Tải bản đầy đủ (.pdf) (219 trang)

Đề tài Đặc điểm dịch tễ học và biện pháp phòng chống bệnh sán lá gan lớn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.61 MB, 219 trang )



BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN

CHƯƠNG TRÌNH KH&CN TRỌNG ĐIỂM CẤP NHÀ NƯỚC KC10/06-10
“NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ
BẢO VỆ CHĂM SÓC VÀ NÂNG CAO SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG”



BÁO CÁO TỔNG HỢP
KẾT QUẢ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐỀ TÀI
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG
CHỐNG BỆNH SÁN LÁ GAN LỚN Ở VIỆT NAM
(MÃ SỐ KC10.26/06-10)




Cơ quan chủ trì đề tài: Trường Đại học Tây Nguyên
Chủ nhiệm đề tài: TS. Đặng Thị Cẩm Thạch







Hà Nội - 2010




1
ĐẶT VẤN ĐỀ

Theo có số thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) trong thời gian
1950 đến 1995 có 60 nước thông báo có ổ dịch sán lá gan lớn: mức thấp dưới
100 ca bệnh gồm 5 nước (Bolivia, Ai Cập, Iran, France và Bồ Đào Nha); mức
100-1000 ca bệnh gồm 6 nước (Ethiopia, Cuba, Peru, khối Liên hiệp Anh,
Tây Ban Nha và Trung Quốc), và trên 1000 trường hợp gồm 49 quốc gia
(Việt Nam hiện thuộc nhóm trên 1000 ca bệnh/năm). Theo con số ước tính,
13% người có nguy cơ nhiễm sán (180 triệu người) và 0,17% người nhi
ễm
sán (2,4 triệu người) mắc bệnh, thiệt hại kinh tế khoảng 3.2 tỷ U$ mỗi năm.
Đến giữa những năm 1990, bệnh sán lá gan lớn bắt đầu bùng phát/tái
bùng phát, lúc đầu chủ yếu ở các nước châu Á, sau đó bệnh trở lên phổ biến ở
các nước châu Phi, châu Âu và châu Mỹ. Sự tái bùng phát có thể liên quan
đến những thay đổi về môi trường, bức tranh dịch tễ học cũng bắt đầu có sự
thay
đổi.
Tại Việt Nam, bệnh sán lá gan lớn từ lâu đã được ghi nhận là bệnh truyền
lây giữa người và động vật. Trước đây, tình hình nhiễm sán lá gan lớn ở mức
độ thấp, chủ yếu các ca bệnh tại bệnh viện. Năm 1978, Đỗ Dương Thái và
Trịnh Văn Thịnh thông báo hai trường hợp bệnh nhân sán lá gan lớn, một
trường hợp tử vong do nhiễm tới 700 sán. Theo số liệu của Bộ
Y Tế và WHO,
đến năm 1995, bệnh sán lá gan lớn ở Việt Nam xếp ở mức C (dưới 100 trường
hợp); đến năm 1997, ghi nhận đầu tiên tại bệnh viện đã cho số bệnh nhân là
125. Sau đó, số địa phương báo có bệnh tăng nhanh chóng, năm 2002-2004:
27 tỉnh có bệnh, năm 2005: 32 tỉnh có bệnh và đến tháng 8/2006: 45 tỉnh
trong cả nước có người nhiễm sán lá gan lớn. Số ca bệnh hiện lên tới hàng

nghìn, gia tăng sự
phức tạp trong công tác phòng chống bệnh tại Việt Nam.
Diễn biến bệnh SLGL tại Việt Nam phức tạp do các yếu tố cấu thành

2
vòng đời của sán rất phổ biến. Nguồn bệnh quan trọng lưu cữu trong kho
tàng “vòng đời khép kín của gia súc (chủ yếu gia súc nhai lại) ở nước ta”. Gia
súc mang trùng hoặc được chăn thả tự do hoặc bán thả, thường xuyên thải
trứng sán ra ngoài môi trường ; vật chủ trung gian là các loài ốc nước ngọt
thuộc họ Limnaea (L. swinhoiei và L. viridis), phân bố rộng rãi trong cả nước,
đặc biệt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, nơi có khí hậu nhi
ệt đới điển hình, sinh
thái thực vật thủy sinh trù phú; người dân với tập quán ăn sống các loại rau
thuỷ sinh như rau ngổ, rau cần, rau cải xoong, rau muống nước…, có nguy cơ
nhiễm sán rất cao tham gia vào vòng đời của sán một cách “tình cờ”. Những
yếu tố dịch tễ học này cảnh báo một tình huống lâu dài chung sống với sán lá
gan lớn. Hơn nữa, khác với mô tả bệnh kinh điển ở châu Âu (do F.hepatica),
chủ
ng SLGL gây bệnh ở nước ta là F.gigantica.
Từ 1997, các nghiên cứu về SLGL ở Việt Nam bắt đầu được trú trọng, tuy
nhiên thường giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực hoặc phạm vi hẹp; trong
khi đó diễn biến bệnh ngày càng phức tạp. Nhằm có nghiên cứu tổng thể, trên
phạm vi rộng để có phác đồ phòng chống bệnh chung cho ngành, Bộ Khoa
học Công nghệ và Bộ Y tế đã đặt hàng đề tài “Đặ
c điểm dịch tễ học và biện
pháp phòng chống bệnh sán lá gan lớn ở Việt Nam” với 2 mục tiêu chính:
1. Đánh giá hiện trạng về dịch tễ học của bệnh SLGL ở nước ta.
2. Xây dựng mô hình dự phòng và điều trị hiệu quả bệnh sán lá gan lớn.

3

1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm sinh học của sán lá gan lớn
Sán lá gan lớn (Fasciola) là kí sinh trùng lây truyền theo đường tiêu hoá.
1.1.1.
Phân loại sinh học
Theo Dunn (1978) và Soulsby (1982), sự phân loại của sán lá gan lớn
trong sinh giới như sau:
Ngành: Giun sán
Lớp: Giun dẹt
Dưới lớp: Lưỡng tính
Họ: Sán lá
Giống (chi): Fasciola
Loài: Fasciola hepatica Linnaeus, 1758 và
Fasciola gigantica Cobbold, 1885
1.1.2.
Đặc điểm hình thể
Trứng sán lá gan lớn
Hình thái: trứng SLGL có kích thước lớn nhất trong các loài sán lá, trứng
có màu vàng, hình elip đối xứng qua trục dọc, vỏ mỏng, có nắp ở một đầu
(hình 01-01).
Kích thước: trứng SLGL có kích thước trung bình (140-172,3 x 80 -
89,6) μm, dao động (130-150 x 60-90) μm có khi tới 152-198 x 72-94 μm
[Tomimura, Nishitani., 1976]. Trứng SLGL có phổ dao động kích thước rộng
là do chúng tồn tại dưới 2 thể: nhị bội (diploid form) và tam bội (triloid form).
Cấu tạo: trứng sán có từ 20-30 phôi bào; trong các giai đoạn phát triển
c
ủa trứng, lúc đầu các phôi bào phân bố đều, sau đó phôi bào tập trung dần
vào trung tâm và hình thành nguyên ấu trùng lông ở trong trứng.

4


Hình 01-01. Hình thể trứng sán lá gan lớn
Sức đề kháng: Trứng sán rất nhậy cảm với điều kiện khô hạn và tác động
trực tiếp của ánh sáng mặt trời. Ở trong phân khô, phôi ngừng phát triển,
trứng bị chết sau 8-9 ngày. Trong điều kiện khô hạn, trướng bị biến dạng, vỏ
trứng nhăn nheo, ấu trùng lông trong vỏ trứng bị chết sau 1-1,5 ngày. Ở môi
trường ẩm ướt, trứ
ng có khả năng sống khá lâu (trong phân hơi ẩm, trứng tồn
tại đến 8 tháng). Dưới ánh nắng trực tiếp, trứng chết nhanh. Phôi bị chết sau 2
ngày ở nhiệt độ thấp (-5 đến -15
o
C). Nhiệt độ 10 – 20
o
C, trứng ngừng phát
triển. Tại nhiệt độ 40 – 50
o
C, phôi chết sau vài phút [33], [34], [117].

Hình 01-02. Hình thể ấu trùng Miracidium sán lá gan lớn

5
Ấu trùng:
Ấu trùng lông (Miracidium): khi còn ở trong trứng, ấu trùng lông có
kích thước nhỏ (nhỏ hơn khi đã thoát vỏ), bọc trong một lớp màng, túi tinh
chưa hình thành, hình thái nhìn chung giống như khi đã chui ra ngoài.
Cấu tạo: ấu trùng lông có lớp lông ở xung quanh, nhờ vậy chúng có khả
năng bơi lội trong nước cho tới xâm nhập được vào ốc hoặc chết.
Ấu trùng lông gồm có túi tinh ở phía đầu, hai bên có tuyến đỉnh. Cơ quan
bài tiết được tạo thành từ m
ột đôi tế bào ngọn lửa và các ống dẫn. Tế bào hình

ngọn lửa hoạt động rất mạnh (trong trứng cũng như khi đã ra ngoài), soi kính
hiển vi dễ thấy. Mắt của ấu trùng lông nằm ở mặt lưng, cấu tạo theo kiểu dấu
nhân chéo nhau thành khối màu đen.
Nang ấu trùng (Sporocyst) là một dạng ấu trùng thứ hai của sán lá, nang
ấu trùng có dạng hình túi được bao bởi màng mỏng. Các cơ quan c
ủa ấu trùng
đuôi mất đi và xuất hiện các cơ quan mới. Ấu trùng lông có mắt, phát triển
thành nang ấu trùng thì mắt không còn, vẫn được phủ lông như ấu trùng lông,
các tuyến đỉnh, túi tinh cũng không thấy ở nang ấu trùng.

Hình 01-03. Hình nang ấu trùng sán lá gan lớn
Đặc điểm giống nhau giữa hai dạng ấu trùng này là cơ quan bài tiết được cấu
tạo bởi các tế bào ngọn lửa rất hoạt động. Nang ấu trùng hình thành ống ruột và
hầu, các bộ phận này còn nằm trong khối tế bào thân rất lớn, ngoài ra trong cơ

6
thể nang ấu trùng còn có một đám phôi khác nữa. Do hiện tượng đơn tính sinh,
về sau các đám phôi này sẽ phát triển thành rê-đi. Kích thước của nang ấu trùng
sau 6 ngày ấu trùng lông nhiễm vào ốc là: (0,250 - 0,291 x 0,156 - 0,177) mm;
trung bình 0,272 x 0,167 mm. Khoảng 3 – 7 ngày, nang ấu trùng sinh sản vô tính
cho ra nhiều rê-đi, một nang ấu trùng cho ra 5-15 rê-đi.
Rê-đi
(Rediae): Có hai hệ: rê-đi thế hệ 1 và rê-đi thế hệ 2 cùng phát triển
trong ốc. Rê-đi có dạng hình giun, ít hoạt động, đã xuất hiện một số nét của sán
trưởng thành: giác miệng, giác bụng, hầu, thực quản và ruột, ống ruột chạy dọc cơ
thể của ấu trùng, đuôi dài hơn thân giúp di chuyển được dễ dàng, rê-đi lớn hơn
hẳn nang ấu trùng, kích thước sau 7 ngày trung bình 0,494 x 0,134 mm; chiều dài
ống ruộ
t trung bình 0,338 mm, giác miệng trung bình 0,078 - 0,063 mm. Toàn bộ
cơ thể có màu vàng đậm, các đám phôi thấy rõ và lớn hơn.


Hình 01-04. Hình nang rediae sán lá gan lớn
Thời gian càng dài thì kích thước rê-đi càng lớn, sau 35 ngày kể từ khi
nhiễm ấu trùng lông, đạt kích thước trung bình: thân: 1,48 x 0,2 mm; ruột
0,68 x 0,121 mm, hầu: 0,077 x 0,063 mm.

7
Ấu trùng đuôi (Cercariae): là dạng ấu trùng sống tự do của sán lá gan
lớn, được phát triển từ rê-đi, cấu tạo gồm thân và đuôi. Ấu trùng đuôi còn non
phần thân dài hơn, khi già phần đuôi dài hơn.
Ấu trùng đuôi đã mang phần nào những đặc điểm cấu tạo của sán lá
trưởng thành cơ quan bám bám gồm giác miệng và giác bụng, ống tiêu hoá có
lỗ miệng, hầu gồm hai mảnh hình hạt đậu. ruột gồm nh
ững tế bào tròn xếp sát
nhau hình thành nên; hai bên thân có các tế bào hình trứng xếp thành hai
đường chạy từ cuối giác miệng đến núm đuôi; ngoài ra, trong cơ thể còn có
những hạt nhỏ sáng là nguồn cung cấp năng lượng cho hoạt động của ấu trùng
(hạt glycogen).

Hình 01-05. Hình nang cercariae sán lá gan lớn
Nang ấu trùng
(Metacercariae): được hình thành từ ấu trùng đuôi,
trong giai đoạn này ấu trùng không còn đuôi và tạo thành nang, hình cầu,
kích thước nang kể cả màng ngoài 0,208 - 0,291 mm; trung bình 0,244
mm. Kích thước nang đo theo màng trong là 0,177 - 0,250 mm; trung bình
0,203 mm.

8

Hình 01-06. Hình thể nang ấu trùng sán lá gan lớn

Khi phát triển đến giai đoạn nang ấu trùng, sức đề kháng của chúng tăng
lên rõ rệt. Nang ấu trùng có khả năng tồn tại ở nhiệt độ -4
o
C đến -6
o
C. Ở điều
kiện nhiệt độ bình thường, những nang ấu trùng có trong cỏ khô bị ẩm và
trong môi trường nước có thể tồn tại đến trên 5 tháng [34], [69].
Sán trưởng thành
Tất cả ký sinh trùng sán lá nói chung ở người đều có hình lá và dẹt, kích
thước dao động từ 1- 30 mm (riêng Fasciolopsis có kích thước đến 75 mm).
SLGL trưởng thành hình chiếc lá, thân dẹt và bờ mỏng, kích thước 20-30 x
10-12 mm, màu trắng hồng hoặc xám đỏ, giác miệng (oral sucker) nhỏ, kích
thước 1 mm, giác bụng (ventral suckers) to hơn, kích thước 1,6 mm. C
ơ thể
sán được bao phủ bởi một lớp cutile mỏng và có nhiều chóp nhỏ.
Chúng thường “bám dính” với nhiều cơ quan khác của vật chủ thông qua
các giác hút (một giác hút ở phía trước gọi là giác miệng và một cái còn lại ở
giữa gọi là giác bụng). Miệng thường nằm ngay ở giác miệng và nối với manh
tràng, chia hai nhánh và mỗi nhánh mở rộng về một phía của cơ thể. Đặc điểm
chính của sán lá gan lớ
n là sự có mặt của các tế bào hình ngọn lửa trong hệ
bài tiết của sán. Sán lưỡng tính, bộ phận sinh dục có lỗ nằm gần giác bụng.

9

Hình 01-07. Hình thể sán lá gan lớn trưởng thành
Cơ quan sinh dục đực bao gồm 1 hay nhiều tinh hoàn kết nối với một ống
đơn thuần hoặc một ống dẫn tinh lớn, nhờ vào một ống ngắn hoặc ống dẫn
tinh. Ống dẫn tinh sẽ kết thúc bằng một cơ quan sinh dục đực. Cơ quan sinh

dục cái bao gồm một buồng trứng duy nhất kết nối với ống dẫn tr
ứng. Ống
dẫn trứng nối với vài ống hoặc ống noãn hoàng. Ống dẫn trứng nối tiếp với
ootype rồi được bao quanh bởi một khối tuyến ngoại tiết (tuyến Mehlis). Tử
cung nằm ở cuối của ootype. Sự tự thụ tinh hiếm khi xảy ra trong các loài sán
lá. Cũng như nhiều loài sán lá khác, sán lá gan lớn lưỡng tính, có thể thụ tinh
chéo hoặc tự thụ tinh, trong cơ thể sán có cả cơ quan sinh d
ục đực và cái. Hệ
thống sinh dục rất phát triển, tử cung sán chứa đầy trứng. Sán có giác bụng và
giác miệng, giác miệng đóng kín và không nối với cơ quan tiêu hóa. Sán
không có hệ thống tuần hoàn, hô hấp và cơ quan thị giác, hệ bài tiết ở cuối
thân [10], [33].
SLGL có cả những loại sinh tinh bất thường (abnormal spermatogenic type
(AST) bao gồm nhiễm sắc thể nhị bội (diploid form), tam bội (triloid form ) và
đa bội mà không thụ tinh và loại sinh tinh bình thường (normal spermatogenic
type (NST) của Fasciola spp
được tìm thấy ở một số quốc gia châu Á như Trung
Quốc, Đài Loan, Ấn Độ, Nepal, Philippines, Thái Lan và Việt Nam. AST xảy ra

10
đặc biệt ở Nhật Bản và Hàn Quốc. Tại vùng Đông Nam Á, loài sán có loại AST
cùng khu vực phân bố với NST F.hepatica và NST F.gigantica. Tương tự, tại
châu Phi, chủ yếu gặp chủng F.gigantica. Ngược lại, ở châu Âu, Nam và Bắc
Mỹ, châu Đại Dương là các địa danh phân bố chủ yếu của F.hepatica
[12][75][117].
1.1.3.
Vòng đời
Vòng đời sinh học của SLGL đã được Leukart (1882) ở Đức và Thomas
(1882) ở Anh đồng thời nghiên cứu vào năm 1882. Qua nhiều năm, vòng đời
của sán lá gan lớn đã được làm sáng tỏ, có thể tóm tắt như sau.




Hình 01-08. Vòng đời của sán lá gan lớn
1. Trứng từ đường mật được đào thải ra ngoài theo phân.

11
2. Trứng rơi xuống môi trường nước.
3. Ấu trùng lông nở ra từ trứng.
4. Ốc trung gian truyền bệnh và ấu trùng sán phát triển trong ốc.
5. Ấu trùng đuôi rời khỏi ốc bơi trong nước.
6. Nang ấu trùng bám trong thực vật thuỷ sinh.
7-8. Động vật ăn cỏ hoặc người ăn ấu trùng sán có nhiễm trong thực vật
thuỷ sinh hoặc nước uống, ấu trùng vào dạ dày, xuyên qua thành ống tiêu hóa
và ổ bụng rồ
i xuyên lên gan ký sinh trong đường mật.
Sán trưởng thành sống trong hệ đường mật và từ ống mật trứng theo
đường mật xuống ruột và ra ngoài theo phân. Trứng xuống nước, ở nhiệt độ
thích hợp 25-30
o
C, nở thành ấu trùng lông, sau 14-16 ngày, ấu trùng này thâm
nhập và ký sinh ở vật chủ phụ 1 là ốc thuộc giống lymnaea; trong ốc, ấu trùng
phát triển qua giai đoạn nang bào tử, hai giai đoạn rê-đi, phát triển và sản sinh
ra một số lượng lớn ấu trùng đuôi bơi lội tự do và các ấu trùng đuôi này bám
vào cây thủy sinh như rau muống, rau cần, cải soong và tạo thành nang ấu
trùng (metacercaria).
Nếu trâu, bò, cừu là những vật chủ chính ăn phải nh
ững thực vật nói trên
hay uống nước chứa nang ấu trùng thì sẽ mắc bệnh. Người chỉ là vật chủ tình
cờ và chỉ bị nhiễm khi ăn phải những loài rau đó dưới dạng ăn sống hay nấu

không chín. khi vào đến dạ dày, dịch vị làm tan rã vỏ và ấu trùng được giải
phóng, nhiều nhất là ở tá tràng, sau 1 giờ ấu trùng thoát nang và xuyên qua
thành ruột, sau 2 giờ xuất hiện trong ổ bụng, qua màng glisson vào gan, đến
gan vào ngày thứ
6 sau khi thoát nang, sau đó chúng di chuyển đến ký sinh
trong đường mật. Trong cơ thể vật chủ chính, sán lá gan lớn đạt đến giai đoạn
trưởng thành phát dục từ 79 - 88 ngày. Thời gian từ khi nhiễm đến khi xuất
hiện trứng trong phân tùy thuộc vật chủ, ở cừu và trâu bò là 2 tháng (6 - 13

12
tuần), ở người là 3 - 4 tháng. Nếu sán trưởng thành sống trong hệ đường
mật, khi đẻ trứng sẽ từ ống mật trứng theo đường mật xuống ruột và ra
ngoài theo phân. Trứng xuống nước, ở nhiệt độ thích hợp 25-30
o
C, trứng
phát triển thành ấu trùng lông, sau 14-16 ngày, ấu trùng này thâm nhập
và ký sinh ở vật chủ phụ 1 là ốc thuộc giống lymnaea [ 34]. Trong ốc, ấu
trùng phát triển qua giai đoạn nang bào tử, hai giai đoạn rê-đi, phát triển
và sản sinh ra một số lượng lớn ấu trùng đuôi bơi lội tự do và các ấu trùng
đuôi này bám vào cây thủy sinh như rau muống, rau cần, cải soong tạo
thành nang ấu trùng [69], [74].
Giống như ở động vật, trong trường h
ợp ngừời không phải là vật chủ
thích hợp thì phần lớn sán cư trú trong nhu mô gan và chết, không vào đường
mật (Acosta Ferreira et al., 1979). Ngoài những trường hợp lây nhiễm thông
thường, một số trường hợp khác là do ăn gan sống của gia súc (Yoshida và cs,
1962; Cho và cs, 1976) và đã có hai thí nghiệm xác nhận giả thiết này. Các
nhà khoa học chứng minh sự lây nhiễm này bằng cách cho khỉ ăn loại gan đã
bị nhiễm sán SLGL trong 10-12 ngày tuổi (Tomimura và cs, 1975) hoặc cho
lợn sữa ăn chuột nhi

ễm SLGL trong 4-5 ngày tuổi (Taiva và s, 1997). Đồng
thời nhằm xác định tuổi của sán lá gan lớn ở thời gian nào có thể lây nhiễm
qua đường miệng. Nghiên cứu đã được tiến hành gây nhiễm thực nghiệm đối
với chuột nhắt bằng SLGL chưa trưởng thành tuổi 12, 14, 16 và 18 ngày và đã
tiến hành kiểm tra sự lây nhiễm sau 12-16 ngày. Thí nghiệm thật sự cho thấy
sự lây nhiễm giảm xuống, tỷ lệ nghịch với tuổi c
ủa sán chưa trưởng thành.
Qua mỗi lần lây nhiễm, những con sán lây qua đường miệng tiếp tục phát
triển. Như vậy, tuổi của sán là một nhân tố quan trọng trong việc xác định khả
năng lây nhiễm của SLGL đang phát triển.
Một nghiên cứu gần đây cho thấy, gan sống của cừu và gia súc có thể
là một nguồn lây bệnh SLGL F.hepatica cho người. Người ăn gan của động

13
vật nhiễm SLGL chưa trưởng thành. Sán (được ăn sống) di chuyển vào gan
có thể sau 4 ngày hoặc dài hơn vì khoảng cách từ ruột đến gan khá xa
(chưa kể trường hợp lạc chỗ).
Theo Phan Địch Lân (2004), ngành ký sinh trùng thú y nước ta đã
nghiên cứu hoàn tất vòng đời của sán lá gan lớn tại Việt Nam. Trong điều
kiện nhiệt độ thích hợp (28 - 30
o
C), có ốc vật chủ trung gian (Lymaea
swimnhoei và Lymnaea viridis), có vật chủ cuối cùng (trâu, bò, dê, cừu),
vòng đời của sán lá gan ở nước ta được xác định với các mức thời gian sau:
- Ở ngoài thiên nhiên: trứng sán lá gan nở thành ấu trùng lông trong
khoảng 10 ngày;
- Ở trong ốc, vật chủ trung gian:
• Ấu trùng lông phát triển thành nang ấu trùng cần 7 ngày,
• Nang ấu trùng phát triển thành rê-đi cần 8 - 21 ngày,
• Rê-đi phát triển thành ấu trùng đuôi non cần 7 - 14 ngày, phát triển

thành ấu trùng đuôi trưởng thành cần 13 – 14 ngày,

Ở ốc, vật chủ trung gian: ấu trùng đuôi phát triển thành nang ấu trùng
sau 2 giờ,
• Ở trâu, bò, bê, nghé ăn phải nang ấu trùng, sau 79 – 88 ngày trong ống
dẫn mật của trâu bò đã có sán lá gan trưởng thành, đẻ trứng theo phân ra ngoài.
Điều kiện nhiệt độ và độ ẩm của nước ta rất thuận lợi cho sự nhiễm và
gây bệnh của sán lá gan lớn (kể cả gây nhiễm và nhiễm tự nhiên). Ở những
vùng có mầm bệnh tồn t
ại, cứ trung bình 3 tháng, sán lá gan lớn lại hoàn
thành vòng đời trong cơ thể trâu bò, nghĩa là lại tạo ra một đời sán mới
trong cơ thể. Con vật khi đã có sán lá gan ký sinh có thể tiếp tục nhiễm
mầm bệnh mới, dẫn đến tình trạng số lượng sán trong cơ thể tăng dần theo
tuổi trâu, bò [60].

14
1.1.4. Hiện tượng lạc vị trí ký sinh của sán lá gan lớn (Ectopic foci of
Fascioliosis).
Các loại ký sinh trùng thường chỉ sống và phát triển ở các vị trí nhất định
trong vật chủ hoặc ký sinh ở những loại vật chủ thích hợp. Tuy vậy, trên thực
tế có những trường hợp ngoại lệ, ký sinh trùng có thể ký sinh trái quy luật, nó
có thể ký sinh lạc chỗ hoặc lạc vật chủ.
Ký sinh trùng lạc chủ là những ký sinh trùng bình thường ký sinh ở một loài
vật chủ nhất định nhưng do một lý do nào đ
ó KST chuyển sang ký sinh ở vật chủ
mới. Sán lá gan lớn có vật chủ chính chủ yếu ký sinh ở trâu bò và người.
Ký sinh trùng lạc vị trí là những ký sinh trùng ký sinh lạc sang cơ quan,
phủ tạng khác với cơ quan, phủ tạng mà nó thường ký sinh. Bình thường sán
lá gan lớn ký sinh trong gan của vật chủ, nhiều trường hợp vì một lí do nào đó
đã ký sinh ở nhiều vị trí khác nhau trong cơ thể như mắt, cơ, khớp Đây là

nhũng trường hợ
p cá biệt và gây nhiều khó khăn trong chẩn đoán bệnh.
Khác với các bệnh ký sinh trùng khác, bệnh do sán lá gan lớn gây nên
không ở thể mạn tính mà có thể được coi là cấp tính. Thể cấp tính thường xảy
ra đối với các trường hợp ấu trùng cư trú trong hoặc đang di trú qua các mô,
bệnh chuyển thể mạn tính khi sán đã xâm nhập vào gan và hoàn thành chu kỳ
phát triển trong cơ thể người. Trong quá trình hoàn thành vòng đời, sán tiền
trưởng thành có thể di hành trong cơ thể, đến cư
trú ở các cơ quan khác. Trên
người thường gặp nhất là tình trạng sán lá gan lạc vị trí ký sinh ở đường tiêu
hóa (Acosta-Ferreira, 1979; Park và cs., 1984;). Một số nơi khác mà SLGL lạc
vị trí ký sinh như: cư trú dưới da (Ozkan và Genc., 1979; Vajrasthira và
Sunthorsiri., 1979; Aguirre và cs., 1981; Park và cs., 1984; Garcia-Rodriguez
và cs., 1985; Chang và cs., 1991; Prociv và cs., 1992; T.T.Hien và cs); lạc vị trí
ký sinh ở tim, phổi, màng phổi và mạch máu (Moretti và cs., 1971; Cauraud và
cs., 1975; Park và cs., 1984; Garcia Rodriguez và cs., 1985; Arias và cs., 1986);

15
lạc vị trí ký sinh ở ổ mắt (Garcia-Rodriguez và cs., 1985; Arias và cs., 1986;
Cho và cs., 1994) hoặc ở thành bụng, có thể vùng phân khu nào hoặc nhiều
nhất là ở vùng dưới rốn (Sato và cs., 1975; Totev và Geogiev., 1979) hoặc ở
ruột thừa (Park và cs.,1984); ở tụy (Chitchang và cs., 1982) hoặc ở lách (Chen
và Mott., 1990); hoặc ở hạch bẹn (Arjona và cs., 1995) ở hạch cổ (Prociv và
cs., 1992) hoặc ở cơ xương (Park và cs., 1984); lạc vị trí ký sinh ở mào tinh
hoàn (Aguirre và cs., 1981) [31], [50], [70], [90], [93], [95], [103], [139],
[165], [167]. Sán lạc vị trí ký sinh hiếm khi ở dạng trưởng thành do điều ki
ện
tại đó không phù hợp cho chúng phát triển.
1.2. Đặc điểm dịch tễ học của sán lá gan lớn
1.2.1. Lịch sử nghiên cứu và phân bố sán lá gan lớn trên thế giới

Ở châu Âu người ta đã xác định được ký sinh trùng này gây bệnh ở người
(bệnh sán lá gan lớn - Fasciolosis) xuất hiện cách đây 5000 – 5100 năm (Bouchet,
1997; Aspock và CTV, 1999; Dittmar và Teegen, 2003). Điều đặc biệt và lý thú là
người ta đã phát hiện ra sán lá gan lớn ở trong các xác ướp Ai Cập từ thời các
Pharaon. Mãi sau một thời gian dài (1379) có một người Pháp tên là Jehan de Brie
quan tâm đến vấn đề này đã phát hiện sán lá gan lớn lần đầu tiên không phải trên
người mà là trên cừu. Kể từ đó người ta công nhận cừ
u là nguồn bệnh mang sán lá
gan lớn và vấn đề này đã được đăng tải trong tạp chí Le Bon Berger hay The Good
Schepherd [34]. Phát hiện của Jehan de Brie có thể được coi là dấu mốc khởi đầu
của sự phát triển chuyên ngành KST. Bệnh trong thời đó được gọi tên là sán lá gan
cừu (sheep liver fluke), tên gọi này được sử dụng suốt vài thế kỷ cho đến năm 1758
Lymnaea đặt tên theo tiếng La-tinh là Fasciola hepatica. Đến những năm cuối thể
kỷ 19, chu kỳ và vai trò của gây b
ệnh của Fasciola được làm sáng tỏ. Kể từ đó,
bệnh sán lá gan lớn trở thành một bệnh giun sán nghiêm trọng và giữ vị trí quan
trọng trong lĩnh vực y tế cộng đồng [126], [127].

16
Bệnh sán lá gan lớn (SLGL) là bệnh phổ biến trên toàn thế giới, ở khắp
các châu lục: châu Âu, Nam Mỹ, Trung Mỹ, châu Phi, châu Á và châu Đại
dương. Người mắc bệnh thường do ăn phải các rau thủy sinh có chứa nang ấu
trùng trong nước. Vì vậy bệnh có liên quan chặt chẽ đến phong tục, tập quán có
thói quen ăn những loại rau sống dưới nước. Ngoài rau thủy sinh cũng có một số
loài rau được tưới có chứa ấu trùng trong nước cũng là ngu
ồn lây bệnh [83],
[120], [130], [131].
Theo thống kê trên thế giới hiện nay cho thấy bệnh sán lá gan lớn đã được
phát hiện khoảng 65 nước, gần 180 triệu dân số nằm trong vùng nguy cơ và khoảng
17 triệu người (theo Hopkins et al., 1992). Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã nhấn

mạnh vấn đề y tế nghiêm trọng không phải dừng lại ở một vài quốc gia, mà liên đới
đến vùng, liên vùng kể cả các quốc gia phát triển như M
ỹ, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây
Ban nha, Bồ Đào Nha, Hàn Quốc,…thông qua các điều tra mang tính toàn cầu
[125], [114], [166].
Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở các vùng mà người ta nuôi cừu và gia súc là
nguồn cung cấp thực phẩm chính, nơi mà người dân có tập quán ăn sống các loài
rau thủy sinh. Nhiều vùng như Bồ Đào Nha, Nile delta, bắc Iran, Trung Quốc và
cao nguyên Andean của Ecuador, Bolivia, Peru tỷ lệ nhiễm rất cao đến nỗi người ta
xem đó là vấn đề sức khỏe y t
ế công cộng phải đưa vào danh sách được quan tâm
khẩn cấp.
Sự bùng phát bệnh sán lá gan lớn đã được báo cáo ở Anh, Pháp, Tây Ban
Nha, Bolivia, Peru, Brazin, CuBa, Chi Lê và Urugoay, kể từ đó, những bệnh nhân
đầu tiên được phát hiện tại Venezuela năm 1910 (Renzo Nino Incani), Ai Cập năm
1928, Iran năm 1955. Số ca bệnh được phát hiện ngày càng tăng theo thời gian và
dân số, đặc biệt năm 1998 dịch bệnh bùng phát tại nhiều nước trên thế giới như ở
tỉnh Gilan của Iran.
Đứng trước tình hình đó, Tổ chức Y tế thế giới đã coi bệnh này
là một vấn đề cần được quan tâm trong chương trình sức khỏe cộng đồng. Ngày nay
bệnh sán lá gan lớn được nhiều quốc gia cho vào một vị trí quan trọng trong chiến
lược và chính sách y tế của cộng đồng [85], [145], [150].

17
Mas-Coma S, Chen và Mott đã nêu lên tầm quan trọng của bệnh sán lá gan
lớn ở người đối với sức khỏe cộng đồng và ghi nhận được 2.594 bệnh nhân ở 42
nước trên thế giới từ 1970 -1990. Cho đến năm 1993, ước tính có khoảng trên
300.000 bệnh nhân lâm sàng mắc bệnh SLGL tại hơn 40 nước châu Âu, châu Mỹ,
châu Phi, châu Á và vùng Thái Bình Dương, chủ yếu ở các vùng chăn thả gia súc,
nhiều nhất ở Pháp, Anh, Úc, Ai Cập, Pakistan, Iran, Ả-rập-xê-út, Nam và Bắc M

ỹ,
Đông Nam châu Á như Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Lào, Cambodia, Hàn Quốc,
Nhật Bản, Trung Quốc, Indonesia và Việt Nam [80], [98], [99], [166].
Hàng nghìn người được phát hiện bệnh, trong đó có Pháp, Thỗ Nhĩ Kỳ, Tây
Ban Nha và Liên Xô cũ. Một vài quốc gia, số người mắc bệnh này lên đến hàng
nghìn như Pháp, Ý (Gaillet et al., 1983), có một vùng lưu hành ở Pháp với hơn 3.297
bệnh nhân (1950-1983), phía Bắc Thỗ Nhĩ Kỳ có 1.011 bệnh nhân đã được chẩn đoán
(từ 1970-1992). Tại Tây Ban Nha, bệnh sán lá gan lớn phân bố ch
ủ yếu miền Bắc và
tại Liên Xô cũ, vùng biên giới Afganistan có cường độ nhiễm từ 1-14 sán được điều
tra trên 81 cư dân (từ 1968 - 1984) [166].
Bệnh SLGL xuất hiện khắp các châu lục, trong đó vùng dịch tễ cao là Nam
Mỹ. Ở Bắc Mỹ (Mỹ, Canada) có 53 bệnh nhân SLGL được thông báo năm 1981.
Tại Trung Mỹ, bệnh SLGL lớn lưu hành ở đảo Caribe, đặc biệt ở vùng Perto Rico.
Bệnh SLGL cũng được thông báo lưu hành ở Cu-Ba, nă
m 1983 có trên 1.000 bệnh
nhân bị nhiễm bệnh. Tại Guatemala, người ta thông báo có 16 bệnh nhân và ở Cộng
hòa Dominican và Ensanvado có 100 bệnh nhân. Bệnh SLGL nghiêm trọng ở
Bolivia, Peru, Ecuador. Tại Bolivia bệnh SLGL ở người lưu hành ở phía Bắc với tỷ
lệ 7-10% bằng xét nghiệm phân và phản ứng huyết thanh. Tại đây 2,5 triệu người
nằm trong vùng có nguy cơ nhiễm bệnh. Tại Peru, Ecuador bệnh SLGL phân bố
khắp cả nước với mức độ lưu hành vừ
a và nặng với 8 triệu người có nguy cơ bị
nhiễm. Ở nhiều vùng ngoại ô Chi Lê tỷ lệ nhiễm SLG lớn lên đến 75%. Tại các
nước như Uruquay, Brazil, Colombia, Venezuela bệnh nhân SLGL được thông báo

18
lẻ tẻ dưới 100 trường hợp. Năm 1928 có hai ca và năm 1958 có 11 ca bệnh SLGL ở
người được chẩn đoán ở Ai Cập (Kuntz và cs.,1958; Farag và cs., 1998).
Một số bệnh nhân được thông báo ở các nước châu Phi, loài sán ở vùng này

là F.hepatica và F.gigantica. Song F.hepatica xuất hiện nhiều hơn ở các nước phía
bắc như Morroco, Algerie và Tunisie cũng như nam Zimbawe và Nam Phi, tương tự
ở Kenya và Ethiopia. F.gigantica phân bố nhiều hơn ở các vùng thuộc châu thổ
sông Nil đến tỉ
nh Cape của Nam Phi. Tại Ai Cập, đến nay, bệnh SLGL đã có mặt
khắp địa bàn của châu thổ sông Nile, vài vùng phía trên của Ai Cập, thành phố
Alexandria và trên sa mạc có cả hai loài Fasciolae, tỷ lệ lưu hành bệnh ở nông thôn
là 2 - 17%. Quần thể nguy cơ nhiễm SLGL ở Ai Cập khoảng 27 triệu người. Theo
số liệu ước tính trên toàn quần thể thì tỷ lệ mắc SLGL là 3%, tức là khoảng 830.000
người (WHO, 1995). Tại bờ biển Ivory, Madagasca, Mali và Mozambique có dưới
100 ca bệ
nh được thông báo và ở Ethiopia có từ 100 đến 1000 ca bệnh[101].
Năm 1856 các nhà khoa học đã phát hiện F.gigantica ở Nhật Bản với khoảng
40 trường hợp nhiễm bệnh. Ở động vật, tỷ lệ nhiễm rất cao nhưng số trường hợp
nhiễm SLGL ở người rất ít. Ví dụ chỉ 2 trường hợp nhiễm SLGL ở người tại Trung
Quốc cho tới năm 1956 và ở Thái Lan không có trường hợp nhiễ
m SLGL ở người
nào được thông báo cho đến năm 1970. Tại Iran có trên 10.000 người bị nhiễm
bệnh SLGL và có khoảng 6 triệu người có nguy cơ nhiễm bệnh, tỷ lệ nhiễm cao vào
thời điểm từ tháng 2 đến tháng 6 hàng năm. Bệnh cũng có ở Hàn Quốc. Tỷ lệ mắc
cao nhất ở những vùng chăn nuôi cừu, gia súc và xử lí các thực vật thủy sinh một
cách thô sơ. Cả hai loài SLGL trên đều gây bệnh cho người và cũ
ng phân bố ở
Trung Quốc và Việt Nam, Đài Loan, Lào, Philippin. Trong 2 loài SLGL, Fasciola
hepatica lưu hành ở Triều Tiên, tây Iran và một số vùng ở Nhật Bản, với vật chủ
trung gian là ốc Lymnaea trumcatula hoặc Lymnaea virdis, Fasciola gigantica lưu
hành ở Thái Lan, Malaysia, Singapor và Indonesia, với vật chủ trung gian là ốc
L.rubiginosa. Ngoài hai loài sán lá gan lớn nêu trên, có tác giả thông báo còn có loại
F.jacksoni trong voi gặp ở Ấn Độ [148].


19
Năm 1993, ít nhất 40 triệu người chủ yếu ở Đông Nam Á được thông báo là
nhiễm SLG, trong đó phải kể đến loài sán lá gan quan trọng là SLG lớn (Fasciola
gigantica hoặc Fasciola hepatica) và sán lá gan nhỏ (Chlonorchis sinensis,
Opisthochis viverini hoặc Opithorchis felineus).
Như vậy, tình hình bệnh SLGL trên thế giới chúng tôi có thể khái quát một số
vấn đề chính sau:
- Bệnh SLGL rất phổ biến ở động vật ăn cỏ: trâu, bò, dê, cừu, lạc đà…
- Các động vật
ăn cỏ là nguồn reo rắc mầm bệnh SLGL ra môi trường.
- Vật chủ trung gian là giống ốc Lymnaea, vật chủ trung gian này phân bố
khắp nơi trên thế giới
- Thực vật thuỷ sinh là nơi ấu trùng SLGL từ ốc bám vào tạo nang ấu
trùng, người hoặc động vật ăn cỏ sẽ bị nhiễm SLGL khi ăn thực vật thuỷ sinh
có chứa nang ấu trùng. Vì thế bệnh thường gia tăng ở những nơi có phong tục
tập quán ăn sống các loại rau thuỷ
sinh.
- Mọi đối tượng đều có thể bị nhiễm SLGL, không phân biệt chủng tộc,
màu da, tuổi tác.
- Bệnh phân bố ở khắp nơi trên thế giới, không phụ thuộc vào trình độ
phát triển của các nước, dù ở nước phát triển hay nước đang phát triển.
1.2.2.
Lịch sử nghiên cứu và phân bố sán lá gan lớn tại Việt Nam
Hơn 100 năm qua, hầu như bệnh ít được nói đến, trong thực tế Fasciola
hepatica gặp trên các loài động vật ăn cỏ ở Cao Bằng (Raillet và Gomy), rồi
sau đó tác giả Nguyễn Thị Lê và cộng sự cũng lần lượt gặp ở Hà Nội.
Codvelle và cộng sự thông báo đã phát hiện được Fasciola sp. đầu tiên ở Việt
Nam vào năm 1928, kể từ năm 1978, Đỗ Dương Th¸i và Trịnh Văn Thịnh
thông báo gặp đượ
c 2 trường hợp ở người trong đó một trường hợp abces

chân và một trường hợp nhiễm 700 sán trong gan và gây tử vong. Trước kia,

20
bệnh do sán lá Fasciola trên người ít được nói đến ở Việt Nam, chỉ lẻ tẻ một
vài trường hợp được báo cáo, bệnh SLGL ở Việt Nam tưởng chừng hiếm gặp
[33], [47], [48].
Trong mười năm trở lại đây, bệnh có chiều hướng gia tăng nhanh. Theo
Giáo sư Trần Vinh Hiển, bệnh viện nhiệt đới thành phố Hồ Chí Minh, thông
báo có 125 trường hợp bị nhiễm SLGL, trong đó bệnh nhân tập trung chủ yếu

các tỉnh miền Trung, Khánh Hòa với 40 bệnh nhân, Bình Định 31,Quảng
Ngãi 21. Tiếp sau đó, đến năm 2001, tác giả này thông báo có 500 trường hợp
nhiễm SLGL ở khu vực miền nam bằng phản ứng miễn dịch, trong đó chỉ có
14/ 285 bệnh nhân tìm thấy trứng sán trong phân. Trong số 393 bệnh nhân
được biết rõ địa chỉ gồm 12 tỉnh: Khánh Hòa, Bình Định, Quảng Ngãi, Phú
Yên, Đà Nẵng, Lâm Đồng, Đắc Lắc, Gia Lai, Bến Tre, Đồng Nai, Tây Ninh,
Bà Rịa - Vũng Tàu, Thành Phố Hồ
Chí Minh [18], [46].
Đến tháng 4/ 2005, Việt Nam đã phát hiện bệnh nhân sán lá gan lớn ở 30
tỉnh, thành phố [16], [18], [46].
Năm 2002, qua một cuộc điều tra trong cộng đồng tại tỉnh Khánh Hòa của
Viện sốt rét - KST - CT Trung ương và Viện sốt rét- KST - CT Quy Nhơn, tỷ
lệ nhiễm SLGL bằng kỹ thuật ELISA là 11,1% trong đó có 6,3% tìm thấy
trứng sán trong phân. từ năm 2002 - 2004, Viện sốt rét - KST - CT Trung
ương, đã phát hiện bệnh nhân tại 17 tỉnh như: Bắc Giang, Bắc Ninh, Phú Thọ
,
Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hà Tây, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh,
Nam Định, Hà Nam, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Quảng
Trị. Ở trâu bò F.gigantica đã được xác định ở nhiều nơi như Cao Bằng, Hà
Nội, Huế, Nha Trang [3], [46].


21

Hình 01-09. Bản đồ phân bố sán lá gan lớn ở Việt Nam

22
Số liệu khảo sát của Viện sốt rét - KST - CT Trung ương vào tháng
8/2004, toàn quốc có 27/64 tỉnh, thành có người bị nhiễm sán lá gan. Theo
khảo sát của Viện Sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng Trung ương , tính đến
tháng 8/2006, toàn quốc đã có 45 tỉnh, thành bị nhiễm sán lá gan với tổng số
trên 3.000 người bị nhiễm (trong đó có 15 tỉnh chỉ có 1-2 ca bệnh), chỉ trong 8
tháng đầu năm 2006, đã có 1.465 bệnh nhân của 45/64 tỉnh, thành bị nhiễm
sán lá gan. Đặc biệt, những tỉnh có người nhi
ễm cao là: Bến Tre, TP. HCM,
Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh, Đồng Nai. Qua công tác khám, điều trị cho
thấy những năm gần đây số bệnh nhân bị nhiễm bệnh liên tục tăng nhanh, như
trong năm 2003 có 7 bệnh nhân đến Viện để khám, điều trị; năm 2005 có 55
người và đến nay có trên 200 bệnh nhân đang được điều trị tại Viện [46].
Tính đến thời điểm cuối tháng 09/2006, toàn quốc có đến 47 tỉnh thành có
người mắc bệnh SLGL, gồm có: Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang,
Sơn La, Hòa Bình, Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc,
Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh,
Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên, Gia Lai, Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng, Đồng Nai, Tây Ninh,
thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bến Tre, Vĩnh Long, Hậu Giang,
Đak- Lak, Đak - Nông, Gia - Lai, Kon - Tum. Trong đó, đáng quan tâm đến
thực trạng nhiễm SLGL t
ại khu vực miền Trung - Tây Nguyên, nhiều nhất là
các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Gia - Lai. Riêng từ

tháng 6,7,8,9 năm 2006 tình hình lại có xu hướng số mắc bệnh ở một số điểm
mà trước nay chưa thông báo như Bố Trạch (Quảng Bình), Vạn Ninh (Khánh
Hòa), Krông Puk, Krông Bông (Đăk Lăk), huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi),
quận Ngũ Hành Sơn, quận Liên Chiểu (thành phố Đà Nẵng) đến khám và điều
trị tại Việ
n sốt rét- KST - CT Quy Nhơn ngày một tăng [5], [46].

23
Đến tháng 3 năm 2008 theo thống kê của Viện sốt rét - KST - CT Trung
ương, có trên 5000 ca bệnh sán lá gan lớn phân bố tại 47 tỉnh thành từ Bắc
đến Nam. Nơi có nhiều bệnh nhân SLGL là nơi có tập quán ăn rau thuỷ sinh
sống như rau ngổ, rau cải xoong, rau đắng, uống nước lã… phổ biến ở các
tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bình Định, Hà Tây cũ, Hà Tĩnh, Nghệ An.
Kết quả này dựa trên cơ sở các báo cáo thống kê hàng tháng của các địa
phương trong thờ
i gian 5 năm gần đây. Điều đó cho thấy tình hình nhiễm
SLGL ở người Việt Nam là rất đáng quan tâm. Tuy nhiên, theo quan điểm của
chúng tôi đó chỉ là số bệnh nhân SLGL được thống kê từ các bệnh viện,
không phải là kết quả điều tra, nghiên cứu thực tế. Cho đến nay chưa có một
cơ quan nào tiến hành nghiên cứu, điều tra chính thức đầy đủ về tỷ lệ nhiếm
SLGL ở người và gia súc của nước ta [46].
Vấn đề nhiễm sán lá gan lớn trên trâu, bò ở nước ta: theo Houmeder
(1938) đã điều tra cho kết quả trâu, bò, dê, cừu, thỏ ở miền Bắc Việt Nam đều
nhiễm sán lá gan lớn theo thứ tự lần lượt là: 64,7%; 23,5%; 37%; 52,94%;
14,28%.
Trịnh Văn Thịnh (1978) cho biết, trâu trưởng thành mắc bệnh sán lá gan
lớn do F.gigantica, tỷ lệ nhiễm từ 50% - 70%. Theo Phan Địch Lân (1980),
mổ khám 1043 trâu, bò ở Thái Nguyên, số trâu nhiễm sán lá gan là 57%,
trong đó có nhi
ều gan phải hủy bỏ do số lượng sán quá nhiều. Kết quả điều tra

ở huyện Bình Lục, Nam hà, tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu là 51,2 – 57,5%.
Đoàn Văn Phúc (1980) đã kiểm tra 64 bò tại trại sữa Hà Nội, thấy tỷ lệ
nhiễm sán lá gan lớn là 73,43%; Đoàn Văn Phúc, Vương Đức Chất, Dương
Thanh Hà (1995) cho biết, trâu bò thuộc khu vực Hà Nội nhiễm sán lá gan lớn
tỷ lệ 53,41%.
Tỷ lệ và cường độ
nhiễm sán lá gan lớn ở gia súc nhai lại phụ thuộc vào

24
những yếu tố sau:
- Yếu tố thời tiết, khí hậu và mùa vụ: thời tiết, khí hậu của một vùng, một
khu vực có liên quan trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của ốc – vật chủ
trung gian của sán lá gan lớn. Điều kiện ẩm ướt, mưa nhiều, tạo ra môi trường
nước, giúp ốc nước ngọt Lymnaea sống và sinh sản thuận lợi.
Trịnh Vă
n Thịnh và cs (1978), Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999), đều
cho rằng, gia súc nhai lại nhiễm sán lá gan thường tăng lên vào mùa vật chủ
trung gian phát triển. Những năm mưa nhiều, tỷ lệ nhiễm sán lá gan tăng lên
so với những năm nắng ráo khô hạn. Mùa vụ gắn liền với sự thay đổi thời tiết
khí hậu. Mùa hè thu, số gia súc bị nhiễm sán lá gan lớn tăng cao hơn các mùa
khác trong năm. Cuối mùa đông bệnh sán lá gan lớn thường bắt đầ
u phát triển
[60].
- Yếu tố địa hình: vùng và địa hình là hai khái niệm khác nhau, song có
liên quan chặt chẽ với nhau. Các vùng khác nhau có địa hình không giống
nhau. Địa hình là yếu tố quan trọng quyết đinh sự khác nhau giữa các vùng.
Các vùng khác nhau trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đều
thuộc 4 loại địa hình: ven biển, đồng bằng, trung du và miền núi.
Hầu hết các nhà ký sinh trùng học đều thống nhất cho rằng, gia súc nhai
lại ở vùng đồng bằng nhiễm sán nhiều nhất, tỷ l

ệ nhiễm và cường độ nhiễm
giảm dần với đàn gia súc nhai lại ở vùng ven biển, vùng trung du và miền núi.
Về nguyên nhân dẫn đến quy luật này, các tác giả Trịnh Văn Thịnh (1963),
Phạm Văn Khuê và cs, 1996; Soulsby, 1982; Kaufman, 1996 đều giải thích:
vùng đồng bằng có nhiều ao hồ, kênh rạch, có điều kiện cho ốc – vật chủ
trung gian sống và sinh sản. Các kiểu địa hình khác thì vấn đề này hạn chế
hơn so với vùng đồng b
ằng.
Phan Địch Lân và cs (1985), đã khảo sát đặc điểm sinh học của ốc-vật

×