Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA NGÀNH DA DÀY VIỆT NAM ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.16 KB, 20 trang )

Lợi thế cạnh tranh quốc gia của ngành da giày Việt Nam.
ĐỀ CƯƠNG
1. Lợi thế cạnh tranh quốc gia.
1.1 Cấu trúc kim cương của Michael Porter.
1.2 Các nhân tố quyết định lợi thế cạnh tranh quốc gia.
2. Lợi thế cạnh tranh quốc gia của ngành da giày Việt Nam.
2.1 Các nhân tố sản xuất
2.2 Nhu cầu trong nước
2.3 Các ngành phụ trợ và các ngành có liên quan
2.4 Chiến lược công ty, cấu trúc công ty và cạnh tranh trong
nước
C. Lời kết
A. Lời mở đầu
Hội nhập vào thế giới là xu hướng tất yếu của một quốc gia. Hội nhập luôn
mang lại những cơ hội phát triển cùng với những thách thức, khó khăn cho một
quốc gia. Và đối với các ngành công nghiệp, các công ty trong quốc gia đó cũng
không ngoại lệ. Các công ty, các nhà doanh nghiệp trong nước ngoài việc được
hưởng các cơ hội do xu thế toàn cầu hoá mang lại như: công nghệ, kĩ thuật tiên
tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý của thế giới … thì còn có những thách thức,
những sự cạnh tranh gay gắt đến từ các công ty nước ngoài. Vì vậy, mà các công ty
trong nước hiện nay đang đẩy mạnh đầu tư và xuất khẩu ra nước ngoài, tăng
trưởng thị phần, một mặt là để bảo vệ họ tránh khỏi những rủi ro và sự không ổn
định của chu kỳ kinh doanh nội địa, mặt khác là để đói phó với sự gia tăng cạnh
tranh trên thế giới. Với mục tiêu trên, hiện nay, các ngành công nghiêp ở Việt Nam
đang gia tăng xuất khẩu và đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là các ngành công nghiệp
chủ lực: da-giày, dệt may…
Năm 2009, xuất khẩu da giày của Việt Nam mặc dù đạt 4,1 tỉ USD, nhưng
vẫn giảm 14% so với năm 2008. Tuy nhiên, mức giảm sút này vẫn thấp so với
nhiều quốc gia láng giềng, bởi hầu hết các nước tụt giảm tới 20% trở lên. Nguyên
nhân là hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế khiến người tiêu dùng "thắt lưng
buộc bụng" hạn chế chi tiêu.


Năm 2010, kinh tế thế giới trên đà hồi phục, ngành da giày Việt Nam có tốc
độ tăng trưởng khá mạnh. Khả năng năm nay đạt kim ngạch xuất khẩu 6 tỉ USD.
Cho đến nay, ngành da giày có sức phát triển khá tốt, Việt Nam hiện là nước xuất
khẩu da giày đứng thứ hai thế giới (sau Trung Quốc), có sản lượng gấp tới 2,5 lần
so với nước xuất khẩu thứ 3 là I-ta-li-a.
Vậy đâu là lợi thế để ngành da giày Việt Nam vượt lên trên các đối thủ khác?
B. Nội dung chính
1. Lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Michael Porter vận dụng những cơ sở lý luận cạnh tranh trong nước của mình
vào lĩnh vực cạnh tranh quốc tế và đưa ra lý thuyết nổi tiếng là mô hình “ Viên kim
cương”. Các yếu tố quyết định của mô hình là các điều kiện về: các nhân tố sản
xuất; điều kiện về cầu sản phẩm; các ngành phụ trợ và các ngành có liên quan;
chiến lược công ty, cấu trúc công ty và cạnh tranh trong nước. Ngoài ra còn có hai
biến số bổ sung là vai trò của nhà nước và yếu tố thời cơ.
Cấu trúc kim cương của Michael Porter
Công nghiệp phụ trợ &
các ngành có liên quan
Cầu
Chiến lược công ty. tổ
chức và cạnh tranh
Nhân tố sản xuất
Theo Porter thì không một quốc gia nào có thể có khả năng cạnh tranh ở tất cả
các ngành hoặc ở hầu hết các ngành. Các quốc gia chỉ có thể thành công trên
thương trường kinh doanh quốc tế khi họ có lợi thế cạnh tranh bền vững trong một
số ngành nào đó. Porter phê phán các học thuyết cổ điển trước đây cho rằng ưu thế
cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thương trường cạnh tranh quốc tế là chỉ dựa
vào lợi thế tuyệt đối của Adam Smith hay chỉ có lợi thế so sánh của David Ricardo.
Theo ông, khả năng cạnh tranh của một quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả
năng sáng tạo và sự năng động của ngành của quốc gia đó. Khi thế giới cạnh tranh
mang tính chất toàn cầu hóa thì nền tảng cạnh tranh sẽ chuyển dịch từ các lợi thế

tuyệt đối hay lợi thế so sánh mà tự nhiên ban cho sang những lợi thế cạnh tranh
quốc gia được tạo ra và duy trì vị thế cạnh tranh lâu dài của các doanh nghiệp trên
trường quốc tế.
Khi nền tảng cạnh tranh càng chuyển dịch sang sự sáng tạo và tri thức mới thì
vai trò của quốc gia càng tăng lên. Lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và
thông qua quá trình địa phương hóa cao độ. Sự khác biệt về giá trị quốc gia, văn
hóa, cấu trúc kinh tế, thiết chế và lịch sử tạo nên ưu thế quyết định sự thành công
trong cạnh tranh. Các quốc gia thành công ở một số ngành trên thị trường toàn cầu
vì môi trường trong nước của họ năng động, đi tiên phong và nhiều sức ép nhất.
Các công ty của họ thu được lợi thế so sánh với các đối thủ quốc tế nhờ việc có các
đối thủ mạnh trong nước, nhờ có các nhà cung cấp có khả năng trong nước, nhờ sự
phong phú nhu cầu khách hàng trong nước và sự liên kết chặt chẽ của các ngành
phụ trợ.
Lý luận của Porter về lợi thế cạnh tranh quốc gia giải thích các hiên tượng
thương mại quốc tế trên góc độ các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế và
vai trò của nhà nước trong việc hỗ trợ cho các ngành có điều kiện thuận lợi để
giành lợi thế cạnh tranh quốc gia chứ không phải cho một vài doanh nghiệp cụ thể.
Sự thành công của các quốc gia ở ngành kinh doanh nào đó phụ thuộc vào ba vấn
đề ơ bản: lợi thế cạnh tranh quốc gia, năng suất lao động bền vững và sự liên kết
hợp tác có hiệu quả trong cụm ngành.
Lợi thế cạnh tranh được hiểu là những nguồn lực, lợi thế của ngành, quốc gia
mà nhờ có chúng các doanh nghiệp kinh doanh trên thương trường quốc tế tạo ra
một số ưu thế vượt trội hơn, ưu việt hơn so với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Lợi
thế cạnh tranh giúp cho nhiều doanh nghiệp có được “ Quyền lực thị trường” để
thành công trong kinh doanh và trong cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh quốc gia
thường bị hiểu nhầm với lợi thế so sánh. Lợi thế so sánh chỉ là những điều kiện đặc
thù tạo ra ưu thế một khía cạnh nào đó của một quốc gia hoặc ngành kinh doanh
của quốc gia đó, như những điều kiện tự nhiên, tài nguyên hay con người. Nguồn
nhân công rẻ, tài nguyên dồi dào thường được coi là lợi thế so sánh của các nước
đang phát triển. Tuy nghiên đây mới chỉ là cơ sở cho một lợi thế cạnh tranh tốt chứ

chưa đủ là một lợi thế cạnh tranh đảm bảo cho sự thành công trên thị trường quốc
tế. Lợi thế cạnh tranh phải là khả năng cung cấp giá trị gia tăng cho các đối tượng
có liên quan như: khách hàng, nhà đầu tư hoặc các đối tác kinh doanh và tạo giá trị
gia tăng cao cho doanh nghiệp.
2. Lợi thế cạnh tranh quốc gia của ngành da giày Việt Nam.
2.1 Các nhân tố sản xuất
Nhìn nhận thực tế, năng lực xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam trên thị
trường xuất khẩu thế giới còn yếu do thiếu khả năng tự thiết kế mẫu mã, tự đảm
bảo vật tư nguyên liệu trong nước, quy mô sản xuất chưa đủ lớn, điều kiện kinh tế
và hạ tầng dịch vụ của Việt Nam còn nhiều hạn chế, giá thành chi phí sản xuất cao,
ưu thế về nhân công lao động tuy vẫn là nhân tố cạnh tranh, nhưng không còn
thuận lợi như trước đây. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế thì dù có đến
90% sản lượng xuất khẩu, nhưng lợi nhuận thu về từ ngành này chỉ đạt mức 25%
giá trị gia tăng, vì ngành này chủ yếu vẫn “bán” sức lao động là chính.
Da giầy việt nam với kim ngạch xuất khẩu lớn. Song, phần lớn trong số đó
chỉ là hàng làm gia công theo các đơn đặt hàng của nước ngoài, mẫu hàng sẳn có.
Do vậy, số lượng hàng xuất khẩu thì nhiều nhưng giá trị mang lại chưa cao
Nguyên vật liệu sản xuất của ngành da giày chiếm đến 80% giá trị của sản
phẩm trong đó ngành sản xuất da đóng vai trò quan trọng nhất. Theo LEFASO, nhu
cầu da thuộc năm 2007 của toàn ngành khoảng 350 triệu feet vuông, trong khi đó
các nhà máy thuộc da của Việt Nam và nước ngoài đầu tư tại Việt Nam mới chỉ sản
xuất và đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu da thuộc của cả nước, 80% còn lại phải
nhập khẩu.
Ngành phụ liệu sản xuất còn trầm trọng hơn, các doanh nghiệp Việt Nam mới
chỉ sản xuất được một vài mặt hàng rất hạn chế như nhãn, ren, dây giày nhưng lại
“bỏ ngỏ” những loại phụ kiện tinh xảo là các sản phẩm nhựa có xi mạ như khoen,
móc, cườm, các vật trang trí trên giày, đặc biệt là giày nữ và giày trẻ em.
Năng lực sản xuất của ngành chủ yếu tại các cơ sở ngoài quốc doanh và có
yếu tố nước ngoài, chiếm trên 90% năng lực của cả ngành, chứng tỏ năng lực
ngành phụ thuộc hoàn toàn vào làn sóng đầu tư của tư bản tư nhân trong nước và

quốc tế.
Tuy có lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi dào do dân số
trẻ, nhưng năng suất lao động của người Việt Nam rất thấp, trung bình trên 1 dây
chuyền 450 lao động đạt mức sản lượng 500.000 đôi/năm, chỉ bằng 1/35 năng suất
lao động của người Nhật, 1/30 của Thái Lan, 1/20 của Malaysia và 1/10 của
Indonesia.
Hiện nay trình độ công nghệ của ngành da giày Việt Nam đang ở mức trung
bình và trung bình khá, song khá lệ thuộc vào nước ngoài về trang bị máy móc.
Khả năng đầu tư và chuyển giao công nghệ mới phụ thuộc vào nguồn tài chính hạn
hẹp, đội ngũ chuyên gia hiểu biết sâu và cập nhật công nghệ còn quá ít và chưa đáp
ứng được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, kinh nghiệm và khả năng đàm
phán, ký kết hợp đồng về công nghệ còn hạn chế Đây là một trong những nguyên
nhân làm hạn chế năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành
trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài. Điều này còn dẫn đến việc ngành có
nguy cơ mất khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế.
2.2 Nhu cầu trong nước
 Cầu sản phẩm :
Nền kinh tế phát triển, cầu sản phẩm của ngành da giày việt nam ngày càng
tăng. Song chưa thực sự tăng cao so với sản phẩm da giày của nước ngoài. M
trong những nguyên nhân chủ yếu khiến cho người tiêu dùng trong nước chưa
nhận diện được thương hiệu các sản phẩm nội địa bởi lẽ mẫu mã, kiểu dáng sản
phẩm còn đơn điệu. Nhu cầu của thị trường nội địa đối với mặt hàng giày dép mỗi
năm khoảng trên 1,5 tỷ USD. Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp trong nước
mới chỉ đáp ứng được khoảng 40%. Số liệu thống kê của Bộ Công Thương cho
thấy, mỗi năm cả nước tiêu thụ từ 130-140 triệu đôi giày dép, giá trị trên 1,5 tỷ
USD, chiếm khoảng 30% doanh thu xuất khẩu của ngành. Nhưng thực tế hiện nay
thị trường này đang bị hàng nước ngoài chiếm lĩnh, trong đó sản phẩm của Trung
Quốc là nhiều nhất.
Với dân số trên 80 triệu dân là một thị trường đầy tiềm năng cho thị trường
nội địa. Mặt khác, với đời sống ngày càng được nâng cao, khả năng mua sắm của

xã hội ngày càng được cải thiện, đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế
giới làm cho ngành du lịch phát triển là những cơ hội để ngành da giày phát triển
theo hướng xuất khẩu trực tiếp ngay trên sân nhà.
công nhân, sinh viên, người nông thôn và những người thành thị khác có thu
nhập trung bình trở xuống chiếm đến khoảng 80% nhu cầu tiêu dùng giày dép,
nhưng các hộ sản xuất nhỏ chỉ đáp ứng chưa tới 40% cho tiểu thương đưa đi các
tỉnh, thành. Còn giày hiệu nổi tiếng trong nước làm hàng tốt hầu như chỉ tập trung
vào thế mạnh giày bằng da, giày kiểu thể thao, giày đúc, được người tiêu dùng tín
nhiệm nhưng các doanh nghiệp dường như cứ thủng thỉnh, chưa quan tâm mở rộng
mạng lưới bán hàng, kể cả các thương hiệu lớn.
Chẳng hạn, Giày An Lạc chỉ có bốn cửa hàng ở TP.HCM và một ở Hà Nội;
Vina Giày chỉ trên 10 cửa hàng ở TP.HCM; giày Hồng Thạnh chưa tới 10 cửa
hàng; T&T mới có 3 cửa hàng ở TP.HCM và một ở Hà Nội; nên không phải ai
muốn ủng hộ đều mua được như với hàng Trung Quốc. Đã ít nơi bán, những
khuyết điểm mà các cửa hàng giày hiệu Việt Nam vẫn chưa khắc phục tốt là tình
trạng thiếu thường xuyên, sản phẩm được trưng bày thưa thớt, không chú ý xu
hướng mang giày đã thay đổi, nhất là giới nữ văn phòng và trung niên
Thế mạnh giày da và giày thể thao cũng đang bị đe dọa bởi hàng giả da và
giày thể thao nhái của Trung Quốc. Ông Trần Hữu Thành, giám đốc cơ sở Giày dép
da Long Thành nhìn nhận năm nay giày Trung Quốc giả da nhiều hơn và kỹ thuật
làm giả da của họ tinh xảo hơn đến mức chính người trong nghề như ông phải nể vì
thật khó nhận biết đối với giày mới. Giá thành giữa giày giả da và giày da chênh
lệch khá lớn, điều đó làm ảnh hưởng mức tiêu thụ giày da trong nước năm nay.
Hiệp hội Da giày Việt Nam kêu gọi các doanh nghiệp nâng thị phần trong
nước lên khoảng 60 – 70% trong năm nay để đẩy dần giày dép nhập khẩu. Thế
nhưng, với tình trạng còn phải nhập nguyên liệu đến 70 – 80%, chiến lược thị
trường nội địa hầu như không có, thì doanh nghiệp da giày không những không
tăng được thị phần nội địa lên trên 40% hiện nay, mà còn có khả năng sụt giảm bởi
hàng ngoại tiếp tục tạo ảnh hưởng từ số lượng đến giá cả.
 Cầu về lao động ngành da giày Việt Nam:

Thứ nhất là không chủ động được nguồn nguyên liệu nên phụ thuộc vào
khách hàng và các nhà cung cấp nguyên liệu từ Trung Quốc, Đài Loan và Hàn
Quốc. Thứ hai, công nghệ yếu nên không có sức cạnh tranh và doanh nghiệp phải
làm gia công cho các công ty liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài là chính. Và
cuối cùng là do công tác xúc tiến thương mại kém, nên hầu hết các doanh nghiệp
sản xuất làm gia công ở tầng thứ 2, thứ 3. Như vậy, cái gọi là sức cạnh tranh, tiềm
lực mạnh của ngành da giày thực ra đều thuộc về các công ty lớn của Đài Loan,
Hàn Quốc đặt tại Việt Nam. Chính họ đã khai thác các lợi thế về lao động, môi
trường xã hội ổn định, giá nhân công rẻ vv của Việt Nam.
Theo số liệu thống kê, trên 70% các doanh nghiệp xuất khẩu lớn là công ty
liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài. Do đó những doanh nghiệp này phụ thuộc
nhiều vào các đối tác của họ về thiết bị kỹ thuật, công nghệ, thiết kế sản phẩm,
nguồn cung cấp nguyên liệu thô, phụ liệu và thị trường.
Theo bộ Công nghiệp, mỗi năm nước ta vẫn phải nhập 6 triệu feet vuông da
thuộc. Nhà máy thuộc da chưa đáp ứng được 10% nhu cầu và hiện chỉ hoạt động
được 25% công suất do thiếu nguyên liệu. Hàng năm, Việt Nam chỉ có thể cung
cấp 5000 tấn da bò và 100 tấn da trâu nhưng nguồn nguyên liệu nội địa không
được tận dụng và giá trị xuất khẩu thấp. 60% nguồn da này được xuất sang Trung
Quốc và Thái Lan, phần còn lại thì không đủ tiêu chuẩn để sản xuất sản phẩm xuất
khẩu. Vì thế mỗi năm Việt Nam chi từ 170 tới 230 triệu USD để nhập da giả và từ
80 tới 100 triệu USD để nhập da từ Thái Lan, Đài Loan và Hàn Quốc.
Ngành da giầy thu hút một lượng lao động lớn trong xã hội nhất là lao động
nữ trẻ ở khu vực nông thôn. Việc thu hút lao động này đã giúp họ thoát khỏi nguy
cơ bị bần cùng hoá, nghèo đói vì thất nghiệp hoặc thiếu việc làm và thu nhập thấp.
Kết quả điều tra, khảo sát của Action Aids Việt Nam và Lefaso đã chỉ ra việc áp
thuế của EC là bất hợp lý bởi vì các doanh nghiệp Việt Nam tự chịu trách nhiệm
trước cơ quan pháp luật về hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như chấp hành đầy
đủ các chế độ theo luật định đối với người lao động; đa số các doanh nghiệp sản
xuất gia công cho các đối tác nước ngoài, không tham gia vào quá trình thương
mại, tiêu thụ sản phẩm, không quyết định giá thành và giá bán sản phẩm xuất khẩu

nên không thể là đối tượng tạo ra việc bán phá giá.
Với dân số trên 80 triệu dân là một thị trường đầy tiềm năng cho thị trường
nội địa. Mặt khác, với đời sống ngày càng được nâng cao, khả năng mua sắm của
xã hội ngày càng được cải thiện, đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế
giới làm cho ngành du lịch phát triển là những cơ hội để ngành da giày phát triển
theo hướng xuất khẩu trực tiếp ngay trên sân nhà
Tuy có lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi dào do dân số
trẻ, nhưng năng suất lao động của người Việt Nam rất thấp, trung bình trên 1 dây
chuyền 450 lao động đạt mức sản lượng 500.000 đôi/năm, chỉ bằng 1/35 năng suất
lao động của người Nhật, 1/30 của Thái Lan, 1/20 của Malaysia và 1/10 của
Indonesia.
Cầu lao động của Việt nam ngành da giầy vẫn còn yếu kém.
2.3 Các ngành phụ trợ và các ngành có liên quan
 Khái niệm công nghiệp phụ trợ và các ngành có liên quan:
Việt Nam đang trên con đường tiến tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một
trong những mắt xích không thể thiếu trong hành trình này, đó là phải phát triển
công nghiệp hỗ trợ. Ngành công nghiệp hỗ trợ (Supporting Industry-SI) là ngành
nền tảng của ngành công nghiệp chính yếu. Công nghiệp phụ trợ (supporting
industries) là khái niệm chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ
cho việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể là những linh kiện, phụ liệu, phụ
tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm, v.v., và cũng có thể bao gồm cả
những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế. Nếu kể các sản phẩm tương
tự thì phạm vi sẽ rất rộng nhưng nếu thêm một đặc tính nữa sẽ thấy phạm vi rõ
ràng hơn: Sản phẩm công nghiệp phụ trợ thường được sản xuất với quy mô nhỏ,
thực hiện bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Khu công nghiệp hỗ trợ là khu công nghiệp dành riêng cho các ngành công
nghiệp hỗ trợ và các doanh nghiệp đầu tư sản xuất thuộc ngành công nghiệp hỗ trợ.
Các ngành nghề: Dệt may, da giầy, điện tử tin học, sản xuất- lắp ráp ô tô, cơ khí
chế tạo.
 Cơ hội để Việt Nam phát triển Công nghiệp phụ trợ và các ngành có liên

quan đối với ngành da giày:
Da giày là một trong những ngành hàng dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam với thị trường rộng lớn như: Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc… Việt
Nam được xếp hạng là một trong 10 nước xuất khẩu hàng đầu trên thị trường quốc
tế hiện nay về da giày, riêng ở thị trường EU, Việt Nam xếp thứ hai sau Trung
Quốc. Một trong các nhân tố quyết định sự phát triển của ngành da giày Việt Nam
là công nghiệp phụ trợ và các ngành có liên quan của da giày Việt Nam như:
ngành thuộc da, ngành thiết kế mẫu mã sản phẩm, các trung tâm nghiên cứu thời
trang, công nghệ sản xuất, công nghệ xử lý môi trường; sản xuất các linh phụ kiện
của da giày: sản xuất mũ, giày, cặp túi, ví, nhãn, ren, dây giày, những loại phụ kiện
tinh xảo là các sản phẩm nhựa có xi mạ như khoen, móc, cườm, các vật trang trí
trên giày, đặc biệt là giày nữ và giày trẻ em, các dây chuyền lắp ráp và hoàn chỉnh
giày, dép.Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển công nghiệp phụ trợ và các ngành
có liên quan đối với ngành da giày:
Việt Nam là một thị trường tiềm năng, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Có địa
hình thuận lợi để xây dựng các khu công nghiệp phụ trợ, các doanh nghiệp sản
xuất phụ kiện phục vụ cho ngành da giày.
Doanh nghiệp Việt Nam đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ, mà công
nghiệp phụ trợ tương thích với loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ này.Phát triển
ngày càng nhiều các khu công nghiệp phụ trợ, hoàn thiện chuỗi cung ứng cho
ngành da giày.
Ngành công nghiệp phụ trợ nhìn chung không cần quá nhiều vốn. Đẩy
mạnh phát triển cơ sở hạ tầng, không ngừng chuyển giao công nghệ, cải tiến mẫu
mã sản phẩm.
Công nghiệp phụ trợ của ngành da giày linh hoạt, dễ ứng phó với những
biến đổi tình hình vì quy mô sản xuất không quá lớn, công nghệ sản xuất nhiều sản
phẩm cũng không đòi hỏi cao như một số lĩnh vực khác.
Hiện nay Việt Nam đang đứng trước bài toán giữa áp dụng công nghệ tiên
tiến với giải quyết lao động. Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào, năng động
sáng tạo, có trình độ cao, dễ đào tạo.Trong khi công nghiệp phụ trợ cũng có một số

khâu vẫn sử dụng nhiều lao động. Hơn nữa, công nghiệp phụ trơ có phát triển được
mới thúc đẩy công nghiệp cơ khí chế tạo, công nghiệp làm ra sản phẩm hoàn chỉnh
phát triển. Ngành da giày là ngành sử dụng nhiều lao động xã hội. Tính đến hết
năm 2007, toàn ngành đã thu hút 600.000 lao động (chưa kể số lao động sản xuất
trong lĩnh vực nguyên phụ liệu và lao động tại các cơ sở nhỏ, các hộ gia đình và
các làng nghề có thể lên tới hơn 1 triệu lao động) chiếm 9% lực lượng lao động
công nghiệp. Đây có thể được coi là lợi thế so sánh với mức chi phí nhân công
thấp.
Về phía Nhà nước, có nhiều chính sách phát triển ngành công nghiệp phụ trợ
của ngành da giày Việt Nam. Các biện pháp khuyến khích hiện chủ yếu là gián tiếp
như khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, cơ chế hỗ trợ lãi suất cho
các doanh nghiệp. các ưu đãi về tài chính, về đất đai hạ tầng, về đầu tư, về nguồn
nhân lực, rồi chính sách khuyến khích thành lập các doanh nghiệp sản xuất công
ngiệp hỗ trợ, xây dựng các quỹ đặc thù riêng cho công nghiệp hỗ trợ, hình thành tổ
chức đầu mối để thực hiện sự quản lý Nhà nước dẫn dắt liên kết các doanh nghiệp
làm công nghiệp hỗ trợ, phân xử các tranh chấp hợp đồng cung ứng, xây dựng ban
hành cơ sở dữ liệu đầy đủ về công nghiệp hỗ trợ
Chúng ta có các văn bản quy định về phẩm cấp kỹ thuật, đăng ký ngành
nghề, thay đổi về hải quan, về chính sách thuế, mở cửa thị trường, hội nhập quốc
tế Thực hiên một số dự án như: dự án xây dựng 2 trung tâm sản xuất, cung ứng
nguyên phụ liệu, công nghiệp hỗ trợ cho ngành da giày; dự án xúc tiến xây dựng 2
khu - cụm công nghiệp thuộc da tập trung có hệ thống xử lý nước thải tiên tiến;
xúc tiến thực hiện dự án xây dựng các trung tâm nghiên cứu thời trang cho ngành
da giày sẽ được ngành đẩy nhanh tiến độ thực hiện nhằm đảm bảo nội địa hóa
nguồn nguyên phụ liệu, mang lại giá trị cao hơn cho sản phẩm da giày Việt Nam.
Từ ngày 1/4 /2010, thuế chống bán phá giá đối với giày mũ da Việt Nam
chính thức được Liên minh châu Âu bãi bỏ. Điều đó có nghĩa, một loạt rào cản
thương mại đối với sản phẩm giày, dép của Việt Nam do Liên minh Châu Âu áp
dụng suốt 4 năm qua được xóa bỏ hoàn toàn. Đây sẽ là cơ hội lớn cho doanh
nghiệp sản xuất da giày Việt Nam mở rộng thị phần sang các nước châu Âu. Trước

tin vui này, nhiều doanh nghiệp sản xuất da giày Việt Nam đang gấp rút tìm cho
mình hướng đi mới, định ra chiến lược phát triển để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị
trường châu Âu đồng thời vẫn có chỗ đứng vững trên thị trường nội địa, đổi mới
phương thức sản xuất, cải tiến mẫu mã sản phẩm là những phương pháp được các
doanh nghiệp tính tới.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển của ngành da
giày: gia tăng các luồng chuyển giao vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thúc
đẩy giao lưu văn hoá, trí tuệ, củng cố và tăng cường các thể chế quốc tế, phát triển
văn minh vật chất và tinh thần tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển thị trường
quốc tế. Song, hội nhập cũng mang lại không ít khó khăn và thách thức. Các doanh
nghiệp sản xuất giày da Việt Nam đang gặp phải cạnh tranh gay gắt từ các thế lực
kinh tế mạnh trong khu vực và quốc tế như Brazil, Trung Quốc và một số nước
ASEAN.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần thúc đẩy các cơ hội phát triển ngành
da giày, việc chuyển giao công nghệ theo chu kỳ nhanh hơn phù hợp với yêu cầu
khắt khe của thị trường. Việc gia nhập tổ chức mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) tạo
điều kiện việc giao lưu hàng hoá thông suốt, ít cản trở, xoá bỏ hàng rào phi thuế
quan, ưu đãi về thuế quan tạo điều kiện cho ngành hàng da giày thâm nhập vào thị
trường khu vực.
Trong những năm gần đây công tác xúc tiến thương mại đã bắt đầu được chú
trọng. Toàn ngành đã có những hoạt động tích cực nhằm tăng cường tuyên truyền
và quảng bá hình ảnh của ngành da giày Việt Nam như một quốc gia sản xuất và
xuất khẩu da giày tiềm năng, nâng cao năng lực hiểu biết về kiến thức pháp luật,
thị trường, phòng ngừa các vụ kiện bán phá giá và vận dụng luật để đấu tranh trong
các vụ tranh chấp thương mại. Phương thức bán hàng tại các doanh nghiệp đã có
nhiều đổi mới, hình thành nhiều mạng lưới bán buôn, bán lẻ, tham gia vào các
kênh phân phối của các tập đoàn xuyên quốc gia, phát triển hình thức thương mại
điện tử.
Chế độ xã hội ổn định và đang tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp
phát triển thông qua cơ chế chính sách phù hợp với tình hình trong nước và thông

lệ quốc tế. Ngành da giày thế giới tiếp tục có xu hướng chuyển dịch sản xuất sang
các nước đang phát triển, đặc biệt hướng vào các nước có môi trường đầu tư thuận
lợi, chính trị ổn định và an toàn. Khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương
mại thế giới, hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ, cùng với các chính sách thúc đẩy
sản xuất, xuất khẩu của Chính phủ, Việt Nam sẽ trở thành một địa điểm đầu tư lý
tưởng cho các nhà sản xuất da giày đặt các khu công nghiệp phụ trợ.
Với dân số trên 80 triệu dân là một thị trường đầy tiềm năng cho thị trường
nội địa. Mặt khác, với đời sống ngày càng được nâng cao, khả năng mua sắm của
xã hội ngày càng được cải thiện, đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế
giới làm cho ngành du lịch phát triển là những cơ hội để ngành da giày phát triển
theo hướng xuất khẩu trực tiếp ngay trên sân nhà.
Đó là chưa kể các lợi thế rất lớn về chính sách thuế quan, kể cả những thị
trường khó tính như Nhật Bản và sắp tới chính thị trường Trung Quốc cũng mở
rộng cửa hơn.
Tập trung các nguồn lực để ngành da giày mở rộng thêm trên 3 lĩnh vực:
thiết kế sản phẩm, sản xuất nguyên phụ liệu và kiểm định chứng nhận sản phẩm.
 Tình hình phát triển của công nghiệp phụ trợ và các ngành có liên quan đối
với ngành da giày Việt Nam:
Năm 2010 là năm gặt hái được nhiều thành công và đánh dấu sự vươn lên
mạnh mẽ của ngành da giày Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu đạt trên 5,2 tỷ
USD. Da giày hiện là một trong 5 ngành xuất khẩu có mức kim ngạch xuất khẩu
cao nhất nước. Với đà phát triển như vậy, mục tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu da
giày 5,4 tỷ USD trong năm nay có thể sẽ đạt được.
Kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam có mức tăng trưởng trung
bình hàng năm 16%, đạt mức 3,96 tỉ USD năm 2007, đứng thứ 3 sau ngành dệt
may và dầu khí. Kim ngạch xuất khẩu giày dép các loại trong tháng 4/2008 ước đạt
330 triệu USD, tăng 5,4% so với tháng trước và tăng 17% so với cùng kỳ năm
2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu da giày các loại trong 4 tháng năm 2008 ước đạt
1,356 tỉ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2007. Dự báo đến năm 2010, kim
ngạch xuất khẩu các sản phẩm ngành da giày Việt Nam sẽ đạt 6,2 tỉ USD.

 Về năng lực sản xuất. Đến hết năm 2007, năng lực sản xuất của toàn
ngành đạt:
• Giày dép các loại: 680 triệu đôi
• Cặp túi xách các loại: 88 triệu chiếc
• Da thuộc thành phẩm: 150 triệu sản phẩm.
Năng lực sản xuất của ngành đã đạt trên 90% mức năng lực được đầu tư, có
mức tăng trưởng mạnh trong 7 năm liên tiếp với mức tăng trung bình đạt 10%/năm
trên 2 loại sản phẩm chính là giày dép và túi cặp các loại. Riêng sản phẩm da thuộc
đạt mức tăng trưởng trung bình khoảng 20%/năm. Mặt hàng chủ lực của ngành vẫn
tập trung chủ yếu vào giày thể thao, chiếm khoảng 51% năng lực sản xuất các sản
phẩm giày dép của ngành, phù hợp với xu thế tiêu dùng của thị trường xuất khẩu.
 Về thị trường xuất khẩu, thị trường xuất khẩu da giày Việt Nam ngày
càng được mở rộng và ổn định cụ thể:
• Thị trường EU:
Trong những năm vừa qua, giày dép Việt Nam xuất khẩu vào EU tăng
trưởng nhanh về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hết năm 2007, EU vẫn là thị
trường lớn nhất tiêu thụ giày dép của Việt Nam với doanh thu 2,6 tỉ USD, tăng
33,9% so với năm 2006 và chiếm 54% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép
của Việt Nam.
• Thị trường Mỹ:
Năm 2004, Việt Nam đã vượt Italia và trở thành nhà cung cấp lớn thứ tư sau
Trung Quốc, Brazil, Indonesia. Trong năm 2007, xuất khẩu vào Mỹ đạt 995 triệu
USD, tăng 30% so với năm 2006. Tháng 1/2008, xuất khẩu giày dép vào Mỹ tăng
25% so với năm 2007, đạt 93,8 triệu USD, đây là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai
của toàn ngành. Hiện nay và trong những năm tới, Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu
mục tiêu đối với sản phẩm giày dép của Việt Nam và các sản phẩm xuất khẩu
chính sẽ là giày thể thao, giày da nam nữ.
• Thị trường các nước Đông Á:
Đây là khu vực thị trường có những phong tục tập quán tương đối giống Việt
Nam, cùng nằm ở khu vực châu Á. Các sản phẩm chủ yếu xuất khẩu từ Việt Nam

sang các thị trường này là giày thể thao, giày da nam nữ, dép đi trong nhà. Năm
2006, xuất khẩu vào Nhật Bản đạt 113 triệu USD, tăng 21% so với năm 2005.
2.4 Chiến lược công ty, cấu trúc công ty và cạnh tranh trong nước
 Nguồn vốn cho sự phát triển
Câu hỏi đặt ra là chúng ta phải làm gì để ngành giày thực sự hấp dẫn các nhà
đầu tư trong những năm tới? Đó là chưa nói đến việc để phát triển ngành da giày,
chúng ta vẫn còn lệ thuộc khá nhiều vào vốn đầu tư nước ngoài. Đây là điều không
những các nhà quản lý vĩ mô mà chính những nhà đầu tư trong nước, đặc biệt là
các doanh nghiệp trong ngành cần phải tiếp tục suy gẫm. Liệu chúng ta có hãnh
diện về một ngành giày hùng mạnh mà trong đó giá trị nội địa thực sự chỉ chiếm
dưới 50%?
 Nhân lực
Để đạt được kim ngạch xuất khẩu như hiện nay, ngành da giày Việt Nam đã
phải huy động một lực lượng gồm khoảng 650.000 lao động trực tiếp và gần 30%
lao động gián tiếp trong các lĩnh vực cung ứng vật tư, dịch vụ… Như vậy, để kim
ngạch xuất khẩu tăng lên gần 3 lần, với giả định là năng suất sẽ tăng 20%, giá trị
gia tăng tăng thêm 30%, thì toàn ngành cần thu hút thêm gần 600.000 lao động.
Điều này có vẻ như mâu thuẫn với tình hình hiện tại, khi doanh nghiệp nào cũng
than bị thiếu lao động.
Các doanh nghiệp sẽ phải có nhiều giải pháp nâng cao chất lượng lao động,
tự động hóa sản xuất, nhưng rõ ràng nguồn nhân lực sẽ luôn là bài toán nan giải khi
nhiều ngành kinh tế khác của Việt Nam cũng đang cần một lượng lao động không
nhỏ.
 Giải pháp nâng cao giá trị gia tăng
Đây cũng là một thách thức lớn cho ngành khi mà hiện nay các thị trường
chính như EU và Mỹ đều chưa có những dấu hiệu phục hồi tích cực sau cơn khủng
hoảng vừa qua. Điều này sẽ khiến cho sức mua sụt giảm và những sản phẩm rẻ tiền
sẽ luôn chiếm ưu thế làm ảnh hưởng mạnh đến định hướng chuyển dịch sang nhóm
sản phẩm trung và cao của ngành giày Việt Nam trong giai đoạn này.
 Cạnh tranh của Trung Quốc

Không cần phân tích, mọi người đều thấy rõ sức mạnh của ngành da giày
Trung Quốc với số lượng sản xuất hàng năm trên 10 tỉ đôi giày dép các loại, gấp 5
lần quốc gia đứng thứ hai là Ấn Độ, và gấp 15 lần so với Việt Nam. Không những
thế, Trung Quốc còn có thế chủ động gần 100% các loại nguyên liệu thông thường
và đang tham gia tích cực vào lĩnh vực sản xuất thiết bị, kể cả thiết bị tự động hóa.
Từ đó, sản phẩm da giày tại Trung Quốc luôn có lợi thế cạnh tranh rất lớn, không
chỉ đối với Việt Nam mà còn cả với thế giới.
Là nước có cùng biên giới với Trung Quốc, các chiến thuật linh hoạt trong
quan hệ kinh doanh để một mặt hóa giải được sự cạnh tranh trực diện, mặt khác tận
dụng lợi thế kinh tế vùng, đặc biệt khi mà các hiệp định thương mại khu vực với
Trung Quốc có hiệu lực, là điều mà các nhà chiến lược cũng như từng doanh
nghiệp Việt Nam cần chú ý.
 Rào cản thương mại và kỹ thuật
Dù đã tính đến trong quá trình xây dựng chiến lược, tuy nhiên, các rào cản
vẫn thật sự khó lường và thay đổi liên tục cả về nội dung lẫn hình thức, đe dọa sự
phát triển của ngành. Việc áp thuế chống bán phá giá và bỏ ưu đãi thuế quan từ EU
là một minh chứng cho những diễn biến phức tạp này; đặc biệt khi mà các mối
quan hệ kinh tế và chính trị giờ đây đã lồng ghép vào nhau một cách hết sức mật
thiết và tinh vi.
Một ngành kinh tế, một quốc gia có thể bị sút giảm hoặc thậm chí mất hẳn
một thị trường đôi khi không phải do doanh nghiệp trong nước sản xuất kém mà do
quan hệ chính trị không thuận lợi. Ngược lại, quan hệ chính trị dù thuận lợi đến
đâu thì các nhà nhập khẩu cũng sẽ không bao giờ dám nhập vào đất nước họ những
sản phẩm không đạt các yêu cầu chất lượng và kỹ thuật.
Câu chuyện về chất Cloramphenicol hoặc gần đây là Trifluralin liên quan đến
ngành thủy sản Việt Nam; rồi các quy định REACH của châu Âu, CPSIA của Mỹ
về sản phẩm tiêu dùng đã cho thấy thế giới ngày càng kiểm soát chặt chẽ các tiêu
chuẩn kỹ thuật đối với sản phẩm tiêu dùng. Do đó, để phát triển ngành da giày Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, bên cạnh những giải pháp đã đề ra
trong chiến lược, cộng đồng doanh nghiệp và Hiệp hội Da giày Việt Nam (Lefaso)

cũng phải có những nỗ lực.
Cụ thể, cần cập nhật thường xuyên thông tin từ các thị trường nhập khẩu, đặc
biệt là những quyết sách có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của ngành; góp sức tạo
nên những đột phá cả trong suy nghĩ và cách làm, đặc biệt trong công tác thiết kế
sản phẩm, tự động hóa sản xuất, cải tiến quản lý, nâng cao chất lượng lao động;
đoàn kết chung sức vì mục tiêu chung và điều này phải có sức lan tỏa đến các
doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong quá khứ, không ít lần khi phải đối mặt với những khó khăn lớn, các
doanh nghiệp da giày đã đoàn kết dưới sự lãnh đạo của hiệp hội để tạo nên sự đột
phá giúp cả ngành duy trì sự phát triển. Các câu chuyện từ việc thiếu đơn hàng khi
khối Varsava gặp khó khăn hoặc gần đây, khi EU áp thuế chống bán phá giá và bỏ
ưu đãi thuế quan nhưng ngành da giày vẫn tìm được lối ra là những minh chứng
thực tế. Trong giai đoạn sắp tới, vai trò của Lefaso cần được nâng cao để trở thành
hạt nhân chính của quá trình triển khai chiến lược. Nhiều công việc, nhiều thách
thức cũng như nhiều cơ hội đang ở phía trước, ngành giày sẽ phải khởi động ngay
từ những ngày đầu năm mới 2011!
C. Lời kết
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, xuất khẩu các sản phẩm giày dép của
nước ta trong 9 tháng năm 2011 đạt 4,8 tỷ USD, tăng 30% so với cùng kỳ năm
2010.
Như vậy, liên tiếp trong 4 tháng gần đây, kim ngạch xuất khẩu của ngành da
giày thường xuyên đạt ở mức cao so với cùng kỳ năm 2010.
Theo Hiệp hội Da giày Việt Nam (LEFASO), hiện các doanh nghiệp da giày
đã có nhiều đơn hàng và đang tập trung đẩy mạnh sản xuất để hoàn thành các đơn
hàng theo đúng yêu cầu của đối tác. Theo LEFASO, sự gia tăng đột biến của da
giày thời gian qua là do ảnh hưởng tích cực từ việc Ủy ban châu Âu (EC) đã chấm
dứt thuế chống bán phá giá với sản phẩm giày mũ da Việt Nam. Việc chấm dứt
mức thuế này đã khiến nhiều nhà nhập khẩu dịch chuyển đơn hàng từ Trung Quốc
(đang phải chịu thuế 16,5% với mặt hàng này) sang Việt Nam.
Mặt khác, các doanh nghiệp trong ngành đã tạo lập được uy tín đối với

khách hàng nên nhận được nhiều đơn hàng từ thị trường EU và Mỹ. Từ khối lượng
đơn hàng đã ký, LEFASO dự báo, mục tiêu kim ngạch xuất khẩu da giày đạt 6 tỷ
USD trong năm 2011 là hoàn toàn có thể thực hiện được.

×