A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Sự phát triển cao độ của chế độ phong kiến tập quyền thời Lê sơ đề ra yêu cầu xây
dựng một bộ pháp luật hoàn chỉnh để củng cố những trật tự xã hội mới. Trải qua một quá
trình xây dựng lâu dài từ thời Lê Thái Tổ, đến thời Lê Thánh Tông đã pháp điển hóa các
pháp lệnh ban bố và thi hành trong các triều vua thời Lê sơ thành một bộ luật hoàn chỉnh
nhằm đáp ứng những yêu cầu phát triển sang giai đoạn mới của chế độ phong kiến Việt
Nam. Đó là bộ Quốc triều hình luật (mà người ta thường gọi là bộ Luật Hồng Đức để đề
cao vai trò xây dựng của Lê Thánh Tông), sản phẩm của một thời kỳ phát triển cực thịnh
của chế độ phong kiến tập quyền Việt Nam. Bộ luật này sau khi được xây dựng đã trở
thành pháp luật của thời Lê sơ và của các triều đại sau cho đến thế kỷ XVIII. Trong bộ
luật, chế độ tài sản giữa vợ và chồng trong thời kì hôn nhân là một trong số những chế
định quan trọng, do đó, việc đánh giá chế độ trên là hết sức cần thiết. vì vậy, em xin
nghiên cứu đề tài” đánh giá về chế độ tài sản giữ vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân của
Bộ Quốc triều hình luật”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Chế độ tài sản giữa vợ và chồng trong thời kì hôn nhân của bộ Quốc triều
hình luật
Quyền bình đẳng về tài sản giữa vợ và chồng biểu hiện rõ nhất qua quyền sở hữu
tài sản giữa vợ chồng. Theo Bộ luật Hồng Đức, mọi tài sản trong gia đình đều thuộc sở
hữu của vợ chồng (quy định tại các điều 374, 375, 376) và theo đó tài sản của vợ chồng
bao gồm tài sản riêng của người chồng được thừa kế từ gia đình mình (phu gia điền sản),
tài sản riêng của người vợ được thừa kế từ gia đình mình (thê gia điền sản), và tài sản do
vợ chồng làm ra trong thời kì hôn nhân (tần tảo điền sản).
Việc phân chia và thừa kế tài sản còn tùy thuộc vào việc vợ chồng có con hay
không có con. Pháp luật quy định cụ thể ở các điều 374, 375 và 376 (Quốc triều hình
luật). Tài sản của vợ chồng được hình thành từ 3 nguồn: Tài sản của chồng thừa kế từ gia
đình nhà chồng; tài sản của người vợ thừa kế từ gia đình nhà vợ và tài sản do hai vợ
chồng tạo dựng trong quá trình hôn nhân (tài sản chung). Khi gia đình tồn tại, tất cả tài
sản được coi là của chung. Khi ly hôn, tài sản của ai, người đó được nhận riêng và chia
đôi tài sản chung của hai người.
Điều 374 đưa ra các trường hợp khác nhau, trong đó đề cập chủ yếu đến những vấn
đề sau đây:
1
- Trong trường hợp chồng (hoặc vợ) cùng vợ (hoặc chồng) trước có con, chồng (hoặc
vợ) sau không có con mà chồng (hoặc vợ) trước chết không có chúc thư thì điền sản
thuộc về con vợ trước hay con chồng trước.
- Cũng trong trường hợp tương tự nhưng nếu cha mẹ còn thì lại xử khác đi, cụ thể là,
nếu vợ trước có một con, vợ sau không có con, thì điền sản chia làm ba, cho con vợ trước
hai phần, vợ sau một phần, nếu vợ trước có hai con trở lên, thì phần vợ sau chỉ bằng
phần của các con thôi,
phần của vợ sau chỉ để nuôi dưỡng một đời mình, không được nhận làm của riêng, nếu
vợ sau chết hoặc cải giá lấy chồng khác thì phần ấy lại về con chồng.
- Trong trường hợp nếu điền sản là của chồng và vợ trước làm ra thì chia làm hai phần,
vợ trước và chồng mỗi người một phần, phần của vợ trước thì để riêng cho con, còn
phần chồng lại chia như trước.
- Nếu như điền sản của chồng và vợ sau làm ra, thì cũng chia làm hai phần, chồng và vợ
sau mỗi người một phần, phần của chồng thì chia như trước, còn phần của vợ sau thì
được nhận làm của riêng.
Điều 375 quy định trường hợp điền sản của cha mẹ để cho, vợ chồng không có con, nếu
người chồng chết trước không có chúc thư thì điền sản được chia làm hai phần, về
người họ ăn thừa tự một phần để giữ việc tế tự; về vợ một phần, phần của người vợ thì
chỉ để nuôi đời mình không được nhận làm của riêng, vợ chết hay cải giá thì phần ấy lại
thuộc về người thừa tự, nếu cha mẹ còn sống thì thuộc về cha mẹ cả.
Trong trường hợp điền sản của vợ chồng là ra thì cũng chia làm hai, vợ chồng mỗi
người được một phần, phần của vợ được làm của riêng, phần của chồng lại chia làm ba,
cho vợ hai phần, để về việc tế tự và phần mộ một phần, hai phần cho vợ cũng chỉ để nuôi
một đời mình, không được nhận làm của riêng, vợ chết hay cải giá thì phần ấy lại để về
việc tế tự và phần mộ của vợ chồng. Theo Điều 376 thì nếu vợ chồng đã có con, nếu một
người chết trước sau đó con cũng lại chết thì điền sản thuộc về chồng hay vợ. Nếu vợ
chết trước thì điền sản của vợ chia làm ba, để cho chồng hai phần, cho người họ (người
thừa tự) một phần. Cha mẹ còn sống thì chia làm hai, thuộc về cha mẹ một phần, thuộc
về chồng một phần, phần của chồng chỉ để nuôi một đời, không được nhận làm của
riêng, chồng chết thì phần ấy thuộc về cha mẹ hay người thừa tự, chồng chết trước thì
vợ cũng thế, cải giá thì phải trả lại. Quốc triều hình luật" không nhắc tới động sản, chỉ đề
cập tới điền sản,"Điểm này cũng dễ hiểu vì trong một nền kinh tế trọng nông, các động
sản khác chỉ là những vật có ít giá trị". Song trong "Hồng Đức thiện chính thư" (điều
2
258-259) đã không gạt hẳn các động sản ra ngoài thừa kế. Như vậy, pháp luật đã ghi nhận
một cách bình đẳng sự đóng góp của người vợ trong tài sản chung của vợ chồng và bảo
vệ quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản do hai vợ chồng làm ra.
Ở thế kỷ 15 mà nhà lập pháp nước ta đã có tư duy pháp lý thật hợp tình, hợp lý,
phù hợp với đạo đức của chế độ phong kiến thời bấy giờ. Các tòa án ở Nam việt thường
hay căn cứ vào các điều này để phân xử các vụ kiện liên quan đến tài sản của vợ chồng.
Tuy nhiên, nhà lập pháp cũng chưa thể có một trình độ lập pháp mang tính khoa học, các
điều khoản phần lớn mang tính chất thí dụ, thiếu tính bao quát và điển hình. Bỏ qua
những điều nêu trên thì những quy định về tài sản riêng của vợ chồng trong Quốc triều
Hình luật cũng vẫn là một thành tựu lập pháp trong lịch sử của Việt Nam.
II.Đánh giá về chế độ tài sản giữa vợ và chồng trong thời kì hôn nhân được
quy định tại Quốc triều hình luật.
1. Những giá trị tiến bộ:
Theo điều 78 của Đại Thanh luật lệ, khi người phụ nữ đi lấy chồng thì tất cả tài sản
của mình tự tạo lập hay nhận của cha mẹ ruột mình, đều phải sát nhập vào gia sản của
nhà chồng. Nếu ly dị hay cải giá, người phụ nữ phải dời nhà chồng với hai bàn tay trắng,
không được lấy bất kỳ tài sản riêng nào của mình. Trái lại, Quốc triều hình luật cho phép
phụ nữ có chồng tiếp tục làm chủ tài sản riêng của mình. Khi ly hôn, hay cải giá, người
phụ nữ có quyền lấy lại tìa sản riêng của mình. So sánh với luật Phương tây cũng thấy
được điểm tiến bộ của Quốc triều hình luật khi tôn trọng, bảo vệ quyền lợi và địa vị của
người phụ nữ. trong khi Quốc triều hình luật cho phép vợ chồng bình đẳng về hôn sản thì
Mỹ, tới năm 1890, nhiều bang mới sửa đổi và còn áp dụng học lý: người vợ là vật sở hữu
của chồng, và không có quyền pháp lý đối với lợi tức và tài sản do chính người vợ tạo ra,
trừ khi hai vợ chồng kí hôn khế trước, và đặt tài sản dưới chế độ giám hộ. như vậy, ở thế
kí 15, Bộ Quốc triều hình luật của Việt Nam đã thừa nhận người phụ nữ có quyền tư hữu
tài sản ngang hàng với người chồng, thì thế kỉ XVIII ở châu Âu và thế kỷ XX ở Mỹ
quyền này mới được thừa nhận.
Sự thừa nhận quyền sở hữu tài sản riêng của người vợ là một điểm tiến bộ của Quốc
triều hình luật mà ta không thể tìm thấy trong pháp luật phong kiến Trung Quốc. Do
phong tục tập quán Việt Nam là tài sản hương hỏa chỉ dung để thờ cúng tổ tiên nên
không thể giao cho người khác họ nên để đảm bảo tài sản hương hỏa không bị chuyển
giao cho dòng họ khác khi con gái đi lấy chồng, cách tốt nhất là thừa nhận quyền sở hữu
tài sản riêng của người vợ .
3
Như vậy có thể thấy, ngay từ thế kỉ 15, các nhà lập pháp nước ta đã có tư duy pháp
lí thật hợp tình hợp lý, phù hợp với đạo đức của chế độ phong kiến thời bấy giờ, các tòa
án ở Nam Việt thường hay căn cứ vào các điều này để phân xử các vụ kiện liên quan đến
tài sản của vợ chồng.
Thêm nữa, điểm tiến bộ trong luật Hồng Đức là nó có một bước tiến khá căn bản
trong việc cải thiện địa vị của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Vai trò của người
phụ nữ đã được đề cao hơn rất nhiều so với các bộ luật đương thời trong khu vực. Nó cho
thấy người vợ có quyền quản lý tài sản của con khi hôn nhân có con, chồng chết trước và
quyền thừa kế tài sản gia đình khi hôn nhân không con, chồng chết trước.
Như vậy, những chế định về sở hữu tài sản giữa vợ và chồng trong thời kì hôn
nhân của bộ luật Hồng Đức đã cho thấy điểm tiến bộ, tân kì, vượt trước thời đại của nó
khi ghi nhận năng lực pháp lý của người phụ nữ một cách khá bình đẳng so với người
chồng. Điều này hoàn toàn thể hiện sự tiến bộ đáng kinh ngạc trong tư duy lập pháp của
các nhà làm luật phong kiến thời kì đó, trong hoàn cảnh Nho giáo được coi là tư tưởng
chính trị - pháp lý chính thống, và trong gia đình, người phụ nữ bị ràng buộc, gò bó, chi
phối bởi những lễ nghi, trật tự gia đình gia trưởng vô cùng khắt khe, bất biến.
Sự qui định rõ thành phần khối tài sản chung, riêng rõ ràng của vợ chồng là điểm
rất tiến bộ và độc đáo của pháp luật nhà Lê và nó vẫn được tiếp thu trong việc xây dựng
pháp luật hiện nay. Phản ánh một cách khá trung thực và điều chỉnh một cách hợp lí mối
quan hệ giữa vợ và chồng phù hợp với thực tế xã hội Việt Nam.
2.Một số hạn chế:
Vẫn tồn tại sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong sở hữu tài sản trong thời kì
hôn nhân. Do sự ảnh hưởng của chế độ gia đình phụ quyền và yếu tố gia trưởng của Nho
giáo và tập quán mà người vợ không có toàn quyền quyết định đoạt chế độ tài sản trong
gia đình.
Trong các giao dịch dân sự người vợ chỉ đứng tên cùng chồng mà thôi. Việc định
đoạt vẫn chủ yếu do người chồng, người vợ chỉ được toàn quyền quyết định khi có sự cho
phép của chồng. Hôn nhân có con chấm dứt khi chồng chết trước thì vợ không có quyền
định đoạt tài sản cho con, còn người chồng có toàn quyền định đoạn tài sản của con. Hơn
nữa, khi li hôn do lỗi của vợ thì người vợ hoàn toàn mất quyền về tài sản. Pháp luật
không can thiệp, vì vậy không có cơ sở để giải quyết tranh chấp. Do đó khi cần thiết phải
điều chỉnh bằng các chỉ dụ riêng lẻ, không có tính hệ thống và tính pháp điển hóa cao.
4
Điều này có thể hiểu được vì giống như các bộ luật phong kiến khác, Quốc triều
hình luật là bộ luật tổng hợp thể hiện rõ bản chất giai cấp của nó. Mục tiêu hàng đầu là
bảo vệ chế độ vương quyền, địa vị quyền lợi của giai cấp phong kiến, củng cố trật tự
đẳng cấp xã hội và gia đình gia trưởng phong kiến, thể chế hóa tư tưởng đạo đức chính trị
Nho giáo, bất cứ hành vi nào trái với lễ giáo đều bị pháp luật trừng phạt.
Các nhà lập pháp cũng chưa thể có một trình độ lập pháp mang tính khoa học. Các
điều khoản phần lớn mang tính chất chỉ dụ, thiếu tính bao quát và điển hình. Nhưng bỏ
qua những điều nêu trên thì những qui định về tài sản riêng của vợ và chồng vẫn là một
thành tựu trong lịch sử lập pháp Việt Nam.
III .Lý giải nguyên nhân.
Bộ Quốc triều hình luật có những nét đặc sắc đó, là do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Bộ luật này là sản phẩm lập pháp của triều Lê, chủ yếu thuộc thời Lê Sơ.
Đây là thời kỳ chế độ phong kiến Đại Việt phat triển rực rỡ nhất, trong đó nhà nước
không chỉ bảo vệ địa vị thống trị và quyền lợi của giai cấp phong kiến mà còn đại diện
cho cả lợi ích của cộng đồng dân tộc. nguồn gốc bình dân và sự ý thức về sức mạnh của
nhân dân trong cuộc chiến tranh giải phóng đã đưa tập đoàn phong kiến Lê Sơ lên địa vị
thống trị là một yếu tố cơ bản quyết định tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc của bộ luật
triều Lê.
Thứ hai, do nhà làm luật triều Lê có trình độ kỹ thuật làm luật cao, có sự nhìn nhận
đúng về đặc điểm của xã hội Đại Việt và phong tục tập quán của người Việt. vì vậy, Bộ
Quốc triều hình luật được xây dựng với nét đặc sắc riêng của pháp luật Đại Việt.
Một cách cụ thể, những yếu tố có ảnh hưởng đến việc xác lập quyền lợi và nghĩa
vụ khá bình đẳng trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng trong Quốc triều hình luật, đó
là:
Thứ nhất, ở Việt Nam, tồn tại chủ yếu lại là gia đình nhỏ (3 thế hệ: vợ chồng, các
con, cha mẹ), hay gia đình hạt nhân chỉ gồm 2 thế hệ. Do vậy, trong gia đình truyền
thống Việt Nam, vợ chồng có thể độc lập quyết định những công việc quan trọng như các
vấn đề phát sinh trong các quan hệ xã hội hàng ngày hay những vấn đề cần giải quyết
bằng tiền bạc. Lúc này, vợ chồng cùng tham gia bàn bạc, cùng giải quyết. Điều này khác
xa so với kiểu gia đình đa thế hệ với những dòng họ lớn mà quyền quyết định các việc
trọng đại trong giá đình đều đặt vào trong tay người gia trưởng (thường là trưởng tộc hay
người chồng, người cha trong gia đình), như ở Trung Quốc. Tôn trọng các phong tục tập
quán riêng của người Việt, cũng như những nét văn hóa đặc trưng đó, pháp luật phong
5
kiến Việt Nam đã có những quy định thừa nhận quyền sở hữu tài sản của người vợ,
quyền quyết định của người vợ với tài sản riêng và tài sản chung trong gia đình.
Thứ hai, chiến tranh cũng đóng vai trò đáng kể tác động đến việc điều chỉnh pháp
luật. Trong hoàn cảnh đất nước thường xuyên bị ngoại xâm nhòm ngó, xâm lược, người
đàn ông trong gia đình phải đi lính, số thương vong là không nhỏ, thì vai trò của người
phụ nữ là không thể phủ nhận. Thấy được những điều đó, pháp luật triều Lê đã rất công
bằng khi thừa nhận vai trò của người phụ nữ trong tài sản chung của gia đình mà có lẽ
phần nhiều do họ làm ra.
C.KẾT LUẬN
Bên cạnh chế độ hôn nhân không tự do, đa thê và xác lập chế độ gia đình gia
trưởng là nguyên tắc cơ bản, nổi bất trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình thì quan hệ về
tài sản trong lình vực này có những đặc điểm riêng biệt và đạt được những tiến bộ rất
đáng kể trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, đặc biệt trong việc xác lập quyền, vị thế
tương đối bình đẳng giữa vợ và chồng, bảo về quyền, lợi ích chính đáng của người vợ.
Trong một xã hội mà tư tưởng thống trị là Nho giáo với nền tảng là sự phân biệt đẳng
cấp, phân biệt trên dưới, khinh thường phụ nữ… thì quan điểm của các nhà lập pháp triều
Lê đã tôn trọng, bảo vệ vị thế độc lập của người phụ nữ với tư cách là một người vợ càng
có giá trị và ý nghĩa to lớn. Điều đó có được là do sự kế thừa, phát huy những phong tục
tập quán độc đáo của dân tộc vốn đã tồn tại và được ưa chuộng từ bao đời nay, hòa nhập
cùng hệ thống pháp luật triều đình, với sức sống mãnh liệt, đã để lại cho đời sau những
kinh nghiệm vô cùng quý giá.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
6
1. Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Trường đại học Luật Hà Nội,
Nxb.CAND, Hà Nội, 2007.
2. Quốc Triều hình luật, Nxb. Pháp lí, Hà Nội, 1991.
3. Lê Thị Sơn, Quốc triều Hình luật - Lịch sử hình thành, nội dung và giá trị, Nxb.
KHXH, Hà Nội, 2004.
4.Ts.Phan Hữu Thư, Tạp chí Luật học-số 1-1996.
5.Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử, quyển 1, tập 1, Sài Gòn, 1973
6. ThS. Nguyễn Minh Tuấn, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà nội, Chuyên san
Kinh tế - Luật, T.XX, No 4, 2004, trang 39-44.
7. Các trang web:
7