Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

đề tài lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.15 KB, 39 trang )

Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
I. KHÁI QUÁT LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN
BÁO CÁO TÀI CHÍNH 2
1. Giới thiệu kiểm toán BCTC và quy trình kiểm toán 2
2. Khái niệm và vai trò của lập kế hoạch trong quy trình kiểm toán BCTC 3
2.1 Khái niệm 3
2.2 Vai trò của lập kế hoạch kiểm toán trong quy trình kiểm toán BCTC 3
II. LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN TRONG QUY TRÌNH KIỂM TOÁN
BCTC 4
1. Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán 4
1.1. Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán 4
1.1.1. Xem xét tính độc lập của công ty kiểm toán: 4
1.1.2. Khả năng phục vụ tốt khách hàng: 4
1.1.3. Tính liêm khiết của ban quản trị doanh nghiệp được kiểm toán: 4
1.1.4. Xem xét tính đầy đủ của bằng chứng mà hệ thống kế toán của khách hàng cung cấp về các nghiệp
vụ kinh tế phát sinh: 4
1.1.5. Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán đối với khách hàng mới của công ty kiểm toán: 5
1.2. Nhận diện lý do kiểm toán của công ty khách hàng: 5
1.3. Lựa chọn đội ngũ nhân viên thực hiện kiểm toán: 5
1.4. Lập hợp đồng kiểm toán 5
2. Thu thập thông tin chung về khách hàng 6
2.1. Thu thập thông tin chung về khách hàng 6
2.2. Thực hiện thủ tục phân tích 6
2.2.1. Khái niệm: 6
2.2.2. Vai trò của thủ tục phân tích 7


2.2.3. Nội dung của thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán 7
3.Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán 11
3.1. Trọng yếu 11
3.1.1. Khái niệm và vai trò của trọng yếu 11
3.1.2. Trình tự xác định tính trọng yếu trong giai đoạn lập kê hoạch kiểm toán BCTC 11
3.1.2.1. Ước lượng ban đầu về trọng yếu 12
3.1.2.2. Phân bổ mức trọng yếu 13
3.2. Rủi ro kiểm toán (AR) 14
3.2.1. Khái niệm 14
3.2.2. Các thành phần của rủi ro kiểm toán 15
3.2.2.1. Rủi ro tiềm tàng 15
3.2.2.2. Rủi ro kiểm soát 15
3.2.2.3. Rủi ro phát hiện 15
3.2.3. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán – Mô hình rủi ro kiểm toán 15
3.2.3.1. Mô hình rủi ro kiểm toán 16
3.2.3.2. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro 16
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
3.2.4. Trình tự đánh giá rủi ro kiểm toán 17
3.3. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán 21
3.3. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán 21
4. Đánh giá sơ bộ hệ thống kiểm soát nội bộ 22
4.1. Mục đích 22
4.2. Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ 22
4.2.1. Nội dung tìm hiểu: 22
4.2.1.1. Môi trường kiểm soát 22
4.2.1.2. Đánh giá rủi ro 23
4.2.1.3. Hệ thống thông tin kế toán 23

4.2.1.4 Các thủ tục kiểm soát 24
4.2.1.5 Giám sát hệ thống kiểm soát nội bộ 25
4.2.2. Các phương pháp tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ: 25
4.3. Mô tả về hệ thống kiểm soát nội bộ trên giấy tờ làm việc
Sau
25
4.4. Đánh giá sơ bộ rủi ro kiểm soát 30
4.5. Tìm hiểu và đánh giá KSNB tại các đơn vị có sử dụng dịch vụ do tổ chức bên ngoài cung cấp 31
5. Lập kế hoạch kiểm soát tổng quát và soạn thảo chương trình kiểm toán 31
5.1. Xây dựng kế hoạch kiểm toán chiến lược 31
5.2. Xây dựng kế hoạch kiểm toán tổng thể 33
5.3. Lập chương trình kiểm toán 34
III. NHẬN XÉT CHUNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG CỦA VIỆC LẬP KÊ HOẠCH KIỂM TOÁN TẠI VIỆT
NAM 34
1. Nhận xét chung 34
1.1 Thuận lợi 34
1.2 Khó khăn 35
1. Nhận xét chung 36
2. Giải pháp đề xuất nâng cao chất lượng của việc lập kế hoạch kiểm toán tại Việt Nam 36
2.1. Các công ty kiểm toán nhỏ cần chú trọng hơn vào đánh giá khả năng chấp nhận khách hàng và tìm hiểu
về khách hàng 36
2.2.Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên 36
2.3 Hoàn thiện giai đoạn lập kế hoạch tổng thể 36
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. KHÁI QUÁT LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO
CÁO TÀI CHÍNH
1. Giới thiệu kiểm toán BCTC và quy trình kiểm toán
Theo định nghĩa của Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC) "Kiểm toán là việc các

kiểm toán viên độc lập kiểm tra và tEnh bày ý kiến của mình về báo cáo tài chính".
Kiểm toán tài chính là một hoạt động đặc trưng của kiểm toán, với mục tiêu cụ
thể là “đưa ra ý kiến xác nhận rằng Báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp luật liên
quan, có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không” (theo
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 200/11)
Trong kiểm toán BCTC, để thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán có giá
trị để làm căn cứ cho kết luận của KTV về tính trung thực và hợp lý của thông tin trên
BCTC đồng thời đảm bảo tính hiệu quả, kinh tế, tính hiệu lực của từng cuộc kiểm toán,
KTV phải xây dựng được quy trình cụ thể cho cuộc kiểm toán đó. Thông thường, mỗi
quy trình kiểm toán được chia thành 3 bước:
Giai đoạn 1: Lập kế hoạch kiểm toán
Giai đoạn 2: Thực hiện kiểm toán
Giai đoạn 3: Kết thúc kiểm toán
2. Khái niệm và vai trò của lập kế hoạch trong quy trình kiểm toán BCTC
2.1 Khái niệm
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (CMKTVN) 300 nêu rõ: “Kế hoạch kiểm
toán là những định hướng cơ bản của cuộc kiểm toán dựa trên hiểu biết của kiểm toán
viên về tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng và trọng tâm cuộc kiểm toán”.
Theo định nghĩa trên thì việc lập kế hoạch trước hết đó là tìm hiểu về “tình hình
hoạt động kinh doanh của khách hàng”. Trước khi thực hiện cuộc kiểm toán, KTV
phảicó hiểu biết biết đầy đủ về tình hình kinh doanh của khách hàng nhằm đánh giá,
phân tíchđược các sự kiện, nghiệp vụ và thực tiễn hoạt động có ảnh hưởng đến tình
hình tài chính của đơn vị.
Lập kế hoạch kiểm toán báo cáo gồm 5 bước:
Bước 1: Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán.

Bước 2: Thu thập thông tin chung về khách hàng.
Bước 3: Đánh giá trọng yếu và rủi ro trọng yếu.
Bước 4: Đánh giá sơ bộ hệ thống kiểm soát nội bộ.
Bước 5: Kế hoạch kiểm toán tổng quát và chương trình kiểm toán.
2.2 Vai trò của lập kế hoạch kiểm toán trong quy trình kiểm toán BCTC
Kế hoạch kiểm toán là giai đoạn không thể thiếu và chi phối tới chất lượng hiệu
quả chung của toàn bộ cuộc kiểm toán. Ý nghĩa này được thể hiện ở một số điểm sau:
Kế hoạch kiểm toán giúp KTV thu thập được các bằng chứng kiểm toán đầy
đủ và thích hợp làm cơ sở để đưa ra các ý kiến xác đáng về các BCTC.
Kế hoạch kiểm toán giúp KTV phối hợp hiệu quả với nhau cũng như phối
hợp hiệu quả với các bộ phận có liên quan như kiểm toán nội bộ, các chuyên gia bên
ngoài.
Là căn cứ để công ty kiểm toán tránh xảy ra những bất đồng đối với khách
hàng.Trên cơ sở kế hoạch đã lập, KTV thống nhất với các khách hàng về nội dung
công việc sẽ thực hiện, thời gian tiến hành kiểm toán cũng như trách nhiệm mỗi bên.
Kế hoạch kiểm toán đưa ra các kế hoạch, chương trình kiểm toán cụ thể, các
bước thực hiện và nội dung thực hiện được các bước đó. Nên từ bản kế hoạch kiểm
toán công ty kiểm toán sẽ tính toán được chi phí hợp lý của cuộc kiểm toán từ đó có
thể đưa ra mức phí kiểm toán mà khách hàng phải trả đảm bảo có lợi nhuận cho mình
nhưng phù hợp với các chi phí đã bỏ ra.
Căn cứ vào kế hoạch kiểm toán đã được lập, KTV có thể kiểm soát và đánh
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
giá chất lượng công việc kiểm toán đã và đang thực hiện. Từ đó có thể đưa ra các ý
kiến, phương án để nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán.
II. LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN TRONG QUY TRÌNH KIỂM TOÁN BCTC
1. Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán
1.1. Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán

Để đưa ra quyết định chấp nhận hay duy trì một khách hàng, KTV cần xem xét
các yếu tố sau:
1.1.1. Xem xét tính độc lập của công ty kiểm toán:
Các thông tin BCTC sau kiểm toán có ảnh hưởng liên quan đến nhiều đối
tượng, vì vậy đòi hỏi thông tin đó phải trung thực, khách quan dẫn đến người thực hiện
kiểm toán phải có tính độc lập với khách hàng được kiểm toán. Cụ thể là không có mối
quan hệ đặc biệt giữa KTV thực hiện với những người liên quan đến bộ phận quản lý
đơn vị của khách hàng. Đây là một yếu tố bắt buộc nhằm đảm bảo thông tin do kiểm
toán viên cung cấp có tính trung thực, khách quan về BCTC của khách hàng được kiểm
toán.
1.1.2. Khả năng phục vụ tốt khách hàng:
Khách hàng tiềm năng của công ty kiểm toán có thể rất nhiều, tuy nhiên để
thực hiện được một hợp đồng kiểm toán thành công ngoài sự đồng ý từ phía khách
hàng thì công ty kiểm toán phải đánh giá đúng năng lực của mình. Vì hoạt động kiểm
toán có rủi ro cao, công ty kiểm toán phải có trách nhiệm trước pháp luật về những ý
kiến của mình đưa ra. Vì vậy tùy quy mô đối tượng khách hàng, tính chất công việc đối
chiếu với năng lực khả năng hiện có thì công ty kiểm toán mới ra quyết định có thực
hiện cuộc kiểm toán hay không.
1.1.3. Tính liêm khiết của ban quản trị doanh nghiệp được kiểm toán:
Theo CMKTVN số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”, tính liêm
khiết của ban quản trị là bộ phận cấu thành then chốt của môi trường kiểm soát, đây là
nền tảng cho tất cả các bộ phận khác của hệ thống kiểm soát nội bộ. Hơn nữa,
CMKTVN số 240 “Gian lận và sai sót” đã nhấn mạnh tầm quan trọng về đặc thù của
ban quản trị và ảnh hưởng của nó tới môi trường kiểm soát như là nhân tố rủi ro ban
đầu của việc báo cáo gian lận của các thông tin tài chính. Nếu ban quả trị thiếu liêm
khiết, KTV không thể dựa vào bất cứ giải trình nào của ban quản trị cũng như không
thể dựa vào các sổ sách kế toán.
1.1.4. Xem xét tính đầy đủ của bằng chứng mà hệ thống kế toán của
khách hàng cung cấp về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh:
Theo CMKTVN số 500 mục 02 quy định “Kiểm toán viên và công ty kiểm

toán phải thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý
kiến của mình về BCTC của đơn vị được kiểm toán”. Vì vậy, KTV muốn đưa ra được ý
kiến của mình thì phải có bằng chứng kiểm toán đầy đủ tương ứng, mà nguồn bằng
chứng chủ yếu (như chứng từ, sổ sách kế toán ) liên quan đến BCTC là do hệ thống
kế toán của đơn vị cung cấp. Do đó, việc xem xét hệ thống kế toán của khách hàng
phải cung cấp đầy đủ bằng chứng về nghiệp vụ kinh tế phát sinh là yêu cầu bắt buộc
của KTV đối với việc đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán.
1.1.5. Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán đối với khách hàng mới
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
của công ty kiểm toán:
a. Đối với khách hàng mới và chưa được công ty nào kiểm toán trước
đây:
Đối với những khách hàng này để có được thông tin, KTV có thể thu thập
thông qua việc nghiên cứu sách báo, tạp chí chuyên ngành, thẩm tra các bên liên quan
như ngân hàng, tư vấn pháp lý, các bên có mối quan hệ tài chính buôn bán với khách
hàng Nếu thấy có vấn đề phức tạp, khó tìm hiểu thì có thể phải thuê các nhà điều tra
chuyên nghiệp.
b. Đối với khách hàng mới và đã được kiểm toán bởi công ty khác:
Ngoài việc tự tìm hiểu thì KTV có thể liên lạc với KTV tiền nhiệm để thu
thập thông tin về: tính liêm khiết của ban quản trị, những bất đồng giữa ban quản trị
với KTV tiền nhiệm về các nguyên tắc kế toán, thủ tục kiểm toán hoặc các vấn đề quan
trọng khác. Đồng thời tìm hiểu lý do tại sao khách hàng thay đổi kiểm toán viên. Ngoài
ra KTV có thể xem xét hồ sơ kiểm toán của KTV tiền nhiệm để hỗ trợ cho việc lập kế
hoạch kiểm toán của mình.
1.2. Nhận diện lý do kiểm toán của công ty khách hàng:
Thực chất của việc nhận diện các lý do kiểm toán của công ty khách hàng là
việc xác định người sử dụng BCTC và mục đích sử dụng báo cáo. Đây là hai yếu tố

chính ảnh hưởng đến mức độ chính xác của ý kiến đưa ra và số lượng bằng chứng phải
thu thập, là cơ sở để thiết kế phương pháp kiểm toán và lựa chọn đội ngũ KTV thích
hợp.
1.3. Lựa chọn đội ngũ nhân viên thực hiện kiểm toán :
Dựa vào đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán của khách hàng, mục tiêu của
cuộc kiểm toán và tình hình nhân sự, công ty kiểm toán tiến hành lựa chọn đội ngũ
KTV và trợ lý kiểm toán cho cuộc kiểm toán. Lựa chọn nhân sự sao cho thích hợp với
hợp đồng kiểm toán, không những đạt hiệu quả của cuộc kiểm toán mà còn tuân thủ
các CMKT chung được thừa nhận. Việc lựa chọn này được tiến hành trên yêu cầu về
số người, trình độ khả năng và yêu cầu chuyên môn kỹ thuật và thường do ban giám
đốc công ty kiểm toán trực tiếp chỉ đạo. Nhóm kiểm toán thông thường có một hoặc
hai trợ lý kiểm toán, một KTV cao cấp và một chủ nhiệm kiểm toán. Đối với các hợp
đồng lớn đội ngũ KTV thường ở các mức kinh nghiệm khác nhau và có sự tham gia
của các chuyên gia về thống kê, tin học
1.4. Lập hợp đồng kiểm toán
Hợp đồng kiểm toán (HĐKT) là một thỏa hiệp giữa công ty kiểm toán và khách
hàng về sự điều hành cuộc kiểm toán và các dịch vụ khác có liên quan. Nó phải chỉ rõ
KTV sẽ thực hiện một cuộc kiểm toán, một cuộc xem xét lại hoặc một cuộc soạn thảo,
cùng với những dịch vụ khác như dịch vụ lập bản khai thuế hay dịch vụ quản lý.
HĐKT phải được lập và ký chính thức trước khi tiến hành công việc kiểm toán nhằm
bảo vệ quyền lợi của khách hàng và của công ty kiểm toán (CMKTVN 210). Trong
trường hợp đặc biệt, có thể sử dụng văn bản cam kết thay cho HĐKT. Hợp đồng kiểm
toán gồm các nội dung chủ yếu sau:
 Mục đích và phạm vi kiểm toán
 Trách nhiệm Ban giám đốc công ty khách hàng và KTV.
 Hình thức thông báo kết quả kiểm toán.
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền

 Thời gian tiến hành cuộc kiểm toán.
 Căn cứ tính giá phí cuộc kiểm toán và hình thức thanh toán phí kiểm toán.
Xác định rằng KTV không chịu trách nhiệm những sai sót do bản chất và những
hạn chế vốn có của hệ thống kế toán, hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán. Sau khi
hợp đồng kiểm toán được ký kết, công ty kiểm toán trở thành chủ thể kiểm toán chính
thức của công ty khách hàng.
2. Thu thập thông tin chung về khách hàng
2.1. Thu thập thông tin chung về khách hàng
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 310, “Để thực hiện kiểm toán báo cáo
tài chính, kiểm toán viên phải có hiểu biết cần thiết, đầy đủ về tình hình kinh doanh
nhằm đánh giá và phân tích được các sự kiện, nghiệp vụ và thực tiễn hoạt động của
đơn vị được kiểm toán mà theo kiểm toán viên thì có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo
tài chính, đến việc kiểm tra của KTV hoặc đến báo cáo kiểm toán”.
Hiểu biết cần thiết của kiểm toán viên để thực hiện một cuộc kiểm toán bao gồm
những hiểu biết về:
 Ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng: những hiểu biết chung về
nền kinh tế, môi trường kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh cũng như cơ cấu tổ chức sản
xuất kinh doanh, quản lý, cơ cấu vốn…
 Hệ thống kế toán, kiểm soát nội bộ của khách hàng.
 Thông tin về các bên liên quan như: các bộ phận trực thuộc, các chủ sở hữu chính
thức, các cá nhân, tổ chức có khả năng kiểm soát hoặc ảnh hưởng đáng kể đối với đơn
vị.
 Thông tin về hình thức sở hữu và các nghĩa vụ pháp lý của đơn vị được kiểm toán.
KTV có thể có được những thông tin này bằng nhiều cách:
• Trao đổi với KTV tiền nhiệm, xem xét hồ sơ kiểm toán năm trước.
• Trao đổi trực tiếp với KTV nội bộ, nhân viên, ban giám đốc của công ty khách
hàng.
• Tham quan nhà xưởng.
• Nghiên cứu các giấy phép thành lập, điều lệ công ty, biên bản các cuộc họp quan
trọng…

• Trao đổi với các đối tượng bên ngoài: các chuyên gia, cơ quan chủ quản, khách
hàng, nhà cung cấp.
Thu thập thông tin phải đảm bảo rằng KTV đạt được sự hiểu biết về nội dung
các BCTC, những thay đổi quan trọng về kế toán và hoạt động kinh doanh của khách
hàng. Từ đó KTV có thể xác định vấn đề nghi vấn về khả năng hoạt động liên tục của
khách hàng, đánh giá sự hiện diện của các sai sót có thể có trên báo cáo tài chính của
doanh nghiệp.
2.2. Thực hiện thủ tục phân tích
2.2.1. Khái niệm:
Thủ tục phân tích theo định nghĩa của CMKT số 520: “ Thủ tục phân tích là
việc phân tích các số liệu, thông tin, các tỷ suất quan trọng, qua đó tìm những xu
hướng, biến động và tìm ra những mâu thuẫn với các thông tin liên quan khác hoặc có
sự chênh lệch lớn so với giá trị dự kiến”.
Thủ tục phân tích được dùng để thu thập bằng chứng về những sai lệch trọng
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
yếu trong BCTC. Thủ tục phân tích không những không dừng lại ở việc tìm hiểu tình
hình của khách hàng mà còn dùng để phát hiện ra những số liệu có khả năng bị sai
lệch.
2.2.2. Vai trò của thủ tục phân tích
Thủ tục phân tích thường được KTV sử dụng trong suốt quá trình kiểm toán,
vì vậy giúp KTV đánh giá được tình hình tài chính cũng như hoạt động kinh doanh của
khách hàng.
Trong tiến trình lập kế hoạch, thủ tục phân tích là kỹ thuật giúp KTV nhận dạng
những khoản mục bất thường qua đó giúp dự đoán những khu vực có rủi ro cao, đồng
thời hỗ trợ cho họ trong việc xác định nội dung, phạm vi và thời gian của các thủ tục
kiểm toán khác. Ví dụ, khi phân tích KTV nhận thấy hàng tồn kho năm nay tăng lên rất
nhiều so với năm trước, nhưng doanh thu trong kỳ lại giảm, từ đó KTV sẽ mở rộng

phạm vi đối với thử nghiệm chi tiết cho khoản mục hàng tồn kho.
Ngoài ra, thông qua phân tích sơ bộ tình hình tài chính (nhất là khả năng thanh
toán), KTV còn xem xét thêm liệu giả định hoạt động liên tục có thể bị vi phạm hay
không? Đánh giá ban đầu về giả định này sẽ là cơ sở để KTV quyết định có thực hiện
các thủ tục xác minh cần thiết hay không?
2.2.3. Nội dung của thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm
toán
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, thủ tục phân tích được thực hiện sơ
bộ theo 3 bước:
Bước 1: Thu thập thông tin tài chính và phi tài chính
Ảnh hưởng đến BCTC của đơn vị không những chỉ là các thông tin tài chính mà
còn có các thông tin phi tài chính. KTV cần phảI thu thập đầy đủ các thông tin liên
quan đến hoạt động của doanh nghiệp.
Bước 2: Tiến hành phân tích sơ bộ
Để đạt được sự hiểu biết về khách hàng, trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán,
KTV có thể rà soát các số liệu trên BCTC và bảng cân đối để phát hiện những vấn đề
bất thường. Thủ tục này cũng có thể áp dụng cho thông tin tài chính theo từng quý. Sau
đó KTV tiến hành tính toán các tỷ suất tài chính cho biết khả năng thanh toán, khả
năng sinh lời, cấu trúc tài chính của doanh nghiệp.
Bảng 1: BẢNG TỔNG HỢP PHÂN TÍCH HỆ SỐ
Các hệ số thông thường
sử dụng
Công thức áp dụng
Năm
2010
Năm
2009
Biến động
Ghi
chú

Trước
KT
Sau
KT
VND %

Hệ số thanh toán
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
Hệ số thanh toán hiện
hành
TS ngắn hạn/Nợ
ngắn hạn
[1]
Hệ số thanh toán nhanh
(TS ngắn hạn -
HTK)/ Nợ ngắn hạn

Hệ số thanh toán bằng tiền Tiền/ Nợ ngắn hạn
Ý kiến nhận xét về khả năng thanh toán
Hệ số đo lường hiệu quả
hoạt động

Vòng quay các khoản phải
thu
(Doanh thu/Phải thu
KH ) x 365
[2]

Vòng quay hàng tồn kho
(Giá vốn hàng
bán/HTK) x 365

Vòng quay vốn lưu động
Doanh thu/ (TS
ngắn hạn - Nợ NH)

Ý kiến nhận xét về hiệu quả hoạt động
Hệ số khả năng sinh lời
Tỷ suất lợi nhuận gộp
Lãi gộp/ Doanh thu
thuần

Tỷ suất lợi nhuận thuần
Lợi nhuận sau thuế/
Doanh thu thuần
[3]
Doanh thu trên tổng tài sản
Doanh thu thuần/
Tổng tài sản

Tỷ suất sinh lời trên tài sản
(LN trước thuế + chi
phí lãi vay)/ tài sản

Tỷ suất sinh lời trên vốn
CSH
(LN trước thuế cho
CĐ thường/vốn CSH

thường
[4]
Ý kiến nhận xét về hiệu quả hoạt động
Các hệ số thông thường
sử dụng
Công thức áp dụng
Năm
2010
Năm
2009
Biến động
Ghi
chú
Hệ số nợ
Nợ dài hạn trên vốn chủ
sở hữu
Nợ dài hạn/ Vốn
CSH

Tổng nợ trên vốn chủ sở
hữu
Nợ phải trả/ Vốn
CSH

Nợ dài hạn trên tổng tài
sản
Nợ dài hạn/ Tổng
TS

SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt

Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
Tổng nợ trên tổng tài sản
Nợ phải trả/ Tổng
TS

Ý kiến nhận xét về sự dụng đòn bẩy tài chính của Cty
a.So sánh dữ liệu của ngành với dữ liệu của công ty khách hàng
Việc thực hiện sẽ giúp cho KTV hiểu rõ hơn công việc kinh doanh của khách
hàng. Tuy nhiên, các số liệu chung của ngành cũng khó so sánh được do sự khác nhau
giữa doanh nghiệp về loại hình kinh doanh, phương pháp kế toán và vị trí địa lý. Nên
KTV cần cân nhắc trong từng điều kiện cụ thể
b.So sánh dữ kiện của công ty khách hàng với dữ kiện tương tự của kỳ
trước:
-So sánh số dư, tỷ suất năm hiện hành với số liệu năm trước để phát hiện các dấu hiệu
bất thường
- So sánh chi tiết số dư tổng hợp với chi tiết tương ứng của năm trước: Giúp tách riêng
thông tin cần thiết phảI kiểm tra thêm. Quá trình so sánh có thể theo các chi tiết hàng
kỳ hoặc các chi tiết tại một thời điểm
c.So sánh dữ kiện của khách hàng với kết quả ước tính do khách hàng xác
định.
Hầu hết các công ty soạn thảo dự toán cho các mặt hoạt động khác nhau và các
kết quả tài chính. Bất cứ khi nào số liệu của khách hàng được so sánh với sổ kế hoạch
đều có 2 vấn đề quan tâm đặc biệt. Một là, KTV phải đánh giá xem liệu các dự toán có
phải là kế hoạch khả thi hay không. Trong một số tổ chức, các dự toán được soạn thảo
với rất ít suy nghĩ hoặc thận trọng và do đó những số ước tính không có tính khả thi.
Sử dụng thông tin như vậy để làm bằng chứng kiểm toán có rất ít giá trị. Hai là, khả
năng thông tin tài chính kỳ hiện hành đã bị khách hàng thay đổi để phù hợp với dự
toán. Nếu điều này xảy ra, KTV sẽ không tìm thấy chênh lệch khi so sánh thực tế với

kế hoạch cho dù có sai số trên BCTC.
d.So sánh số liệu với kết quả ước tính của kiểm toán viên:
KTV ước tính số dư của một tài khoản nào đó bằng cách liên hệ nó với một vài
tài khoản trên bảng cân đối hoặc báo cáo kết quả kinh doanh, bằng cách dự đoán xu
hướng. Khi tiến hành so sánh KTV phải chú ý tới những số dư bất thường và cả những
số dư không hề có sự chênh lệch cũng cần được chý ý vì chúng luôn chứa đựng nguy
cơ về sai phạm. Khi phát hiện những sai lệch so với dự kiến phảI thảo luận với quản lý
và tính hợp lý của nhà quản lý cần phải được xem xét.
Thủ tục so sánh giúp KTV khoanh vùng các sai phạm, thường chú ý những vấn đề
sau:
- Những biến động bất thường, số dư tài khoản không thường xuyên. VD thông tin
về tiêu thụ hàng bán ra trong năm lớn nhưng doanh thu tiêu thụ sản phẩm tăng không
đáng kể, từ đó đặt ra nghi vấn về việc ghi chép doanh thu hoặc thấy lượng hàng bán ra
trong năm không lớn có chiều hướng giảm mạnh so với các năm trước nhưng chi phí
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Chương trình kiểm toán mẫu (Áp dụng chính thức từ kỳ kiểm toán năm 2010/2011)
(Ban hành theo Quyết định số 1089/QĐ-VACPA ngày 01/10/2010 của Chủ tịch VACPA)
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
bán hàng lại lớn hơn thì phải đặt ra nghi vấn về việc ghi chép chỉ tiêu cho việc bán
hàng.
- Những biến động bất thường của các tài khoản có liên quan mà theo xét đoán của
KTV nó bị ảnh hưởng từ sự biến động các tài khoản khác. VD doanh thu năm nay tăng
lên đáng kể nhưng số dư tài khoản các khoản phải thu lại biến động ít.
- Khi sự biến động của các thông tin tài chính so với các thông tin phi tài chính.VD tại
công ty lớn, có nhiều chi nhánh, trong đó có một chi nhánh tham gia liên doanh với
nước ngoài, nhưng hoạt động thua lỗ. Doanh nghiệp đã lập dự phòng cho khoản này
làm tăng chi phí tài chính trong năm, tuy nhiên xem xét các thông tin lại thấy không có
chính sách nào quy định việc lập dự phòng này.

Chú ý: Tuỳ theo quy mô, hoạt động kinh doanh của từng đối tượng, loại hình kinh
doanh mà có thể áp dụng các mục tiêu, các loại so sánh khác nhau như so sánh tương
đối, so sánh tuyệt đối, so sánh kỳ này với kỳ trước, so sánh số liệu thực tế với số liệu
kế hoạch…
Ngoài ra KTV còn tiến hành phân tích sử dụng các thước đo phi tài chính:
+ Thị phần
+ Sự thoả mãn của khách hàng
+ Thời gian đưa ra sản phẩm mới
+ Tỷ lệ thành công của sản phẩm mới
Các thước đo phi tài chính được sử dụng phụ thuộc đặc điểm từng ngành cụ thể,
nó không bị giới hạn cụ thể bới các quy định cụ thể như kế toán nên việc sử dụng
thước đo này phụ thuộc vào sự sẵn có của số liệu đáng tin cậy và có hệ thống.Các
thông tin phi tài chính là một nguồn bằng chứng hữu dụng giúp KTV đánh giá rủi ro và
đo lường phản ứng của ban giám đốc.
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán,KTV chưa cần đạt đến độ chính xác
trong ước tính số liệu kế toán, không cần kiểm tra các chứng từ gốc. KTV chỉ cần ước
đoán số liệu dựa trên sự hiểu biết trước đây về hoạt động kinh doanh của khách hàng,
đặc điểm các số dư, các nghiệp vụ có liên quan đến thông tin tài chính của năm hiện
tại.
Bước 3: Đánh giá ban đầu
Từ việc tính toán ra các tỷ suất, tiến hành so sánh cũng như xem xét các chỉ tiêu
phi tài chính, KTV tiến hành đánh giá xem những biến động trên BCTC có phù hợp
với dự đoán và hiểu biết của KTV hay không. Nếu sự biến động là trọng yếu, KTV cần
thảo luận với Ban giám đốc của đơn vị và đánh giá sự giải thích của họ. Trả lời của nhà
quản lý được KTV xem xét về giá trị của thông tin và độ tín nhiệm, điều đó đòi hỏi
KTV phải có sự hiểu biết về công ty và đánh giá đúng đắn yếu tố rủi ro tiềm tàng.
Nếu qua thủ tục phân tích sơ bộ, KTV nhận thấy sự xuất hiện của những biến
động bất thường hay sự vắng mặt của những biến động dự kiến mà nguyên nhân không
được giải thích hợp lý, KTV cần nhận dạng các sai phạm tiềm tàng có thể xảy ra với
các khoản mục hoặc nghiệp vụ này. Ngoài ra KTV có thể thực hiện thủ tục phân tích ở

mức độ cao hơn để làm rõ các biến động mà KTV chưa thoả mãn.
Qua thủ tục phân tích sơ bộ, KTV có thể xác định rủi ro kiểm toán cho từng
khoản mục trên BCTC, từ đó, lựa chọn các khoản mục chứa đựng nhiều rủi ro nhất để
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
tập trung nhiều hơn trong quá trình thực hiện kiểm toán.
3.Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán
3.1. Trọng yếu
3.1.1. Khái niệm và vai trò của trọng yếu
Trong lĩnh vực kiểm toán, khái niệm trọng yếu thường xuyên được nhắc đến,
được định nghĩa trong rất nhiều các tài liệu về kiểm toán, đặc biệt là kiểm toán BCTC.
Văn bản chỉ đạo kiểm toán Quốc tế số 25 (IAG 25), định nghĩa: “Trọng yếu là khái
niệm về tầm cỡ, bản chất của sai phạm (kể cả bỏ sót) thông tin tài chính, hoặc là đơn
lẻ, hoặc là từng nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét
đoán thì sẽ không chính xác hoặc là sẽ rút ra những kết luận sai lầm”.
Chuẩn mực kiểm toán Quốc tế số 320 (VSA 320) về tính trọng yếu trong kiểm
toán đã định nghĩa: “Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai sót của thông tin
đó có thể ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC. Tính trọng yếu
phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay sai sót được đánh giá theo
bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót đó. Vì thế tính trọng yếu là một ngưỡng
hoặc một điểm định tính cơ bản mà một thông tin hữu ích cần phải có”.
Trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 (VSA 320): “Tính trọng yếu
trong kiểm toán”, trọng yếu được định nghĩa như sau: “Là thuật ngữ dùng để thể hiện
tầm quan trọng của một thông tin (một số liệu kế toán) trong BCTC. Thông tin được
coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính chính xác của thông
tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng BCTC. Mức trọng yếu tùy
thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay của sai sót được đánh giá
trong hoàn cảnh cụ thể. Mức độ trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ

không phải là nội dung của thông tin cần phải có. Tính trọng yếu của thông tin phải
xem xét trên cả phương diện định lượng và định tính”.
Một khoản mục được đánh giá là trọng yếu khi bản thân nó chứa đựng những
sai phạm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyết định của người sử dụng BCTC.
Rõ ràng, khái niệm “Trọng yếu” đã đặt ra yêu cầu xác định nội dung kiểm toán
trên cơ sở không bỏ sót các nghiệp vụ có quy mô lớn và có tính hệ trọng. Vi phạm
nguyên tắc này sẽ tạo ra rủi ro kiểm toán.
Trong giai đoạn lập kế hoạch, KTV phải đánh giá mức độ trọng yếu để ước tính
mức độ sai sót của BCTC có thể chấp nhận được, xác định phạm vi của cuộc kiểm toán
vàđánh giá ảnh hưởng của các sai sót lên BCTC để từ đó xác định bản chất, thời gian
và phạm vi các thử nghiệm kiểm toán.
3.1.2. Trình tự xác định tính trọng yếu trong giai đoạn lập kê hoạch
kiểm toán BCTC
Quá trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính được thực
hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện kiểm toán. Quá trình này
được khái quát qua năm bước:
Bước 1: Ước lượng ban đầu về trọng yếu
Bước 2: Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục
Bước 3: Ước lượng tổng số sai sót trong từng khoản mục
Bước 4: Ước tính sai số kết hợp
Bước 5: So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban đầu về trọng yếu
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
Trong 5 bước trên, bước 1 và 2 được thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.
Bước 3, 4, 5 được tiến hành trong giai đoạn thực hiện kiểm toán.
3.1.2.1. Ước lượng ban đầu về trọng yếu
Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà KTV tin rằng ở
mức đó các BCTC có thể bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến các quyết định

kinh tế của người sử dụng thông tin tài chính. Hay nói cách khác, đó chính là những sai
sót có thể chấp nhận được đối với toàn bộ BCTC.
Việc ước lượng ban đầu về trọng yếu giúp KTV lập kế hoạch để thu thập đầy đủ
bằng chứng kiểm toán thích hợp. Nếu các KTV ước lượng mức trọng yếu càng thấp
nghĩa là độ chính xác của các số liệu trên BCTC càng cao thì số lượng bằng chứng cần
thu thập càng nhiều và ngược lại.
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu mang tính chất xét đoán nghề nghiệp của
KTV. Do đó, ước lượng ban đầu về trọng yếu không cố định mà có thể thay đổi trong
suốt cuộc kiểm toán nếu KTV thấy ước lượng ban đầu là không phù hợp vì một trong
các nhân tố xác định mức ước lượng này thay đổi.
Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế số 320 về “Tính trọng yếu trong kiểm toán” đã
quy định: “Việc đánh giá của chuyên gia kiểm toán về vấn đề trọng yếu và rủi ro kiểm
toán ở thời điểm lập kế hoạch kiểm toán ban đầu có thể khác với thời điểm đánh giá
kết quả cuối cùng của các thủ tục kiểm toán. Nguyên nhân của sự khác nhau này là sự
thay đổi tình hình thực tế hoặc sự thay đổi về nhận biết của chuyên gia sau một thời
gian làm kiểm toán”
Mặc dù ước lượng ban đầu về trọng yếu là một xét đoán nghề nghiệp mang tính
chủ quan của KTV song trên thực tế, để hỗ trợ cho KTV trong quá trình kiểm toán, các
công ty thường có đường lối chỉ đạo ước lượng ban đầu về tính trọng yếu thông qua
việc hướng dẫn các chỉ tiêu được chọn làm gốc trong từng trường hợp cụ thể, tỷ lệ tính
mức trọng yếu với từng chỉ tiêu. Các chỉ tiêu này phải là các chỉ tiêu có tính ổn định
qua các năm.
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu thường được áp dụng tại các công ty kiểm
toán quốc tế như sau:
 Từ 5% - 10% đối với lợi nhuận trước thuế
 Từ 0.5% - 1% đối với doanh
thu
 Từ 2% - 4% hoặc từ 3% - 6% đối với tài sản lưu động hoặc nợ ngắn hạn
 Từ 1% - 2% đối với tổng tài sản
….

Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán,để thận trọng,KTV thường xác lập mức
trọng yếu tổng thể ban đầu thấp hơn mức chỉ đạo chung của công ty. Việc thiết lập
mức trọng yếu tổng thể thấp hơn sẽ đồng nghĩa với việc làm tăng thêm khối lượng
công việc kiểm toán, tăng thêm chi phí nhưng điều đó lại làm giảm đi mức độ rủi ro
kiểm toán.
Trong tình hình hiện nay, cần phải xem xét đến sự thay đổi trong kỳ vọng của những
người sử dụng thông tin tài chính của doanh nghiệp như nhà đầu tư, chủ nợ… Do sức
ép từ thị trường tài chính, chứng khoán, từ sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường nên
việc cho rằng những nhà lãnh đạo doanh nghiệp có động lực để “phù phép” BCTC là
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
có cơ sở. Cũng chính vì tâm lý này mà mức độ trọng yếu trong thời điểm này sẽ thấp
hơn tại những thời điểm kinh tế bình thường khác do rủi ro kiểm toán cao hơn. Thêm
vào đó, có những doanh nghiệp các năm trước đều lãi lớn nhưng năm nay lại lỗ hoặc
lãi không đáng kể, do vậy cần phải xem xét lại cách định lượng mức độ trọng yếu cho
BCTC.
3.1.2.2. Phân bổ mức trọng yếu
Sau khi KTV đã có ước lượng ban đầu về trọng yếu cho toàn bộ BCTC,
KTV cần phân bổ ước lượng này cho từng khoản mục trên BCTC. Đây chính là sai số
có thể chấp nhận được đối với từng khoản mục.
Việc phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục nhằm mục
đích giúp KTV xác định số lượng bằng chứng kiểm toán thích hợp cần phải thu thập
đối với từng khoản mục ở mức chi phí thấp nhất mà vẫn đảm bảo tổng hợp các sai sót
trên BCTC không vượt quá mức ước lượng ban đầu về trọng yếu.
Hầu hết các sai sót trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đều có ảnh hưởng
tương tự như trên bảng cân đối kế toán do hệ thống bút toán ghi sổ kép. Vì thế trong
phần lớn các cuộc kiểm toán và hầu hết các thủ tục kiểm toán, việc phân bổ này chủ
yếu cho các khoản mục trên bảng cân đối kế toán.

Việc phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục được thực
hiện theo cả hai hướng: khai khống (báo cáo thừa) và khai thiếu (báo cáo thiếu).
Cơ sở để tiến hành phân bổ là bản chất của các khoản mục, rủi ro tiềm tàng, rủi
ro kiểm soát đối với từng khoản mục, chi phí kiểm toán. Tuy nhiên trên thực tế rất khó
biết trước được những tài khoản nào có khả năng sai số, chi phí liên quan đến kiểm
toán khó có thể xác định vì vậy công việc này thường do các KTV có trình độ chuyên
môn cao, nhiều kinh nghiệm thực hiện. Ví dụ như chi phí thu thập bằng chứng về hàng
tồn kho cao hơn chi phí thu thập về công nợ nên sai số có thể chấp nhận được của hàng
tồn kho cao hơn sai số có thể chấp nhận được đối với công nợ. Hoặc không có sai số có
thể chấp nhận được với lãi chưa phân phối vì chỉ tiêu này chỉ sinh ra từ sai số các tài
khoản khác.
Mẫu 1: Trích giấy tờ làm việc A710 XÁC ĐỊNH MỨC TRỌNG YẾU
(Nguồn: hồ sơ kiểm toán của công ty Soviet.com)
A. MỤC TIÊU
Xác định mức trọng yếu (kế hoạch - thực tế) được lập và phê duyệt theo chính sách của Công
ty để thông báo với thành viên nhóm kiểm toán về mức trọng yếu kế hoạch trước khi kiểm toán
tại khách hàng và có trách nhiệm xác định lại mức trọng yếu thực tế trong giai đoạn kết thúc
kiểm toán để xác định xem các công việc và thủ tục kiểm toán đã được thực hiện đầy đủ hay
chưa
B. XÁC ĐỊNH MỨC TRỌNG YẾU
Chỉ tiêu Kế hoạch Thực tế
Tiêu chí được sử dụng để ước tính mức trọng yếu
(LNTT/DT/VCSH/Tổng TS) DT DT
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lý do lựa chọn tiêu chí này để xác định mức trọng
yếu
Do chuyển đổi sang mô hình Công ty cổ

phần, khoản mục doanh thu là chỉ tiêu
nhạy cảm nhất, theo đó KTV lựa chọn
DT làm tiêu chí xác định mức trọng yếu
Giá trị tiêu chí được lựa chọn 3,542,731,542 3,542,731,542
Tỷ lệ sử dụng để ước tính mức trọng yếu
- LNTT: 5%-10%
- DT: 0,5%-3%
- Tổng TS hoặc VCSH: 2% 1.5% 1.5%
Mức trọng yếu tổng thể (PM) 53,140,973 53,140,973
Mức trọng yếu thực hiện: MP= (50%-75%)*PM 26,570,487
26,570,48
7
Ngưỡng sai sót không đáng kể/sai sót có thể bỏ
qua 4%*MP 1,062,819 1,062,819
Căn cứ vào bảng trên, KTV chọn ra mức trọng yếu để áp dụng khi thực hiện kiểm toán
Chỉ tiêu lựa chon Năm nay Năm trước
Mức trọng yếu tổng thể 53,140,973 6,123,000
Mức trọng yếu thực hiện 26,570,487 3,061,500
Ngưỡng sai sót không đáng kể/sai sót có thể bỏ qua 1,062,819 122,460
3.2. Rủi ro kiểm toán (AR)
3.2.1. Khái niệm
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) “ Trọng yếu và rủi
ro kiểm toán” : “Rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà KTV có thể mắc phải khi đưa ra
nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính và đó là sai sót nghiêm trọng”.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”
(VSA 400) khái niệm rủi ro kiểm toán được định nghĩa như sau: “Rủi ro kiểm toán là
rủi ro do kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp
khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu”.
Rủi ro kiểm toán chủ yếu được KTV xác định trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm
toán. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 đã quy định: “Rủi ro kiểm toán được xác

định trước khi lập kế hoạch kiểm toán và trước khi thực hiện kiểm toán”. Rủi ro kiểm
toán được xác định sẽ giúp KTV có chiến lược chung với hợp đồng kiểm toán, bố trí
nhân sự, thời gian cho cuộc kiểm toán và thiết kế các thủ tục kiểm toán thích hợp cho
các khoản mục trên BCTC.
Rủi ro kiểm toán thường xảy ra theo hướng: BCTC có những sai phạm trọng
yếu, nhưng KTV không phát hiện được, do đó đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ đối với
BCTC. Rủi ro kiểm toán luôn tồn tại do khả năng thực tế của KTV, do giới hạn về thời
gian và chi phí kiểm toán. Trong mối quan hệ này rủi ro kiểm toán và chi phí có mối
quan hệ tỷ lệ nghịch. Mức độ rủi ro kiểm toán dự kiến cao hay thấp quyết định khối
lượng công việc kiểm toán phải tiến hành. Vì vậy, cần phải tiến hành nghiên cứu các
thành phần của rủi ro kiểm toán, xem tác động của thành phần này đến khối lượng
công việc kiểm toán cần phải tiến hành, cũng như đến trình tự và các thủ pháp kiểm
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
toán thích hợp cần phải tiến hành.
3.2.2. Các thành phần của rủi ro kiểm toán
Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận: Rủi ro tiềm tàng ( Inherrent Risk –
IR), rủi ro kiểm soát ( Control Risk - CR) và rủi ro phát hiện ( Detection Risk – DR ).
3.2.2.1. Rủi ro tiềm tàng
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 “ Trọng yếu và rủi ro kiểm
toán”: “ Rủi ro tiềm tàng là những yếu điểm của số dư tài khoản hoặc của một loại
nghiệp vụ đối với những sai sót có thể là nghiêm trọng, những sai sót này có thể là đơn
lẻ hoặc có thể kết hợp với sai sót ở các số dư và các nghiệp vụ khác (ở đây giả định
rằng không có quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan). Rủi ro tiềm tàng nằm trong
chức năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong môi trường kinh doanh cũng
như nằm trong bản chất của các số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ”.
Chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400: “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ “ quy
định: “Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng

khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng những sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ
hoặc tính gộp mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ”.
3.2.2.2. Rủi ro kiểm soát
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 “Trọng yếu và rủi ro kiểm
toán”: “ Rủi ro kiểm soát là rủi ro do phát hiện sai, có thể xảy ra với một số dư tài
khoản hoặc một loại nghiệp vụ và có thể sai sót nghiêm trọng. Những sai sót này có
thể xảy ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp sai sót của các số dư, các loại nghiệp vụ khác mà
hệ thống kiểm soát nội bộ đã không ngăn chặn hoặc không phát hiện kịp thời.”
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”: “Rủi ro
kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục
trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ
thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp
thời”.
Như vậy, rủi ro kiểm soát là loại rủi ro liên quan đến sự yếu kém của hệ thống KSNB.
3.2.2.3. Rủi ro phát hiện
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 “ Trọng yếu và rủi ro kiểm
toán”: “ Rủi ro phát hiện là những rủi ro mà kiểm toán viên không phát hiện ra các
sáíot hiện có trong các số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ. Những sai sót này có
thể là nghiêm trọng xảy ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với các sai sót trong số dư, các
loại nghiệp vụ khác. Mức độ rủi ro phát hiện có quan hệ trực tiếp với phương pháp
kiểm toán của kiểm toán viên”
Chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”:
“Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản
mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm
toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát hiện được”.
3.2.3. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán – Mô hình rủi ro kiểm
toán
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro dùng để đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập
kế hoạch kiểm toán. Để tìm hiểu mối quan hệ giữa các loại rủi ro, trước hết ta tìm hiểu
về mô hình rủi ro kiểm toán.

SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
3.2.3.1. Mô hình rủi ro kiểm toán
Ta có:
AR = IR x CR x DR
Trong đó: AR: Rủi ro kiểm toán IR: Rủi ro tiềm tàng
CR: Rủi ro kiểm soát DR: Rủi ro phát hiện
Mô hình rủi ro kiểm toán được sử dụng khi lập kế hoạch kiểm toán theo một
hoặc cả hai cách. Cách thứ nhất là mô hình được dùng để giúp KTV đánh giá liệu kế
hoạch kiểm toán có hợp lý không. Ví dụ với một cuộc kiểm toán nhất định, KTV đánh
giá Rủi ro tiềm tàng IR=0,5, Rủi ro kiểm soát CR=0,25, Rủi ro phát hiện DR=0,1 thì
AR=0,5 x 0,25 x 0,1=0,0125. Nếu KTV kết luận là rủi ro kiểm toán thích hợp đối với
hợp đồng kiểm toán không thấp hơn 1,25% thì kế hoạch đó được chấp nhận.
Tuy nhiên để có được một kế hoạch hiệu quả hơn, KTV thường sử dụng mô
hình kiểm toán theo cách thứ hai để xác định rủi ro phát hiện và số lượng bằng chứng
thích hợp phải thu thập. Theo cách này, ban đầu khi chấp nhận hợp đồng kiểm toán,
KTV sẽ xác định ra một mức rủi ro kiểm toán mong muốn chung cho cuộc kiểm toán
( ví dụ DAR=0,0125). Sau đó trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán, KTV sẽ đánh giá
được rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát ( ví dụ 0,5 và 0,25). Lúc này để đảm bảo cho
cuộc kiểm toán có mức độ rủi ro kiểm toán ở mức như dự kiến ban đầu, KTV xác định
rủi ro phát hiện theo công thức:
DR =
DAR
IR x CR
Do đó, rủi ro phát hiện sẽ là 0,1. Từ đó, KTV lập chương trình kiểm toán thích
hợp để thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp đảm bảo rủi ro phát hiện ở mức 0,1 và
rủi ro kiểm toán ở mức 0,0125.
Rủi ro kiểm toán được xác định theo cách thứ hai này được KTV sử dụng phổ

biến hơn. Theo cách này, rủi ro kiểm toán được xác định từ ban đầu cuộc kiểm toán và
được gọi là rủi ro kiểm toán mong muốn (Desired Audit Risk- DAR). Đây là mức độ
mà KTV sẵn sàng chấp nhận là BCTC có thể sai sót sau khi cuộc kiểm toán đã hoàn
thành và đi đến ý kiến chấp nhận toàn phần. Rủi ro kiểm toán mong muốn được xác
định một cách chủ quan theo kinh nghiệm của KTV. Khi KTV quyết định một tỷ lệ rủi
ro kiểm toán mong muốn thấp hơn có nghĩa là KTV muốn chắc chắn hơn là các BCTC
không bị sai phạm trọng yếu. Rủi ro kiểm toán mong muốn =0 thể hiện KTV hoàn toàn
chắc chắn là BCTC không có sai phạm trọng yếu. Rủi ro kiểm toán mong muốn = 1 thể
hiện KTV hoàn toàn không chắc chắn rằng BCTC không có sai phạm trọng yếu. Như
vậy DAR có thể nằm trong khoảng từ 0 đến 1. Rủi ro kiểm toán mong muốn = 0 là điều
rất hiếm xảy ra trong kiểm toán BCTC vì bị giới hạn về thời gian và chi phí cho cuộc
kiểm toán.
3.2.3.2. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Qua nghiên cứu các loại rủi ro và mô hình rủi ro kiểm toán, chúng ta thấy
rằng rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát khác với rủi ro
phát hiện và rủi ro kiểm toán ở chỗ các loại rủi ro này tồn tại độc lập, khách quan với
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
các thông tin tài chính. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát nằm trong chức năng hoạt
động kinh doanh và môi trường quản lý của doanh nghiệp cũng như trong bản chất của
số dư tài khoản, các loại nghiệp vụ cho dù có hay không có công việc kiểm toán. Rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nên KTV thường kết
hợp cùng lúc việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.
Trong khi đó rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán được đánh giá và xác định phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của KTV. KTV thường xác định rủi ro kiểm toán ngay từ
đầu khi chấp nhận hợp đồng kiểm toán. Còn rủi ro phát hiện được xác định cuối cùng
sau khi đã xác định rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát dựa trên việc thiết kế các thủ

tục kiểm toán để đảm bảo rủi ro kiểm toán ở mức mong muốn.
Rủi ro phát hiện có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
soát. Khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá cao thì rủi ro phát hiện có
thể được đánh giá ở mức độ thấp để giảm rủi ro kiểm toán ở mức thấp nhất có thể chấp
nhận được. Ngược lại, khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá là thấp thì
có thể chấp nhận mức độ rủi ro phát hiệncao hơn nhưng vẫn phải đảm bảo rủi ro kiểm
toán xuống thấp ở mức có thể chấp nhận được
Sự biến động của rủi ro phát hiện dựa theo đánh giá của KTV về rủi ro tiềm tàng
và rủi ro kiểm soát được thể hiện trong bảng sau đây:
Bảng 2: Dự kiến rủi ro phát hiện
Đánh giá của KTV về rủi ro kiểm soát
Cao Trung bình Thấp
Đánh giá của
kiểm toán viên
về rủi ro tiềm
tàng
Cao Thấp nhất Thấp Trung bình
Trung bình Thấp Trung bình Cao
Thấp Trung bình Cao Cao nhất
• Mỗi loại rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát đều được chia thành ba mức: cao, trung
bình, thấp
• Vùng tô đậm thể hiện mức độ rủi ro phát hiện
• Rủi ro phát hiện được chia thành năm mức: cao nhất, cao, trung bình, thấp, thấp
nhất
3.2.4. Trình tự đánh giá rủi ro kiểm toán
a. Xác định mức rủi ro kiểm toán mong muốn DAR
Hiện nay tại các Công ty kiểm toán, mức rủi ro kiểm toán mong muốn luôn
được xác định trước khi tiến hành kiểm toán. Mức rủi ro này được xác định phụ thuộc
vào hai yếu tố:
 Mức độ mà theo đó người sử dụng bên ngoài tin tưởng vào BCTC: Khi người sử

dụng bên ngoài đặt nhiều niềm tin vào các BCTC lớn thì mức độ tác hại trên phạm vi
toàn xã hội sẽ càng lớn nếu có một sai sót không được phát hiện trên BCTC. Do vậy
trong trường hợp này, KTV cần xác định một mức rủi ro kiểm toán thấp, từ đó tăng số
lượng bằng chứng kiểm toán thu thập và tăng độ chính xác trong các kết luận đưa ra
của mình.
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
Một số yếu tố chỉ ra mức độ mà theo đó các BCTC được người sử dụng bên
ngoài tin tưởng là :
- Quy mô của công ty khách hàng
- Sự phân phối quyền sở hữu.
- Bản chất và quy mô công nợ
 Khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo kiểm toán được
công bố: Nếu khả năng này càng cao thì KTV phải thiết lập một mức rủi ro kiểm toán
mong muốn thấp hơn so với khách hàng không gặp khó khăn về tài chính. Khi đó KTV
cần xác định rủi ro kiểm toán ở mức độ thấp, từ đó tăng số lượng bằng chứng kiểm
toán cần thu thập, dẫn tới chi phí kiểm toán tăng lên.
Việc dự đoán khả năng khách hàng gặp khó khăn tài chính trong tương lai là
điều không đơn giản nhưng KTV có thể dựa vào một số yếu tố sau để phán đoán sự
kiện này:
- Khả năng thanh toán: Nếu một khách hàng thường xuyên thiếu tiền mặt, vốn lưu
động điều này là một dấu hiệu xấu về khả năng thanh toán. KTV cần phải đánh giá khả
năng và ý nghĩa của tình trạng này khi nó trở nên xấu hơn.
- Các khoản lãi, lỗ trong các năm trước: Khi một công ty giảm nhanh các khoản lãi
(lỗ) trong vài năm, KTV cần phải nhận biết các vấn đề trong tương lai về khả năng
thanh toán, tiếp tục hoạt động mà khách hàng có thể gặp phải.
- Các cách thức làm tăng quy mô vốn: Nếu công ty khách hàng mở rộng quy mô
vốn bằng cách vay nợ thì rủi ro gặp khó khăn về tài chính càng lớn nếu các hoạt động

của khách hàng trở nên kém thành công.
- Bản chất hoạt động kinh doanh của công ty khách hàng: Một số loại hình doanh
nghiệp nhất định có nhiều rủi ro hơn các loại hình doanh nghiệp khác. Ví dụ với các
điều kiện khác không đổi thì công ty môi giới chứng khoán có khả năng phá sản cao
hơn một công ty điện.
- Năng lực của ban giám đốc: nếu ban giám đốc có năng lực kém thì khả năng công
ty gặp khó khăn về mặt tài chính sẽ tăng lên.
- Ngoài ra còn phải xét đến các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động của
doanh nghiệp như: các biến động về kinh tế, về cạnh tranh, về sự thay đổi các chính
sách kinh tế….
Căn cứ vào các yếu tố trên, KTV sẽ xác định một mức rủi ro kiểm toán mong
muốn cho toàn bộ BCTC. KTV có thể dựa vào rủi ro kiểm toán mong muốn của toàn
bộ BCTC để đưa ra rủi ro kiểm toán mong muốn cho từng khoản mục. Ví dụ: KTV lập
rủi ro kiểm toán mong muốn cho toàn bộ BCTC ở mức trung bình vì số người sử dụng
BCTC hạn chế và lợi nhuận từ hoạt động trước đây là binh thường thì KTV có khả
năng sử dụng mức rủi ro kiểm toán trung bình đối với các khoản phải thu, tài sản cố
định và tất cả các khoản mục chủ yếu khác.
KTV thường dùng cùng một mức rủi ro kiểm toán mong muốn đối với từng bộ
phận vì các yếu tố có ảnh hưởng đến rủi ro kiểm toán mong muốn thường liên quan
đến toàn bộ cuộc kiểm toán chứ không phải đến từng bộ phận riêng biệt. Tuy vậy trong
một số trường hợp đặc biệt, một mức rủi ro kiểm toán mong muốn lớn hơn có thể thích
hợp hơn bộ phận này so với bộ phận khác. Trong ví dụ trên, cho dù KTV quyết định sử
dụng rủi ro kiểm toán trung bình đối với cuộc kiểm toán nói chung, KTV có thể quyết
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
định giảm rủi ro kiểm toán mong muốn xuông thấp hơn đối với hàng tồn kho nếu hàng
tồn kho được sử dụng như là một vật thế chấp cho một khoản vay ngắn hạn.
b. Đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát:

Rủi ro tiềm tàng : Đánh giá rủi ro tiềm tàng là công việc hết sức quan trọng
trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Mức độ rủi ro tiềm tàng được xác định có ảnh
hưởng đến các thủ tục kiểm toán, khối lượng công việc, thời gian và các nguồn lực cần
huy động để phục vụ cho cuộc kiểm toán.
Rủi ro tiềm tàng được ước lượng cho toàn bộ BCTC khi lập kế hoạch kiểm toán,
đồng thời được xác định cho từng khoản mục, nghiệp vụ quan trọng khi lập chương
trình kiểm toán.
Thứ nhất, trên phương diện BCTC, KTV đánh giá rủi ro tiềm tàng dựa vào các yếu
tố:
 Sự liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của Ban giám đốc cũng như sự thay đổi
thành phần ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán;
 Trình độ và chuyên môn của kế toán trưởng, của các nhân viên kế toán chủ yếu, của
kiểm toán viên nội bộ và sự thay đổi (nếu có) của họ;
 Những áp lực bất thường đối với Ban giám đốc, đối với kế toán trưởng.
 Đặc điểm hoạt động của đơn vị.
 Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị như: các biến động về
kinh tế, về cạnh tranh…(theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam VSA 400).
Thứ hai, trên phương diện số dư tài khoản và các nghiệp vụ, KTV đánh giá rủi
ro tiềm tàng dựa vào các yếu tố:
 BCTC có thể chứa đựng những sai sót, như: BCTC có những điều chỉnh liên quan
đến niên độ trước, BCTC có nhiều ước tính kế toán, hoặc trong năm tài chính có nhiều
sự thay đổi chính sách kế toán;
 Việc xác định số dư và số phát sinh các tài khoản và nghiệp cụ kinh tế;
 Mức độ dễ bị mất mát, biển thủ tài sản;
 Mức độ phức tạp của các nghiệp vụ hay sự kiện quan trọng đòi hỏi phải có ý kiến
chuyên gia;
 Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường và phức tạp;
 Các nghiệp vụ kinh tế tài chính bất thường khác (theo VSA 400).
Ví dụ mẫu đánh giá rủi ro tiềm tàng tại công ty
Mẫu 2: Đánh giá Rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ BCTC công ty X

CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM-VAE
Khách hàng: Công ty X Người lập: Ngày:
Năm tài chính: 2012 Người soát xét: Ngày:
Công việc: Đánh giá Rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ Báo cáo tài chính
1- Lĩnh vực hoạt động của công ty:
Hoạt động trong lĩnh vực xây dựng
2- Cơ cấu tổ chức của khách hàng như thế nào ?
Được tổ chức tốt.
3- Chính sách kế toán của công ty khách hàng đang áp dụng ?
Áp dụng chế độ kế toán theo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC và các văn bản
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
hướng dẫn có liên quan
4- Thay đổi trong chính sách kế toán đơn vị đang áp dụng
Không có
5- Năng lực của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc?
Các thành viên của Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc đều có năng lực tốt, có
nhiều kinh nghiệm.
6- Trình độ của kế toán trưởng và các nhân viên kế toán, Kiểm toán viên nội bộ
(nếu có)?
Kế toán trưởng và các nhân viên kế toán đều đã tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc
dân hoặc Đại học Tài Chính Kế Toán, đại học Thương mại
7- Quan hệ giữa Công ty khách hàng và Kiểm toán viên? Tốt
8- Kiểm toán viên có nghi ngờ gì về tính liêm chính của hội đồng quản trị và ban
giám đốc? Không.
9- Khách hàng có ý định lừa dối Kiểm toán viên?
Khách hàng cung cấp đầy đủ khi có yêu cầu của Kiểm toán viên.
10- Sự thay đổi về thị trường, sự cạnh tranh?

Châu Âu là một thị trường khá ổn định đối với việc xuất khẩu giầy da cao cấp.
Mức tăng trưởng thị trường là khá cao. Công ty có khả năng duy trì sản xuất và
cung cấp sản phẩm ra thị trường ở mức độ cao.
11- Ý kiến của Kiểm toán viên trên Báo cáo kiểm toán năm trước?
Chấp nhận toàn phần
12- Liệu Ban giám đốc và nhân viên phòng kế toán có áp lực bất thường nào
không?
Giá nguyên vật liệu ngày càng tăng, đòi hỏi công ty phải có những biện pháp
làm giảm giá thành, nâng cao chất lượng để tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
13- Sự thay đổi nhân sự trong Ban Giám đốc, Hội đồng quản trị và phòng kế toán?
Không.
14- Số lượng các nghiệp vụ kinh tế bất thường Không có
15- Vướng mắc của khách hàng với các bên liên quan và pháp luật Không có
Kết luận : Rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ Báo cáo tài chính là Trung bình
Rủi ro kiểm soát :
Đánh giá rủi ro kiểm soát là một khâu trong quy trình tìm hiểu và đánh giá về hệ
thống KSNB. Hệ thống KSNB được thiết kế và vận hành có hiệu quả thì mức độ rủi ro
kiểm soát được đánh giá ở mức thấp. Khi hệ thống KSNB được thiết kế không phù hợp
hay hoạt động không có hiệu quả thì khi đó rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức cao.
Mức rủi ro kiểm soát không bao giờ bằng “không” bởi hệ thống KSNB lúc nào cũng
tồn tại những hạn chế nhất định. Đó là:
 Ban quản lý luôn yêu cầu chi phí cho hệ thống kiểm soát nội bộ không vượt quá
những lợi ích mà hệ thống đó mang lại.
 Môi trường kiểm soát bị chi phối bởi mục đích của nhà quản lý.
 Chỉ kiểm soát được các nghiệp vụ thông thường, không kiểm soát được các nghiệp
vụ bất thường.
 Khả năng sai phạm của con người như kiêm nhiệm, gian lận luôn có thể xảy ra.
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học


GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
 Có sự thông đồng giữa bên trong và bên ngoài.
 Do có sự biến động tình hình, các thủ tục kiểm soát có khả năng không còn thích
hợp và do đó không được áp dụng.
Riêng tại các đơn vị xử lý số liệu trong môi trường tin học, tuy có những thuận
lợi như sẽ ít gặp sai lầm trong tính toán, số tổng cộng và số dư được cập nhật thường
xuyên, tiết kiệm thời gian, nhân lực…nhưng bên cạnh đó lại xuất hiện các rủi ro kiểm
soát khác với môi trường thủ công, thí dụ như:
 Kế toán viên cố tình nhập liệu sai nên kết quả sai.
 Lập trình sai lầm sẽ gây tác động dây truyền đến các số liệu khác khi xử lí tự động.
 Tuy xử lí dữ liệu bằng phương pháp điện tử, nhưng đơn vị không tách rời giữa các
chức năng như chức năng khai thác và chức năng kiểm soát.
 Việc bảo mật chưa tốt nên thường không ngăn chặn được người ngoài thâm nhập
vào hệ thống thông tin. Thí dụ như đơn vị không sử dụng các mật khẩu; không quan
tâm bảo vệ phòng máy tính, hay các phầm mềm đĩa từ…
Vì vây, để đánh giá rủi ro kiểm soát, KTV phải hiểu biết về hệ thống kế toán và
hệ thống KSNB của đơn vị được kiểm toán. Quy trình tìm hiểu về hệ thống kiểm soát
nội bộ được trình bày ở phần sau.
c. Xác định mức rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được:
Việc xác định mức rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được có ý nghĩa thực tiễn
rất cao, nó có quan hệ với tính trọng yếu và số lượng bằng chứng cần thu thập về
khoản mục cần kiểm toán.
Trong quá trình kiểm toán, rủi ro phát hiện bị ảnh hưởng bởi các nhân tố sau:
 Các bước kiểm toán không thích hợp, thực hiện không hợp lý quy trình kiểm toán
cho mỗi phần hành
 Phát hiện ra bằng chứng nhưng không nhận thức được sai sót nên thường đưa ra kết
luận sai về phần hành đó cũng như về báo cáo tài chính.
 KTV hoàn toàn không phát hiện ra các sai sót do có sự thông đồng nhất trí bên
trong doanh nghiệp làm sai các chính sách và chế độ do ban giám đốc đề ra.
Rủi ro phát hiện được xác định từ ba loại rủi ro: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm

soát, rủi ro kiểm toán và mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán. Vì 3 loại rủi ro này
thay đổi với từng khoản mục trên BCTC nên rủi ro phát hiện cũng thay đổi đối với
từng khoản mục.
Chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400 quy định: “Kiểm toán viên phải dựa vào
đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát để giảm rủi ro phát hiện và giảm rủi ro
kiểm toán xuống thấp đến mức có thể chấp nhận được”
Mức độ rủi ro phát hiện có thể liên quan trực tiếp đến thử nghiệm cơ bản của
KTV. Tuy nhiên khó có thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro phát hiện ngay cả khi KTV kiểm
tra chi tiết 100% các nghiệp vụ và các số dư tài khoản. Đánh giá của KTV về các loại
rủi ro có thể thay đổi trong quá trình kiểm toán. Nếu trong quá trình thực hiện kiểm
toán, khi thực hiện các thử nghiệm cơ bản, KTV phát hiện ra thêm những thông tin mới
khác biệt so với ban đầu thì KTV có thể thay đổi kế hoạch thực hiện các thử nghiệm cơ
bản cho phù hợp với việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.
3.3. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán
Trọng yếu và rủi ro có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, VSA 320 “Tính trọng
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
yếu trong kiểm toán” đã quy định: “Khi tiến hành một cuộc kiểm toán, KTV phải quan
tâm đến tính trọng yếu của thông tin và mối quan hệ của nó với rủi ro kiểm toán”.
Trong một cuộc kiểm toán, mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ tỉ
lệ nghịch với nhau: mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược
lại. Mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng phải thấp xuống vì khi giá trị của
sai sót càng cao, mức độ ảnh hưởng càng lớn thì khả năng bỏ qua sai sót đó phải giảm
xuống, do đó rủi ro kiểm toán sẽ thấp. Còn khi mức trọng yếu không cao, KTV có thể
chấp nhận một mức rủi ro kiểm toán cao hơn mà không gây ra những ảnh hưởng lớn.
Mối quan hệ này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nội dung, phạm vi, thời
gian của các thủ tục kiểm toán thích hợp.
Khi lập kế hoạch kiểm toán, nếu KTV xác định mức trọng yếu chấp nhận được

là thấp thì rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên. Khi đó, KTV có thể:
- Giảm mức độ rủi ro kiểm soát đã được đánh giá bằng cách mở rộng hoặc thực hiện
thêm thử nghiệm kiểm soát để chứng minh cho việc giảm rủi ro kiểm soát; hoặc
- Giảm rủi ro phát hiện bằng cách sửa đổi lại nội dung, lịch trình và phạm vi của
những thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến.
4. Đánh giá sơ bộ hệ thống kiểm soát nội bộ
4.1. Mục đích
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 400 – “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội
bộ” quy định rõ “KTV phải có đủ hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống KSNB của
khách hàng để lập kế hoạch kiểm toán tổng thể và chương trình kiểm toán thích hợp,
có hiệu quả. KTV phải sử dụng khả năng xét đoán chuyên môn của mình để đánh giá
rủi ro kiểm toán và xác định các thủ tục kiểm toán nhằm giảm các rủi ro kiểm toán
xuống thấp tới mức có thể chấp nhận được”.
Thông qua việc tìm hiểu hệ thống KSNB, KTV có thể:
- Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của toàn bộ hệ thống KSNB nói chung, từ đó có
thể nhận dạng các rủi ro có thể xảy ra đối với từng khoản mục kiểm toán.
- Đánh giá sơ bộ rủi ro kiểm toán từ đó lập kế hoạch kiểm toán tổng thể, xác định
phương hướng, phạm vi kiểm tra, thiết kế các thủ tục kiểm toán, dự kiến về thời gian
và lực lượng nhân sự cần thiết.
- Thu thập được các bằng chứng đầy đủ và thích hợp về sự trung thực, hợp lý của
BCTC với thời gian ngắn nhất và chi phí tối thiểu. Muốn thế, thay vì tiến hành ngay
các thử nghiệm cơ bản, KTV sẽ tìm hiểu về hệ thống KSNB của khách hàng là thực sự
tốt và hữu hiệu, KTV có thể thu hẹp phạm vi kiểm toán.
- Ngoài ra, thông qua việc nghiên cứu hệ thống KSNB kiểm toán viên độc lập có
thể chỉ ra các yếu kém của doanh nghiệp trong công tác quản lý, từ đó có những tư vấn
thích hợp để cho doanh nghiệp có những chỉ đạo thích trong công tác quản lý của
mình.
4.2. Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ
4.2.1. Nội dung tìm hiểu:
4.2.1.1. Môi trường kiểm soát

Môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ các nhân tố có tính chất môi trường
tác động đến việc thiết kế, hoạt động và tính hữu hiệu của các chính sách và thủ tục
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
kiểm soát của đơn vị. Các yếu tố này chủ yếu liên quan đến quan điểm, thái độ nhận
thức và hành động của nhà quản lý đơn vị.
Tuy nhiên môi trường kiểm soát mạnh không đồng nghĩa với hệ thống KSNB
mạnh bởi vì bản thân môi trường kiểm soát chưa đủ để đảm bảo tính hiệu quả của toàn
bộ hệ thống KSNB.
Ủy ban chuẩn mực kiểm toán kiến nghị nên xem xét những yếu tố cơ bản sau
khi đánh giá về môi trường kiểm soát. Bao gồm:
- Đặc thù về quản lý (liên quan đến chủ thể quản lý)
- Cơ cấu tổ chức
- Chính sách nhân sự
- Công tác kế hoạch
- Uỷ ban kiểm toán
- Các yếu tố bên ngoài: đường lối phát triển đất nước, hệ thống pháp luật, hệ thống
các chính sách của từng ngành nghề, sự kiểm soát của cơ quan cấp trên… Các nhân tố
này tuy không thuộc tầm kiểm soát của nhà quản lý, nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn
đến nhà quản lý trong việc thiết kế và thực hiện hệ thống KSNB.
4.2.1.2. Đánh giá rủi ro
Kinh doanh là chấp nhận rủi ro, trong thực tế không có biện pháp nào ngăn
chặn hết rủi ro. Vấn đề là các nhà quản lý phải xác định các rủi ro nào có thể chấp nhận
được và phải làm gì để quản lý các rủi ro đó. Muốn vậy các nhà quản lý cần phải:
- Xác định mục tiêu của đơn vị
- Nhận dạng các rủi ro ảnh hưởng đến việc không thực hiện được mục tiêu của đơn
vị
- Phân tích và đánh giá rủi ro

- Lựa chọn các hoạt động kiểm soát phù hợp
4.2.1.3. Hệ thống thông tin kế toán
Hệ thống thông tin kế toán bao gồm các phương pháp và hệ thống sổ sách
chứng từ kế toán, được thiết lập bởi nhà quản lý để ghi chép và báo cáo về các nghiệp
vụ kinh tế tài chính phát sinh cũng như tài sản và nguồn vốn của đơn vị.
Một hệ thống kế toán hữu hiệu phải đảm bảo thực hiện các mục tiêu kiểm soát
sau:
 Tính có thật (Validity): Nghĩa là chỉ được phép ghi những nghiệp vụ kinh tế có thật,
không cho ghi chép những nghiệp vụ giả tạo vào sổ sách của đơn vị.
 Tính đầy đủ (Completeness): Nghĩa là không được loại bỏ, giấu bớt, để ngoài sổ
sách về mọi nghiệp vụ phát sinh.
 Sự đánh giá (Valuation): Không để xảy ra những sai phạm trong tính toán, trong
việc áp dụng chính sách kế toán.
 Sự phê chuẩn (Authorization): Trước khi thực hiện mọi hoạt động nghiệp vụ, đều
phải đảm bảo rằng chúng đã được phê chuẩn hợp lệ.
 Sự phân loại (Classification): Đảm bảo số liệu được phân loại đúng theo sơ đồ tài
khoản của đơn vị và ghi nhận đúng đắn ở các loại sổ sách có liên quan.
 Đúng hạn (Timming): Việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải đúng kì.
 Chuyển sổ và tổng hợp chính xác (porting and summarization): Số liệu kế toán phải
ghi vào sổ sách (sổ cái) đúng đắn và tổng hợp chính xác, để giúp phản ánh trung thực
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của đơn vị.
Hệ thống kế toán là một yếu tố quan trọng trong hệ thống KSNB của đơn vị,
điều đó được thể hiện thông qua tính kiểm soát của hệ thống kế toán qua ba công cụ:
Chứng từ, hệ thống sổ sách kế toán và báo cáo kế toán.
4.2.1.4 Các thủ tục kiểm soát
Chuẩn mực kiểm toán VN số 400 “Thủ tục kiểm soát là các chính sách, thủ

tục để đảm bảo là các chỉ tiêu của các nhà quản lý được thực hiện. Nó đảm bảo các
hành động cần thiết để làm giảm thiểu rủi ro trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của
đơn vị”.
Các thủ tục kiểm soát được người quản lí đơn vị xây dựng để thực hiện các mục
tiêu của KSNB: Bảo vệ tài sản, cung cấp số liệu kế toán đáng tin cậy… Đây là sự cụ
thể hoá các quan niệm của nhà quản lý đơn vị về kiểm tra kiểm soát, giúp cho hệ thống
kế toán vận hành một cách hiệu quả, tránh được các xung đột. Trong thực tế các thủ tục
kiểm soát được thiết kế rất khác nhau giữa các đơn vị và nghiệp vụ khác nhau. Tuy
nhiên, các thủ tục kiểm soát thường được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:
a. Nguyên tắc phân công phân nhiệm
Nguyên tắc phân công phân nhiệm yêu cầu phân chia công việc và trách nhiệm
cho nhiều người trong một bộ phận hoặc nhiều bộ phận trong một tổ chức với mục đích
không một cá nhân hay một bộ phận nào được thực hiện mọi mặt của một nghiệp vụ, từ
khâu đầu đến khâu cuối nhằm ngăn ngừa các hành vi lạm dụng quyền hạn.
b. Nguyên tắc bất kiêm nhiệm
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm đòi hỏi sự tách biệt về trách nhiệm đối với các việc
như:
 Trách nhiệm thực hiện nghiệp vụ và trách nhiệm ghi chép sổ sách,
 Trách nhiệm bảo quản và ghi chép sổ sách,
 Trách nhiệm xét duyệt và thực hiện nghiệp vụ,
 Chức năng kế toán và chức năng tài chính,
 Chức năng thực hiện và chức năng kiểm soát.
Nguyên tắc này xuất phát từ mối quan hệ giữa các trách nhiệm nêu trên mà sự
kiêm nhiệm sẽ dẫn đến gian lận khó phát hiện.
c. Nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn
 Ủy quyền
Là uỷ thác cho thuộc cấp một quyền hạn nhất định để thay mình thực hiện một
nhiệm vụ nào đó trong một phạm vi giới hạn nhất định.
 Phê chuẩn
Là việc nhà quản lý cho phép thực hiện một nhiệm vụ. Cần đảm bảo rằng tất cả

các nghiệp vụ hoặc hoạt động phải được phê chuẩn bởi một nhân viên quản lý trong
phạm vi quyền hạn cho phép.
Việc thực hiện nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn giúp kiểm soát tốt hơn, do
cấp trên vẫn duy trì sự kiểm soát đối với cấp dưới, đồng thời tránh được sai sót do một
người không phải giải quyết quá nhiều việc.
Ngoài ba nguyên tắc cơ bản khi xây dựng các thủ tục kiểm soát, KSNB trong
một đơn vị còn bao gồm những qui định cụ thể để kiểm tra, kiểm soát hoạt động và tài
sản của đơn vị như:
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt
Đề án môn học

GVHD: Nguyễn Thị Thanh Huyền
 Kiểm soát vật chất
 Kiểm soát số học và kiểm tra kế toán:
 Kiểm tra độc lập với việc thực hiện
4.2.1.5 Giám sát hệ thống kiểm soát nội bộ
Giám sát bao gồm sự đánh giá thường xuyên và định kỳ của người quản lý
đối với hệ thống KSNB nhằm xem xét hoạt động của nó có đúng như thiết kế và cần
phải điều chỉnh sao cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Giám
sát có một vai trò quan trọng trong KSNB vì nó giúp cho hệ thống KSNB luôn duy trì
được sự hữu hiệu của mình.
4.2.2. Các phương pháp tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ:
KTV tìm hiểu về kiểm soát nội bộ của đơn vị trên hai mặt chủ yếu: thiết kế
kiểm soát nội bộ bao gồm thiết kế về quy chế kiểm soát và thiết kế về bộ máy kiểm
toán; hoạt động liên tục và có hiệu lực của KSNB.
Để đạt được sự hiểu biết về hệ thống KSNB, KTV áp dụng các phương pháp
sau:
 Dựa vào kinh nghiệm trước đây của KTV với khách hàng.
Hầu hết các cuộc kiểm toán của một công ty được một công ty kiểm toán thực
hiện hàng năm. Do vậy KTV thường bắt đầu cuộc kiểm toán với một khối lượng lớn

thông tin về hệ thống KSNB của khách hàng đã thu thập được từ các cuộc kiểm toán
trước. Bởi vì các hệ thống kiểm soát thường thay đổi thường xuyên nên thông tin có
thể được cập nhất hoá và mang sang năm hiện hành.
 Thẩm vấn nhân viên của công ty khách hàng.
Công việc này giúp cho KTV thu thập được các thông tin ban đầu đối với khách hàng
mới hoặc nắm bắt được những thay đổi của hệ thống KSNB của khách hàng đối với
khách hàng thường niên để cập nhật thông tin cho cuộc kiểm toán ở năm hiện hành.
 Xem xét các sổ tay về thủ tục và chế độ của công ty khách hàng để hiểu rõ được các
thủ tục và chế độ liên quan đang được áp dụng tại công ty.
 Kiểm tra các chứng từ và sổ sách đã hoàn tất để thấy được việc vận dụng các thủ
tục và chế độ trên tại công ty.
 Quan sát các mặt hoạt động và quá trình hoạt động của công ty khách hàng để củng
cố thêm sự hiểu biết và kiến thức về thực tế sử dụng các thủ tục và chế độ KSNB tại
công ty khách hàng.
4.3. Mô tả về hệ thống kiểm soát nội bộ trên giấy tờ làm việc
khi tìm hiểu về hệ thống KSNB của khách hàng, KTV phải tài liệu hóa những
thông tin đã thu thập để chứng minh là đã tìm hiểu về KSNB trong hồ sơ kiểm toán.
KTV có thể sử dụng một trong ba phương pháp hoặc cả ba phương pháp sau tuỳ thuộc
đặc điểm của đơn vị được kiểm toán và quy mô kiểm toán:
 Bản tường thuật: Là sự mô tả bằng văn bản về hệ thống KSNB của khách hàng.Yêu
cầu trình bày cần đầy đủ bốn điểm sau:
Nguồn gốc của mọi chứng từ và sổ sách trong hệ thống. 
Tất cả các quá trình đã xảy ra. 
Sự chuyển giao mọi chứng từ, sổ sách trong hệ thống . 
Chỉ rõ các hoạt động kiểm soát thích hợp với quá trình đánh giá RRKS.
 Bảng câu hỏi về kiểm soát nội bộ: Là mội bảng liệt kê một loại các câu hỏi được
SVTH: Phạm Thị Ánh Nguyệt

×