Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

chủ đề học tập dịch tể học và phòng chống bệnh ung thư gan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.94 KB, 13 trang )

Khoa Y Tế Công Cộng BỘ Y TẾ
Bộ môn Dịch Tễ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ
TÊN MÔN HỌC
THỰC HÀNH DỊCH TỄ HỌC
Chủ đề học tập
DỊCH TỂ HỌC VÀ PHÒNG CHỐNG BỆNH
UNG THƯ GAN
GVHD: Ths. Lê Minh Hữu
Cần Thơ, 2014
Chủ đề:
DỊCH TỂ HỌC VÀ PHÒNG CHỐNG BỆNH
UNG THƯ GAN
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư gan nguyên phát là một bệnh lý ác tính rất thường gặp
chiếm 80-90% của ung thư gan và là một trong những bệnh ung thư phổ
biến nhất trên pham vi toàn thế giới. Chúng có thể phát sinh từ các thành
phần biểu mô hoặc từ các thành phần không phải biểu mô, trong đó ung thư
biểu mô tế bào gan là loại hay gặp nhất chiếm khoảng 90% trong các u ác
tính ở gan. Ung thư gan cũng xảy ra như những ung thư thứ phát (ung thư
di căn). Nó xảy ra khi u từ các phần khác của cơ thể di căn tới gan. Tại Mỹ
và một số nước khác, hầu hết các ung thư được tìm thấy trong gan lan tràn
từ các ung thư ở nơi khác đến. Thay vì được gọi là ung thư gan, typ ung thư
này trong gan được gọi tên theo cơ quan trong đó ung thư này bắt đầu-
chẳng hạn như ung thư đại tràng di căn trong trường hợp ung thư bắt đầu
trong đại tràng và lan tràn tới gan.
Trên thế giới hằng năm có khoảng 1,25 triệu người chết và hơn
500.000 trường hợp ung thư gan mới mắc được phát hiện. Theo thống kê
của Tổ chức Y tế Thế giới năm 2000, ung thư gan nguyên phát đứng hàng
thứ 5 ở nam giới và hàng thứ 9 ở Mỹ. Ung thư gan là nguyên nhân tử vong
hàng đầu tại Thái Lan và là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ hai tại
Trung Quốc. Ở nước ta, Ung thư gan đứng hàng thứ 3 ở nam giới và thứ 5


ở nữ giới.
Ung thư gan là bệnh lý ác tính tiến triển nhanh, thường phát hiện
muộn, tỉ lệ tử vong rất cao và tử vong trong một thời gian ngắn kể từ khi
phát hiện. Vì ung thư gan hiếm khi được phát hiện sớm và khó kiểm soát
với những biện pháp điều trị hiện nay, tiên lượng thường xấu. Mặc dù
những biện pháp điều trị không mang lại nhiều cải thiện, điều trị thường có
thể giúp kiểm soát đau và cải thiện chất lượng sống.
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi thực hiện chủ đề nhằm muốn cung
cấp một số kiến thức khái quát nhất về căn bệnh ung thư gan để hiểu rõ
thêm về tầm nguy hiểm của bệnh. Từ đó, biết được các biện pháp phòng
ngừa, phát hiện sớm bệnh trong cộng đồng và xử trí một cách có hiệu quả.
II. ĐỊNH NGHĨA – SƠ LƯỢC BỆNH LÝ – CHẨN ĐOÁN –
NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ
1. Định nghĩa
Ung thư gan nguyên phát là một bệnh trong đó các tế bào ác tính
(ung thư) phát sinh từ các mô trong gan. Các loại khác nhau của ung thư
gan nguyên phát thường được đặt tên theo loại tế bào mà từ đó người ta cho
rằng ung thư đã phát triển. Ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) hay u gan
phát sinh từ các tế bào chính của gan được gọi là các tế bào gan và chiếm
khoảng 85% các ca ung thư gan nguyên phát. Một loại ít phổ biến của ung
thư gan nguyên phát có nguồn gốc từ các tế bào lót ống mật được gọi là các
tế bào biểu mô ống mật và do đó được gọi là ung thư đường mật hoặc ung
thư ống dẫn mật.
Gan cũng là nơi của một loại ung thư khác được gọi là ung thư gan
thứ phát (hay di căn). Trong điều kiện này, ung thư chính bắt nguồn ở nơi
khác trong cơ thể và các ung thư thứ phát được hình thành trong gan. Một
ví dụ phổ biến là sự di căn ung thư đại trực tràng sang gan qua dòng máu.
2. Phân loại ung thư gan nguyên phát
- Ung thư tế bào gan (Hepatocellular Carcinoma - HCC). Thường gặp
nhất trong các loại ung thư gan nguyên phát (khoảng 90% các trường

hợp). Đây là loại ung thư bắt nguồn từ tế bào gan thường do hậu quả
của xơ gan hoặc viêm gan.
- Ung thư tế bào gan dạng tấm sợi (Fibrolamellar hepatocellular
carcinoma - FHCC ) là một phân loại hiếm gặp của ung thư tế bào gan.
Loại ung thư này thường phát triển trên nền mô gan bình thường.
- Ung thư tế bào ống mật (Cholangiocarcinoma - CC). Đây là loại ít gặp
(khoảng 5 - 10% trường hợp). Tế bào ung thư phát triển từ tế bào biểu
mô ống mật.
- Ung thư nguyên bào gan (Hepatoblastoma). Là một bệnh ung thư hiếm
gặp ở trẻ em (chỉ khoảng 0,5-1 % trường hợp).
- Sarcoma mạch máu (Angiosarcoma). Đây là loại rất hiếm. Ung thư phát
triển từ tế bào mạch máu trong gan.
3. Triệu chứng học
Hầu hết nhiều người không có dấu hiệu và triệu chứng ở giai đoạn
ung thư gan sớm, có nghĩa là bệnh này không được phát hiện cho đến khi
nó đã khá muộn. Khi các triệu chứng xuất hiện, các triệu chứng có thể gồm
Hầu hết nhiều người không có dấu hiệu và triệu chứng ở giai đoạn ung thư
gan sớm một số hoặc tất cả các triệu chứng sau:
- Chán ăn và sụt cân.
- Đau bụng, đặc biệt ở hạ sườn phải và có thể đau xiên đến lưng và vai.
- Buồn nôn và nôn.
- Thường xuyên thấy yếu và mệt mỏi.
- Gan to.
- Cổ chướng.
- Vàng da vàng mắt do tích bilirubin, phần còn lại của tế bào hồng cầu
giáng hóa.
4. Sàng lọc và chẩn đoán ung thư gan
Tiêu chuẩn tầm soát ung thư gan: việc tầm soát để phát hiện sớm ung thư
gan nên được khuyến cáo ở bệnh nhân có nguy cơ cao, gồm:
a. Đối với người nhiễm HBV:

- Đàn ông trên 40 tuổi
- Phụ nữ trên 45tuổi
- Tất cả những người bị xơ gan.
- Gia đình có người bị ung thư gan, viêm gan siêu vi B mạn tính.
b. Xơ gan không do HBV:
- Viêm gan C
- Xơ gan do rượu
- Bị nhiễm sắc tố sắt do di truyền
- Viêm gan nhiễm mỡ không do rượu.
c. Nhìn chung việc tầm soát ung thư gan nên được tiếp tục ở những bệnh
nhân đã được tầm soát trước đây, ngay cả khi đã điều trị thành công
HBV/HCV ở bệnh nhân có xơ gan.
Các phương pháp sàng lọc, chẩn đoán:
-Alpha-fetoprotein (AFP): AFP nên thực hiện 6 tháng/lần ở những trường
hợp có nguy cơ cao. Nồng độ AFP tăng trên 400 ng/ml có thể giúp chẩn
đoán ung thư gan ở bệnh nhân có xơ gan hoặc có khối u ở gan (bình
thường AFP huyết thanh có nồng độ từ 10 – 20 ng/ml). Tuy nhiên AFP
dưới ngưỡng này cũng không loại trừ được ung thư gan vì có đến 40%
HCC không tăng AFP. AFP tăng kèm có bướu ở gan thì chưa thể phân
biệt được HCC hay ung thư đường mật trong gan (cholangiocarcinoma).
Vì vậy, khi CT scan khẳng định thì có thể chẩn đoán xác định ung thư,
nếu CT không khẳng định thì sinh thiết được khuyến cáo để chẩn đoán
xác định.
- Siêu âm. Đây là xét nghiệm không xâm lấn dùng sóng siêu âm để đưa ra
hình ảnh của các nội tạng, gồm có gan. Siêu âm ít đau và thường chỉ mất
30 phút. Trong khi bạn nằm ở giường hoặc bàn khám bệnh, một đầu dò
được đặt vào cơ thể bạn. Đầu dò phát ra các sóng và được phản lại từ
gan của bạn và chuyển sang thành dạng có hình ảnh trên máy tính. Siêu
âm đặc biệt tốt trong việc cung cấp thông tin về hình dạng, kết cấu và
cấu trúc khối u.


- Chụp cắt lớp bằng máy tính (CT). Xét nghiệm này dùng tia X để đưa ra
các hình ảnh cắt ngang của cơ thể bạn. Bạn có thể cũng phải làm nhiều
xét nghiệm khác - gọi là chụp phim X- quang mạch cắt lớp - chất cản
quang được tiêm vào một động mạch gan. Tia X theo dõi chất cản
quang khi nó tuần hoàn trong các mạch máu trong gan của bạn. Chụp X
quang mạch máu, phải mất 1 giờ, có thể đưa ra thông tin chi tiết về số
lượng và vị trí của khối u. Nguy cơ lớn nhất của xét nghiệm này là có thể
phản ứng dị ứng với chất cản quang. Chụp X - quang mạch cũng có thể
không dễ thực hiện vì một catheter nhỏ được đưa vào động mạch ở háng
và đi đến gan của bạn.
- Chụp cộng hưởng từ (MRI). Thay vì chụp X quang, MRI tạo ra các hình
ảnh bằng trường điện từ và sóng vô tuyến. Đôi lúc chất cản quang cũng
được dùng. Xét nghiệm này mất 15 phút đến 1 giờ. Bạn có thể thấy MRI
không thuận tiện như chụp cắt lớp. Đó là vì bạn phải nằm ở một phòng
chật hẹp và vì máy này phát ra tiếng ồn làm rất nhiều người khó chịu.
Nghe nhạc bằng tai nghe có thể giúp bớt khó chịu bởi tiếng ồn này và
bạn có thể chọn chụp cắt lớp nếu có cảm giác sợ bị nhốt.
- Quét gan. Trong xét nghiêm hình ảnh này, có một ít chất đánh dấu phóng
xạ (đồng vị phóng xạ) được gắn vào với các chất khác và tiêm vào tĩnh
mạch ở tay. Một camera đặc biệt (camera gamma) ghi lại các hình ảnh
của chất đồng vị phóng xạ đã đi vào gan của bạn. Chụp cắt lớp gan phát
hiện tổn thương do xơ gan hoặc viêm gan cũng như là sự hiện diện ban
đầu của ung thư thứ phát.
- Sinh thiết gan. Trong thủ thuật này, một mẫu mô nhỏ được lấy từ khối u
của bạn và được soi dưới kính hiển vi. Đây là cách để phát hiện xem liệu
khối u có phải là ác tính hay không. Bác sĩ của bạn có thể dùng một
chiếc kim nhỏ, có gắn đèn (dụng cụ để soi bụng) để lấy mẫu này. Nếu
khối u nhỏ, siêu âm hoặc chụp cắt lớp thường được dùng để giúp xác
định vùng cần sinh thiết. Kim hoặc sinh thiết nôi soi là thủ thuật tương

đối đơn giản chỉ cần gây tê tại chỗ. Nguy cơ gồm thâm tím da, chảy
máu, nhiễm khuẩn.
- Xét nghiệm máu khác: Công thức máu: xơ gan có thể có giảm tiểu cầu,
giảm Albumin máu, tăng bilirubin máu, rối loạn đông máu; Rối loạn
điện giải; Tăng men gan; Tăng Alkaline Phosphatase.

5. Nguyên tắc điều trị
Hiện nay có nhiều phương pháp điều trị ung thư gan nguyên phát trên
thế giới, để lựa chọn phương pháp thích hợp với từng bệnh nhân thường
được các bác sĩ dựa vào:
- Giai đoạn của bệnh, số lượng và kích thước khối u
- Khối u có di căn hay không
- Bản chất mô học của khối u
- Chức năng gan: ung thư gan trên một gan lành hay gan đã bị xơ
- Toàn trạng bệnh nhân có chấp nhận được cuộc điều trị không
Các phương pháp điều trị hiện nay:
 Phẫu thuật để loại bỏ một phần của gan.
 Phẫu thuật cấy ghép gan.
 Làm đông các tế bào ung thư (Áp lạnh - Cryoablation)
 Diệt các tế bào ung thư bằng nhiệt, gọi là cắt bỏ ung thư bằng sóng
radio (ablation radiofrequency).
 Tiêm alcohol (cồn) vào khối u.
 Chích thuốc hóa trị vào gan (Hóa trị liệu thuyên tắc -
Chemoembolization)
 Xạ trị.
 Điều trị thuốc: Sorafenib (Nexavar)
6. Tiên lượng
Tiên lượng phụ thuộc vào nhiều yếu tố bao gồm yếu tố khối u có
được chẩn đoán sớm không? Nếu khối u nhỏ có thể điều trị bằng phẫu
thuật, tuy nhiên tỉ lệ thành công của phẫu thuật 10-20%. Nếu phẫu thuật

không thành công bệnh nhân tử vong trong vòng 3 đến 6 tháng . Tiên
lượng ung thư di căn gan rất xấu.
III. TÌNH HÌNH MẮC BỆNH TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
- Theo WHO năm 2000, số lượng bệnh nhân ung thư gan phát mới mắc
là 564.000 (398.000 cas ở nam và 166.000 cas ở nữ). Loại ung thư này
ít gặp tại Mỹ, Châu Mỹ la tinh, Pháp và các nước Bắc Âu. Trái lại, tỷ lệ
mắc hàng năm khá cao tại Trung Quốc, các nước Châu Á và các cùng
miền Nam Châu Phi, 80% là ở các nước đang phát triển. Nam giới mắc
nhiều hơn nữ. Nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ hai trên thế giới,
hàng năm có khoảng 1,25 triệu người chết vì bệnh này, và đa phần do
chẩn đoán đã quá muộn. Để tiện thống kê và theo dõi người ta chia thế
giới làm ba vùng theo tỷ lệ phát bệnh: vùng có tỷ lệ phát bệnh cao (tức
>30 trường hợp/100.000 dân/năm) bao gồm: Đông Á (các nước Trung
Quốc, Triều Tiên), Châu Phi (trừ Bắc Phi), Đông Nam Á. Trong đó
Mozambich là nước có tần suất Ung thư gan nguyên phát cao nhất thế
giới với tần suất 103,8 trường hợp/100.000 dân/năm). Tần suất trung
bình (3-30 trường hợp/100.000 dân/năm) ở Nam Âu, Bắc Phi, Trung
Mỹ, Ấn Độ, Alaska. Tỷ lệ phát bệnh thấp ở các nước Bắc Âu, Hoa Kỳ.
Ở các nước đa chủng tộc như Hoa Kỳ, người ta cũng nghiên cứu thấy tỷ
lệ ung thư gan cao hơn ở các nhóm người Trung Quốc, Đông Nam Á,
nhóm người Mỹ da đen, tuy nhiên tỷ lệ này thấp hơn ở các nước
nguyên quán của họ.
- Ở Việt Nam, tại Hà Nội, tỷ lệ mắc các cung thư tiêu hóa đã tăng lên
30%, trong đó tỷ lệ mắc trên 100.000 dân/năm của ung thư gan là 21,7
đứng thứ 2 sau ung thư dạ dày là 25,7. Tại khu vực miền Trung, tỷ lệ
ngày càng tăng tương ứng 19,5%, 28%, 35% so với các loại ung thư
tiêu hóa. Khu vực Thành Phố Hồ Chí Minh thì ung thư gan là loại ung
thư đứng hàng đầu ở nam (21,4%) và là 1 trong 2 loại ung thư dẫn đầu
tính chung cho cả hai giới (13,5%) sau ung thư phổi. Tại Đồng Bằng
Sông Cửu Long, tác giả Huỳnh Quyết Thắng sau khi thống kê trên

6804 trường hợp ung thư được ghi nhận trong 4 năm 2001-2004 tại Cần
Thơ đã cho thấy ung thư gan là loại ung thư thường gặp nhất ở nam
giới (27%), và đứng thứ 5 trong các loại ung thư ở nữ giới (7,8%). Như
vậy có thể thấy rằng nằm trong khu vực Đông Nam Á, nước ta có đặc
điểm dịch tễ phù hợp với khu vực nên Việt Nam cũng là một trong
những quốc gia có tần suất ung thư gan cao nhất thế giới.
- Phân bố theo độ tuổi, ở những vùng có tỷ lệ phát bệnh cao như Châu Á,
Châu Phi có độ tuổi trung bình thấp hơn 10-20 tuổi so với những vùng
có tỷ lệ thấp (Bắc Mỹ, Bắc Âu). Tuổi mắc bệnh trung bình ở Châu Âu
và Bắc Mỹ là 60 tuổi, ở Châu Phi và Châu Á là 35 tuổi và ở Việt Nam
là 45 tuổi. Tỷ lệ mắc bệnh nam nữ cũng có sự khác nhau, ở những nước
có tỷ lệ mắc bệnh cao, tỷ lệ nam/nữ là 8/1; những nước có tỷ lệ phát
bệnh thấp, tỷ lệ nam/nữ chỉ từ 2/1-1/1. Ở Nhật Bản tỷ lệ nam/nữ là 3/1,
ở Brazil là 3,4/1 còn ở Việt Nam là 4/1.
IV. YẾU TỐ NGUY CƠ GÂY BỆNH
- Viêm gan B (HBV) hay C (HCV) mãn tính:
Nhiễm virus gây viêm gan siêu vi B hoặc C mạn làm tăng nguy cơ
ung thư gan. Người bị nhiễm HBV mạn tính có nguy cơ xảy ra ung thư gan
gấp 100 lần so với người không bị nhiễm, và một khi tình trạng xơ gan có
liên quan nhiễm HBV thì có nguy cơ tăng lên gấp 1000 lần. 80% bệnh nhân
nhiễm HCV sẽ tiến thành mạn tính và làm tăng nguy cơ chuyển thành ung
thư gan lên 20 lần so với người không nhiễm. Nếu nhiễm đồng thời HBV
và HCV thì nguy cơ ung thư gan cao hơn nhiều lần so với nhiễm một loại.
Khi bị viêm gan B mạn tính, các tế bào nhiễm virus sẽ bị phá hủy
nhiều khả năng do cơ chế miễn dịch hơn là do sự nhân đôi của virus. Hậu
quả là kích thích các tế bào còn lại tăng sinh và phân chia liên tục để thay
thế các tổn thương trên, lâu ngày dễ dẫn đến xơ gan và làm gia tăng nguy
cơ đột biến gen gây ung thư gan. Ngoài ra, virus B còn có khả năng hòa
nhập DNA của mình vào gen tế bào gan ký chủ, làm gia tăng đột biến gen,
gây ung thư gan.

Ngược với viêm gan siêu vi B gây ung thư gan qua cả 2 cơ chế trực
tiếp và gián tiếp, virus viêm gan C chỉ gây ung thư gan qua cơ chế gián
tiếp. Virus C không hòa nhập RNA của mình vào gen tế bào ký chủ. Nó
làm tổn thương tế bào gan và gây tái sinh liên tục dẫn đến tăng nguy cơ đột
biến gen, dẫn đến ung thư gan. Ngoài ra, nhiễm virus viêm gan C cũng làm
tăng nguy cơ bị lymphoma Non-Hodgkin.
- Rượu: Tiêu thụ quá nhiều rượu và kéo dài sẽ dẫn đến tổn thương gan
và xơ gan không thể phục hồi và cuối cùng là ung thư gan. Người sử dụng
thường xuyên hơn 80 g alcohol/ngày trong thời gian 10 năm làm tăng nguy
cơ ung thư gan gấp 5 lần. Hơn nữa, việc sử dụng rượu thường xuyên ở
người nhiễm HBV và HCV mạn tính làm tăng nguy cơ ung thư gan cao gấp
2 lần so với người chỉ nhiễm HBV hoặc HCV.
- Aflatoxin B1: Tiêu thụ các loại thực phẩm bị nhiễm nấm sản xuất
độc tố aflatoxin B1 là rất độc đối với gan. Loại nấm này có thể được tìm
thấy trong thực phẩm dễ bị nhiễm như đậu phộng, gạo, đậu nành, ngô và
lúa mì. Độc tố aflatoxin gây đột biến gen p53 và hậu quả là gây ung thư tế
bào gan.
- Thuốc men và hoá chất :
+ Các thuốc Anabolic steroid (như testosterone) và hormon sinh
dục nữ (estrogen) có liên quan với sự phát triển của u dạng tuyến của gan
(hepatic adenomas). U này có thể phát triển thành ung thư.
+ Phơi nhiễm kéo dài với vinyl clorua (là một chất hóa học trong
sản xuất nhựa) có thể gây ra angiosarcoma ở gan.
- Nhiễm sắc tố sắt ( Hemochromatosis): là một rối loạn di truyền
trong đó sắt bị tích lũy quá nhiều trong cơ thể đặc biệt là gan dẫn đến xơ
gan và nguy cơ ung thư gan.
- Viêm gan tự miễn: là bệnh tự miễn gây ra tổn thương mãn tính ở
gan dẫn đến xơ gan và cuối cùng là làm tăng nguy cơ ung thư gan.
- Xơ gan: làm tăng nguy cơ ung thư gan.
V. BIỆN PHÁP DỰ PHÒNG

Trong nhiều trường hợp, không thể dự phòng sự lan tràn của ung thư
từ một vị trí khác tới gan. Tuy nhiên, chúng ta có thể dự phòng được ung
thư gan nguyên phát.
Phòng bệnh ung thư gan nguyên phát có thể thực hiện ở 3 cấp:
- Phòng bệnh cấp 1: là tránh sự tiếp xúc với các yếu tố gây ung thư gan ở
môi trường
- Phòng bệnh cấp 2: là tránh sự tiến triển của các bệnh gan mạn tính mà
trước hết là viêm gan B mạn tính trở thành xơ gan.
- Phòng bệnh cấp 3: là tránh cho một bệnh gan đã bị xơ không phát triển
thành ung thư gan.
1. Phòng bệnh cấp 1
- Tránh tất cả các yếu tố nguy cơ của bệnh ung thư gan nguyên phát đặc
biệt là các yếu tố nguy cơ hàng đầu.
- Tránh lây nhiễm virus viêm gan B và C bằng các biện pháp vệ sinh,
loại bỏ kỹ những nguồn cho máu và các chế phẩm từ máu bị nhiễm
virus viêm gan B và C; tránh dùng chung những dụng cụ có thể dính
máu của nhau như kim tiêm, kim châm cứu, dao cạo, bàn chải đánh
răng thận trọng khi sử dụng các thuốc có hại cho gan.
- Phòng chống các tệ nạn xã hội như nghiện ngập rượu, ma tuý, mại dâm,
thực hiện sống chung thuỷ một vợ một chồng, sử dụng bao cao su trong
quan hệ tình dục với người nhiễm virus viêm gan B, C.
- Tránh những thức ăn có thể nhiễm nấm mốc aflatoxin như lac,gạo ngô
mốc…cải thiện các điều kiện bảo quản để tránh cho nấm mốc phát
triển.
- Những người thường xuyên tiếp xúc với hoá chất cần tuân thủ nghiêm
ngặt các quy định về vệ sinh an toàn lao động và vệ sinh môi trường.
- Tạo miễn dịch chống virus viêm gan B bằng cách tiêm vacccin, ở nước
ta hiện nay việc tiêm vaccin viêm gan B đã được đưa vào chương trình
tiêm chủng mở rộng cho tất cả trẻ em vừa mới sinh.Riêng những trẻ
sinh ra từ những bà mẹ có mang virus viêm gan B ngoài việc tiêm

vaccin cần sử dụng thêm globulin miễn dịch chống viêm gan B (HBIG:
hepatitis B immune globulin),có hiệu quả nhất khi tiêm trong vòng 12
giờ sau khi sinh.
2. Phòng bệnh cấp 2
- Chữa tốt các bệnh gan mạn tính, không để trở thành xơ gan mà ở Việt
Nam trước hết cần chữa tốt bệnh viêm gan B mạn tính. Chẩn đoán viêm
gan B mạn tính được xác định khi bệnh nhân mang virus viêm gan B ít
nhất là 6 tháng, có những biểu hiện về sinh hóa hoặc mô học của viêm
gan và sự nhân lên của virus. Mục đích của điều trị viêm gan B mạn
tính là ngăn cản hoạc chí ít làm giảm nguy cơ phát triển thành xơ gan
và ung thư gan.
- Hiện nay có hai nhóm thuốc được sử dụng trong điều trị viêm gan B
mạn tính. Nhóm thứ nhất là các thuốc điều biến miễn dịch , bao gồm
các thuốc như Interferon, peg – interferon, Thymosin tuy nhiên các
thuốc này khi sử dụng cần lưu ý đến tác dụng gây độc cho gan nên
không được dùng cho bệnh nhân xơ gan. Nhóm thuốc thứ hai là thuốc
tương tự Nucleosid, bao gồm các thuốc như Lamivudin, adefovir
dipivoxil, Entecavir các thuốc này có thể dùng cho bệnh nhân xơ gan
tuy nhiên giá thành thuốc đắt và sự kháng thuốc ngày càng tăng.
- Ngoài ra có một số thuốc y học cổ truyền có tác dụng cới viêm gan B
mạn tính như Liv 94 (chiết xuất từ cây chó đẻ răng cưa), gacavit (chiết
xuất từ gấc)
- Xu hướng hiện nay là dùng phối hợp hai nhóm thuóc trong điều trị
viêm gan B mạn tính.
3. Phòng bệnh cấp 3
- Nếu đã bị xơ gan cần điều trị ngăn chặn để không phát triển thành ung
thư gan nguyên phát.
- Nhờ các tiến bộ y học y quá trình xơ hoá là có thể ngăn chặn và đẩy lùi
do đó cần phải điều trị sớm cố gắng không để xơ gan từ giai đoạn đầu
(Child Pugh A) sang giai đoạn nặng hơn , mất bù và có nhiều bién

chứng trong đó có biến chứng ung thư gan nguyên phát.
- Ngoài 3 cấp độ phòng bệnh trên một biện pháp phòng bệnh hết sức
quan trọng nữa là sàng lọc (screening) để làm sao phát hiện được ung
thư gan càng sớm càng tốt, ở giai đoạn tiền lâm sàng, khi chưa có biểu
hiện lâm sàng để cho các biện pháp điều trị dễ dàng và hiệu quả hơn.
VI. BÀN LUẬN – KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ VỀ CÔNG TÁC
PHÒNG CHỐNG BỆNH HIỆN NAY
Trong những thập niên qua, ung thư gan đã đi từ chỗ là án tử hình gần
như phổ biến đến một ung thư có thể phòng ngừa, có thể phát hiện sớm và
có thể được chữa khỏi với tần suất đáng kể khi được phát hiện sớm. Vì tỷ lệ
ung thư gan tăng lên ở hầu hết các quốc gia, bổn phận của các bác sĩ chăm
sóc cho những bệnh nhân có nguy cơ là phải hiểu các bước cần thiết để
giảm thiểu ảnh hưởng của bệnh này.
Do tính chất ác tính nguy hiểm của bệnh như vậy, nên công tác dự
phòng là cực kỳ quan trọng, đặc biệt là còn những hạn chế của điều trị ung
thư gan như hiện nay. Trước hết cần hướng dẫn người dân nhận biết và
tránh tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ: virus, viêm gan B, C, rượu, aflatoxin,
các hóa chất bảo vệ thực vật, tiêm vacxin chủng ngừa viêm gan B; dinh
dưỡng hợp lý: bổ sung đầy đủ lượng protein, thành phần acid amin, vitamin
cân đối trong khẩu phần ăn giúp gan duy trì quá trình hoạt động bình
thường, quá trình chuyển hóa các chất và khắc phục các rối loạn,…
Ngoài ra, cần áp dụng mô hình khám sàng lọc đối với những người
có yếu tố nguy cơ cao nhằm phát hiện sớm ung thư gan trong cộng đồng:
+ Xơ gan, viêm gan virus mạn tính, và bệnh gan chuyển hóa được
khám lâm sàng, định lượng AFP và siêu âm 6 tháng/lần.
+ Người có HbsAg (+) trên 35 tuổi, người có tiền sử gia đình mắc
ung thư gan khám lâm sàng, định lượng AFP và siêu âm 1 năm/lần.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Trọng Thảng (2004), “Ung thư gan”, bài giảng bệnh học tiêu
hóa gan mật, pp. 248-252.

2. Hà Văn Mạo, Hoàng Kỷ, Phạm Hoàng Phiệt (2006), “Ung thư gan
nguyên phát”, NXB Y học.
3. Bùi Thị Thanh Hà, Trịnh Thị Khanh, Nguyễn Văn Bằng (1998),
“nhận xét về 76 trường hợp tử vong do ung thư gan nguyên phát tại
bệnh viện Hữu Nghị trong 5 năm 1993 – 1997” (Tạp chí y học Việt
Nam, số 9,10/1998 – Tổng hội y dược học Việt Nam),pp. 54 -57.
4. Tôn Thất Bách (1999), “Ung thư gan”, Bệnh học ngoại, tập 1, bộ
môn Ngoại, ĐHY Hà Nội (NXB Y học), pp.186-196.
5. Hữu Nghị, Phạm Hoàng Anh (1996), “Tỷ lệ mắc ung thư tiêu hóa tại
Hà Nội theo thời gian, theo lứa tuổi và vùng nội ngoại thành từ
1993-1995, (tạp chí Nội khoa, số 3), pp.18-23.
6. Phạm Gia Khánh (1993), “Ung thư gan”, bệnh học nội khoa sau đại
học, tập 2 – học viện quân y, (NXB Y học), pp.93-100.
7. Trần Văn Huy (2002), “Ung thư biểu mô tế bào gan ở khoa nội tiêu
hóa, bệnh viện TW Huế qua các năm 1990,1995 và 2000”, tạp chí y
học thực hành, số 1), pp. 50-51.
8. Trần Văn Huy (2001), “Virus viêm gan C và ung thư gan nguyên
phát”, (Tạp chí nghiên cứu y học – ĐH Huế, số 7), pp.25-27.
9. Phạm Văn Lình (1998), “Chẩn đoán ung thư gan nguyên phát bằng
chọc hút u gan dưới hướng dẫn của siêu âm”, (Tạp chí nghiên cứu y
học. ĐH Y Hà Nội. Số 12/1998), pp.56-59.
10. Huỳnh Quyết Thắng (2009), “Nghiên cứu dịch tễ học mô tả một số
bệnh ung thư tại Cần Thơ 2001 – 2004” (Tạp chí y học thực hành, số
7 (667)/2009).
11. Văn Tần, Hoàng Danh Tấn (2000), “Đặc điểm ung thư gan nguyên
phát tại miền Nam Việt Nam”, báo cáo khoa học, tập 1, ĐH hội khoa
Việt Nam lần thứ X (29-30/10/1999) (NXB Y Học – Hà Nội), pp. 9
-17.
12. CM Wiliam (1997), “Neoplasms of the liver sabiton”, (Textbook of
Surgery), pp. 1068 - 1084.

13. Goncalves CS, Pereira FE, Gayyoto LC (1997), “Hepatocellular
Carcinoma in Braxil”, Rev – Inst – Med – Trop –Sao – Paulo 1997
May – Jun, 39(3), pp.165-170.
14. Naoki Yamanaka, Tsuneo Tanaka (1996), “Microware
coagulonecrotic Therapy for Hepatocellular Carcinoma”, World
Jounal of Surgery, pp. 1076-1081.
15. Ths. Bs. Võ Khắc Nam (2013), “Ung thư gan”
/>thu-gan
16. />17. />18. />19. />20. />gan-nguyen-phat/32/1882/28-6-2012.htm
21. />22. html

×