Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm dệt may trên thị trường nội địa và thị trường hà nội của công ty dệt kim đông xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.85 KB, 22 trang )

Bài Luận
Đề tài:
Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản
phẩm dệt may trên thị trường nội địa và thị trường Hà Nội
của Công ty Dệt kim Đông Xuân
Giới thiệu chung
Một đất nước có phát triển hay không được đánh giá chủ yếu dựa vào sự phát triển kinh
tế của đất nước đó. Trước đây, khi nước ta áp dụng cơ chế quản lý nền kinh tế tập trung, các
doanh nghiệp sản xuất, phân phối theo chỉ tiêu của Nhà nước đặt ra. Hầu hết các kết quả kinh
doanh năm sau đều cao hơn năm trước nhưng thực tế thì kinh tế không hề phát triển. Các doanh
nghiệp hoạt động mà không cần phải suy nghĩ nhiều đến việc có hiệu quả hay không? Vì lỗ đã có
Nhà nước bù, hiện tượng quan liêu, cửa quyền diễn ra thường xuyên ở khâu phân phối. Nhưng
hiện nay, nền kinh tế đã được chuyển đổi sang kinh tế thị trường, các doanh nghiệp tự mình phải
tìm cách giải quyết ba vấn đề của kinh doanh là: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất
cho ai?, điều mà trước đây do Nhà nước làm. Trong nền kinh tế thị trường Nhà nước khuyến
khích tất cả các thành phần kinh tế cùng phát triển làm cho nền kinh tế trở nên sôi động, cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng, nhưng lại trở nên quan trọng nhất trong cả quá
trình kinh doanh, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Lúc này, tiêu thụ
không còn được hiểu đơn thuần chỉ là việc bán hàng hay tra đổi quyền sở hữu sản phẩm nữa mà
tiêu thụ được hiểu là một quá trình từ việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng … đến
các hoạt động xúc tiến hỗ trợ bán hàng khác. Doanh nghiệp nào không thực hiện tốt các khâu
trong quá trình này thì nguy cư đánh mất thị trường, khách hàng và thất bại trong kinh doanh là
điều khó tránh khỏi.
Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, gia nhập AFTA, việc mở cửa
hội nhập với khu vực và thế giới đang được chúng ta thực hiện từng bước. Điều này mở ra nhiều
cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước nhưng cũng không ít những khó khăn mà chúng ta phải
đương đầu. Sự cạnh tranh mạnh mẽ với các sản phẩm, hàng hóa của nước ngoài trên chính thị
trường trong nước ngày càng trở nên khốc liệt. Nguy cơ các doanh nghiệp trong nước bị “hất
cẳng” ngay trên sân nhà có thể xảy ra. Bởi việc các doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng để xuất
khẩu hàng hóa là không đơn giản, vì hàng hóa của ta hầu hết là chưa có thương hiệu trên thị


trường nên việc ký kết các hợp đồng, đơn đặt hàng chủ yếu vẫn là gia công thuê nên giá trị đạt
được không cao. Trong khi đó các doanh nghiệp bỏ lại thị trường trong nước cho các doanh
nghiệp nước ngoài khai thác. Hiện tượng “tham bát bỏ mâm” đang diễn ra ở các doanh nghiệp
Việt Nam.
Cũng như các công ty khác, Công ty TNHH một thành viên Dệt kim Đông Xuân –
Doximex đã có nhiều biện pháp nhằm tăng cường, đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm để tồn
tại và đứng vững trên thị trường. Doximex là một công ty lớn, đã có mặt trên thị trường một thời
gian dài, nên Công ty cũng đã có những ảnh hưởng, vị trí nhất định đối với người tiêu dùng trong
nước. Song không ngừng nâng cao thế mạnh trên khu vực thị trường này thì Công ty cần chú
trọng hơn nữa đến các công tác tiêu thụ sản phẩm.
Sau một thời gian tìm hiểu cùng với sự tư vấn, hướng dẫn của chị Ngọc phòng thị trường
tôi đã xây dựng bản đề án với nội dung “Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản
phẩm dệt may trên thị trường nội địa và thị trường Hà Nội của Công ty Dệt kim Đông Xuân.
I. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm may mặc trên thị trường nội địa

Sơ đồ 1: Nội dung chủ yếu của quản lý hoạt động tiêu thụ sản phẩm
1. Nghiên cứu thị trường nội địa
Thị
trường
Nghiên cứu
thị trường
Thông tin
thị trường
Lập các kế
hoạch tiêu thị
sản phẩm
Hàng
hóa
dịch
vụ

Hàng
hóa
dịch
vụ
Tổ chức bán
hàng và cung
cấp DV
Quản lý lực
lượng bán
Quản lý dự trữ
và hoàn thiện
SP
Quản lý hệ
thống PP
Phối hợp và tổ
chức thực hiện
các KH
Thị trường
Sản phẩm
Dịch vụ
Giá, doanh
số
Phân phối và
giao tiếp
Ngân quỹ
Lựa chọn thị trường là mục tiêu
Thị trường dệt may rất rộng lớn, các doanh nghiệp dệt may không thể thỏa mãn tốt tất
cả thị trường nên việc lựa chọn thị trường là vấn đề hết sức cần thiết khi doanh nghiệp đưa ra các
chiến lược của mình. Thực tế hiện nay thì việc lựa chọn thị trường đối với doanh nghiệp là rất
phong phú. Có những doanh nghiệp chỉ tập trung vào khu vực thị trường xuất khẩu mà không

chú trọng phát triển tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp mình trên thị trường trong nước. Vậy
nên muốn phát triển tốt, muốn có chỗ đứng trên thị trường doanh nghiệp cần đánh giá các khúc
thị trường khác nhau và quyết định nhằm vào khúc thị trường nào làm mục tiêu. Khi đánh giá
các khúc thị trường khác nhau doanh nghiệp phải xem xét ba yếu tố cụ thể là quy mô và mức
tăng trường của khúc thị trường, mức độ hấp dẫn về cơ cấu thị trường,những điều đó có phù hợp
với mục tiêu và nguồn tài nguyên của doanh nghiệp không?
Mục đích của việc nghiên cứu thị trường là xác định khả năng tiêu thụ sản phẩm dệt
may trên địa bàn nhất định, trong một thời gian nhất định. Nghiên cứu thị trường có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng, vì đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng, giá bán, mạng lưới tiêu thụ
cũng như hiệu quả của công tác tiêu thụ. Nghiên cứu thị trường còn giúp doanh nghiệp nhận biết
được xu hướng, sự biến đổi nhu cầu của người tiêu dùng, sự phản ứng của họ đối với sản phẩm
của doanh nghiệp, biết được các biến động về thu nhập, giá cả, từ đó có các biện pháp điều chỉnh
phù hợp.
2. Lập kế hoạch tiêu thụ và chuẩn bị sản phẩm để xuất bán
Xây dựng một kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là cơ sở quan trọng để đảm bảo cho quá trình
sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp dệt may tiến hàng nhịp nhàng, liên tục theo kế hoạch đã
định. Việc xây dựng kế hoạch đảm bảo hướng đi đúng đắn cho doanh nghiệp trong suốt một quá
trình kinh doanh nên cần được đầu tư hợp lý cho hoạt động này.
a. Định giá sản phẩm dệt may
Chính sách giá cho mỗi sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiêu thụ sản phẩm,
đến lợi nhuận và do đó dẫn đến sự phát triển và tồn tại của sản xuất kinh doanh nói chung và của
doanh nghiệp nói riêng, vì vậy không thể xây dựng chính sách giá một cách bất hợp lý, chủ quan,
tùy tiện. Việc định giá cho một sản phẩm mới hay một sản phẩm đã có mặt trên thị trường đều
phải theo một quy trình.
- Lựa chọn mục tiêu định giá: Mọi hoạt động marketing bao gồm cả mục tiêu định giá đều phải
định hướng mục tiêu. Do đó, mọi nhà quản lý cần xác định mục tiêu định giá trước khi xác định
một mức giá cụ thể. Doanh nghiệp nên đặt ra một mục tiêu định giá rõ ràng trước khi đưa ra giá.
Ví dụ như:
• Định giá nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận
• Định giá nhằm mục tiêu bảo đảm mức thu nhập được xác định trước

• Định giá nhằm mục tiêu doanh số bán hàng
• Định giá nhằm mục tiêu phát triển các phân đoạn thị trường
• Định gá nhằm mục tiêu cạnh tranh đối đầu
• Định giá nhằm mục tiêu cạnh tranh không mang tính giá cả.
- Xác định đặc điểm của cầu: Để định giá cho sản phẩm, doanh nghiệp cần phải xác định được
đặc điểm của cầu đối với sản phẩm đó. Có hai bước cần làm là xác định giá cả kỳ vọng của thị
trường và ước tính lượng bán hàng ở các mức khác nhau.
Độ co giãn của cầu sản phẩm may mặc theo giá là một thông số quan trọng phản ánh hành vi của
thị trường trong việc mua sắm sản phẩm. Độ co giãn của cầu sản phẩm may mặc theo giá phản
ánh lượng mua sắm của một sản phẩm dệt may ở những mức khác nhau. Nếu cầu co giãn, doanh
nghiệp ít có cơ hội đặt giá cao và ngược lại nếu cầu không co giãn, doanh nghiệp có thể định giá
cao hoặc tăng giá.
- Xác định chi phí: Nhà marketing rất cần biết chi phí của một đơn vị sản phẩm mà doanh nghiệp
làm ra là bao nhiêu và khả năng hạ chi phí đơn vị này khi lượng sản xuất tăng lên. Để biết được
điều này người ta thường phân tổng chi phí kinh doanh thành chi phí cố định và chi phí biến đổi.
Việc xác định các chi phí này cũng rất quan trọng đối với việc định giá sản phẩm hiện tại và lâu
dài.
- Phân tích chi phí giá, sản phẩm và dịch vụ của đối thủ cạnh tranh: Việc so sánh giá thành sản
phẩm của doanh nghiệp may mặc với đối thủ cạnh tranh sẽ giúp doanh nghiệp biết được họ đang
có lợi thế hay ở trong tình thế bất lợi về chi phí. Về giá, doanh nghiệp có thể cử người đi mua
hàng hoặc sưu tầm các báo giá của đối thủ cạnh tranh để biết chính sách giá của đối thủ. Qua
việc mua sản phẩm của đối thủ cạnh tranh doanh nghiệp có thể đánh giá về chất lượng sản phẩm
của đối thủ, dựa vào ý kiến của khách hàng mà có thể đặt được mức giá hợp lý. Doanh nghiệp
cũng cần nắm bắt những thông tin về dịch vụ kèm theo và hỗ trợ về phân phối cũng như xúc tiến
bán và nghiên cứu cẩn thận để biết được tổng lợi ích mà đối thủ cdafnh cho khách hàng so với
giá mà khách hàng phải trả.
- Lựa chọn phương pháp định giá: Có hai nhóm phương pháp định giá là định giá chi phí và định
giá thị trường. Trong phương pháp định giá hướng chi phí, chi phí được coi là quan trọng nhất để
định ra giá bán. Doanh nghiệp lấy chi phí sản xuất cộng thêm một mức lợi nhuận mong đợi để
đưa ra giá bán. Còn ở phương pháp định giá hướng thị trường, đối thủ cạnh tranh và khách hàng

được coi là quan trọng nhất để định ra giá bán.
- Lựa chọn giá cuối cùng: Trước khi doanh nghiệp đưa ra giá sản phẩm cuối cùng, một số yếu tố
khác cần được cân nhắc như:
• Tác động tâm lý của giá tới người mua
• Ảnh hưởng của các thành phần khác trong kế hoạch marketing đến giá.
• Ảnh hưởng của giá đến các bên khác ( lực lượng bán hàng, nhà trung gian, đối
thủ cạnh tranh …)
Sau khi đã đưa ra một mức giá cố định, doanh nghiệp đôi khi phải thay đổi giá
cho phù hợp với những diễn biến mới của môi trường, nhu cầu của khách hàng
hoặc sự thay đổi giá của đối thủ cạnh tranh…
b. Chuẩn bị sản phẩm để xuất bán
Đây là một khâu giữ vai trò khá quan trọng trong quá trình tiêu thụ sản phẩm. Chuẩn bị
sản phẩm để xuất bán là hoạt động tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông. Muốn cho
quá trình lưu thông sản phẩm hàng hóa được liên tục, không bị gián đoạn thì các doanh nghiệp
dệt may cần chú trọng đến các nghiệp vụ sản xuất ở các kho như: Tiếp nhận, phân loại, lên nhãn
hiệu sản phẩm, bao gói, sắp xếp hàng hóa ở kho – bảo quán và ghép đồng bộ để xuất bán cho
khách hàng. Việc sắp xếp vị trí của các kho hàng ảnh hưởng rất lớn đến việc tiết kiệm chi phí
cho doanh nghiệp.
3. Lựa chọn hình thức tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm may mặc có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau. Căn
cứ vào mối quan hệ giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng cuối cùng tiêu thụ sản phẩm có thể
tiêu thụ qua kênh trực tiếp hoặc gián tiếp. Một kênh phân phối là một hệ thống gồm những cá
nhân, tổ chức có liên hệ qua lại với nhau, tham gia vào quá trình chuyển hóa đưa hàng hóa từ nhà
sản xuất đến người sử dụng.
Có nhiều dạng kênh phân phối sản phẩm như: kênh phân phối trực tiếp, kênh phân phối
gián tiếp, kênh phân phối hỗn hợp … doanh nghiệp có thể sử dụng sao cho phù hợp nhất với đặc
điểm sản phẩm và tiềm lực của mình.
Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp

Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp

Lực lượng bán hàng Người bán lẻ
của DN
Lực lượng
bán hàng
của DN
Sơ đồ 2: Kênh phân phối sản phẩm
4. Các hoạt động xúc tiến bán hàng
Một trong số những nguyên nhân dẫn đến sự không thành công của doanh nghiệp dệt
may trong tiêu thụ sản phẩm là do người bán không gặp được người mua, không nắm bắt được
nhu cầu, thị hiếu khách hàng và không làm cho khách hàng hiểu rõ giá trị sản phẩm. Vì vậy, để
đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, nâng cao khối lượng sản phẩm bán ra doanh nghiệp cần phải
tổ chức hoạt động xúc tiến bán hàng.
Người
sản
xuất
( tổ
chức
đầu
nguồn)
Người
sử
dụng
sản
phẩm
Người bán
lẻ
Người bán
lẻ
Người bán
lẻ

Người
bán buôn
C1
Người
bán
buôn
C2
Xúc tiến bán hàng là một thành phần của marketing mix nhằm thông tin, thuyết phục và
nhắc nhở thị trường về sản phẩm hoặc người bán sản phẩm đó với hi vọng ảnh hưởng đến thái độ
và hành động của người nhận tin. Có các hình thức xúc tiến bán như:
- Quảng cáo là những hoạt động truyền thông không mang tính cá nhân, thông qua một
phương tiện truyền tin phải trả tiền. Có nhiều loại phương tiện quảng cáo như quảng cáo trên
phương tiện thông tin đại chúng ( phát thanh, truyền hình), in ấn ( báo, tạp chí), biển hiệu
ngoài trời, …
- Khuyến mại là hoạt động kích thích nhu cầu mua sắm bằng cách đưa thêm lợi ích cho
khách hàng trong một giai đoạn. Các hình thức phổ biến là các đợt giảm giá, tăng số lượng
giá không đổi, bán hàng kèm quà tặng, phát hành tặng mẫu …
- Bán hàng trực tiếp là hình thức thuyết trình sản phẩm do nhân viên của doanh nghiệp thực
hiện trước khách hàng, hoặc qua điện thoại. Địa điểm thuyết trình có thể là nhà riêng, tại
công sở hoặc những nơi tập trung những người mua triển vọng.
- Marketing trực tiếp là những hoạt động truyền thông có tính tương tác, sử dụng một hay
nhiều phương tiện truyền thông để tạo nên những đáp ứng có thể đo được hoặc những giao
dịch ở bất kỳ địa điểm nào. Marketing trực tiếp vừa thuộc về công cụ xúc tiến bán lẫn công
cụ phân phối trong marketing mix. Các hình thức phổ biến là bán hàng qua thư, bán hàng qua
catalog, marketing từ xa ( bán hàng qua điện thoại), bán hàng qua ti vi và internet ( bán hàng
trực tuyến).
5. Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm
Bán sản phẩm là khâu cuối cùng của hỏa động kinh doanh ở các doanh nghiệp dệt
may. Để bán được nhiều sản phẩm doanh nghiệp dệt may phải đáp ứng các yêu cầu của
khách hàng như: Chất lượng, mẫu mã, giá cả … và phải biết lựa chọn các hình thức bán phù

hợp.
6. Phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm
Sau mỗi chu kỳ kinh doanh, doanh nghiệp cần phân tích, đánh giá hoạt động tiêu thụ
sản phẩm nhằm xem xét khả năng mở rộng hay thu hẹp thị trường tiêu thụ, hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả tiêu thụ
… nhằm kịp thời đưa ra các biện pháp thích hợp để thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm.
Kết quả của việc phân tích là căn cứ để doanh nghiệp có các biện pháp thúc đẩy tiêu
thụ và hoàn thiện quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trên mọi phương diện.
II. Thực trạng hoạt động của các cửa hàng giới thiệu sản phẩm của Dệt kim
Đông Xuân tại Hà Nội
Ngành Dệt may đã và đang là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền
kinh tế quốc dân nước ta. Nó đáng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nó cung
cấp một mặt hàng không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt của nhân dân.
Nắm bắt được tình hình đó sau một thời gian dài tập trung cho xuất khẩu, Dệt kim Đông
Xuân cùng với các doanh nghiệp may mặc khác đã đi sâu vào thị trường nội địa, nơi mà được coi
là cứu cánh của nhiều doanh nghiệp trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế.
Đối với thị trường trong nước, Dệt kim Đông xuân cần có chiến lược cho từng khu vực,
từng miền khác nhau.
Đối với thị trường miền Bắc: Công ty đang phát triển những đại lý bán hàng ở Hà Nội,
Hải Phòng, Thái Nguyên … và tập trung chủ yếu ở Hà Nội. Đây là một chiến lược đúng đắn bởi
thị trường này đã quan với sản phẩm của Công ty. Tuy nhiên, các tỉnh xung quanh Hà Nội cũng
là thi trường tiềm năng, Công ty cần khai thác đoạn thị trường này.
Đối với thị trường các tỉnh miền Trung và miền Nam: Công ty đã triển khai xây dựng
một số cửa hàng, đại lý song vẫn chưa phủ rộng. Thị trường này xa nơi sản xuất nên Công ty có
thể lựa chọn phương thức xây dựng nhà máy và tiêu thụ tại chỗ.
Tại thị trường Hà Nội, Công ty có 3 cửa hàng giới thiệu sản phẩm (67 Ngô Thì Nhậm, 5B
Hòa Mã, 221B Khâm Thiên) và các gian hàng tại các siêu thị lớn. Nhìn chung tình hình hoạt
động tại 3 cửa hàng giới thiệu sản phẩm của Công ty hoạt động khá tốt, song vẫn còn một số vấn
đề tồn đọng nếu được giải quyết sẽ tạo được những hiệu ứng tốt hơn với khách hàng.
1. Những thế mạnh của 3 cửa hàng giới thiệu sản phẩm

- Những cửa hàng giới thiệu sản phẩm của Công ty đều có vị trí đẹp, nằm trên những tuyến phố
chính, thuộc khu vực trung tâm của thành phố.
- Diện tích các cửa hàng đều rộng và thoáng, thuận tiện cho việc trang trí cửa hàng hay trưng bày
sản phẩm.
- Đã có quá trình hoạt động lâu đời nên lượng khách hàng tương đối ổn định.
- Có đội ngũ nhân viên bán hàng chuyên sâu, hiểu rõ sản phẩm để tư vấn cho khách hàng mua
được sản phẩm ưng ý.
- Tại các cửa hàng đều có đủ các mẫu mã sản phẩm để khách hàng lựa chọn.
- Sản phẩm của Dệt kim Đông Xuân đã có tiếng trên thị trường, chất liệu tốt và quan trọng là sản
phẩm đảm bảo an toàn cho người sử dụng.
2. Điểm yếu của cửa hàng giới thiệu sản phẩm
Hiện tại thì xã hội phát triển, nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao, không chỉ dừng
lại ở sản phẩm phù hợp với thị hiếu của họ mà người tiêu dùng còn quan tâm đến những vấn đề
khác bổ trợ cho bán hàng như nội thất, trang thiết bị ở cửa hàng, thái độ của nhân viên bán hàng
hay bao bì, nhãn mác …
- Ở các cửa hàng giới thiệu sản phẩm của Công ty, các trang thiết bị, nội thất đã có từ lâu, nên
không được hiện đại và đồng nhất. So với nhiều cửa hàng may mặc khác thì ở các cửa hàng khác
đồng bộ hơn từ biển bảng giới thiệu thương hiệu Doanh nghiệp đến cách trang trí nội thất bên
trong thành một thể thống nhất. Người tiêu dùng sẽ dễ dàng phân biệt được các Doanh nghiệp
khác nhau.
- Diện tích tại các cửa hàng lớn, nhưng diện tích sử dụng thì không được tận dụng hết, để lãng
phí.
- Các biển bảng giới thiệu tên Công ty không nổi bật, khó gây sự chú ý đến người tiêu dùng. Ví
dụ như tại cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở 221B Khâm Thiên có vị trí rất đẹp, khu vực dân cư
đông đúc, trên cùng tuyến phố có nhiều cửa hàng may mặc khác nhưng biển giới thiệu thương
hiệu Công ty lại mờ nhạt, không gây chú ý với khách hàng.
- Sản phẩm tuy đã chú trọng đa dạng hóa song kiểu dáng, mẫu mã còn đơn điệu, kém về khả
năng thay đổi mẫu mốt ( nhất là sản phẩm dành cho nữ, vì khi được hỏi sản phẩm của Dệt kim
Đông Xuân với một số lượng người tiêu dùng thì đa số họ biết đến dòng sản phẩm dành cho nam
giới và trẻ em của Công ty).

- Gía bán còn tương đối cao so với những sản phẩm cùng loại của các nhãn hàng khác. So về
chất lượng sản phẩm thì chất lượng sản phẩm của Công ty cao hơn hẳn những dòng sản phẩm
cùng loại của Công ty khác, tuy nhiên từ trước đến nay Dệt kim Đông Xuân vốn được khách
hàng định hình là dòng sản phẩm bậc trung. Khi mua hàng, phần lớn người mua hàng không
quan tâm nhiều đến vì sao sản phẩm của Dệt kim Đông Xuân lại đắt hơn? Trong khi đó, sản
phẩm của các đối thủ cạnh tranh tại Việt Nam của Công ty hay sản phẩm Trung Quốc đều có giá
bán thấp hơn mà mẫu mã lại phong phú hơn nhiều sản phẩm của Công ty.
- Chính sách giá còn cứng nhắc đối với các sản phẩm tồn kho, sản phẩm kém chất lượng, không
hợp thời trang … và như vậy các loại sản phẩm này không được tiêu thụ một cách nhanh chóng
làm cho vòng quay của vốn lưu động chậm và giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Mặc dù đã có mặt rất lâu đời trên thị trường nội địa nhưng số lượng người tiêu dùng thực sự
biết đến thương hiệu Dệt kim Đông Xuân ( hoặc Doximex) là không nhiều, vì chính sách
marketing, quảng cáo, khuyến mại chưa thực sự có hiệu quả. Vì thói quen của người tiêu dùng
thường không trung thành với bất kỳ một hãng sản phẩm nào, họ dễ bị thu hút bởi các chiến dịch
quảng cáo và khuyến mại.
Để tiếp tục phát triển hơn nữa trong thời gian tới Công ty phải không ngừng cải thiện các hoạt
động của mình và đưa ra các chiến lược kinh doanh hợp lý các cửa hàng giới thiệu sản phẩm
nhằm phát triển thương hiệu của Công ty và nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng như đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của khách hàng.
3. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm
- Chất lượng sản phẩm và thỏa mãn nhu cầu của thị trường luôn được coi là trọng điể,, mục tiêu
hàng đầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Vì đây chính là vấn đề quyết định đến vị thế và khả
năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường. Công ty nên sản xuất sản phẩm có chất lượng cao,
mẫu mã đẹp, chủng loại sản phẩm đa dạng, phong phú phù hợp với từng nhu cầu trên thị trường.
- Hiện nay, thị trường hàng dệt may ngày càng phát triển với mức độ cạnh tranh lớn, các công ty
cạnh tranh với nhau rất gay gắt, bên cạnh đó các sản phẩm nhập khẩu của ngước ngoài ngày càng
nhiều. Công ty phải chú trọng đầu tư cả chiều rộng cũng như chiều sâu trong sản xuất kinh
doanh. Để khẳng định vị thế của công ty, để hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì công
ty nên có sự nghiên cứu thị trường nghiêm túc hơn để biết được những nhu cầu khác nhau của
từng đối tượng khách hàng cho từng loại sản phẩm của mình.

a. Mở thêm các của hàng bán và giới thiệu sản phẩm của Công ty tại các khu đô thị hoặc khu
vực trung tâm của các quận khác trong thành phố.
Hiện nay, nền kinh tế xã hội phát triển với tốc độ rất nhanh, nhu cầu của người tiêu dùng
không ngừng mở rộng. Hiện nay, tại Hà Nội, Công ty có 3 cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm,
tuy nhiên 2 trong 3 cửa hàng này lại tập trung ở gần nhau và những cửa hàng này tập trung tại
khu vực trung tâm. Người tiêu dùng muốn mua sản phẩm tại một số quận khác như Cầu Giấy,
Mỹ Đình, Hà Đông hay các khu đô thị mới đến các cửa hàng này không thuận tiện. Để không
ngừng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn thì việc mở thêm cửa hàng
bán và giới thiệu sản phẩm của Công ty tại các khu vực này là rất cần thiết. Một mặt Công ty có
thể tăng doanh thu và mở rộng thị trường, mặt khác đây cũng chính là một cách để Công ty có
điều kiện để tiếp xúc gần hơn với khách hàng của mình, thu thập thêm nhiều thông tin phản hồi
từ khách hàng. Thêm nữa, các cửa hàng này sẽ giúp Công ty mở rộng mạng lưới phân phối, rút
ngắn khoảng cách giữa người tiêu dùng với người sản xuất đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Tại trụ sở của Công ty cũng nên mở thêm cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm ở phía
ngoài, vì nhiều khách hàng có nhu cầu mua hàng với số lượng lớn, họ muốn đến Công ty xem
mẫu và làm việc trực tiếp thì hiện tại không đáp ứng được. Tại 3 cửa hàng của Công ty bây giờ
chỉ bán lẻ, khách hàng muốn làm đại lý hay muốn phân phối lại không làm việc trực tiếp được
với các cửa hàng đó. Vì thế mở cửa hàng tại trụ sở Công ty là một việc cần thiết.
Giải pháp này được thực hiện cụ thể như sau:
STT Địa điểm mở cửa hàng Số cửa
hàng
Số nhân viên
(người)
1 Khu đô thị Linh Đàm 1 4
2 Khu vực Cầu Giấy 1 4
3 Khu vực Trung Hòa – Nhân Chính 1 4
4 Trụ sở công ty 1 4
Mỗi cửa hàng sẽ có 2 nhân viên, trong hai người thì có một người chịu trách nhiệm làm
tổ trưởng, chịu trách nhiệm về việc bán hàng trước Công ty. Giờ làm việc từ 8h30 sáng đến 18h
tối. Những nhân viên bán hàng sẽ được Công ty tổ chức một lớp đào tạo ngắn về kỹ năng bán

hàng để hiểu rõ về tính năng sản phẩm, kỹ năng mềm để bán hàng …
Các cửa hàng có vị trí tại các kioost tầng 1 của các chung cư cao tầng, các đường phố
chính của khu đô thị hay các vị trí trọng điểm của các quận. Cửa hàng đảm bảo có mặt bằng ổn
định và không gian đủ rộng để bày bán các sản phẩm, có chỗ để xe thuận tiện cho khách hàng
khi vào mua sắm.
Khi mới mở các cửa hàng thì việc đầu tiên quan trọng là việc làm sao thu hút, lôi kéo và
thông báo cho khách hàng biết đến cửa hàng. Để thực hiện công việc này hiệu quả thì Công ty sẽ
tổ chức một chương trình khuyến mại nhân dịp khai trương. Việc treo một vài băng rôn ấn tượng
trước cửa hàng sẽ thu hút mọi người biết đến cửa hàng nhanh hơn. Việc thực hiện chiến lược
khuyến mại sẽ được trình bày cụ thể ở giải pháp sau.
Để thực hiện được một cách hiệu quả nhất giải pháp này thì ta phải có sự tính toán kỹ
lưỡng về mặt kinh tế xem với những chi phí bỏ ra, dự kiến số doanh thu tiêu thụ đạt được có đủ
để bù đắp chi phí hay không. Bởi việc mở các cửa hàng bán hàng và giới thiệu sản phẩm này
ngoài mục đích phục vụ tốt nhât người tiêu dùng ra thì mục đích kinh doanh, hiệu quả kinh tế là
rất quan trọng. Ta có thể ước tính các khoản chi phí và hiệu quả của giải pháp này như sau:
- Các chi phí thủ tục khi mở cửa hàng: 2 triệu đồng ( bao gồm làm đăng ký kinh doanh, thủ tục
mở cửa hàng, đăng ký với chính quyền sở tại). Công ty có 4 cửa hàng mới, vậy tổng chi phí
cho khoản mục này sẽ là:
2 * 4 = 8 ( triệu đồng)
- Chi phí thuê địa điểm : 10 triệu đồng/ tháng/ cửa hàng ( diện tích từ 30 -40m2) nên chi phí
địa điểm trong 1 năm của 4 cửa hàng là:
10 * 4 * 12 = 480 (triệu đồng)
- Doanh thu trung bình một cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm đã có trước đây của Công ty
khoảng từ 70 đến 130 triệu đồng , mỗi cửa hàng có 4 nhân viên. Vì thế doanh thu bình quân
của một nhân viên có thể kiếm được cho cửa hàng khoảng từ 35 đến 65,5 triệu. Chính sách
khoán doanh thu cho mỗi nhân viên phải đạt tối thiểu 35 triệu/ tháng với mức lương là 3 triệu
đồng. Nếu doanh thu đạt trên mức tối thiểu và đạt đến 65 triệu/ 1 tháng thì mức lương của họ
có thể tăng theo tỷ lệ đến mức gấp đôi mức lương bán đầu.
- Chi phí tiền lương:
+ Nhân viên bán hàng: 3 tr.đ/ tháng * 4 người = 12 ( triệu đồng/ tháng)

+ Cửa hàng trưởng: 3,5 tr.đ/ tháng * 4 người = 14 ( triệu đồng/ tháng)
Chi phí nhân công trong 1 năm sẽ là:
(12+14) *12 = 312 (triệu đồng)
- Chi phí khác: 2 triệu đồng/ tháng ( điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm …) nên chi phí
của các cửa hàng là:
2 * 4 *12 = 96(triệu đồng)
- Đầu tư vào trang thiết bị ban đầu: 60
+ Hệ thống điện: 15 triệu ( dây điện, đèn nêông và các loại đèn trang trí, điều hòa …)
+ Các loại tủ, giá gỗ, quầy thu ngân, ghế : 30 triệu
+ Trang trí trong, ngoài cửa hàng, biển hiệu: 10 triệu
+ Các khoản khác: 5 triệu
Chi phí cho 4 cửa hàng là 60 * 4 = 240 triệu đồng
- Ước tính doanh thu của mỗi cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm là 100 triệu đồng/ tháng.
Doanh thu một năm sẽ là :
100 * 4 * 12 = 4.800 (triệu đồng)
Ta có bảng tính hiệu quả biện pháp như sau:
Đơn vị: Triệu đồng
STT Chi tiêu Gía trị
1 Doanh thu tăng thêm 4.800
2 Giá vốn hàng bán ( 70% DT) 3.360
3 Lợi nhuận gộp ( 1-2) 1.440
4 Tổng chi phí biện pháp 1.184
Chi phí thủ tục 8
Chi phí thuê địa điểm 480
Chi phí đầu tư ban đầu 240
Chi phí tiền lương 312
Chi phí khác 144
5 Lợi nhuận trước thuế của giải pháp
(3-4)
256

Có thể nói rằng đây là một trong những biện pháp không khó làm đối với Công ty. Vì
nhà máy sản xuất sản phẩm chính của Công ty nằm trên địa bàn Hà Nội nên việc vận chuyển
hàng hóa là rất thuận tiện. Mặt khác thì người dân ở đây cũng đã ít nhiều quen sử dụng sản phẩm
của Công ty nên khi mở cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm mới Công ty không mất một
khoảng thời gian để tìm kiếm và làm quen với khách hàng. Ngày nay thu nhập của người dân
không ngừng được tăng cao nên việc tìm kiếm và mua sắm hàng hóa càng ngày càng kỹ lưỡng,
các dịch vụ khách hàng ảnh hưởng rất lớn đến sự trung thành của khách hàng với doanh nghiệp.
Mà người gần khách hàng nhất chính là hệ thống nhân viên bán hàng. Lực lượng này cần được
đào tạo bài bản, thực hiện tốt công việc của mình và là cầu nối trung gian giữa doanh nghiệp với
khách hàng.
b. Sửa và trang trí lại những 3 cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm cũ
Hiện nay, những cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm của Công ty đã cũ, trang thiết bị,
nội thất, biển giới thiệu thương hiệu đã lâu đời, không gây được chú ý với khách hàng. Trước
khi, quyết định mua một sản phẩm thì người tiêu dùng có quyền lựa chọn vào cửa hàng nào để
xem sản phẩm, vì thế ấn tượng về cửa hàng rất quan trọng với khách hàng. Thị hiếu của khách
hàng ngày càng tăng, họ có quyền lựa chọn những cửa hàng sang trọng, bài trí hiện đại mà giá cả
và chất lượng sản phẩm tốt. Song ở 3 cửa hàng của Dệt kim Đông Xuân hiện đang không gây
được chú ý với người tiêu dùng. Nhất là cửa hàng ở 221B Khâm Thiên – cửa hàng này nằm trên
một vị trí rất đẹp, khu vực đông dân cư, nhiều cửa hàng may mặc khác, nhưng lại cực kỳ mờ
nhạt, gần như nếu người tiêu dùng không quen hoặc không chú ý thì khó nhận biết được biển
hiệu của cửa hàng.
Nhìn chung vào 3 cửa hàng này đều thấy được sự lãng phí không gian, khi mà diện tích
các cửa hàng đều rất rộng, nhưng phần được sử dụng lại không nhiều, vẫn chưa đạt hiệu quả tốt
nhất. Các thiết bị nội thất như kệ, tủ trưng bày sản phẩm đã cũ, không hiện đại và không đồng
nhất. Vậy có nên sửa lại các cửa hàng này theo một thể thống nhất để tạo điều kiện kinh doanh
tốt hơn hay không? Tạo được sự chú ý của khách hàng với thương hiệu Dệt kim Đông Xuân –
Doximex hay không? Hay để sự lãng phí về tài nguyên, con người của Công ty như thế!
c. Xây dựng các chương trình khuyến mại và tăng cường hoạt động xúc tiến
Marketing là một hoạt động xưa nay không thể thiều trong hoạt động kinh doanh của
mỗi doanh nghiệp. Xúc tiến là một trong bốn yếu tố của marketing bao gồm: giá cả, sản phẩm,

phân phối và xúc tiến. Có thể nói hoạt động xúc tiến là các biện pháp và nghệ thuật mà các nhà
kinh doanh dùng để thông tin về hàng hóa, tác động vào người mua, lôi kéo người mua về phía
mình và các biện pháp hỗ trợ xúc tiến bán hàng. Xúc tiến có nhiều hoạt động khác nhau như:
quảng cáo, khuyến mại, xúc tiến bán … mỗi hoạt động có một tác dụng hữu ích khác nhau đến
việc tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Có thể do đặc tính của sản phẩm hoặc do khâu quảng bá sản
phẩm chưa được chú trọng một cách đúng mức nên việc khuếch chương giới thiệu, quảng cáo về
sản phẩm của Công ty đến khách hàng còn nhiều hạn chế. Các hoạt động được Công ty sử dụng
để quảng cáo về sản phẩm có chăng cũng chỉ là qua bài báo hay bài viết trên mạng, một vài bài
phóng sự giới thiệu về sản phẩm, dây chuyền sản xuất của công ty; bấy nhiêu đó chưa đủ để làm
cho người tiêu dùng biết nhiều hơn về Công ty. Có thể do đặc tính của sản phẩm là thiết yếu
trong cuộc sống hay do chi phí quảng cáo trên các phương tiện truyền hình, truyền thanh là quá
cao nhưng thực tế cho thấy là những hình thức quảng cáo này ngày càng trở nên quan trọng.
Việc quảng cáo, giới thiệu sản phẩm cũng được thực hiện khá tốt tại các hội trợ triển lãm
hàng tiêu dùng, hàng công nghiệp và thông qua đó có thể đưa sản phẩm và thương hiệu của
Doanh nghiệp đến người tiêu dùng nhanh hơn.
Việc đưa ra các chương trình khuyến mại của Công ty cũng sẽ nâng hiệu quả hoạt động
kinh doanh lên cao hơn. Mục tiêu của hoạt động này là giúp hỗ trợ các phương pháp trên, nhằm
thu hút và giới thiệu sản phẩm và các cửa hàng của Công ty. Mà tâm lý người tiêu dùng họ rất bị
thu hút bởi các chương trình khuyến mại.
Bên cạnh đó Công ty có thể tổ chức thêm cách quảng cáo, giới thiệu bằng việc treo các
băng rôn tại các cửa hàng, các cửa hàng mới có thể phát tờ rơi quảng cáo tới các khu dân cư có
như cầu mua sắm, những nơi thường tập trung đông người để thu hút nhiều người biết đến
chương trình khuyến mại của Công ty mình hơn.
Các vấn đề liên quan đến xúc tiến bán hàng cũng có một vị trí rất quan trọng. Đội ngũ
bán hàng của Công ty sẽ là những người trực tiếp đại diện cho Công ty tiếp xúc phục vụ khách
hàng. Thái độ và cung cách phục vụ của đội ngũ này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến độ thỏa mãn của
khách hfng về sản phẩm vật chất cũng như sản phẩm tinh thần mà Công ty đã mang lại cho họ.
Tóm lại là tất cả các hoạt động này đều giúp cho hoạt động tiêu thụ của các cửa hàng
được hiệu quả hơn. Công ty sẽ có mức độ ảnh hưởng sâu hơn, rộng hơn trong thị trường nội địa.
Điều này sẽ giúp doanh nghiệp dần rút ngắn được quá trình xây dựng thương hiệu của mình trên

thị trường.
d. Hoàn thiện giá
Giá sản phẩm là một vấn đề khá nhạy cảm, nó ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng
và doanh nghiệp có bán được nhiều hàng hóa hay không. Chính vì vậy mà việc xác lập một mức
giá hợp lý là điều kiện quan trọng đưa doanh nghiệp tạo được chỗ đứng trong thị trường cạnh
tranh mạnh mẽ này. Nhất là ở thị trường nội địa nước ta, mức thu nhập còn chưa cao, không
nhiều người tiêu dùng sẵn sàng bỏ ra một khoản tiền lớn để mua các sản phẩm may mặc. Vì mức
thu nhập nói chung của người dân chưa cao, thêm nữa thì các sản phẩm của Công ty hiện nay
cũng phục vụ chủ yếu những người tiêu dùng bình dân. Mà khách hàng hiện nay có quá nhiều sự
lựa chọn khác nhau, rất nhiều nhà cung cấp khác nhau mà chất lượng cũng tốt ngang nhau thì họ
sẽ lựa chọn cho mình những nhà cung cấp nào có giá cả linh hoạt hơn, có các dịch vụ khách hàng
tốt hơn.
Hiện nay, sản phẩm của Công ty có chất lượng khá tốt, đáp ứng được thị hiếu của người
tiêu dùng song so về giá thì vẫn cao hơn các đối thủ cạnh tranh. Về mẫu mã lại chưa được đa
dạng, phong phú. Công ty cần xem xét điều chỉnh cơ cấu hình thành giá sản phẩm, thực hiện việc
nghiên cứu thị trường một cách toàn diện để đưa được mức giá phù hợp .
Một vấn đề nữa mà Công ty cần phải quan tâm khi định giá cho sản phẩm của mình là
hàng may mặc luôn thay đổi theo mùa, nhất là miền Bắc. Nên sau mỗi mùa Công ty cần bán hết
số hàng hóa đã sản xuất ra, tránh tồn đọng vốn. Các chính sách bán hàng trả chậm, bán chịu, ký
gửi nên được sử dụng hợp lý để tránh việ c phải tăng chi phí vốn lưu thống sản phẩm. Với các
sản phẩm mẫu mã không còn phù hợp cũng nên sử dụng chính sách giảm giá bán hàng để bán
hết hàng.
e. Đa dạng về mẫu mã
Bên cạn vấn đề về giá sản phẩm thì mẫu mã sản phẩm của Công ty cũng nên quan tâm,
chú trọng hơn. Ngoài thị trường, các mẫu mốt thời trang của nước ngoài rất đa dạng và phong
phú, được phần đông người tiêu dùng ưa chuộng. Trong khi những mẫu mã của Công ty lại
không có nhiều thay đổi. Có thể Công ty đang thiếu một lực lượng các nhà thiết kế chuyên
nghiệp, hoặc họ vẫn chưa phát huy được hết vai trò và khả năng của mình. Những nhà thiết kế ở
Công ty cần đưa ra những mẫu mã đẹp hơn, phù hợp với nhu cầu của thị trường hơn.
f. Thương hiệu hóa

Một vấn đề lớn hiện nay là vấn đề thương hiệu của doanh nghiệp. Thực tế thì thương
hiệu đang ảnh hưởng rất lớn đến giá cả của các sản phẩm. Vẫn là hai sản phẩm của một công ty
sản xuất nhưng sản phẩm được gắn với một thương hiệu nước ngoài xuất bán với giá cao gấp 5
đến 10 lần sản phẩm đó đem bán trong nước. Nên trong thời gian tới, Công ty phải đưa ra cho
mình một tiến trình xây dựng thương hiệu để các sản phẩm bán trong nước hay xuất khẩu cũng là
mang thương hiệu của chính mình chứ không phải tình trạng gia công sản phẩm như hiện nay
nữa.
4. Giải pháp khoán lương với 3 cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm của Công ty
Hệ thống các cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm của Công ty bao gồm:
- Cửa hàng 67 Ngô Thì Nhậm A và B
- Cửa hàng 5B Hòa Mã
- Cửa hàng 221 Khâm Thiên
Ta có bảng doanh thu của 3 cửa hàng này từ T6/ 2011 – T5/ 2012 như sau:
Đơn vị: VNĐ
THỜI
GIAN
67 NTNA HÒA MÃ
KHÂM
THIÊN
67 NTNB TỔNG
6/ 2011
468,181,75
0
135,495,50
0

10,445,500
36,782,50
0
650,905,25

0
7/ 2011
409,635,00
0
130,275,50
0

17,571,500
38,765,50
0
596,247,50
0
8/ 2011
348,408,75
0
133,130,50
0

13,572,000
31,521,00
0
526,632,25
0
9/ 2011
379,347,80
0
141,686,00
0

14,949,000

30,884,50
0
566,867,30
0
10/ 2011
489,845,84
9
208,816,65
4

18,814,953
56,613,89
4
774,091,35
0
11/ 2011
503,091,50
4
184,938,16
4

21,891,704
32,391,02
8
742,312,40
0
12/ 2011
506,348,73
8
189,897,90

3

22,124,051
56,146,00
9
774,516,70
0
1/ 2012
301,360,30
0
114,462,32
4

10,589,390
29,256,54
7
455,668,56
0
2/ 2012
225,828,80
0
88,999,90
0

9,387,500
21,410,00
0
345,626,20
0
3/ 2012

308,720,85
7
115,615,12
4

11,813,977
26,809,26
7
462,959,22
5
4/ 2012
537,442,27
5
188,007,50
0

26,667,000
54,944,00
0
807,060,77
5
5/ 2012
478,047,40
0
161,046,10
0

19,905,000
28,443,00
0

687,441,50
0
Biểu đồ doanh thu của cả 3 cửa hàng theo tháng:
Dễ dàng nhận thấy :
- Những tháng cao điểm: T4, 5, 6, 10, 11, 12
- Tháng trung bình: T7, 8, 9
- Tháng thấp điểm: T1, 2, 3
Bảng doanh số bình quân theo tháng:
BÌNH QUÂN 1 THÁNG
67 NTNA HÒA MÃ
KHÂM
THIÊN
67 NTNB

413,021,585

149,364,26
4 16,477,631 36,997,270
Tháng cao điểm
T4,5,6,10,11,1
2
497,159,586
178,033,63
7
19,974,701 44,220,072
Tháng bình
thường
T7,8,9 379,130,517
135,030,66
7

15,364,167 33,723,667
Tháng thấp điểm T1,2,3 278,636,652
106,359,11
6
10,596,956 25,825,271
Doanh thu của các cửa hàng hiện nay không có sự tương đồng cao do tính chất việc bán hàng
theo mùa vụ và những lý do khách quan đã được nêu ở phần trên.
Để tăng doanh số của các cửa hàng, ngoài những giải pháp đã được nêu, tôi đề xuất đưa ra bảng
khoán lương theo doanh số như sau:

Thời gian
Thời gian theo
mùa 67 NTNA HÒA MÃ
KHÂM
THIÊN 67 NTNB
Tháng cao điểm

T4,5,6,10,11,12

480,000,00
0

170,000,000

30,000,000

40,000,000
Tháng bình
thường T7,8,9


400,000,000

145,000,000

25,000,000

35,000,000
Tháng thấp điểm T1,2,3

300,000,000

115,000,000

20,000,000

28,000,000
- Nếu đạt mức doanh thu trên, nhân viên tại các cửa hàng sẽ đạt mức lương như sau:
Cửa hàng trưởng: 5triệu / tháng
Nhân viên : 3 triệu / tháng
- Ngoài ra, sẽ có mức thưởng, phạt cho toàn bộ nhân viên tại cửa hàng là 10% / phần chênh
lệch doanh số ( doanh số thực – doanh số chỉ tiêu) của cửa hàng tháng đó. Mức thưởng, phạt
này được chia đều theo ngày công của nhân viên. Mức lương tối thiểu nhân viên được nhận
là 2,5 triệu/ tháng.
- Riêng với cửa hàng ở Khâm Thiên, nếu đạt mức doanh thu này mức lương nhân viên là 3,5
triệu/ tháng. Ngoài ra, ở cửa hàng này, phải kết hợp với các giải pháp đã nêu ở trên để tránh
lãng phí tài nguyên của Công ty và nhằm tăng doanh thu cho cửa hàng.
- Hàng tháng, các cửa hàng sẽ tổ chức bình bầu nhân viên xuất sắc, mỗi nhân viên xuất sắc sẽ
được thưởng 5 trăm nghìn đồng.
III. Kết luận
Tuy đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong những năm qua nhưng Doximex vẫn còn

nhiều khó khăn cần khắc phục, Chất lượng sản phẩm của Công ty khá tốt đó là một trong những
thế mạnh khi Công ty tham gia cạnh tranh trên thị trường. Nhưng hiện nay vẫn đề mẫu mã và
kiểu dáng sản phẩm của Công ty vẫn còn đơn điệu, chưa đáp ứng được xu thế thời trang của thị
trường. Bên cạnh đó thì thị trường trong nước tràn ngập các loại sản phẩm hàng hóa của nước
ngoài, đặc biệt là hàng Trung Quốc xâm nhập vào thị trường nước ta. Đặc trưng của các loại sản
phẩm này là kiểu cách, mẫu mã và giá cả khá phù hợp với thu nhập và thị hiếu người tiêu dùng.
Nên công tác đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm củ Công ty tại thị trường Hà Nội nói riêng và thị
trường nội địa nói chung cần được quan tâm nhiều hơn nữa. Việc đẩy mạnh công tác thị trường,
mở rộng mạng lưới phân phối tại khu vực Hà Nội và các tỉnh lân cần được chú trọng, thực hiện
tốt hơn nữa các hoạt động xúc tiến bán, hoàn chỉnh giá cả và cũng cần chú ý đến các yếu tố ảnh
hưởng đến hoạt động tiêu thụ của Công ty, để kịp thời đưa ra các biện pháp khắc phục tối ưu
nhất.
Với truyền thống sản xuất kinh doanh đã được tích lũy lâu năm, đội ngũ cán bộ có nhiều
kinh nghiệm và nhiệt huyết, cùng các chiến lược và giải pháp đúng đắn, chắc chắn rằng trong
thời gian tới sản phẩm của Công ty sẽ được phân phối rộng rãi trên khắp các vùng miền trên đất
nước và không ngừng vươn xa. Khẳng định sản phẩm của Doximex là hàng Việt Nam chất lượng
cao, đáp ứng được mọi nhu cầu của người dân Việt.

×