tra khách nhau : dùng phiếu điều tra trực tiếp, điều tra tại chỗ thông qua phân tích
tổng hợp các số liệu của doanh nghiệp, phỏng vấn khách hàng,…
1.3.2 Hoạch định chương trình tiêu thụ sản phẩm.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang 11
1.3.2.1 Căn cứ để xác định chương trình tiêu thụ sản phẩm.
Để xác định đúng đắn chương trình tiêu thụ sản phẩm , doanh nghiệp phải dựa
vào các căn cứ chủ yếu sau:
- Nhu cầu thị trường về sản phẩm của doanh nghiệp đã được xác định bao gồm :
đặc điểm sản phẩm, chất lượng, số lượng, cơ cấu, giá cả và thời gian đáp ứng ở hiện
tại và xu thế của nó trong tương lai. Đây là căn cứ quan trọng nhất và có ý nghĩa quyết
định đối với chương trình tiêu thụ.
- Phương án kinh doanh mà doanh nghiệp đã lựa chọn, đặc biệt là các chương
trình sản xuất để triển khai thực hiện.
- Chiến lược và chính sách kinh doanh của doanh nghiệp với tư cách là quan
điểm chỉ đạo, nguyên tắc chi phối chương trình tiêu thụ sản phẩm.
- Các đơn đặt hàng, hợp đồng tiêu thụ đã ký kết, đây là các văn bản có tính pháp
qui cần được tuân thủ một cách nghiêm ngặt để bảo đảm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
và uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng.
- Một số căn cứ khác cần được quan tâm khi hoạch định chương trình tiêu thụ đó
là ; dự kiến về chi phí cho hoạt động marketing, sự thay đổi về tổ chức, mạng lưới bán
hàng, khả năng thu hút thêm khách hàng mới, khả năng mở rộng địa bàn tiêu thụ,
những chính sách điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với sản phẩm mà doanh nghiệp dự
kiến bán.
1.3.2.2 Nội dung của chương trình tiêu thụ sản phẩm.
Thông thường một chương trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp cần đưa ra
các nội dung sau :
Ø Mục tiêu và nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm :
Việc tiêu thụ nhằm thỏa mãn các mục tiêu sau : thâm nhập thị trường mới, mở
rộng thị trường, tối đa hóa lợi nhuận,…Các mục tiêu được lựa chọn và cụ thể hóa
thành những nhiệm vụ chủ yếu sau :
+ Sản lượng bán ra cho từng mặt hàng và cho tất cả các mặt hàng.
+ Doanh số bán cho từng mặt hàng và cho tất cả các mặt hàng, cho từng khách
hàng và cho từng thời kỳ khác nhau.
+ Chi phí bán hàng ; chi phí lưu thông, chi phí cho việc xúc tiến chiêu thị…
Ø Tiến độ bán hàng : Cần hoạch định chi tiết và phải tuân thủ nghiêm ngặt bởi vì tiến
độ bán hàng của doanh nghiệp không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình bán hàng
mà còn ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất và cung ứng.
Ø Điều kiện liên quan đến việc bán hàng : địa điểm giao hàng, phương thức vận
chuyển, phương thức thanh toán, mức chiết khấu.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang 12
Ø Lượng dự trữ cho hàng bán : Việc xác định dự trữ này phụ thuộc vào nhu cầu của
khách hàng, đặc tính của từng loại mặt hàng, lượng hàng hóa tồn kho đầu kỳ kế hoạch
và chương trình sản xuất của doanh nghiệp.
Ø Dự kiến và biến động trong quá trình bán : nội dung của chương trình tiêu thụ sản
phẩm cần phải dự đoán các biến động về phía doanh nghiệp ( gặp khó khăn về cung
ứng nguyên vật liệu, lao động, vốn, …), về phía khách hàng ( không bán được hàng,
hàng bán bị trả lại,…), và những biến động của thị trường để có chương trình dự
phòng và nguyên tắc ứng xử nếu các biến động đó xảy ra.
1.3.3 Tổ chức thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm.
1.3.3.1 Tổ chức mạng lưới, xây dựng hệ thống kênh tiêu thụ.
Tiêu thụ là hoạt động trung gian nối liền sản xuất với tiêu dùng sản phẩm. Trong
cơ chế thị trường thì sản xuất tốt chưa đủ điều kiện để khẳng định khả năng tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp, mà còn phải biết tổ chức tốt công tác tiêu thụ sản phẩm.
Một trong những nội dung chủ yếu của công tác tiêu thụ sản phẩm là tổ chức mạng
lưới bán hàng. Mạng, lưới bán hàng của doanh nghiệp là tập hợp các kênh phân phối
nối liền giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng.
Hệ thống kênh tiêu thụ có thể phân chia thành :
- Kênh tiêu thụ trực tiếp : người sản xuất bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng
- Kênh tiêu thụ gián tiếp : người sản xuất không bán hàng trực tiếp cho người tiêu
dùng mà thông quac các trung gian khác. Kênh tiêu thụ gián tiếp được chia thành
nhiều hệ thống với các kênh trung gian khác nhau.
Do đó vấn đề khó khăn nhất là phải tìm cho ra cách phân phối nào cho phù hợp
và có hiệu quả nhất với điều kiện và khả năng của doanh nghiệp. Việc nghiên cứu các
kênh phân phối hiện có và chọn một kênh hay nhiều kênh phù hợp nhất với sản phẩm
là vấn đề then chốt mà doanh nghiệp cần phải giải quyết.
Một chính sách phân phối hợp lý sẽ làm cho quá trình kinh doanh được an toàn,
tăng cường khả năng liên kết trong kinh doanh, giảm được cạnh tranh và làm cho quá
trình lưu thông hàng hóa nhanh và hiệu quả vì nó có sự kết hợp giữa nhá sản xuất với
các nhà trung gian để tổ chức vận động hàng hóa tốt nhất nhằm thỏa mãn tối đa nhu
cầu của khách hàng.
Có sự khác biệt lớn giữa các kênh phân phối là chiều dài của chúng. Một kênh
phân phối ngắn chỉ có một trung gian hoặc doanh nghiệp bán hành trực tiếp cho người
tiêu dùng. Kênh phân phối dài có nhiều trung gian. Các kênh phân phối ngắn có điều
kiện tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng từ đó có thể hiểu nhu cầu và đáp ứng nhu
cầu của khách hàng kịp thời và tốt hơn, dường như ít tốn kém hơn. Tuy nhiên các kênh
phân phối dài là cần thiết và hiệu quả hơn vì doanh nghiệp ít hiểu biết về đặc điểm của
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang 13
thị trường hơn so với các trung gian, không đủ nhân viên để tổ chức bán hàng trực
tiếp,…
Các kênh phân phối có thể biểu thị bằng số lượng cấp độ của nó, mỗi trung gian
sẽ tạo một cấp độ. Ta có thể khái quát mô hình của các kênh trong hoạt động kinh
doanh như sau
Sơ đồ 01 : Mô hình các kênh phân phối trong hoạt động kinh doanh.
Qua mô hình trên ta thấy có 2 kênh phân phối ngắn là kênh phân phối trực tiếp và
kênh cấp 1, và có 2 kênh phân phối dài là kênh cấp 2 và kênh cấp 3. Như vậy mạng
lưới bán hàng của doanh nghiệp được cấu thành bởi các yếu tố :
- Người sản xuất : được coi là người bán thứ nhất, họ bán cái chính họ sản xuất
ra, điểm xuất phát của quá trình vận động hàng hóa là nơi sản xuất.
- Người tiêu dùng : là người sử dụng sản phẩm mua được để thỏa mãn nhu cầu
của họ.
- Người bán buôn : là người bán hàng hoạt động thương mại thuần túy. Đặc trưng
cơ bản của người bán buôn là mua bán với khối lượng lớn một loại hàng hóa nào đó.
Kênh
trực
tiếp
Kênh
cấp 1
Kênh
cấp 2
Kênh
cấp 3
Nhà sản
xu
ất
Người tiêu dùng
cuối cùng
Nhà sản
xu
ất
Người
bán l
ẻ
Người tiêu dùng
cuối cùng
Nhà sản
xu
ất
Người
bán buôn
Người
bán l
ẻ
Người tiêu dùng
cuối cùng
Nhà sản
xu
ất
Người
bán buôn
Người
môi gi
ới
Người
bán l
ẻ
Người tiêu
dùng cuối cùng
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang 14
Người bán buôn thường có kế hoạch lớn, có trường hợp họ khống chế thị trường và có
khả năng chi phối người sản xuất và người bán lẻ.
- Đại lý : là một loại hình kinh doanh làm chức năng trung gian trong quá trình
vận động của hàng hóa. Đối với công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp cần quan
tâm đến đại lý trên thị trường chứ không phải các nhà bán buôn hay bán lẻ.
- Người môi giới là yếu tố cần thiết trong mạng lưới tiêu thụ của doanh nghiệp
bởi vì trong quan hệ cung cầu của thị trường và sự bất lực của người mua và người bán
trong việc nắm bắt nhanh nhạy và chính xác thông tin trên thị trường.
1.3.3.2 Định giá bán sản phẩm.
Việc định giá sản phẩm đứng dắn là công việc cực kỳ quan trọng đối với các
doanh nghiệp nhằm đảm bảo kinh doanh có lãi chiếm lĩnh thị trường và có hiệu quả
cao. Tuy nhiên giá cả chịu sự tác động của nhiều nhân tố, sự hình thành và vận động
của nó rất phức tạp, việc xác lập một mức giá hợp lý đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn
đề, không có một công thức chung nào lập sẵn để có thể áp dụng mãi mãi cho một
mức giá cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thường định giá bán sản
phẩm theo các phương thức sau:
- Định giá sản phẩm theo chi phí : theo cách định giá nay doanh nghiệp sẽ dựa
trên cơ sở tính toán theo chi phí bỏ ra để sản xuất ra sản phẩm và ấn định một khoản
lợi nhuận nhất định tùy theo mục tiêu, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
- Định giá theo đối thủ cạnh tranh : phương pháp định giá này thường được sử
dụng khi doanh nghiệp muốn thâm nhập thị trường, doanh nghiệp sẽ dựa theo giá sản
phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh để đưa ra mức giá cho sản phẩm của mình. Tuy
nhiên doanh nghiệp cũng sử dụng cách định giá cao hơn, hoặc thấp hơn giá của đối thủ
tùy theo chiến lược kinh doanh trong từng giai đoạn và trong từng thị trường khác
nhau…
1.3.4 Một số công cụ góp phần đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm.
1.3.4.1 Chính sách sản phẩm.
Trong kinh doanh sản phẩm được hiểu là những hàng hóa, dịch vụ có khả ăng
thỏa mãn nhu cầu của khách hàng do nhà kinh doanh tiến hành sản xuất, chế biến hoặc
khai thác và bán ra thông qua thị trường.
Việc xác định chính sách sản phẩm có liên quan chặt chẽ đến hai vấn đề cơ bản
sau đây :
- Toàn bộ sản phẩm của doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh trên thị trường
được chấp nhận ở mức độ nào? Loại nào cần hoàn thiện và đổi mới? loại nào cần hạn
chế và hủy bỏ để đáp ứng kịp thời yêu cầu của thị trường.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang 15
- Đối với sản phẩm mới nên khai thác theo hướng nào? lúc nào cần tung ra thị
trường và với số lượng bao nhiêu?
Hướng vào hai vấn đề trên, chính sách sản phẩm của công ty được xây dựng hàm chứa
những nội dung chủ yếu sau : Xác định vòng đời của sản phẩm, phân tích sản phẩm
và khả năng thích ứng của thị trường, tạo uy tín cho sản phẩm, phát triển sản phẩm
mới.
Ø Xác định vòng đời của sản phẩm :
Vòng đời của sản phẩm là khoảng thời gian kể từ khi sản phẩm xuất hiện cho đến
khi sản phẩm biến mất trên thị trường nào đó. Để xác định vòng đời của sản phẩm
nhất thiết phải gắn sản phẩm ấy với một vòng đời cụ thể bởi vì một sản phẩm có thể
được xem là sản phẩm hiện có ở thị trường này nhưng lại là sản phẩm mới ở thị trường
khác, có nghĩa là sản phẩm có thể đang nằm ở các giai đoạn khác nhau trong vòng đời
của sản phẩm đối với những thị trường khác nhau.
Trong quá trình phân tích vòng đời sản phẩm điều quan trọng nhất là phải xác
định được sản phẩm đang nằm trong giai đoạn nào để phán đoán và định hướng đúng
trong tương lai hoặc lựa chọn thị trường cho sản phẩm. Trong kinh doanh người ta
thường dựa vào doanh số, lợi nhuận làm chỉ tiêu để nhận biết các giai đoạn trong vòng
đời của sản phẩm.
Ø Phân tích sản phẩm và khả năng thích ứng với thị trường ;
Khách hàng mua hàng là mua những cái mà họ cần chứ không phải những gì mà
nhà sản xuất có.Vì vậy muốn kinh doanh có lãi, nhà sản xuất phải nắm bắt chính xác ý
muốn của khách hàng để xem xét sản phẩm của mình trên thị trường hiện có đáp ứng
được yêu cầu của họ hay không? Để làm được điều này trong hoạt động sản xuất kinh
doanh công ty nhất thiết phải tiến hành thường xuyên việc phân tích sản phẩm và tìm
hiểu khả năng thích ứng của nó với thị trường đến đâu.
Công tác phân tích sản phẩm và khả năng thích ứng của nó đối với thị trường bao
gồm những nội dung chủ yếu sau :
- Đánh giá khả năng và mức độ thành công của sản phẩm trên thị trường.
- Phát hiện những khuyết tật về nội dung và hình thức sản phẩm để thay đổi hay
cải tiến.
- Đánh giá tình hình thích ứng của sản phẩm với thị trường và vạch ra những
phương pháp kiểm tra để tìm hiểu sự chấp nhận của khách hàng đối với sản phẩm.
- Phát hiện những cơ hội bán hàng và khai thác triệt để những cơ hội đó.
Trong thực tế không có gì đảm bảo chắc chắn cho nhà sản xuất rằng sản phẩm
của mình tung ra thị trường, được khách hàng chấp nhận là tiếp tục thành công; trừ
trường hợp doanh nghiệp không ngừng nâng cao cải tiến chất lượng và thường xuyên
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang 16
tổng kết đánh giá kịp thời những mặt mạnh mặt yếu của sản phẩm. Vì vậy, việc phân
tích sản phẩm và khả năng thích ứng của sản phẩm trên thị trường là rất cần thiết nó
giúp nhà sản xuất tránh được những chi phí không cần thiết và tạo được chỗ đứng cho
sản phẩm trên thị trường.
Khi quyết định đưa vào sản xuất một loại sản phẩm, doanh nghiệp cần trả lời các
câu hỏi như: Sản phẩm của mình sản xuất ra có chỗ đứng trên thị trường hay không?
Có bao nhiêu đối thủ cạnh tranh? cách thức cạnh tranh đối với các sản phẩm khác như
thế nào? Làm thế nào để khách hàng mua sản phẩm của doanh nghiệp mà không mua
của các doanh nghiệp khác?
Ø Vấn đề tạo uy tín cho sản phẩm.
Để tạo uy tín cho sản phẩm doanh nghiệp thường quan tâm đến những vấn đề sau
+ Nhãn hiệu sản phẩm :
Khách hàng có thói quen sử dụng những sản phẩm mà mình đã quen biết hoặc
sản phẩm chưa biết nhưng do được người khác ca ngợi. Trong chính sách sản phẩm
doanh nghiệp cần phải biết đánh vào yếu tố tâm lý này để tiêu thụ và tạo uy tín cho sản
phẩm .
Trọng tâm của quá trình tạo uy tín cho sản phẩm là tạo ra những hàng hóa có
nhãn hiệu, củng cố nhãn hiệu đã có và bảo vệ nhãn hiệu cho sản phẩm của doanh
nghiệp mình. Các nhãn hiệu được ghi ngay trên bao bì hoặc ghi trên các phương tiện
quảng cáo, trên các hóa đơn, thư tín thương mại của công ty…Nhãn hiệu sản phẩm
vừa mang tính độc quyền đối với khách hàng vừa mang tính cạnh tranh đối với đối thủ
cạnh tranh. Muốn được pháp luật bảo vệ nhãn hiệu thì doanh nghiệp phải đăng ký
nhãn hiệu với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, những hàng hóa đã được đăng ký
nhãn hiệu phải bảo đảm đầy đủ tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký. Sau khi đăng ký
doanh nghiệp phải đặc biệt lưu tâm củng cố nhãn hiệu bằng cách không để xảy ra tình
trạng gián đoạn trong việc cung ứng sản phẩm trên thị trường, đồng thời theo dõi phát
hiện hàng giả kịp thời báo cho các cơ quan có thẩm quyền để đựoc bảo vệ nhãn hiệu
sản phẩm của mình.
- Bao bì đóng gói sản phẩm :
Theo quan điểm của marketing, bao bì sản phẩm được hiểu là vật mang trong nó
tính lôi cuốn và khêu gợi sự hấp dẫn của sản phẩm đối với khách hàng. nó được xem
nư là sản phẩm vừa mang tính nghệ thuật vừa mang tính khoa học. Trong chính sách
sản phẩm các doanh nghiệp cần chú ý nhiều hơn đến công tác bao bì, đóng gói sản
phẩm. Ngày nay, đối với hầu hết hàng hóa trên thị trường, bao bì được xem là một tiêu
chuẩn chất lượng và là một phương tiện quan trọng trong việc tạo uy tín cho sản phẩm
trên thương trường.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang 17
Bao bì có hai chức năng cơ bản sau : Bảo vệ sản phẩm và truyền đạt lượng thông
tin về sản phẩm. căn cứ vào hai chức nâng này công tác bao bì cần chú ý đến những
yêu cầu chủ yếu sau :
+ Bao bì phải đảm bảo chất lượng sản phẩm chứa bên trong, không để hư hỏng,
đổ vỡ trong quá trình vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản, tiêu thụ và trong những điều kiện
thời tiết khác nhau.
+ Bao bì phải đẹp mắt, hấp dẫn thích hợp với chủng loại sản phẩm, phong tục tập
quán, tiêu chuẩn, luật lệ, tôn giáo, văn hóa của từng thị trường
+ Bao bì phải truyền đạt đầy đủ lượng thông tin cần thiết về sản phẩm như : ghi
rõ nơi sản xuất, số lượng, chất lượng, giá cả, thành phần sản phẩm, thời hạn sử dụng,
cách bản quản, thời gian bảo hành…
+ Bao bì cần phải đảm bảo tính thuận tiện trong việc bảo quản và cách sử dụng (
cách đóng, mở, tháo gỡ sản phẩm ).
Công tác bao bì đóng gói sản phẩm có những đòi hỏi rất nghiêm ngặt. Vì vậy,
cần phải nghiên cứu xem xét và lựa chọn bao bì thích hợp cho từng loại sản phẩm cụ
thể.
Ø Phát triển sản phẩm mới :
Sản phẩm mới theo nghĩa khái quát nhất là những sản phẩm lần đầu tiên xuất
hiện trên thị trường. Theo nghĩa này sản phẩm mới có khả năng thỏa mãn tốt hơn nhu
cầu của thị trường so với sản phẩm hiện có.
Nếu xem xét trong phạm vi một doanh nghiệp thì sản phẩm mới là sản phẩm lần
đầu tiên được doanh nghiệp tiến hành sản xuất và kinh doanh. Theo nghĩa đó sản phẩm
mới là loại sản phẩm hoàn toàn mới do kết quả phát hiện của kỹ thuật và công nghệ
trong quá trình sản xuất của công ty, hoặc những sản phẩm được sản xuất theo mẫu
của công ty khác, hoặc sản phẩm đã xuất hiện trên thị trường nào đó nhưng là lần đầu
tiên xuất hiện trong thị trường này.
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay, vòng đời của
sản phẩm bị rút ngắn lại vì thế yêu cầu nghiên cứu tạo ra sản phẩm mới là đặc biệt cần
thiết cho mỗi doanh nghiệp. Đây là một xu hướng tất yếu mà doanh nghiệp nào muốn
tồn tại và phát triển cũng đều phải hết sức cố gắng. phát triển sản phẩm mới được thực
hiện theo các bước chủ yếu sau :
- Định ra chính sách sản phẩm mới.
- Thẩm tra phương án sản phẩm mới.
- Đưa sản phẩm mới vào sản xuất.
- Đưa sản phẩm mới vào thị trường.
- Thu thập thông tin phản hồi của khách hàng về sản phẩm mới.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang 18
Thực tế trong kinh doanh, sự biến động của nhu cầu và sự biến động của thị
trường là vô cùng phức tạp, doanh nghiệp không thể nào dự đoán hết trước được thế
nên cần có chiến lược kinh doanh nhạy bén, linh hoạt và năng động sẵn sàng đối diện
với những biến động có thể xảy ra.
1.3.4.2 Chính sách giá.
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa và dịch vụ. Nó là một yếu tố cơ
bản trong marketing và giữ vai trò quyết định trong việc mua hàng hóa này hay hàng
hóa khác, trong việc thực hiện mối qua nhệ bán mua.
Giá cả còn là một trong bốn công cụ quan trọng của marketing là : sản phẩm, giá
cả, phân phối, xúc tiến. Nó xác định phương hướng hoạt động của marketing trong sự
phối hợp giữa sản xuất và thị trường, nhằm thực hiện nhiệm vụ cơ bản của marketing
là không ngừng thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng, đạt doanh số cao với lợi nhuận tối đa.
Về nguyên tắc, trong marketing chính sách giá cả được xây dựng theo hai định
hướng đó là định hướng vào doanh nghiệp và định hướng vào thị trường. Xây dựng
chính sách giá định hướng vào doanh nghiệp chủ yếu dựa vào các nhân tố bên trong
doanh nghiệp tức là những nhân tố chủ quan có thể kiểm soát được như : chi phí sản
xuất, chi phí bán hàng, chi phí yểm trợ marketing… Trong chính sách địng hướng vào
thị trường, những nhân tố khách quan giữ vai trò chủ yếu đó là : quan hệ thị trường,
cạnh tranh trên thị trường, sự biến động cung cầu… Thực tế thì việc xây dựng chính
sách giá cả là một nghệ thuật vì bản thân giá cả là một yếu tố rất nhạy cảm và biến
động phức tạp, doanh nghiệp cần phải biết nắm bắt và vận dụng những quy luật của thị
trường trong chiến lược của mình.
1.3.4.3 Chính sách phân phối.
Bất kỳ doanh nghiệp nào đã tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì đều
nghĩ đến khả năng tiêu thụ hàng hóa sau khi sản xuất ra sẽ tiêu thụ trê thị trường nào?
theo kênh phân phối nào? qua những tầng nânc trung gian nào? có đáp ứng được nhu
cầu của người tiêu dùng hay không?
Để giải đáp được những câu hỏi này doanh nghiệp phải đề ra cho mình một chính
sách phân phối sao cho hợp lý nhất và khả thi nhất. Một chính sách được coi là hợp lý
khi nó phản ánh được sự phối hợp chặt chẽ về mặt không gian và thời gian giữa các
thành phần trung gian, xác định hợp lý các phương tiện kỹ thuật phục vụ khâu kinh
doanh, lựa chọn chính xác người phân phối, địa điểm phân phối, tổ chức tiếp cận
thông tin kịp thời và chuẩn xác nhằm đảm bảo kênh phân phối được trôi chảy không bị
tắc nghẽn. Có một kênh phân phối hợp lý không chỉ có tác dụng đơn thuần là nâng cao
khả năng cung ứng hàng hóa mà nó còn có tác dụng kích thích sự tăng trưởng nhu cầu
trên thị trường. Vì vậy, chính sách phân phối được xem là một công cụ tích cực và có
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang 19
hiệu quả trong việc kích thích và phát triển sản xuất hàng hóa gắn với người tiêu
dùng, điều chỉnh và quản lý các mối quan hệ cung cầu trên thị trường, tạo ra sự liên
kết kinh tế giữa các vùng lãnh thổ hình thành một thị trường thống nhất trong cả nước.
Việc vận chuyển hàng hóa tới tay người tiêu dùng có thể thông qua các phương
thức : bán hàng trực tiếp, bán buôn, bán lẻ, dùng các đại lý, cửa hàng…Vấn đề kho
khăn nhất là phải tìm ra cách phân phối nào là phù hợp và có hiệu quả nhất.
1.3.4.4 Chính sách xúc tiến.
Ø Quảng cáo :
Quảng cáo là một hình thức hoạt động thông tin về sản phẩm hoặc dịch vụ của
nhà sản xuất cho các thành phần trung gian trong kênh phân phối hoặc cho người tiêu
dùng của cùng những phương tiện truyền thông đại chúng trong một không gian và
gian nhất định.
Trên quan điểm marketing, quảng cáo trước tiên phải thể hiện sự quan trọng đối
với khách hàng, điều đó có nghĩa là quảng cáo phải phản ánh thông tin về sản phẩm
hoặc dịch vụcủa nhà sản xuất đến với khách hàng một cách trung thực và chuẩn xác.
Sự lừa bịp về những thông tin quảng cao sẽ dẫn đến sự sụp đổ lòng tin ở người tiêu
dùng và sẽ kéo theo những hậu quả nặng nề trong thương trường cạnh trạnh.
Trong cơ chế thị trường, quảng cáo là một công cụ marketing, là phương tiện của
bán hàng. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sản xuất hàng hóa ngày càng phong
phú, nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng đa dạng nên quảng cáo ngày càng giữ vai
trò to lớn trên các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhờ có quảng cáo mà hàng hóa
bán được với số lượng nhiều hơn, doanh nghiệp có đông khách hàng hơn. Thông qua
quảng cáo mà nhà sản xuất hiểu được nhu cầu của thị trường và quảng cáo còn là một
công cụ tích cực hỗ trợ cho cạnh tranh.
Có nhiều hình thức để quảng cáo, tùy thuộc vào đặc điểm loại sản phẩm, tùy
thuộc vào mục đích quảng cáo, đối tượng quảng cáo… mà doanh nghiệp lựa chọn các
phương tiện quảng cáo sau : truyền hình, đài phát thanh, báo, tạp chí, quảng cáo ngoài
trời, quảng cáo qua thư trực tiếp…
Ø Dịch vụ sau bán hàng :
Tổ chức các hoạt động dịch vụ sau bán hàng là điều kiện không thể thiếu để
doanh nghiệp duy trì, củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tổ chức tốt
hoạt động này chính là phương tiện hữu hiệu để khách hàng không chỉ mua hàng cua
doanh nghiệp một lần mà là nhiều lần, yêu cầu chung đối với hoạt động sau bán hàng
là đảm bảo nhanh chóng, thuận tiện, không được gây khó chịu cho khách hàng. Một số
hình thức của hoạt động dịch vụ sau bán hàng như : hướng dẫn bảo hành, cung cấp sản
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang 20
phẩm đến tận nhà miễn phí, lắp đặt tận nhà theo yêu cầu của khách hàng, giải đáp các
ý kiến phản hồi của khách hàng…
Ø Khuyến mãi :
Bên cạnh quảng cáo và dịch vụ hậu mãi thì khuyến mãi là hoạt động chiến lược
rất hay được các doanh nghiệp sử dụng trong chiến lược kinh doanh của mình. Tuy
nhiên, doanh nghiệp cần phải phối hợp chặt chẽ 3 hoạt động này với nhau thì mới
mang lại hiệu quả cao. Mục đích của khuyến mãi của các doanh nghiệp thường là :
thúc đẩy hỗ trợ và khuyến khích nỗ lực bán hàng của lực lượng bán hàng, động viên
những người trung gian hỗ trợ một cách nhiệt tình và tích cực trong việc tiếp thị sản
phẩm của công ty, khuyến khích người tiêu dùng thử hoặc tiếp tục sử dụng những sản
phẩm cụ thể của công ty.
Để đạt được hiệu quả tốt nhất, chương trình khuyến mãi nên bao hàm các hoạt
động khuyến mãi được thiết kế, phối hợp sắp xếp thời gian và thực hiện cẩn thận gắn
với các mục tiêu của từng đối tượng :
+ Khuyến mãi đối với lực lượng bán hàng.
+ Khuyến mãi đối với người trung gian.
+ Khuyến mãi đối với người tiêu dùng.
Khuyến mãi thường được thực hiện với các hoạt động cụ thể như : tặng kèm các món
quà ( áo, mũ, bút, túi xách, vé xem phim…), các chương trình bốc thăm trúng thưởng
với các món quà hấp dẫn, tăng thêm khối lượng sản phẩm với giá cả không đổi, giảm
giá hàng bán,… .Đối với các đại lý, các nhà phân phối thì được hưởng hoa hồng cao
trên doanh số bán ra.
Ø Các hoạt động giới thiệu sản phẩm :
¨ Tham gia hội trợ triển lãm : Trong hoạt động thương mại này, tổ chức tham gia
hội chợ giữ vai trò hết sức quan trọng. đây là nơi trưng bày sản phẩm của nhiều doanh
nghiệp đến từ nhiều nơi khác nhau trong cả nước và các nước bạn, là nơi gặp gỡ giữa
người mua và người bán. Hội chợ là nơi thích hợp cho việc trưng bày giới thiệu hàng
hóa và thiết lập cá mối quan hệ kinh tế, tìm hiểu thị trường, tìm hiêu đối thủ cạnh
tranh. Phương châm của người tham gia hội chợ là phải chọn đúng sản phẩm, tham gia
đúng hội chợ và tiến hành đứng thủ tục. Qua hội chợ tạo hình ảnh của công ty, lấy ý
kiến thăm dò, tìm đối tác làm đại lý, mở rộng thị trường.
¨ Cửa hàng giới thiệu sản phẩm : Kinh doanh càng phát triển thì cửa hàng giới
thiệu sản phẩm càng cần thiết và chiếm vị trí càng quan trọng, bởi vì nó có chức năng
cơ bản sau : quảng cáo,yểm trợ và bán hàng. Quảng cáo thông qua cửa hàng giới thiệu
sản phẩm không chỉ đơn thuần là giới thiệu các mặt hàng mà quan trọng hơn là thông
qua đó để khuyếch trương mặt hàng, gợi mở nhu cầu. Thông qua cửa hàng để yểm trợ
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang 21
cho sản phẩm xâm nhập vào thị trường , nâng cao uy tín sản phẩm . Cửa hàng giới
thiệu sản phẩm tốt sẽ thu hút được thêm nhiều khách hàng mới, giới thiệu được sản
phẩm mới tạo nên những hình ảnh có lợi để nâng cao uy tín cho doanh nghiệp.Trên cơ
sở đó, đẩy mạnh tiêu thụ, tăng doanh số và lợi nhuận của công ty.
¨ Giao tế : Giao tế có vai trò là một hoạt động xây dựng xây dựng và nâng cao
một hình ảnh tích cực về doanh nghiệp trong các giới có liên quan. Giao tế tìm cách
thuyết phụcnhững người thuộc các giới có liên quan rằng doanh nghiệp là một tổ chức
hấp dẫn và họ nên giao dịch kinh doanh với doanh nghiệp. Mục tiêu này khác với mục
tiêu chính của các thành phần tiêu thụ khác ở chỗ nỗ lực này tìm cách thuyết phục và
nâng cao một hình ảnh nhãn hiệu hay hình ảnh sản phẩm, và bằng cách đó thuyết phục
khách hàng mua một sản phẩm cụ thể. Dĩ nhiên là một hình ảnh thuận lợi về doanh
nghiệp trong tâm trí khách hàng sẽ trợ giúp ở một mức độ lớn trong việc đi đến quyết
định mua cuối cùng. thực tế đây rõ ràng là một trong các mục tiêu bên trong của bất kỳ
doanh nghiệp nào. Do đó giao tế là một biện pháp xúc tiến gián tiếp, và các nỗ lực xúc
tiến chiêu thị sản phẩm có hiệu quả sẽ giúp phần đánh bóng thêm sản phẩm của doanh
nghiệp. tuy nhiên, nếu hình ảnh doanh nghiệp và hình ảnh sản phẩm hòa hợp với nhau
thì quyết định mua sản phẩm sẽ trở nên dễ dàng hơn.
1.4 Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá tình hình tiêu thụ.
1.4.1 Chỉ tiêu phân tích sự biến động khối lượng sản phẩm tiêu thụ.
Chỉ tiêu này dùng để xem xét, đánh giá sự biến động về khối lượng sản phẩm
tiêu thụ của doanh nghiệp và từng sản phẩm qua các năm, đồng thời xem xét môiứ qua
hệ giữa cân đối giữa dự trữ, sản xuất và tiêu thụ nhằm thấy được khái quát tình hình
tiêu thụ và những nguyên nhân ban đầu ảnh hưởng đến tình hình đó.
Q
TT
= Q
SX
+ Q
1
- Q
2
Trong đó : Q
TT
: là khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ.
Q
SX
: là khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ.
Q
1
: là khối lượng sản phẩm tồn đầu kỳ.
Q
2
: là khối lượng sản phẩm tồn cuối kỳ.
1.4.2 Phân tích sự biến động chất lượng sản phẩm tiêu thụ.
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá sự tăng giảm về giá trị của sản phẩm tiêu thụ, từ
đó kết hợp với sự tăng giảm về khối lượng để đánh giá mức độ tiêu thụ của doanh
nghiệp, những nỗ lực của doanh nghiệp trong việc giảm giá thành và sự biến động của
thị trường.
1.4.3 Chỉ tiêu hoàn thành kế hoạch tiêu thụ sản phẩm.
Chỉ tiêu này cho biết thực tế doanh nghiệp đã tiêu thụ được bao nhiêu phần trăm
so với kế hoạch đề ra, có đạt được kế hoạch đề ra hay không?
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang 22
Mức độ hoàn thành =
1.4.4. Chỉ tiêu về hoạt động tiêu thụ trong doanh nghiệp.
v Số vòng quay các khoản phải thu (V
PT
):
V
PT
=
Ý nghĩa : Cho biết mức độ hợp lý của số dư các khoản phải thu và hiệu quả của
việc thu hồi nợ. Nếu số vòng luân chuyển các khoản phải thu càng cao thì doanh
nghiệp ít bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên số vòng này quá cao sẽ không tốt vì ảnh
hưởng đến khối lượng tiêu thụ do phương thức thanh toán quá chặt chẽ.
v Kỳ thu tiền bình quân ( K
PT
) :
K
PT
=.
Ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết để thu được các khoản phải thu doanh nghiệp cần
một khoảng thời gian là bao nhiêu. Nếu số ngày càng lớn thì việc thu hồi các khoản
phải thu càng chậm và ngược lại. Tuy nhiên kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp
chưa thể kết luận chắc chắn được mà phải xem xét cùng với mục tiêu và chính sách
của doanh nghiệp như mục mở rộng thị trường, chính sách tín dụng của doanh
nghiệp.
v Vòng quay hàng tồn kho (V
TK
) :
V
TK
=
Ý nghĩa : Vòng quay vốn hàng tồn kho càng cao càng chứng tỏ doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả, công tác tiêu thụ tốt, rút ngắn được chu kỳ chuyển đổi hàng dự
trữ thành tiền mặt và giảm bớt nguy cơ hàng dự trữ của doanh nghiệp trở thành
hàng ứ đọng, giảm được vốn đầu tư dự trữ.
v Kỳ luân chuyển hàng tồn kho ( K
TK
) :
K
TK
=
Ý nghĩa : chỉ tiêu này cho biết để hàng tồn kho quay được một vòng thì phải cần
một khoảng thời gian bình quân là bao nhiêu ngày. Nếu số ngày càng lớn thì việc
Sản lượng tiêu thụ thực t ế
Sản lượng tiêu thụ kế hoạch
x 100
Doanh thu
Các khoản phải thu bình quân
Số ngày trong kỳ
Các khoản phải thu
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho bình quân
Số ngày trong kỳ
Số vòng quay hàng tồn kho
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang 23
quay vòng hàng tồn kho chậm, điều này cũng đồng nghĩa với việc dự trữ nguyên
nhiên vật liệu trong kho là quá mức hoặc hàng hóa trong doanh nghiệp tồn kho quá
nhiều và ngược lại.
v Vòng quay tổng vốn ( V
TV
) :
V
TV
=
Ý nghĩa : cho biết trong kỳ kinh doanh, bình quân một đồng vốn đua vào kinh
doanh thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần.
1.4.5 Lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận.
v Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thuần :
.
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thuần =
Ý nghĩa : Trong một kỳ kinh doanh cứ 100 đồng doanh thu thuần thu được từ hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, thì có bao nhiêu đồng là lợi nhuận sau thuế.
Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả công tác tiêu thụ sản phẩm và hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp càng cao.
v Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản ( ROA) :
ROA =
Ý nghĩa : Trong kỳ kinh doanh, bình quân cứ 100 đồng vốn đưa vào hoạt động sản
xuất kinh doanh thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
v Tỷ suất lợi nhuận trên nguồn vốn chủ sở hữu ( ROE ) :
ROE =
Ý nghĩa : Trong kỳ kinh doanh, bình quân cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu đưa vào
hoạt động sản xuất kinh doanh thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
1.4.6 Hiệu quả sử dụng chi phí trong tiêu thụ.
v Doanh thu thuần trên chi phí tiêu thụ = .
Ý nghĩa : chỉ tiêu này cho biết trong kỳ kinh doanh cứ 100 đồng chi phí tiêu thụ thì
tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần.
Doanh thu thuần
Vốn kinh doanh bình quân
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản bình quân
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân
Doanh thu tiêu thụ
Chi phí tiêu thụ
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang 24
v Chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế trên chi phí tiêu thụ =
Ý nghĩa : cho biết trong kỳ kinh doanh, cứ 100 đồng chi phí tiêu thụ thì tạo ra bao
nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
v Chỉ tiêu chi phí tiêu thụ trên tổng chi phí =
Ý nghĩa : cho biết trong kỳ kinh doanh, cứ 100 đồng chi phí bỏ ra thì có bao nhiêu
đồng chi phí tiêu thụ.
1.5 Tình hình sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm đồ hộp và xu hướng trong tương lai
Sử dụng các sản phẩm đồ hộp trong các bữa ăn đã được các nước trên thế
giới ưa chuộng từ rất lâu. Bởi với sản phẩm đóng hộp người tiêu dùng thường kỳ vọng
ở bốn điểm chính : Tiện lợi, nhanh chóng khi chế biến, an toàn khi sử dụng, hợp khẩu
vị. với những đặc điểm này của đồ hộp người ta không phải bận tâm tốn nhiều thời
gian cho công việc bếp núc mà dành nhiều thời gian hơn cho công việc, giải trí.
Ở Việt Nam thì sản phẩm chế biến đóng hộp trong những năm trước đây ít được
người tiêu dùng sử dụng do đặc điểm nước ta là nước nông nghiệp, hơn 80% người
dân ở nông thôn. Người dân quen dùng sản phẩm tươi sống do mình làm ra và một
phần do giá cả sản phẩm đồ hộp thường cao hơn so với sản phẩm tươi sống, người tiêu
dùng không quen với sủ dụng thực phẩm đồ hộp, với lại ta thấy chỉ cần ra chợ mua
thực phẩm tươi về chế biến vừa có bữa ăn ngon vừa rẻ tiền hơn so với đồ hộp. Phần
lớn người tiêu dùng e ngại rằng các loại thực phẩm công nghiệp đều có chất bảo quản
và chứa trong hộp, chai, lọ lâu ngày không biết có đảm bảo dinh dưỡng và phù hợp với
sức khỏe gia đình. Sản phẩm đồ hộp thường dùng trong quân đội, dùng để cứu trợ khi
có thiên tai, dùng khi đi cắm trại, picnich, và một số người độc thân,…
Nhưng từ năm 2000 trở lại đây, khi mức sống của người dân được nâng cao, con
người làm việc chuyển sang tác phong công nghiệp thì có những thay đổi đáng kể
trong quan niệm tiêu thụ sản phẩm đồ hộp. Thị trường thực phẩm đóng hộp đã có
những tăng trưởng ổn định ở mức trung bình từ 10% - 15%. Trên thị trường không chỉ
xuất hiện nhiều nhà sản xuất mới làm tăng thêm tính đa dạng của sản phẩm đồ hộp mà
những công nghệ mới về bao bì được mạnh dạn áp dụng và được người tiêu dùng chấp
nhận. Hơn nữa ngày nay sản phẩm đồ hộp không chỉ đơn thuần được đựng trong các
hộp kim loại mà đã có những ứng dụng kỹ thuật mới. Đơn cử là việc sử dụng công
nghệ mới trong bảo quản thực phẩm tiệt trùng. Điều này đã góp phần làm thay đổi
quan niệm của người tiêu dùng về đồ hộp về góc độ sức khỏe, người tiêu dùng đã hiểu
Lợi nhuận sau thuế
Chi phí tiêu thụ
Chi phí tiêu thụ
Tổng chi phí
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Trang 25
rằng : thời hạn bản quản đồ hộp không phải đạt được nhờ sự lạm dụng chất phụ gia mà
nhờ công nghệ thanh trùng.
Theo ông Nguyễn Anh Tuấn - phó Tổng Giám đốc Thị trường công ty Cổ Phần
Đồ Hộp Hạ Long thì : dựa vào kết quả khảo sát thị trường của công ty cho thấy tâm lý
" sính ngoại" của người tiêu dùng Việt Nam ngày càng giảm. Những năm trở lại đây,
người tiêu dùng càng tin rằng " đồ ta không kém đồ Tây". Các yếu tố cơ bản tác động
đến mức độ hài lòng của người tiêu dùng về sản phẩm nội địa là : Chất lượng sản
phẩm; sự sẵn có của sản phẩm tại nơi người tiêu dùng kỳ vọng ( hiệu quả của hoạt
động phân phối); thương hiệu của sản phẩm; uy tín và truyền thống của nhà sản xuất.
Theo nhận định của các siêu thị và của hàng bán lẻ, các sản phẩm đồ hộp Việt
Nam đang được ưa chuộng hơn so với các sản phẩm nhập từ nước ngoài bởi chất
lượng sản phẩm phù hợp với khẩu vị; mẫu mã đẹp và giá rẻ hơn nhiều. Hiện tại, thịt
heo đóng hộp của Đan Mạch loại 340g có giá 22.500đồng / hộp; thịt heo hộp Maling
của Trung Quốc loại 198g có giá 18.800 đồng/ hộp; cá mòi chiên hiệu cá cười Thái
Lan 155g giá 11.200 đồng / hộp; cá sốt cà loại 155 g/ hộp của công ty TNHH Thái
Roya Việt Nam block 3 hộp giá 13.800 đồng; cá sốt cà loại 198g của Vissan có giá
6.300 đồng / hộp; heo 3 lát loại 200 gam của Đồ Hộp Hạ Long giá 8.800 đồng/ hộp; bò
kho Vissan loại 200 gam giá 9.500 đồng/ hộp ( giá tham khảo).
So với các cửa hàng, tạp hóa và thực phẩm ở chợ, ở khu dân cư thì siêu thị là mới
tập trung nhiều mặt hàng thực phẩm công nghệ nhất. Có nhiều chủng loại sản phẩm
của nhiều nhà sản xuất đang được ưa chuộng như : Hạ Long, Tuyền Ký, Vissan,… và
các mặt hàng nhập từ Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Đan Mạch, Pháp, không chỉ
có các sản phẩm : cá mòi, cá trích, cá ngừ, patê gan, cà ri bò, bò khô, heo hầm thuốc
bắc… Nhà sản xuất Việt Nam còn có những sản phẩm không "đụng hàng" như : Công
ty TNHH thương mại sản xuất Thiên Hương có " Lẩu dê ông xã", Công ty Việt Nam
kỹ nghệ súc sản ( Vissan) có " súp heo", trong thời điểm cúm gà cúm gia cầm đang
diễn biến phức tạp Công ty sản xuất thực phẩm Bảo Long ( nhãn hiệu đồ hộp dinh
dưỡng tăng lục cao cấp của Havi) tập trung vào các món gà như: gà ác hầm nấm linh
chi, gà ác tiềm thuốc bắc.
Mặc dù sức tiêu thụ các loại thực phẩm công nghệ chưa tăng mạnh nhưng tín
hiệu từ tiêu thụ cho thấy người tiêu dùng ngày càng quan tâm hơn đến những ưu điểm
của các loại sản phẩm này và nhà sản xuất cũng có những nỗ lực trong việc nâng cao
chất lượng sản phẩm và thông tin định hướng cho người tiêu dùng, đặc biệt là giới trẻ
công chức hướng tới tiêu dùng thực phẩm công nghệ
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com