Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Đề tài: Thực trạng cung ứng dịch vụ giáo dục tại Singapore 

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.61 KB, 23 trang )

Trang 1
TIỂU LUẬN
MÔN: DỊCH VỤ CÔNG
Đề tài: “Thực trạng cung ứng dịch vụ giáo dục tại Singapore”.
LỜI MỞ ĐẦU
Các quốc gia trên thế giới hình thành và phát triển theo các hình thức và giai đoạn
với các thể chế chính trị khác nhau. Nhưng tất cả các nhà nước đều thực hiện chức năng
quản lý hay cai trị và chức năng phụ vụ ở từng mức độ khác nhau, hai chức năng này thể
hiện mối quan hệ biện chứng mà nhà nước phải thực hiện nhằm đảm bảo cho xã hội ổn
định và phát triển. Về mặt chức năng phụ vụ xã hội, nhà nước phụ vụ công dân của mình
trên các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội đáp ứng một cách tối ưu nhất nhu cầu của
người dân. Một hoạt động trong những hoạt động trong chức phụ vụ của nhà nước mà
chúng ta có thể thấy rõ đó là hoạt động cung cấp dịch vụ công của nhà nước cho công
dân.
Cung cấp dịch vụ công phụ vụ nhu cầu chung của người dân là tất yếu khách quan
và rất cần thiết trong xu thế hiện nay là nhà nước chuyển dần từ cai trị sang phụ vụ. Việc
cung ứng và cải cách dịch vụ công hướng tới nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của công dân và xã hội là vấn đề mà được các quốc gia trên
thế giới đang quan tâm hiện nay. Với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội vì con người, vai
trò và trách nhiệm của nhà nước trong việc tổ chức cung ứng các hàng hóa và dịch vụ đáp
ứng các yêu cầu cơ bản thiết yếu của công dân và tổ chức trong xã hội, bảo đảm trật tự và
công bằng xã hội ngày càng được đề cao.
Giáo dục là một trong những lĩnh vực rất quan trọng đối với mỗi quốc gia và nó
cũng chính là một trong những dịch vụ công do nhà nước và tư nhân cùng cung ứng. Hiện
nay với nền kinh tế tri thức phát triển như vũ bão thì vai trò tri thức càng trở nên quan
trọng hơn bao giời hết. Các quốc gia đều chú trọng đàu tư tăng cường cho nền giáo dục
của mình một cách mạnh mẽ và phù hợp nhất đặt nền monhs cho sự phát triển đất nước.
Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó, ngay từ xa xưa các nhà nước phong kiến
với tư tưởng Nho giáo thì đều chú trọng đến giáo dục thi cử và đến ngày nay nhà nước ta
luôn đặt giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Trang 2


NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm
1.1.1. Dịch vụ
Trong quá trình lao động sản xuất tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu của mình, con
người đã tạo ra các sản phẩm khác nhau, trong đó có thể phân chia thành hai loại chủ yếu
là các vật phẩm và các dịch vụ. Trong khi vật phẩm cụ thể như bàn, ghế, quần áo,… mang
tính giá trị sử dụng thì các dịch vị là những hoạt động để thỏa mãn các nhu cầu sản xuất,
kinh doanh và sinh hoạt. Chúng ta có thể thấy dịch vụ khác với các loại hàng hóa truyền
thống ở một số đặc điểm cơ bản sau:
- Dịch vụ là hành vi, những hoạt động thể hiện quan hệ trực tiếp giữa tổ chức và cá
nhân này với tổ chức và cá nhân khác nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ với tư cách là khách
hàng sử dụng dịch vụ.
- Dịch vụ là hàng hóa không thể lưu trữ, khó vận chuyển và thường không có tính
đồng nhất.
- Dịch vụ mang tính phi vật chất.
=> Dịch vụ là những hoạt động mang tính chất phụ vụ chuyên nghiệp nằm đáp ứng
nhu cầu nò đó của con người và xã hội.
1.1.2. Giáo dục
Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc
biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và người học theo hướng
tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý
thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong
xã hội đương đại.
Theo từ "Giáo dục" tiếng Anh - "Education" - vốn có gốc từ tiếng La tinh
"Educare" có nghĩa là "làm bộc lộ ra". Có thể hiểu "giáo dục là quá trình, cách thức làm
bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục".
Trang 3
Giáo dục bao gồm việc dạy và học, và đôi khi nó cũng mang ý nghĩa như là quá
trình truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn, truyền thụ sự hiểu

biết. Giáo dục là nền tảng cho việc truyền thụ, phổ biến văn hóa từ thế hệ này đến thế hệ
khác. Giáo dục là phương tiện để đánh thức và nhận ra khả năng, năng lực tiềm ẩn của
chính mỗi cá nhân, đánh thức trí tuệ của mỗi người. Nó ứng dụng phương pháp giáo dục,
một phương pháp nghiên cứu mối quan hệ giữa dạy và học để đưa đến những rèn luyện
về tinh thần, và làm chủ được các mặt như: ngôn ngữ,tâm lý, tình cảm, tâm thần, cách ứng
xử trong xã hội.
Dạy học là một hình thức giáo dục đặc biệt quan trọng và cần thiết cho sự phát
triển trí tuệ, hoàn thiện nhân cách học sinh.
Quá trình dạy học nói riêng và quá trình giáo dục nói chung luôn gồm các thành tố
có liên hệ mang tính hệ thống với nhau: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương
pháp giáo dục,phương tiện giáo dục, hình thức tổ chức và chỉ tiêu đánh giá.
Sự giáo dục của mỗi cá người bắt đầu từ khi sinh ra và tiếp tục trong suốt cuộc đời.
(Một vài người tin rằng, sự giáo dục thậm chí còn bắt đầu trước khi sinh ra, theo đó một
số cha mẹ mởnhạc, hoặc đọc cho những đứa trẻ trong bụng mẹ với hy vọng nó sẽ ảnh
hưởng đến sự phát triển của đứa trẻ sau này). Với một số người quá trình đấu tranh giành
giật sự sống, giành giật sự thắng lợi trong cuộc sống cung cấp kiến thức nhiều hơn cả sự
truyền thụ kiến thức ở các trường học. Các cá nhân trong gia đình có ảnh hưởng lớn đến
hiệu quả giáo dục, thường có ảnh hưởng nhiều hơn, mặc dù việc dạy dỗ trong gia đình có
thể không mang tính chính thức, chỉ có chức năng giáo dục rất thông thường.
Các cấp bậc học:
- Giáo dục phổ thông chính chủ yếu là việc khơi dậy những tri thức, kỹ năng cơ
bản, cần thiết, sát thực nhất để học sinh có thể áp dụng vào cuộc sống, nhằm thích nghi và
hòa nhập tốt với xã hội.
+ Giáo dục mầm non hay giáo dục tuổi ấu thơ là việc giáo dục trong những năm
tháng đầu đời, một trong những giai đoạn học hỏi, tiếp thụ nhiều nhất trong cuộc đời. Giai
đoạn này dạy cho trẻ biết các quy ước trong cuộc sống, các kỹ năng cơ bản thông qua các
trò chơi.
Trang 4
+ Giáo dục cơ sở là việc dạy cho các em những kiến thức cơ bản như đọc viết, tính
toán, tri thức về tự nhiên và xã hội.

+ Giáo dục trung học là việc giáo dục cho học sinh nâng cao những kiến thức của
mình và học tập các kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp cơ bản.
- Giáo dục đại học:
Giáo dục đại học là khơi dậy và nuôi dưỡng tính ham học hỏi của sinh viên, hơn là
truyền đạt kiến thức. Nói cách khác, trọng tâm việc giảng dạy là phải nhắm đến mục tiêu
nâng cao khả năng tự học của mỗi người.
Giáo dục đại học, còn gọi là giáo dục bậc 3, giai đoạn ba hay là sau phổ thông,
thường được gọi như là hàn lâm, là một bậc giáo dục không bắt buộc
1.1.3. Dịch vụ công
Hiện nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất được thừa nhận chung về dịch vụ
công. Ngay cả giữa các nhà nghiên cứu về vấn đề này cũng tồn tại nhiều quan điểm chưa
thống nhất về mặt phạm vi của dịch vụ công, cách thức phân loại cũng như phương pháp
cung ứng dịch vụ công.
Dịch vụ công có thể được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
+ Theo nghĩa rộng nhất, dịch vụ công được hiểu là toàn bộ các hoạt động do nhà
nước đảm bảo để phụ vụ cho các quyền và nhu cầu hợp pháp của công dân và tổ chức
trong xã hội.
+ Theo nghĩa hẹp, dịch vụ công là những hàng hóa và dịch vụ do chính phủ các
trách nhiệm cung cấp hoặc quản lý hoạt động cung cấp để đáp ứng nhu cầu cần thiết của
cộng đồng, phụ vụ và thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
+ Theo từ điển Petit Larousse định nghĩa: Dịch vụ công là hoạt động vì lợi ích
chung, do cơ quan nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm .
=> Dịch vụ công là những hoạt động phụ vụ lợi ích chung thiết yếu các quyền và
nghĩa vụ cơ bản của tổ chức và công dân do nhà nước trực tiếp thực hiện hoặc chuyển
giao cho các cơ sở ngoài nhà nước thực hiện nhằm thực hiện mục tiêu hiệu quả và công
bằng xã hội.
Trang 5
1.2. Sự cần thiết của hoạt động cung ứng dịch vụ công
Trong quá triển của xã hội con người lao động và sản xuất tạo ra những sản phẩm
đáp ứng nhu cầu của mình. Nhu cầu của mỗi người rất đa dạng và phong phú cần được

đáp ứng một cách kịp thời và hợp lý, một cá nhân hay tổ chức không thể tự lao động, sản
xuất là có thể đáp ứng được tất cả các nhu cầu của mình mà cần có sự trao đổi, đáp ứng từ
các chủ thể khác trong xã hội. Nhà nước là một trong những chủ thể trong xã hội tham gia
vào quá trình cung ứng các dịch vụ cơ bản đáp ứng nhu cầu của cá nhân và tổ chức trong
xã hội. Nhà nước cung ứng đáp ứng nhu cầu củ xã hội xuát phát từ vai trò, chức năng của
nhà nước, hoạt động cug ứng dịch vụ công là một trong những hoạt động thường xuyên
của hoạt động quản lý xã hội của nhà nước. Thông qua hoạt động cung ứng dịch vụ công
nhà nước nhìn nhận một cách khách quan về nhu cầu của xã hội, về cách thức và phương
pháp cung ứng dịch vụ để từ đó có thể khắc phục và loại bỏ các điểm hạn chế đáp ứng
nhu cầu của xã hội một cách tốt hơn.
Dịch vụ công có ảnh hưởng to lớn tới cuộc sống của người dân và sự phát triển
kinh tế - xã hội nói chung, nên việc cung cấp và bảo đảm các dịch vụ một cách hiệu quả
và đầy đủ là một dấu hiệu thể hiện chất lượng của bộ máy hành chính tốt. Dịch vụ công
phu vụ nhu cầu chung thiết yếu của cả cộng đồng, phụ vụ các đối tượng trong xã hội một
cách công bằng xã hội, mọi người đều có quyền thừa hưởng ngang nhau trong quá trinh
tiếp cận và sử dụng.
Trong xã hội, không phải bất cứ hàng hóa và dịch vụ nào mà khu vực tư nhân có
thể cung ứng và cung ứng một cách tốt nhất. Có những dich vụ mà khu vực tư nhân
không muốn làm do không có lợi nhuận, mà mục tiêu của khu vực tư là lợi nhuận do vậy
mà có những dịch vụ như y tế, điện, nước… có những dịch vụ mà khu tư không thể làm
do có vốn đầu tư lớn và cần có sự kết hợp của nhiều chủ thể tham gia như giao thông, xây
dựng cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế…có những dịch vụ mà chỉ có nhà nước mới cung
ứng mà khu vực tư không được phép làm như đảm bảo an ninh trật tự của lượng công an,
cảnh sát và quân đội…
Do vậy mà vai trò của nhà nước trong quá trình cung ứng dịch vụ công là rất quan
trọng và cần thiết không những đáp ứng nhu cầu của xã hội mà còn đảm bảm cho sự ổn
định và phất triển đất nước.
Trang 6
Chương 2. Thực trạng cung ứng dịch vụ giáo dục tại Singapore
Singapore: là nơi cư ngụ của nhiều dân tộc, với khoảng 77% người Hoa, 14%

người Mã Lai, 8% người Ấn Độ, và 1 % là người Âu Á của các nước khác. Với sự đa
dạng về văn hóa, Singapore còn là đất nước đa tôn giáo. Tôn giáo chính là phật giáo
(42,5%), Hồi giáo(14,9%), Cơ Đốc Giao (14.6%), Lãnh Giao (8.5%), và Ấn Độ giáo
(4%). Những tôn giáo khác bao gồm đạo Sikh, đạo Do Thái và đạo Thờ Lửa. Những
người không theo đạo chiếm khoảng 14.8%. Quốc ngữ của Singapore là tiếng Malay và
ngôn ngữ chính cho việc trao đổi kinh doanh, hành chính và giảng dạy tại các trường học
là tiếng Anh. Singapore có 4 ngôn ngữ chính thức là tiếng Mã Lai, tiếng phổ thông
(Mandarin), tiếng Ta-min và tiếng Anh. Singapore là một đảo quốc nhỏ bé với tổng diện
tích là 685,4km2 hầu như không có tài nguyên thiên nhiên, thậm chí nước dùng hàng
ngày cũng phải nhập khẩu… nhưng lại là một trong những nền kinh tế tiên tiến hàng đầu
thế giới. Điều gì đã làm nên sự kỳ diệu này? Phần lớn là nhờ nguồn nhân lực - nguồn tài
nguyên quý giá và duy nhất của Singapore.
2.1. Thực trạng cung ứng dịch vụ
2.1.1. Chủ thể cung ứng dịch vụ và đối tượng thụ hưởng
- Chủ thể cung ứng:
+ Khu vực công (Nhà nước) : Đứng đầu chịu trách nhiệm quản lý là Bộ giáo dục.
+ Khu vực tư: Tổ chức hoặc cá nhân thành lập.
- Đối tượng thụ hưởng: Tất cả công dân trong và ngoài nước đủ điều kiện đều có
thể theo học tại các trường công hoặc tư tại đây.
2.1.2. Nội dung, chất lượng dịch vụ cung ứng
a) Hệ thống giáo dục:
 Mẫu giáo
Giáo dục mẫu giáo được cung cấp bởi các trung tâm nhà trẻ hoặc các trung tâm
chăm sóc trẻ em bao gồm các chương trình 3 năm cho trẻ em tuổi từ 3 đến 6 tuổi. Được
Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp phép, các nhà trẻ tại Singapore được hoạt động bởi các tổ
chức cộng đồng, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức kinh tế xã hội. Các trung tâm sức khỏe
Trang 7
trẻ em được đăng kí bởi Bộ Phát triển cộng đồng và Thể thao. Hầu hết các nhà trẻ hoạt
động 2 buổi một ngày, mỗi buổi từ 2,5 đến 4 giờ, 5 ngày một tuần. Chương trình nói
chung bao gồm các chương trình tiếng Anh và một ngôn ngữ thứ hai, ngoại trừ những

trường quốc tế và hệ thống giáo dục nước ngoài, nơi có những chương trình cho trẻ em
nước ngoài định cư tại Singapore. Thời gian đăng kí vào các trung tâm chăm sóc trẻ em
và nhà trẻ là khác nhau và tùy thuộc từng nơi. Hầu hết ở các trung tâm chăm sóc trẻ em
nhận các em quanh năm tùy thuộc vào việc còn chỗ không.
 Trường tiểu học
Trẻ em Singapore phải trải qua 6 năm học tiểu học bao gồm 4 năm học cơ bản từ
lớp 1 đến lớp 4 và 2 năm định hướng là từ lớp 5 đến lớp 6 . Ở những năm học cơ bản các
khoá học chính bao gồm tiếng Anh, tiếng mẹ đẻ, toán học, cùng với những môn học phụ
như là âm nhạc và nghệ thuật thể dục và xã hội. Bắt đầu từ năm thứ 3 có các môn khoa
học. Để phát triển hết khả năng của học sinh, các em được phân lớp theo năng lực học của
mình trước khi vào giai đoạn định hướng. Cuối lớp 6 học sinh sẽ tham dự kỳ thi vượt cấp.
Chương trình tiểu học của Singapore đã được ứng dụng như là một hình mẫu quốc tế, đặc
biệt là phương pháp dạy toán. Học sinh nước ngoài được nhận vào trường tiểu học nếu
trường còn chỗ.
 Trường trung học
Các trường trung học tại Singapore có thể là được chính phủ chi phí, hỗ trợ hay tồn
tại độc lập. Học sinh học 4 hoặc 5 năm giáo dục trung học theo các khoá học đặc biệt, cấp
tốc hoặc bình thường. Các khoá học đặc biệt và cấp tốc chuẩn bị (trong 4 năm) cho học
sinh thi lấy chứng chỉ chung Singapore - Cambridge ở bậc giáo dục GCE “O” (O -
“Orinary”). Học sinh theo các khóa học bình thường có thể lựa chọn khối cơ bản hoặc
khối kỹ thuật, cả hai đều chuẩn bị cho học sinh thi lấy chứng chỉ chung Singapore -
Cambridge ở bậc giáo dục GCE “N” (N - “Normal”) sau 4 năm học và sau năm thứ 5 sẽ
thi lấy chứng chỉ GCE “O”.
Chương trình giáo dục phổ thông bao gồm tiếng Anh, tiếng mẹ đẻ, khoa học và
nhân văn. Ở năm trung học thứ 3, học sinh có thể lựa chọn khóa học tùy theo các em đang
ở khối nào trong các khối nghệ thuật, khoa học, thương mại hay kỹ thuật. Chương trình
trung học của Singapore được công nhận trên thế giới bởi khả năng giúp học sinh phát
Trang 8
triển cách nghĩ phê phán và kỹ năng tư duy. Học sinh nước ngoài được nhận vào trường
trung học cơ sở nếu trường còn chỗ.

 Học dự bị đại học
Sau khi hoàn thành kì thi chứng chỉ GCE “O”, sinh viên có thể nộp đơn vào các
trường gọi là “junior college” cho một khoá học 2 năm hoặc các viện học tập trung cho
một khoá học 3 năm dự bị đại học. Các trường và viện nói trên chuẩn bị cho sinh viên
bước vào các trường đại học và đặt nền tảng cho giáo dục cấp trên phổ thông. Chương
trình gồm hai môn bắt buộc: Viết luận đại cương và tiếng mẹ đẻ, và tối đa 4 chứng chỉ
chung Singapore - Cambridge của bậc giáo dục GCE “A” (A – “Advance”) từ các môn
nghệ thuật, khoa học, hoặc thương mại. Cuối một khoá dự bị đại học sinh viên phải thi lấy
chứng chỉ GCE “A” . Sinh viên nước ngoài được nhận vào học dự bị đại học tùy thuộc
việc còn chỗ hay không.
 Các trường Bách khoa
Các trường Bách khoa được thành lập tại Singapore để cung cấp cho sinh viên
chương trình theo hướng thực hành ở bậc cử nhân. Hiện tại có 5 trường Bách khoa tại
Singapore:
- Trường BK Nanyang
- Trường BK Ngee Ann
- Trường BK Republic
- Trường BK Temasek.
- Trường BK Temasek
Các trường này cung cấp hàng loạt các khoá học như là kỹ thuật, kinh doanh,
thông tin đại chúng, thiết kế và giao tiếp thông tin. Cũng có các khoá học chuyên ngành
như là nhãn khoa, kỹ thuật hàng hải, đại dương học, y tá, giáo dục tiểu học và điện ảnh
cho những ai muốn theo đuổi một nghề nghiệp cụ thể. Sinh viên tốt nghiệp đã chứng
minh việc họ được các nhà tuyển dụng ưa thích vì họ nổi lên trong môi trường làm việc
với những kỹ năng và kinh nghiệm phù hợp với nền kinh tế mới.
 Các viện giáo dục kỹ thuật
Viện giáo dục kỹ thuật là một lựa chọn sau giáo dục phổ thông cho những ai muốn
phát triển kỹ năng kỹ thuật và kiến thức trong các lĩnh vực công nghiệp khác nhau. Bên
Trang 9
cạnh việc cung cấp những khoá học chính qui (“full time”) và các chương trình thực tập

cho những học sinh tốt nghiệp trung học, viện giáo dục kỹ thuật còn cung cấp những
chương trình giáo dục chuyển tiếp cho những người đã đi làm.
+ Các trường đại học:
Có 3 trường đại học tại Singapore:
- Đại học quốc gia Singapore (NUS)
- Đại học kĩ thuật Nanyang (NTU)
- Đại học quản lý Singapore (SMU)
Các trường này cung cấp hệ thống giáo dục toàn diện với bằng cấp được quốc tế
công nhận. Những cơ hội về học bổng và nghiên cứu sau đại học cũng có sẵn cho sinh
viên sau tốt nghiệp. Từ khi thành lập vào năm 1905, NUS đã mở rộng thành một trường
toàn diện cung cấp nhiều môn học thuộc các chuyên ngành chính như khoa học, kỹ thuật,
công nghệ, luật, khoa học nghệ thuật và xã hội, y học.
NTU được thành lập vào năm 1981 nhằm cung cấp những phương tiện thuận lợi
cho giáo dục cấp trên phổ thông và nghiên cứu kỹ thuật - công nghệ. Trường đã được hợp
nhất với Viện Giáo dục quốc gia (NIE) - đại học sư phạm - và mở rộng để bao gồm các
ngành học Kiểm toán, Kinh doanh và Truyền thông.
SMU được thành lập vào năm 2000 là trường dân lập đầu tiên có các khoá học vê
kinh doanh và quản trị.
 Các trường đại học quốc tế tại Singapore
Ngoài các trường địa phương, các trường đại học cấp quốc tế đã góp phần nâng
cao đẳng cấp và phạm vi giáo dục cấp trên phổ thông ở Singapore. Một ví dụ là trường
đào tạo MBA châu Âu có tên là INSEAD đã đầu tư 60 triệu $ Singapore trang thiết bị vào
một trung tâm khoa học để thành lập trường kinh doanh quốc tế đầu tiên tại Châu Á. Năm
2000, trường Quant trị kinh doanh Chicago đã chọn Singapore để đầu tư và trở thành
trường Quản trị kinh doanh Mỹ hàng đầu đầu tiên có trụ sở tại châu Á.
Các trường đại học quốc tế hàng đầu khác đã hợp tác với các trường đại học trong
nước để đặt trụ sở tại Singapore là:
- Viện công nghệ Gor – Viện Logistic, Châu Á - Thái Bình Dương.
- Trường ĐH Jonhs Hoopin của Singapore - Johns Hopkins Singapore
Trang 10

- Viện công nghệ Massachuset (MIT) - hợp tác Singapore - MIT
- Trường ĐH Shanghai Jiao Tong
- Trường ĐH Stanford - hợp tác Singapore – Standford
- Trường ĐH Wharton thuộc ĐH Pennsylvania – Trung tâm nghiên cứu SMU
Wharton
- Trường ĐH kỹ thuật Eindhoven (Đức)
- Trường ĐH khoa học và kỹ thuật Muenchen (Đức)
 Các trường tư thục
Tại Singapore, một hệ thống các trường tư thục rất đa dạng cung cấp hàng loạt
chương trình đào tạo làm phong phú thêm lĩnh vực giáo dục của quốc gia này. Có trên
300 trường về ngôn ngữ, công nghệ thông tin, thương mại, nghệ thuật. Những trường này
cung cấp các chương trình học chủ yếu căn cứ nhu cầu của sinh viên trong nước và quốc
tế.
Các trường tư thục này cung cấp các khoá học đa dạng ở các trình độ độ ĐH học
và sau ĐH. Thông qua hợp tác với các trường ĐH nổi tiếng của Anh, Mỹ , Úc… các
trường này cung cấp cho sinh viên cơ hội giành các chứng chỉ quốc tế trong môi trường
tiện nghi và đầy đủ. Mỗi trường tự thực hiện tuyển sinh đầu vào và những sinh viên quan
tâm sẽ trực tiếp đến đăng kí. Khi chọn học tại một trường tư thục, bạn cần chắc chắn rằng
trường đó phải đáp ứng được sự mong đợi của bạn về các yếu tố sau:
- Các khoá học.
- Các chứng chỉ bạn đạt được có tính phổ biến rộng rãi hay không.
- Trang bị trường học (lớp học, thiết bị máy tính…).
- Các dịch vụ dành cho du học sinh (nhà ở, dịch vụ về visa, định hướng cho sinh
viên, hướng dẫn sinh viên ).
b) Chương trình giảng dạy:
Hệ thống giáo dục tại Singapore là một hệ thống đã được thử nghiệm và kiểm tra.
Nó hướng đến việc nuôi dưỡng và đào tạo mỗi cá nhân phát triển hết tiềm năng của bản
thân. Sinh viên học tại Singapore sẽ rất thích thú với chương trình học tập hàng đầu thế
giới được xây dựng nên từ kinh nghiệm đào tạo đa dạng. Giáo dục ở bậc mầm non giúp
trẻ em ở giai đoạn nền tảng này phát triển về ngôn ngữ và các kỹ năng đọc, các khái niệm

Trang 11
về khoa học và số học, các kỹ năng về xã hội và sự thưởng thức âm nhạc, các hoạt động
và cách thức vui chơi.
Giáo dục tiểu học giúp tạo một nền tảng cho học sinh, giúp các em ghi nhớ ngôn
ngữ cơ bản, kiến thức khoa học và số học. Giáo dục phổ thông cơ sở là quá trình xây
dựng cốt lõi cho nền tảng giáo dục bằng việc giới thiệu các môn học là trọng tâm cho sự
phát triển cá nhân như các môn khoa học ứng dụng và nhân văn. Việc phân lớp được thực
hiện ở các cấp lớp khác nhằm giúp học sinh có thể học tập theo tốc độ phù hợp và đáp
ứng được lợi ích của từng cá nhân.
Ở cấp sau trung học cơ sở, học sinh có thể theo học chương trình chuẩn bị đại học
hay chương trình chuẩn bị cho một ngành nghề mà các em có thể đóng góp cho xã hội
một cách có ý nghĩa.
Hệ đại học và cao đẳng trang bị cho học sinh vốn kiến thức và kỹ năng giúp họ đào
sâu kiến thức của mình ở mức độ cao hơn. Sinh viên có thể chọn từ vô số các chương
trình học từ 5 trường Cao đẳng của Singapore, 4 đại học quốc gia và các trường đại học
nước ngoài hàng đầu thế giới có cơ sở tại Singapore và rất nhiều các trường tư thục khác.
c) Phương pháp giảng dạy:
Tại Singapore hệ thông giáo dục được áp dụng phương pháp giảng dạy “dạy ít, học
nhiều” Theo phương pháp “Dạy ít, học nhiều”, giáo dục Singapore tập trung nâng cao
chất lượng học tập của sinh viên bằng cách tạo thêm nhiều “khoảng trống” trong chương
trình học để giáo viên có thể thực hiện những kế hoạch giảng dạy riêng, cùng sinh viên
định hình một môi trường giáo dụcriêng và bồi dưỡng nghiệp vụ. Với mô hình “Dạy ít,
học nhiều”, kiểu học vẹt, học vì thành tích và phong cách giảng dạy “dành cho với tất cả
mọi người” sẽ bị loại bỏ. Thay vào đó, sinh viên sẽ chủ động hơn trong học tập, khám phá
tri thức thông qua các thí nghiệm, trải nghiệm thực tế, học các kỹ năng sống và xây dựng
nhân cách nhờ chiến lược đào tạo hiệu quả và sáng tạo.
Ngoài ra, sinh viên cũng có thêm nhiều cơ hội học tập và rèn luyện toàn diện để
phát triển tư duy, nhân cách và những tố chất để thành công trong tương lai.
Mô hình “Dạy ít, học nhiều” đã được áp dụng ở nhiều trường học Singapore, đơn
cử như Trường trung học Bedok South, học sinh được học làm phim và thiết kế poster

cho Quỹ Trái tim Singapore, thiết kế bộ sạc điện thoại nhờ phần mềm máy tính… Không
Trang 12
chỉ thế, trường học còn tạo điều kiện để các em biến thiết kế của mình thành sản phẩm
thực sự. Với những hoạt động như vậy, học sinh đã đồng thời được học nhiều môn học
khác nhau: Âm nhạc, nghệ thuật, thiết kế, công nghệ. Mô hình “Dạy ít, học nhiều” được
thực hiện từng bước một chứ không phải là một bước chuyển đột ngột. Một ví dụ về việc
thực hiện mô hình này là sự ra đời của chương trình “Project Work” vào năm 2000, cho
phép sinh viên học cách làm việc nhóm và áp dụng kiến thức vào thực tế.
Theo Bộ GD Singapore, Project Work là một phương pháp đào tạo, theo đó các
môn học sẽ được tích hợp, kết nối với nhau giúp sinh viên khám phá sự gắn kết và thống
nhất giữa chúng. Project Work sẽ giúp sinh viên phát triển kỹ năng trong 4 lĩnh vực sau:
+ Áp dụng kiến thức: Sinh viên được học các kỹ năng nghiên cứu cơ bản, áp dụng
và lưu chuyển kiến thức giữa các môn học khác nhau và tạo mối liên hệ giữa chúng.
+ Truyền thông: Sinh viên học cách truyền đạt ý tưởng một cách rõ ràng và hiệu
quả.
+ Hợp tác: Sinh viên phát triển các kỹ năng xã hội thông qua các bài tập làm việc
nhóm nhằm đạt mục tiêu chung.
+ Học tập độc lập: Sinh viên phải chịu trách nhiệm và tự quản lý sự học của mình,
phát triển thái độ học tập và nghiên cứu tích cực.
d) Nơi ở của Sinh viên:
Sắp xếp nơi ăn ở là công việc quan trọng đối với sinh viên khi sống xa nhà. Ở
Singapore, có nhiều hình thức nơi ở khác nhau phù hợp với nhu cầu và ngân sách đa dạng
của sinh viên.
Phần lớn các trường đều có Văn phòng Sinh viên Quốc tế chịu trách nhiệm về việc
đáp ứng các nhu cầu của sinh viên quốc tế. Nhân viên tại các văn phòng này sẽ cho bạn
những lời khuyên về thủ tục thuê nơi ở, các địa chỉ liên hệ với các nơi cho thuê nhà riêng,
tìm kiếm bạn cùng phòng, những lời khuyên bổ ích về việc thuê nhà cũng như giúp bạn
chọn hình thức nơi ở phù hợp nhất với nhu cầu của bạn.
Một số hình thức nơi ở dành cho snh viên quốc tế:
* Khu nhà Sinh viên và Ký túc xá:

Sinh viên Quốc tế năm thứ nhất thường được ưu tiên khi nộp đơn đăng ký nơi ở
trong khuôn viên trường học. Bạn có thể ở phòng riêng hay ở chung với các bạn khác.
Trang 13
Các bữa ăn có thể do trường cung cấp nhưng bạn phải trả thêm chi phí này. Khu nhà Sinh
viên có đầy đủ tiện nghi như phòng xem tivi, phòng đọc sách, phòng giặt quần áo, phòng
máy tính, bếp nhỏ và những thứ khác. Các dịch vụ phúc lợi và các hoạt động sinh hoạt
nhóm cũng được trường tổ chức cho học sinh tại đây.
Giá thuê phòng từ 140 - 440 đôla Singapore một tháng tuỳ thuộc vào số lượng sinh
viên thuê chung phòng.
* Trường Nội trú:
Trường nội trú thường dành cho học sinh Trung học cơ sở và Trung học phổ thông
với độ tuổi từ 13 đến 19. Việc lựa chọn nơi ở thường được thông qua thảo luận với cả cha
mẹ và các em học sinh. Các dịch vụ tại trường nội trú bao gồm phòng ở, ăn uống, giặt ủi,
dịch vụ an ninh 24/24 giờ, tư vấn giúp đỡ, học phụ đạo, giám sát học sinh, các hoạt động
thể thao và vui chơi. Trong các trường nội trú luôn tồn tại tình bạn hữu thân thiết xuất
phát từ việc kết bạn và mối quan hệ ràng buộc giữa các học sinh nội trú. Mức giá thuê
nằm trong khoảng từ 8,000 đến 15,000 đô la Singapore một năm học.
* Khu ký túc xá tư nhân:
Ký túc xá tư nhân do trường học hay các công ty tư nhân quản lý. Bạn có thể chọn
ở phòng riêng hay phòng chung.
* Ở nhà dân:
Một số gia đình Singapore tiếp nhận sinh viên Quốc tế đến sống và cung cấp các
dịch vụ như hình thức ở nội trú. Chi phí của hình thức nhà ở này trong khoảng từ 500 đến
1,000 đô la Singapore mỗi tháng.
* Nhà ở/ Căn hộ tư nhân:
Sinh viên có thể thuê một phòng hay một căn hộ hoặc thuê hẳn một căn nhà trực
tiếp từ người chủ căn nhà thuộc diện nhà của nhà nước hay của tư nhân. Nếu chọn hình
thức nơi ở này, bạn sẽ được yêu cầu trả trước ít nhất là một tháng tiền nhà và một tháng
tiền đặt cọc.
Thông thường, Văn phòng Sinh viên Quốc tế của trường sẽ cung cấp cho bạn địa

chỉ các dịch vụ cho thuê nhà để giúp học sinh tìm được nơi ở tốt. Các mẫu quảng cáo rao
vặt trên các tờ báo địa phương là nguồn thông tin tốt nhất để có danh sách các căn hộ và
phòng cho thuê. Một cách khác là bạn có thể liên hệ với công ty JTC(JTC Corporation).
Trang 14
* Khách sạn:
Đối với những người theo học khoá ngắn hạn như chương trình đào tạo cán bộ
điều hành sẽ có rất nhiều khách sạn để lựa chọn. Giá thuê phòng khách sạn tuỳ thuộc vào
vị trí và loại khách sạn sử dụng.
* Các khu căn hộ có người phục vụ:
Đối với những người ở lại trong một thời gian tương đối dài hoặc có gia đình cùng
đi thì sự lựa chọn tốt nhất là thuê căn hộ có người phục vụ. Hình thức nơi ở này có tất cả
sự thoải mái như một căn nhà và sự tiện lợi như ở khách sạn.
d) Học phí và học bổng:
* Học phí năm 2012 của Trường đại học Curtin Singapore:
Tên chương trình Thời lượng
(full time)
Thời lượng
(part time)
Học
kỳ 1
(SG$)
Học
kỳ 2
(SG$)
Học
kỳ 3
(SG$)
Học
kỳ 4
(SG$)

Học
kỳ 5
(SG$)
Học
kỳ 6
SG$)
Học phí
(SG$)
Chứng Chỉ IV
Chương trình chuẩn
bị đại học
2 kỳ (8
tháng)
6,400 6,400 12,800
Văn bằng Thương
mại
2 kỳ (8
tháng)
- 8,280 8,280 16,560
Cử nhân Nghệ thuật
(Mass Truyền thông)
2 kỳ (8
tháng)
- 7,880 7,880 15,760
Cử nhân Thương mại
Tất cả các chuyên
ngành và chuyên
ngành tăng gấp đôi
6 kỳ (2 năm) 12kỳ (4
năm)

8,280 8,280 8,280 8,280 8,280 8,280 49,680
Cử nhân Khoa học
(Nursing) Chương
trình chuyển đổi cho
y tá có đăng ký
- 4 kỳ (1,5
năm)
3,900 3,900 3,900 3,900 15,600
Thạc sĩ Kế toán 3 kỳ (1 năm) 6 kỳ (2
năm)
10,000 10,000 10,000 30,000
Giấy chứng nhận tốt
nghiệp ngành Tài
chính
1 kỳ (4
tháng)
2 kỳ (8
tháng)
10,000 10,000
Thạc sĩ Tài chính 3 kỳ (1 năm) 6 kỳ (2
năm)
10,000 10,000 10,000 30,000
Văn bằng tốt nghiệp
trong kinh doanh
quốc tế
2 kỳ (8
tháng)
4 kỳ (1,5
năm)
10,000 10,000 20,000

Thạc sĩ Kinh doanh
quốc tế
3 kỳ (1 năm) 6 kỳ (2
năm)
10,000 10,000 10,000 30,000
Thạc sĩ Logistics
(Supply Chain
Management)
**
2 kỳ (8
tháng)
4 kỳ (1,5
năm)
10,000 10,000 20,000
Thạc sĩ Y học lao
động và an toàn
- 6 kỳ (2
năm)
4,750 4,750 4,750 4,750 4,750 4,750 28,500
Văn bằng tốt nghiệp - 4 kỳ (1,5 4,750 4,750 4,750 4,750 19,000
Trang 15
Y tế và An toàn nghề
nghiệp
năm)
Giấy chứng nhận tốt
nghiệp Y tế và An
toàn nghề nghiệp
- 2 kỳ (8
tháng)
4,750 4,750 9,500

Thạc sĩ Khoa học:
Lãnh đạo lâm sàng
- 6 kỳ (2
năm)
4,900 4,900 4,900 4,900 4,900 4,900 29,400
Thạc sĩ Vật lý trị liệu
lâm sàng: thao tác trị
liệu
- 4 kỳ (2
năm)
4,200 8,400 8,400 12,600 33,600
Thạc sĩ điều dưỡng
(theo học)
- 6 kỳ (2
năm)
4,900 4,900 4,900 4,900 4,900 4,900 29,400
* Học bổng:
Các dạng học bổng chủ yếu:
- ASEAN Undergraduate Scholarship: toàn bộ học phí và 4.300SGD/năm tiền ăn
ở. Loại này chỉ được xét khi bạn đã được nhận vào trường, dựa trên thành tích và kết quả
phỏng vấn. Bạn phải đạt điểm trung bình >= 3.5 (trên 5) để được giữ học bổng này sau
mỗi học kỳ, nếu mất thì phải vay tiền cho những học kỳ sau.
- Học bổng cho riêng Business, giá trị cũng tương đương như MFA scholarship,
cũng có thi và các bạn nộp hồ sơ xét duyệt từ trường đại học của mình (thường thì các
trường như Kinh Tế, Ngoại Thương sẽ cung cấp thông tin).
- Các học bổng của công ty: thường các công ty clớn, cấp học bổng rất hấp dẫn
(luôn là tất cả học phí và số tiền ăn ở khá lớn), bạn chỉ việc làm cho họ 3, 4 năm sau khi
tốt nghiệp. Cái khó là nắm thông tin công ty nào cho, khi nào là hạn chót, và cho sinh
viên nước ngoài không nhiều lắm.
2.1.3. Ưu điểm và hạn chế

a) Ưu điểm:
* Cơ sở vật chất:
Singapore là đất nước có nền giáo dục chất lượng cao với hệ thống các trường
quốc lập được xếp hạng cao trên thế giới. Các trường này cung cấp cho học sinh một môi
trường học tập thực sự lý tưởng với hệ thống giáo trình phong phú, máy móc thiết bị hiện
đại hỗ trợ cho giảng dạy và học tập. Cũng chính vì được học tập và thực hành nhiều trên
các thiết bị máy móc thực tế mà sinh viên các trường này sau khi tốt nghiệp rất thành
Trang 16
thạo, chuyên nghiệp trong công việc, đồng thời có thể hoà nhập rất nhanh với xu thế phát
triển công nghiệp của xã hội hiện đại.
Hệ thống thư viện, phòng học tại đây rất hiện đại và tiện nghi với hệ thống phòng
đọc, phòng học, phòng chơi nhạc, phòng computer lab với mạng internet phục vụ miễn
phí giúp cho sinh viên dễ dàng tra cứu tài liệu và thực hành việc học ngôn ngữ. Chỉ riêng
trường Đại học NUS đã có khoảng 6 thư viện, mỗi thư viện có ít nhất 100 máy vi tính nối
mạng internet. Đó là chưa kể đến các phòng computer lab cho sinh viên, riêng khoa Cơ
khí của trường này đã có tới hơn 400 máy tính hiện đại. Sinh viên đến từ trường đại học
UC Backeley, Stanford, - Mỹ tham gia chương trình Student exchange tại NUS đã nhận
xét rằng phương tiện kỹ thuật của trường này hơn hẳn trường mình. Bên cạnh đó, yêu cầu
cơ bản cho tất cả sinh viên khi học tập tại Singapore là phải có máy vi tính xách tay vì
cường độ và số lượng bài tập mà các sinh viên phải làm là rất nhiều. Ngoài ra sinh viên
cũng phải sử dụng máy tính để kết nối internet truy cập các thông tin cần thiết, đọc bài
giảng của giáo viên cũng như liên hệ với giáo viên khi các em không đến lớp. “Thiếu máy
tính xách tay làm sao chúng tôi tồn tại với cường độ học tập ở đây được nhỉ?” Sinh viên
Chan Win người Myanmar trả lời vui khi được hỏi có cần thiết phải có máy tính xách tay
không. Tiền mua máy vi tính có thể vay từ các trường.
* Phương pháp giảng dạy:
Trong thời gian học tập, sinh viên không bắt buộc phải tham dự tất cả các buổi
giảng bài của giáo viên. Các em có thể ở nhà tự học, có thể lên thư viện hoặc học qua
băng ghi hình bài giảng trên lớp nhưng với bất cứ hình thức nào cũng phải đảm bảo tiếp
thu đầy đủ lượng kiến thức của chương trình. Phương pháp giảng dạy ở đây cũng rất khác

biệt vì nó nâng cao khả năng độc lập và tự chủ của sinh viên. Không chỉ tự chủ với lượng
kiến thức mà mình tiếp thu các em cũng học được cách biến những kiến thức đó thành
của mình và tự tin thể hiện nó. Tự tổ chức các buổi thuyết trình (presentation) là một hoạt
động thường xuyên và bắt buộc đối với sinh viên, để chứng minh lượng kiến thức lĩnh hội
qua các bài giảng.
* Đội ngũ giảng viên:
Giáo viên tham gia giảng dạy tại các trường quốc lập Singapore thường là những
giáo sư đầu ngành. Ngoài sự tin cậy và phong phú về tri thức, các thầy cũng sẵn lòng giúp
Trang 17
đỡ sinh viên ngoài giờ học khi các em có những thắc mắc cần giải đáp. Giao tiếp giữa
thầy và trò cũng cởi mở và gần gũi. Các sinh viên có thể thẳng thắn trao đổi, bày tỏ ý
kiến, thái độ về một vấn đề gì đó với giáo viên mà không sợ mất lòng hay bị "trù". Vào
giờ nghỉ thầy trò có thể mời nhau đi ăn trưa, đi uống cafe
* Chính sách khuyến khích:
Chính phủ Singapore luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu của quốc gia, trong
nhiều năm qua, Singapore luôn có nhiều chương trình học bổng hỗ trợ sinh viên quốc tế
theo học tại nước này, trong đó có Việt Nam. Những sinh viên có học lực tốt nhưng điều
kiện gia đình không dư giả vẫn có thể theo học tại các trường đại học có chất lượng và uy
tín tại Singapore. Chính phủ Singapore có chính sách khuyến khích đặc biệt dành cho sinh
viên quốc tế như tài trợ không hoàn lại 80% học phí, cho vay 75% số học phí còn lại là cơ
hội vàng cho những bạn sinh viên mong muốn đi du học.
Đối với các du học sinh Chính phủ Singapore cũng có những chính sách khuyến
khích và thu hút học tập như:
+ Không yêu cầu chứng minh tài chính.
+ Không yêu cầu chứng chỉ tiếng Anh IETLS / TOEFL khi đăng ký xin học.
+ Thủ tục hồ sơ đơn giản.
+ Tiến trình làm hồ sơ nhanh gọn.
* Chi phí:
Bộ GD giành khoảng 40 triệu đô la Singapore để xây dựng cơ sở vật chất cho
trường học nhằm đảm bảo tính chủ động của giáo viên và học sinh. Các trường có thể

được trang bị các lớp học đặc biệt phù hợp với cả hoạt động tập thể, hoạt động nhóm,
“phố sinh thái” để học về khoa học tự nhiên, hoặc một nhà hát để học nghệ thuật biểu
diễn.
Học phí đại học dao động từ 26.000 SGD – 35.000 SGD một khóa – Chương trình
thạc sĩ các chuyên nghành từ 18.000 SGD – 23.000 SGD/ khóa.
Chi phí sinnh hoạt bao gồm ăn, ở, đi lại, bảo hiểm, từ 750 SGD – 2.000 SGD/
tháng tùy loại hinh nhà ở, các sinh hoạt của mỗi cá nhân.
Trang 18
b) Hạn chế:
Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động cung ứng giáo dục ở Singapore
cũng có những hạn chế nhất định mà cần phải khắc phụ trong thời gian tới.
* Phương pháp giảng dạy:
Mặc cho nhiều nỗ lực cải cách, áp lực thi cử tiếp tục làm đau đầu những nhà hoạch
định chính sách giáo dục ở đảo quốc Sư Tử. Còn nhớ vài năm trước, ở Việt Nam từng có
một cuộc tranh luận sôi nổi giữa thi trắc nghiệm và tự luận. Hình thức nào cũng có ưu
nhược riêng nên Bộ Giáo dục Singapore đã quyết định chọn cả hai. Hầu hết các đề thi ở
đây, từ tiếng Anh đến toán, đều có nhiều phần (trắc nghiệm, trả lời ngắn, câu hỏi tự luận
dài, ), có tính phân loại cao, và kéo theo thời gian làm bài khá dài. Áp lực thi cử vì vậy
càng trĩu nặng trên vai học sinh nước này. Việc đẩy mạnh tầm quan trọng của các môn
ngoại khóa tưởng chừng sẽ giúp mọi thứ cân bằng hơn, ai ngờ lại gây hiệu ứng ngược:
Giờ đây, ngoài chuyện đạt điểm cao, học sinh còn phải có thành tích văn nghệ, thể dục thể
thao để giành lợi thế trong cuộc đua vào các trường điểm.
Một bất cập khác liên quan đến việc vận dụng triết lý giáo dục phương Tây vào lớp
học châu Á. Phương pháp lấy học sinh làm trung tâm, tổ chức thảo luận nhóm, chú ý đến
đặc điểm tâm lý của từng em, thay đổi cách dạy để phù hợp với nhiều đối tượng khác
nhau dường như không mấy hiệu quả khi sĩ số lớp còn đông (gần 40 em một lớp). Khi
một số học sinh tiểu học vẫn chưa có khả năng hiểu lý lẽ và thiếu sự quan tâm của phụ
huynh, việc dùng lời nói thay vì đòn roi để cảm hóa, thuyết phục các em đôi khi giống
như một cách để giáo viên tự bảo vệ mình trước những cáo buộc về bạo lực họ
* Cơ sở vật chất:

Các cơ sở vật chất và trang thiết bị tại các trường học tuy hiện đại chỉ đáp ứng
được ở c đường, hơn là một hướng tiếp cận sư phạm hiệu quả.
một số trường danh tiếng hay quốc tế như Đại học quốc gia Singapore (NUS), Đại học kĩ
thuật Nanyang (NTU), Trường ĐH Wharton thuộc ĐH Pennsylvania - Trung tâm nghiên
cứu SMU Wharton, Trường ĐH kỹ thuật Eindhoven (Đức)… nhưng chưa được đáp ứng
một cách đầy đủ, đồng bộ và tối ưu nhất. Bên cạnh đó còn một số cơ sở học không đủ các
cơ sở và phương tiện hỗ trợ giảng dạy của giảng viên cũng như học viên. Hạn chế này
Trang 19
cũng là một hạn chế điển hình tài các trường tại Singapore so với các nước có nền giáo
dục phát mạnh trên thế giới.
* Đội ngũ giảng viên:
Hiện nay đội ngũ giảng viên tai Singapore chưa đủ về số lượng và cả chất lượng để
đảm bảo cho nền giáo dục Singapore phát triển bền vững so với các quốc gia trên thế giới
như Anh, Mỹ… Ngoài đội ngũ giảng viên trong nước, Singapore còn phải thuê các giảng
viên nước. Việc thuê giảng viên nước ngoài là không hề rẻ chút nào, trong khi giá sinh
hoạt tăng cao ở Singapore cũng đang là một áp lực đội ngũ giảng viên. Hiện tại, giáo viên
nước ngoài đã chiếm vị trí chủ chốt trong giảng dạy tại các trường đại học trong nước
củaSingapore. Mặt khác, việc thuê những giảng viên hạng sao mà Singapore cần chứng tỏ
mình là một điểm đến toàn cầu trong lĩnh vực giáo dục có lẽ còn tốn gấp 2 lần so với thuê
những giảng viên bình thường.
2.2. Liên hệ với Việt Nam
Qua sự phân tích trên chúng ta có thể thấy rõ nét các điểm khác biệt và tương
đồng, ưu điểm và hạn chế giữa giáo dục Việt Nam và Singapore, từ đó mà chúng ta cần
khắc phục những mặt hạn chế và phát huy đẩy mạnh những mặt tích cực trong công tác
quản lý giáo dục của nhà nước ta.
Sự khác biệt này chúng ta co thể thấy trong cách quản lý, phân chia hệ thông giáo
dục của Việt Nam tồn tại hệ trung học phổ thông(cấp 3) nhưng tại Singapore không có
cấp 3 mà chia làm hai hướng khác nhau là cao đẳng hoặc dự bị đại. Chính phủ Việt Nam
cũng đầu tư vào giáo dục không kém gì Singapore. Đó là chưa kể các khoản đầu tư khá
lớn vào giáo dục cho con cái của các gia đình. Nhưng nền giáo dục của Singapore và Việt

Nam rõ ràng khá khác biệt. Một điểm khác biệt giữa Việt Nam với Singapore là đảo quốc
này rất thực dụng khi duy trì ngoại ngữ (tiếng Anh) trong giảng dạy và học tập. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa, giỏi tiếng Anh là một lợi thế lớn trong giao tiếp. Hơn nữa, phần lớn
thông tin và tri thức nhân loại, đặc biệt về khoa học, kỹ thuật, công nghệ, đều được viết
hoặc chuyển ngữ sang tiếng Anh.
Trong giáo dục, Singapore cũng áp dụng chính sách “song ngữ”. Theo chính sách
này, học sinh phải học hai thứ tiếng: tiếng mẹ đẻ và tiếng Anh. Tại Singapore, tiếng Anh
là ngôn ngữ của thương mại, công nghệ và hành chính. Những sắc tộc khác nhau tại đây
Trang 20
cũng giao tiếp với nhau dễ dàng nhờ ngôn ngữ chung này. Trong khi đó, tiếng mẹ đẻ -
Malaysia hoặc Quan thoại (người gốc Hoa) hoặc Tamil (người gốc Ấn Độ) - lại giúp họ
gìn giữ được các giá trị văn hóa truyền thống lâu đời.
Nền giáo dục Việt Nam co với Singapore còn bộc lộ nhiều hạn chế và nhiều bước
lỗi thời, đi ngược lại với xu thế chung. Cụ thể, xưa nay chúng ta vẫn quan niệm đầu vào là
quan trong nhất , toàn bộ cấp học thi cử đều tập trung siết chặt đầu vào. Do có tư tưởng
như vậy nên các ông bố, bà mẹ đều lo chạy vạy,lo cho con học để sau này đỗ được vào
đại học. Đầu vào trở thành nỗi ảnh hưởng ghê ghớm đối với người dân Việt Nam. Trong
khi đó, tốt nghiệp lại cực dễ. Chúng ta buông đầu ra đã khiến chô nền giáo dục Viêt Nam
đi ngược lại với nguyên lý của thế giới. Đảo lại nguyên lý, đảo lại cách học cần thiết, học
viên khi học chỉ được giảng dạy theo lý thuyết mà không có đan san, kết hợp với thực tiễn
trong quá trình học tập. Đây là điểm bất cập trong công tác giảng dạy hiện na ở Việt Nam,
khi cá nước trên thế giới lấy học viên là trung tâm, cung cấp cho học viên không chỉ về lý
thuyết mà còn cả kiến thức thực tế. Do đó mà học viên tiếp cận và giải quyêt các vấn đề
dặt ra một cách toàn diện, chính xác.
Hiện nay, Việt Nam có hệ thống giáo dục được đầu tư một cách dàn trải, không có
trọng tâm, then chốt và sự quản lý long lẻo của nhà nước dẫn đến tình trạng hễ cứ đủ tài
chính và các điều kiện khác là các trường học mọc lên như nấm một cách dễ dàng, trong
khi đó các trường (khu vực tư) chỉ quan tâm thu hút được lượng học viên vào trường chứ
không quan tâm chú đến việc nâng cao chất lượng đào tạo và cung ứng nguồn lao động
phù hợp mà thị trường cần. Tình trạng này dẫn đến tình trạng thừa thầy thiếu thợ, lượng

sinh viên tốt nghiệp đông đảo nhưng không bảo đảm về chất lượng, không đáp ứng nhu
cầu của thị trường lao động.
Với thực tế yếu kém về công tác giáo dục ở nước ta hiện nay, trong thời gian tới
Việt Nam cần có những chiến lược hay có những bước tiến đột phá để có thể nâng cao
chất lượng giáo dục của nước nhà. Chúng ta có học hỏi kinh nghiệm từ Singapore hay các
quốc gia khác trên thế giới như đầu tư trang thiết bị kỹ thuật (khu vực công); không nên
đầu tư dàn trải, xây dựng quá nhiều trường (cao đẳng, đại học) mà chú trọng phát triển
một số trường có chất lượng chuẩn quốc tế; thay đổi cách tư duy và phương pháp giảng
dạy; thay đổi hình thức thi cử, không nên quá coi trọng đầu vào trong khi đầu ra lại cào
Trang 21
bằng, dễ dàng làm cho chất lượng học viên không đảm bảo, thay vì như vậy có thể mở
rộng đầu vào nhưng đầu ra sẽ siết chặt, chỉ những học viên đủ năng lực thực sự mới có
thể tốt nghiệp; cần có những chính sách thúc đẩy học viên; hệ thống văn bản pháp lý cần
đơn giản, đồng bộ thống nhất. Đặc biệt, Việt Nam với 54 dân tộc sinh sống trên những địa
bàn dân cư khác nhau có điều kiện phát triển và trình độ dân trí khác nhau. Đối với các
đông bào dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu vùng xa, với đặc thù kinh tế khó khăn, trình độ
dân trì thấp. Đây là những vùng, những vị trí có vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển đất nước, do vậy mà Nhà nước cần quan đầu tư tâm hơn nữa về kinh tế cũng như về
cơ sở hạ tầng kỹ thuật và phương tiện giáo dục ở những nơi này đảm bảo cho người dân
cũng như thế hệ trẻ mai sau có cuộc sống ổn định với một tầm hiểu biết sâu rộng đảm bảo
ổn định và phát triển đât nước.
KẾT LUẬN
Qua sự trình bày và phân tích trên chúng ta có thể thấy rõ một phần nào đó thực
trạng cung ứng dịch vụ giáo dục của Singapore cũng như thực trạng hiện nay của nền giáo
dục Việt Nam. Tại mỗi quốc gia với hoàn cảnh và điều kiện phát triển khác nhau có nền
giáo dục phát triển khác nhau. Singapore với điều kiện kinh tế phát triển, ổn định về chính
trị và văn hóa phát triển là những điều kiện thuận lợi cho phát triển của nền giáo dục hiện
nay. Bên cạnh đó còn không ít những tồn tại, khó khăn mà Singapore cần phải có cách
Trang 22
thức và phương pháp giải quyết thích hợp trong tương lai đảm bảo nền giáo dục ổn định,

phát triển cung ứng cho thị trường lực lượng lao động có chất lượng tốt nhất.
Trang 23

×