Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng 9đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.36 KB, 45 trang )

z
Page | 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA QUẢN TRỊ
LỚP QUẢN TRỊ-LUẬT 16/2
MÔN : TỐ TỤNG HÌNH SỰ
MỤC LỤC
Page | 2
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN
BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRONG LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG
LỜI NÓI ĐẦU
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS 2003) của nước ta dành riêng Chương
VI trong phần “Những quy định chung” để quy định về các biện pháp ngăn chặn
(BPNC).Trong số các BPNC đó thì biện pháp tạm giam là nghiêm khắc nhất và vì vậy nên
khi áp dụng biện pháp này cũng gây ảnh hưởng nhiều nhất đến quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Nếu bắt, giam, giữ oan, sai sẽ xâm phạm đến quyền tự do dân chủ của công
dân và các quyền lợi ích hợp pháp khác của con người được pháp luật bảo hộ. Ngược lại,
không bắt, giam, giữ người phạm tội để người đó tự do ngoài vòng pháp luật, tiếp tục gây
án hoặc trốn tránh gây khó khăn cho việc điều tra, xử lí vụ án cũng làm thiệt hại đến lợi ích
của con người, của cộng đồng, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước. Sau khi
có hiệu lực thi hành, BLTTHS 1998 cho thấy còn có nhiều vướng mắc nhất định khi áp
dụngbiện pháp này do chưa quy định cụ thể về trình tự thủ tục tiến hành đối với một số
trường hợp, đến BLTTHS 2003 mặc dù đã cơ bản khắc phục được những khó khăn nêu
trên, nhưng lại phát sinh nhiều bất cập khác trong quá trình áp dụng trên thực tiễn đòi hỏi
nhà làm luật phải tiếp tục nghiên cứu để có quy định phù hợp thực tế, đảm bảo công tác
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự đạt hiệu quả cao nhất, bảo vệ tối đa quyền lợi
công dân.
Bài tiểu luận của nhóm lấy đề tài “Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự và thực
tiễn áp dụng” với mục đích làm rõ hơn các quy định cụ thể về tạm giam trong pháp luật và


đối chiếu với thực tế để tìm ra những khúc mắc, bất cập và nguyên nhân của nó cũng như
đưa ra hướng giải quyết thỏa đáng góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng của chế định này.
Chân thành cảm ơn cô đã dành thời gian xem xét bài tập của nhóm, bài tiểu luận còn
nhiều thiếu sót rất mong nhận được sự thông cảm và góp ý từ cô để nhóm có thể khắc phục
được những khuyết điểm cũng như mở rộng hơn vốn kiến thức của mình.
Page | 3
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIAM
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM:
1. CÁC KHÁI NIỆM :
1.1. Biện pháp ngăn chặn :
Phân tích, tổng hợp 16 điều luật quy định về biện pháp ngăn chặn từ Điều 79 đến
Điều 94 BLTTHS 2003 ta đưa ra khái niệm về BPNC như sau :
“BPNC là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã, người bị kết án hoặc đối với người
chưa bị khởi tố (trong trường hợp bắt khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) theo những trình
tự, thủ tục nhất định do Pháp luật Tố tụng hình sự quy định nhằm ngăn chặn tội phạm, đảm
bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được tiến hành thuận lợi và đạt hiệu
quả cao”.
Những BPNC này bao gồm : Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh và
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
1.2. Tạm giam :
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ Luật Tố tụng hình sự
(Điều 88 BLTTHS 2003) do Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát hoặc Toà án áp dụng nhằm
buộc những người có Lệnh tạm giam cách ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất định để
ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
đảm bảo thi hành án phạt tù hoặc án tử hình.
1.3. Người bị tạm giam :
Người bị tạm giam là bị can, bị cáo, người bị kết án tù hoặc tử hình bị bắt để tạm
giam và đối với họ đã có Lệnh tạm giam.
1.4. Trại tạm giam :

Page | 4
Trại tạm giam là nơi giam, giữ những “Người bị tạm giam”, những người bị kết án
tù hoặc tử hình đang chờ thi hành án. Trại tạm giam được chia thành 2 loại: Trại tạm giam
thuộc Bộ Công an, Công an cấp tỉnh và Trại tạm giam quân sự - giam, giữ những đối tượng
thuộc thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Toà án
trong Quân đội nhân dân ( Tòa án quân đội).
Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, mỗi Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây
gọi là Công an cấp tỉnh), Quân khu, Quân đoàn và cấp tương đương trong Quân đội nhân
dân được tổ chức một hoặc hai Trại tạm giam.
2. MỤC ĐÍCH TẠM GIAM :
- Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ rằng bị can, bị cáo sẽ gây
khó khăn cho điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như cần đảm bảo
thi hành án.
- Đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của
mình trong công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự pháp
luật và pháp chế.
- Bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
3. ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM :
- Khoản 1 và khoản 2 Điều 88 BLTTHS 2003
- Trường hợp đặc biệt :
+ Bị can, bị cáo đã thành niên phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà Bộ
luật Hình sự quy định hình phạt tù từ 2 năm trở xuống nếu họ bỏ trốn và có lệnh
truy nã.
Giải thích : Mặc dù điểm b khoản 1 Điều 88 có quy định “…bị can, bị cáo phạm tội
nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm…” thì mới bị áp
dụng biện pháp tạm giam, tuy nhiên tại điểm này cũng không loại trừ biện pháp tạm giam
đối với trường hợp phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt
tù từ 2 năm trở xuống nên trong trường hợp đối tượng này bỏ trốn. Khi này Cơ quan điều
traphải ra quyết định truy nã theo Điều 161 BLTTHS 2003 đối với những đối tượng này.
Page | 5

Sau đó căn cứ quy định tại Điều 83 của Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định về “Những việc
làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt theo lệnh truy nã”để tiến hành tạm giam họ.
Như vậy, đối với trường hợp bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà
BLHS quy định hình phạt tù từ 2 năm trở xuống bỏ trốn và đã có lệnh truy nã thì khi bắt
được đối tượng bị truy nã, việc Cơ quan điều tra áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ là
không trái với quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
+ Bị can, bị cáo chưa thành niên đang ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phạm
tội ít nghiêm trọng mà có hành động bỏ trốn , khi bị phát hiện đã đủ 18 tuổi (thành
niên) và có đủ các căn cứ quy định tại điểm b khoản 1 điều 88 BLTTHS 2003.
Giải thích : Theo quy định tại Điều 303 BLTTHS 2003 quy định về việc bắt, tạm giữ, tạm
giam đối với người chưa thành niên thì người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ có thể bị
bắt, tạm giữ, tạm giam trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội
rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Bởi vậy, đối với những bị can, bị
cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý thì không áp dụng biện
pháp tạm giam đối với họ. Tuy nhiên, nếu họ bỏ trốn mà khi CQĐT bắt được họ đã đủ 18
tuổi và có đủ căn cứ quy định tại điểm b khoản 1 điều 88 BLTTHS thì có quyền áp dụng
biện pháp tạm giam đối với họ mà không trái với quy định tại Điều 303 BLTTHS.
4. CĂN CỨ ÁP DỤNG, THAY THẾ, HỦY BỎ BIỆN PHÁP TẠM GIAM :
4.1. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam :
4.1.1. Trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam :
Như đã nói, so với các biện pháp ngăn chặn khác được quy định trong BLTTHS thì
biện pháp tạm giam là biện pháp có tính chất nghiêm khắc nhất, ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạt động của các cơ quan pháp luật , quyền lợi chính trị và quyền tự do của con
người. Vì vậy muốn áp dụng biện pháp này nhất thiết cần phải có những căn cứ rõ
ràng, xác đáng, không áp dụng tùy tiện, bừa bãi.
Vì tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định trong
BLTTHS nên căn cứ đầu tiên để áp dụng biện pháp tạm giam cũng chính là căn cứ áp
Page | 6
dụng biện pháp ngăn chặn nói chung quy định tại Điều 79 và cụ thể hóa tại Điều 88
quy định riêng đối với biện pháp tạm giam. Theo đó, để áp dụng biện pháp tạm giam

cần phải bám sát hai căn cứ sau :
- Thứ nhất, bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm
trọng.
+ Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng : (khoản 3 điều 8 BLHS 1999) Tội phạm gây
nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của hình phạt là trên mười lăm
(15) năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
+ Tội phạm rất nghiêm trọng : (khoản 3 điều 8 BLHS 1999) Tội phạm gây nguy
hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt là đến 15 năm tù.
Dựa vào tính chất nguy hiểm và mức độ thiệt hại từ rất lớn đến đặc biệt lớn đối với
xã hội của hai loại tội phạm trên, pháp luật áp dụng biện pháp tạm giam mà không cần điều
kiện kèm theo như cản trở, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, khả năng
tiếp tục phạm tội hay bỏ trốn vì mức độ nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm này đã bao
gồm khả năng xảy ra các hành vi trên.
- Thứ hai, bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà BLHS quy định
hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể bỏ trốn hoặc cản
trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
+ Tội phạm nghiêm trọng : Tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt lên đến bảy năm tù. (khoản 3 Điều 8 BLHS 1999)
+ Tội phạm ít nghiêm trọng : Tội phạm gây nguy hại cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt lên đến ba năm tù. (khoản 3 Điều 8 BLHS 1999)
Dựa vào tính chất mức độ nguy hại cho xã hội không lớn nên việc áp dụng biện pháp
tạm giam đối với loại tội phạm này cần phải xem xét thêm các điều kiện khác.
• Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng mà hình phạt tù đối
với hành vi phạm tội này là trên hai năm.
Page | 7
Việc xác định căn cứ hình phạt tù là trên hai năm đặt ra hai quan điểm. Một là,
phạm tội ở bất cứ khoản nào của điều luật mà trong điều luật đó có quy định khung hình
phạt cao nhất của khoản nặng nhất là trên hai năm tù. Hai là, khi bị can, bị cáo bị khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử theo một khoản cụ thể nào của điều luật thì áp dụng mức hình phạt
tù cao nhất mà khoản đó quy định. Hiện nay hai quan điểm này vẫn còn đang tranh cãi, tuy

nhiên trên thực tế vẫn xác định theo cách thứ hai nhiều hơn vì ngoài việc giúp xác định cơ
sở áp dụng tạm giam theo hướng có lợi và rõ ràng hơn cho tội phạm còn là cơ sở để xác
định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử trong quá trình giải quyết vụ án dễ dàng hơn.
• Phải có căn cứ cho rằng người này có thể bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy
tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Trường hợp này luật không giải thích cụ thể thế nào là “có căn cứ” mà phần lớn việc
xác định căn cứ này trên thực tế phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan tiến hành tố
tụng. Để xác định căn cứ này thông thường cơ quan tiến hành tố tụng phải tìm hiểu về hoàn
cảnh, nhân thân bị can, bị cáo; xem xét các biểu hiện trốn tránh như tẩu tán tài sản, vắng
mặt nhiều lần khi được triệu tập, mua vé đi xa, v.v…; ghi nhận các hành vi cản trở gây khó
khăn cho việc điều tra như tiêu hủy chứng cứ, thông cung, mua chuộc người làm chứng,
v.v…; có tài liệu cho thấy đây là những đối tượng tái phạm, tái phạm nguy hiểm, tội phạm
có tính chất chuyên nghiệp, côn đồ, v.v…
- Thứ ba, bị can, bị cáo bị bắt trong trường hợp bị truy nã.
Theo đoạn 3 khoản 2 Điều 83 quy định về những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc
nhận người bị bắt: “… cơ quan đã ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt để tạm giam
phải ra ngay lệnh tạm giam…”, người bị bắt do bị truy nã dù phạm tội trong trường hợp
nào thì cũng phải tạm giam.
4.1.2. Trường hợp hạn chế áp dụng biện pháp tạm giam :
- Khoản 2 Điều 88 BLTTHS 2003 :
Page | 8
“Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là
người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp
dụng những biện pháp ngăn chặn khác”
Không áp dụng bện pháp tạm giam với những trường hợp như vậy là vừa hợp lý lại
thuận tình. Đó là những đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt và có diễn biến tâm sinh lý không
giống với những người khỏe mạnh bình thường, chính vì thế, xã hội luôn đặt sự an toàn
của phụ nữ mang thai, trẻ em và người già lên vị trí cao nhất, vì họ là những đối tượng cần
được chăm sóc và bảo vệ trước hết. Theo luân lý thường tình giữa con người với nhau,
cùng với chính sách thể hiện truyền thống nhân đạo của dân tộc, sự ra đời của điều luật này

là một điều tất yếu. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp bị can, bị cáo thuộc những đối
tượng trên, nhưng lại mang tính chất nguy hiểm, cơ quan có thẩm quyền có đầy đủ căn cứ
khẳng định họ có thể sẽ gây nguy hại cho xã hội hoặc có thể bỏ trốn, thì buộc phải tạm
giam để phục vụ tối đa cho quá trình tố tụng hình sự, và điều này cũng được quy định trong
điểm a,b,c khoản 2 Điều 88 BLTTHS:
“ a. Bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc bị bắt theo lệnh truy nã
b. Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm
tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử
c. Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng
nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.”
- Bị can, bị cáo là người chưa thành niên :
Cần lưu ý biện pháp tạm giam vẫn có thể được áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội. Nhưng vì đây là đối tượng đặc biệt, có những đặc điểm khác biệt về
tâm lý, hành động chưa chín chắn nên pháp luật TTHS có những quy định điều
chỉnh riêng, áp dụng đồng thời với các quy định khác. Căn cứ áp dụng biện pháp
tạm giam đối với người chưa thành niên được quy định tại Điều 303 BLTTHS 2003
gồm hai trường hợp :
Page | 9
“1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có
đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ
trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có
đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ
trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng
hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.”
4.2. Căn cứ thay thế, hủy bỏ biện pháp tạm giam :
4.2.1. Căn cứ thay thế biện pháp tạm giam
- Theo Điều 94 BLTTHS, khi bị can, bị cáo đang bị tạm giam nhưng xét thấy không cần
thiết phải tiếp tục tạm giam và có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm

khắc hơn đối với họ thì chủ thể có thẩm quyền sẽ thay đổi biện pháp tạm giam bằng
một biện pháp khác phù hợp.
Sau khi đã thay đổi tạm giam bằng biện pháp ngăn chặn khác mà xét thấy cần thiết
phải tạm giam thì Tòa án vẫn có quyền áp dụng lại biện pháp tạm giam với điều kiện
còn trong giai đoạn xét xử.
- Hết thời hạn tối đa tạm giam bị can, bị cáo hoặc hết thời hạn tạm giam mà không gia
hạn và xét thấy cần phải áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn (Điều
120 BLTTHS 2003).
4.2.2. Căn cứ hủy bỏ biện pháp tạm giam
Theo quy định tại điều 94 BLTTHS 2003, biện pháp tạm giam được hủy bỏ trong các
trường hợp sau :
- Vụ án đang được giải quyết bị đình chỉ :
Như đã trình bày, mục đích của tạm giam là tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án nên khi vụ án bị đình chỉ thì tạm giam không còn ý nghĩa nữa.
Page | 10
Do vậy, khi một vụ án đang giải quyết mà bị đình chỉ thì việc hủy bỏ biện pháp tạm giam
là thủ tục bắt buộc.
- Cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án xét thấy không
cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm giam :
Hiện nay pháp luật tố tụng hình sự không quy định hay giải thích cụ thể thế nào là “không
còn cần thiết” nên chi tiết này đặt ra nhằm tạo điều kiện để việc giải quyết vụ án trở nên dễ
dàng và linh hoạt hơn cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Nói vậy không có nghĩa là các cơ
quan tiến hành tố tụng có thể tùy tiện quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam, vì pháp luật
có quy định điều kiện áp dụng biện pháp tạm giam và việc áp dụng là cần thiết cho hoạt
động tố tụng vụ án hình sự. Do vậy, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được cho là “không còn
cần thiết” khi việc hủy bỏ biện pháp tạm giam không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết
vụ án hình sự.
Thông thường, việc hủy bỏ biện pháp tạm giam do thấy “không còn cần thiết” nữa thường
được áp dụng trong các trường hợp: Người đang bị tạm giam có nơi cư trú rõ ràng, phạm
tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thái độ khai báo thành khẩn , v.v…

5. THẨM QUYỀN RA LỆNH TẠM GIAM
Tại khoản 3, Điều 88 và khoản 1 Điều 80 BLTTHS có quy định cụ thể những người có
thẩm quyền ra lệnh tạm giam; tuy nhiên, để hiểu sâu hơn về vấn đề này, ta cần phải nghiên
cứu thẩm quyền ra lệnh tạm giam của các cơ quan chức năng qua từng giai đoạn: giai đoạn
điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử và thi hành án
5.1. Giai đoạn điều tra:
- Đây là giai đoạn xác định tội phạm và người thực hiện tội phạm để làm cơ sở cho việc
xét xử của Tòa án, vì thế, cơ quan đầu tiên có thẩm quyền ra lệnh tạm giam trong giai
đoạn này chính là Cơ quan điều tra như: Bộ đội Biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ
quan Kiểm Lâm, lực lượng Cảnh sát biển và một số cơ quan khác của Công an nhân
Page | 11
dân và Quân đội nhân dân, và đặc biệt chỉ những người có thẩm quyền của các Cơ
quan điều tra này mới có quyền ra lệnh tạm giam, đó là Thủ trưởng và Phó Thủ trưởng
các cấp. Tuy nhiên lệnh tạm giam đó sẽ không có hiệu lực thi hành nếu không có sự
phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp (khoản 3 Điều 88, điểm d khoản 1 Điều 80
BLTTHS)
- Ngoài ra, cơ quan thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra – Viện kiểm sát –
cũng có thẩm quyền ra lệnh tạm giam đối với bị can bị cáo. Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiển sát quân sự các cấp có quyền ra quyết
định tạm giam theo quy định tại khoản 4 Điều 114, điểm c khoản 2,3 Điều 36, khoản 3
Điều 88 và điểm a khoản 1 Điều 80 BLTTHS. Quyết định này của Viện kiểm sát buộc
các Cơ quan điều tra phải thực hiện và chỉ có thể kiến nghị nếu không đồng ý.
5.2. Giai đoạn truy tố:
Đây là một giai đoạn tố tụng độc lập, trong đó Viện kiểm sát sẽ thi hành quyền đặc
trưng của mình, đó là quyền truy tố bị can trườc Tòa án (Điều 13, Luật Tổ chức Viện kiểm
sát). Chính vì vậy, cơ quan duy nhất có thẩm quyền ra lệnh tạm giam trong giai đoạn này là
Viện kiểm sát, căn cứ khoản 3 Điều 88 và điểm a khoản 1 Điều 80, Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp là người có thẩm quyền
ra lệnh tạm giam bị can bị cáo trong giai đoạn này nhằm bảo đảm việc truy tố bị can, bị cáo
trước Tòa án.

5.3. Giai đoạn xét xử và thi hành án:
- Giai đoạn xét xử là giai đoạn quan trọng của một hoạt động tố tụng hình sự, có tính
chất quyết định bị cáo có tội hay vô tội, và chỉ có Tòa án khi nhân danh Nhà nước mới
có thẩm quyền kết tội một người. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án do Viện
kiểm sát chuyển sang, thẩm phán được phân công chủ tọa có thể ra quyết định đối với
các biện pháp ngăn chặn khi cần thiết, tuy nhiên, riêng đối với biện pháp tạm giam chỉ
có Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án mới có thẩm quyền ra quyết định trong giai
đoạn này (Điều 177 BLTTHS 2003)
- Giai đoạn sau khi tuyên án và thi hành án: Biện pháp ngăn chặn tạm giam còn được áp
dụng trong giai đoạn này trong một số trường hợp đặc biệt.
Page | 12
• Hội đồng xét xử có thẩm quyền quyết định tạm giam bị cáo nếu thấy cần thiết để bảo
đảm cho quá trình xét xử và sau khi tuyên án để đảm bảo việc thi hành án.
• Trong khi chuẩn bị xét xử phúc thẩm, thẩm quyền đối với biện pháp tạm giam thuộc
về Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu,
Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao.
• Sau khi tuyên án, Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định tạm giam đối với bị cáo
theo quy định của pháp luật tại Điều 228 BLTTHS “Bắt tạm giam bị cáo sau khi
tuyên án”.
6. THỦ TỤC TẠM GIAM
Theo từ điển Tiếng việt thì thủ tục có nghĩa là : “Thứ tự và cách thức làm việc theo một lề
thói đã được qui định” . Một cách khác hơn, thủ tục được đề cập đến không chỉ nói tới thủ
tục thực hiện Lệnh tạm giam mà còn được trình bày đến thủ tục mà bị can, bị cáo phải thực
hiện trong quá trình tạm giam.
6.1. Thủ tục trước khi ra Lệnh tam giam:
Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại
Điều 80 BLTTHS có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam phải ghi rõ ngày, tháng,
năm, họ tên của người ra lệnh; họ tên, ngày, tháng, năm sinh của người bị tạm giam; lý do
tạm giam, thời hạn tạm giam; Ban giám thị trại tạm giam có trách nhiệm thi hành lệnh tạm

giam, lệnh tạm giam phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu. Lệnh tạm giam của
những người được quy định tại điểm d, khoản 1 điều 80 của BLTTHS phải được Viện
Kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
- Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và
hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc
quyết định không phê chuẩn VKS phải hoàn trả hồ sơ cho CQĐT ngay sau khi kết thúc
việc xét phê chuẩn.
Page | 13
- Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo
ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết.
- Chế độ tạm giam khác với chế độ người đang chấp hành hình phạt tù ở chỗ: quy định
về nơi tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác.
6.2. Những thủ tục cần thiết đối với bị can, bị cáo đang chấp hành Lệnh
tạm giam:
-
Thứ nhất,kiểm sát đối tượng, thủ tục, thẩm quyền và thời hạn tạm giam phải đảm bảo
các yêu cầu:

Khi tiếp nhận một người bị tạm giam vào nơi giam hoặc ra khỏi nơi giam phải kiểm
tra các lệnh, quyết định (phải có các lệnh, quyết định đang còn hiệu lực pháp luật
của các cơ quan và người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật); có biên bản
giao, nhận hồ sơ, giao nhận người; xác nhận tình trạng sức khỏe của họ; biên bản
tạm giữ tư trang, tài sản (nếu có).

Biên bản bắt, tạm giam phải ghi rõ lý do tạm giữ, tạm giam, tạm giam từ ngày, tháng
năm đến ngày, tháng năm.

Đối tượng chuyển từ trại tạm giam khác đến phải có quyết định điều chuyển; lệnh
tạm giam đang còn hiệu lực pháp luật; có danh chỉ bản; có các quyết định xử lý.

Quyết định khởi tố bị can, chuyển tạm giam, các quyết định áp dụng biện pháp ngăn
chặn khác, quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giữ, quyết định trả tự do vì không đủ
căn cứ; có các tài liệu khác như: Biên bản vi phạm và quyết định xử lý kỷ luật người
bị tạm giữ, tạm giam.

Nếu người bị giam chết phải có biên bản xác định nguyên nhân chết có sự chứng
kiến của đại diện Viện kiểm sát; biên bản trả tư trang, tài sản khi người bị giam được
trả tự do, chuyển nơi giam khác (phải có xác nhận của người nộp, người nhận). Các
Page | 14
biên bản này phải ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm, dấu, chữ ký của những người có
trách nhiệm.

Các lệnh, quyết định của cơ quan và người có thẩm quyền phải ghi rõ: Cơ quan, họ
tên, chức vụ, cấp bậc người ra lệnh; Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi đăng ký
thường trú, ngày bị bắt, tội danh, ngày bị tạm giam. Các loại lệnh, quyết định, biên
bản trong hồ sơ giam đều phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, ký tên và đóng dấu.

Khi kiểm sát trại tạm giam nếu phát hiện các trường hợp hết thời hạn tạm giam mà
người đó vẫn đang bị giam thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo viện, yêu cầu cơ quan
và người có thẩm quyền trả tự do cho họ. Việc tính thời thời hạn tạm giam và cách
ghi thời hạn trong lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra có đúng mục 6 Thông tư liên
tịch số 05/2005/BCA-BQP-VKSTC ngày 7/9/2005; Qua kiểm sát giam mà phát hiện
thấy việc tạm giam không có căn cứ, không đảm bảo các thủ tục, không đúng thẩm
quyền, quá thời hạn thì phối hợp với kiểm sát điều tra xem xét và báo cáo Viện
trưởng Viện kiểm sát để giải quyết.
-
Thứ hai, kiểm sát việc phân loại, quản lý người bị tạm giam theo quy định của pháp
luật.

Khi tiến hành kiểm sát phải xem xét việc tuần tra canh gác 24/24 giờ trại tạm giam

để giải quyết kịp thời các việc đột xuất có thể xảy ra. Phải kiểm tra, xem xét các
buồng giam. Chú ý các buồng chấp hành án phạt tù tại buồng giam người phạm tội
thuộc các trường hợp phải giam riêng theo quy định của pháp luật. Nhà tạm giữ có
buồng tạm giam, buồng chấp hành án phạt tù phải có biển ghi buồng tạm giam,
buồng chấp hành án phạt tù.

Kiểm sát việc xử lý kỷ luật đối với người bị giam (Qua nghiên cứu hồ sơ, quan sát,
hỏi người bị kỷ luật, thăm buồng kỷ luật), bảo đảm việc xử lý kỷ luật đúng theo quy
Page | 15
định tại khoản 3 Điều 32 Nghị định số 89/NĐ-CP ngày 7/1/1998 và khoản 6 Điều 1
Nghị định 98/ NĐ-CP ngày 27/11/2002.
-
Thứ ba, kiểm sát việc thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam, phạm
nhân.

Kiểm tra chế độ ăn uống, ở, sinh hoạt, quần áo, chăn màn theo quy định của pháp
luật về tạm giam. Người bị tạm giam được gặp người thân (nếu có thể); được nhận
quà tiếp tế của gia đình (theo quy định của pháp luật), được khám chữa bệnh khi đau
ốm, được học tập.

Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của người bị tạm giam về việc tạm giam
trái pháp luật hoặc các hành vi trái với Quy chế tạm giam.
-
Thứ tư,kiểm sát việc đảm bảo an toàn về tính mạng, tài sản, nhân phẩm, danh dự của
người bị tạm giam và các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn
trọng.
6.3. Những thủ tục cần thiết khi Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh tạm giam
trong trường hợp người đang bị tạm giữ bị khởi tố bị can
(Khoản 3 Điều 88)
Để đảm bảo trong thời gian Viện kiểm sát xét phê chuẩn lệnh tạm giam đối với

người đang bị tạm giữ bị khởi tố bị can vẫn còn trong thời hạn tạm giữ thì chậm nhất 12
giờ trước khi hết thời hạn tạm giữ hoặc gia hạn tạm giữ, Cơ quan điều tra phải giao hồ sơ
đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và đề nghị phê chuẩn lệnh tạm giam bị can cho
Viện kiểm sát cùng cấp khi hồ sơ đã chuyển cho Viện kiểm sát cùng cấp. Khi hồ sơ đã
chuyển cho Viện kiểm sát để xét phê chuẩn, nếu có tài liệu bổ sung thì cơ quan điều tra
phải chuyển ngay cho Viện kiểm sát để kịp thời phục vụ cho việc xét phê chuẩn.
Trường hợp này, việc xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can được tiến hành cùng
với việc xét phê chuẩn lệnh tạm giam bị can. Nếu chưa đủ căn cứ khởi tố bị can, nhưng có
Page | 16
căn cứ gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra gia quyết định gia hạn
tạm giữ và gửi ngay cho Viện kiểm sát phê chuẩn. Trong thời hạn gia hạn tạm giữ đó, Cơ
quan điều tra phải khẩn trương thu thập, củng cố tài liệu, chứng cứ và chuyển ngay cho
Viện kiểm sát để xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can.
- Nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can
và yêu cầu Cơ quan điều tra trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Trường hợp có gia
hạn tạm giữ, nếu không phê chuẩn thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định
khởi tố bị can và ra quyết định trả tự do cho người bị tạm giữ.
- Nếu thấy việc khởi tố bị can là có căn cứ, nhưng không cần thiết phải tạm giam bị can
thì Viện kiểm sát ra quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và ra quyết định
không phê chuẩn lệnh tạm giam; nếu xét cần thì yêu cầu Cơ quan điều tra áp dụng biện
pháp ngăn chặn khác đối với bị can.
Hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và phê chuẩn lệnh tạm giam trong
trường hợp người đang bị tạm giữ bị khởi tố bị can, gồm các tài liệu sau đây:
- Công văn đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và đề nghị phê chuẩn lệnh
tạm giam bị can;
- Quyết định tạm giữ, quyết định gia hạn tạm giữ (nếu có); lệnh tạm giữ bị can;
- Quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can;
- Biên bản ra quyết định khởi tố bị can có chữ ký hoặc điểm chỉ của bị can;
- Biên bản lấy lời khai người bị tạm giữ, biên bản hỏi cung bị can (nếu có)
- Các tài liệu chứng minh hành vi phạm tội của bị can;

- Các tài liệu về nhân thân bị can;
- Bản kê tên các tài liệu trong hồ sơ và từng trang tài liệu được đóng dấu bút lục của Cơ
quan điều tra.
7. THỜI HẠN TẠM GIAM
7.1. Giai đoạn điều tra
Giai đoạn này có các loại thời hạn tạm giam sau:
Page | 17
• Thời hạn tạm giam để điều tra
• Thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra
• Thời hạn tạm giam để điều tra bổ sung
• Thời hạn tạm giam để điều tra lại.
7.1.1. Thời hạn tạm giam để điều tra
Thời hạn tạm giam và việc gia hạn tạm giam để điều tra được quy định tại Điều 120
BLTTHS và phụ thuộc vào từng loại tội. Cụ thể:
- Tội phạm được điều tra là tội ít nghiêm trọng :
Thời hạn tạm giam không quá hai tháng. Thời hạn này có thể được gia hạn một lần không
quá một tháng. Trong khi đó, Điều 119 BLTTHS quy định: “Thời hạn điều tra vụ án
không quá hai tháng đối với tội ít nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến khi
kết thúc điều tra và có thể được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng”. Như vậy,
tổng thời hạn điều tra một vụ án về tội ít nghiêm trọng là 4 tháng và tổng thời hạn tạm
giam để điều tra một vụ án về tội ít nghiêm trọng là 3 tháng.Riêng đối với những vụ án về
tội ít nghiêm trọng được áp dụng thủ tục rút gọn thì thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố
được quy định tại khoản 3 Điều 322 BLTTHS là không được quá mười sáu ngày.
- Tội phạm được điều tra là tội nghiêm trọng :
Thời hạn tạm giam không quá ba tháng. Thời hạn này có thể được gia hạn hai lần, lần thứ
nhất không quá 2 tháng, lần thứ hai không quá một tháng. Trong khi đó, Điều 119
BLTTHS quy định: “Thời hạn điều tra vụ án đối với tội nghiêm trọng không quá ba tháng,
kể từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến khi kết thúc điều tra và có thể được gia hạn điều
tra hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng”. Như vậy,
Page | 18

tổng thời hạn điều tra một vụ án về tội nghiêm trọng là 8 tháng và tổng thời hạn tạm giam
để điều tra một vụ án về tội nghiêm trọng là 6 tháng.
- Tội phạm được điều tra là tội rất nghiêm trọng :
Thời hạn tạm giam không quá bốn tháng. Thời hạn này có thể được gia hạn hai lần, lần
thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng. Trong khi đó, Điều 119
BLTTHS quy định: “Thời hạn điều tra vụ án đối với tội rất nghiêm trọng không quá bốn
tháng, kể từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến khi kết thúc điều tra và có thể được gia hạn
điều tra hai lần, mỗi lần không quá bốn tháng”. Như vậy, tổng thời hạn để điều tra một vụ
án về tội rất nghiêm trọng là 12 tháng và tổng thời hạn tạm giam điều tra một vụ án về tội
rất nghiêm trọng là 9 tháng.
- Tội phạm được điều tra là tội đặc biệt nghiêm trọng :
Thời hạn tạm giam không quá bốn tháng. Thời hạn này có thể được gia hạn ba lần mỗi lần
không quá bốn tháng. Và tại Điều 119 BLTTHS cũng quy định: “Thời hạn điều tra vụ án
đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không quá bốn tháng, kể từ khi khởi tố vụ án hình sự cho
đến khi kết thúc điều tra và có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá bốn
tháng”. Tổng thời hạn để điều tra một vụ án về tội đặc biệt nghiêm trọng là 16 tháng và
tổng thời hạn tạm giam để điều tra một vụ án về tội đặc biệt nghiêm trọng cũng là 16
tháng.
7.1.2. Thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra
Trong trường hợp có căn cứ theo quy định của BLTTHS cần phải tạm giam thì thời
hạn tạm giam để phục hồi điều tra không được quá thời hạn phục hồi điều tra quy định tại
khoản 1 Điều 121 BLTTHS. Như vậy, chỉ được tạm giam bị can để phục hồi điều tra khi
có đầy đủ các căn cứ quy định tại các Điều 88 và Điều 303 BLTTHS. Thời hạn phục hồi
điều tra được quy định tại khoản 1 Điều 121 BLTTHS là:
Page | 19
“… không quá hai tháng đối với tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng và tội rất nghiêm
trọng, không quá ba tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi có quyết định phục
hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra. Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính
chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn điều tra, cơ quan
điều tra phải có văn bản đề nghị viện kiểm sát gia hạn điều tra.

Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng được gia hạn điều
tra một lần không quá hai tháng;
b) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá
ba tháng.”
Do vậy, thời hạn tạm giam bị can để phục hồi điều tra đối với tội ít nghiêm trọng là
không quá hai tháng. Thời hạn tạm giam bị can để phục hồi điều tra đối với tội nghiêm
trọng là không quá hai tháng, có thể được gia hạn một lần nhưng không quá hai tháng.
Thời hạn tạm giam bị can để phục hồi điều tra đối với tội rất nghiêm trọng là không quá
hai tháng, có thể được gia hạn một lần không quá hai tháng. Thời hạn tạm giam bị can để
phục hồi điều tra đối với tội đặc biệt nghiêm trọng là không quá ba tháng và có thể được
gia hạn một lần nhưng không qua ba tháng.
7.1.3. Thời hạn tạm giam để điều tra bổ sung
Trong trường hợp có căn cứ của Bộ luật luật tố tụng hình sự cần phải tạm giam thì
thời hạn tạm giam để điều tra bổ sung không quá thời hạn điều tra bổ sung quy định tại
khoản 2 Điều này. Khoản 2 Điều 121 BLTTHS quy định thời hạn điều tra bổ sung như sau:
“Trong trường hợp vụ án do viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra
bổ sung không quá hai tháng; nếu do toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều
tra bổ sung không quá một tháng. Viện kiểm sát hoặc toà án chỉ được trả lại hồ sơ để điều
Page | 20
tra bổ sung không quá hai lần. Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày cơ quan điều tra
nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra”. Như vậy, thời hạn tạm giam bị can để điều tra
bổ sung không phụ thuộc vào loại tội mà tuỳ thuộc vào cơ quan (toà án hay viện kiểm sát)
trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu hồ sơ do viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời
hạn tạm giam đối với bị can là không quá hai tháng. Trường hợp này hồ sơ vụ án do viện
kiểm sát trả lại lần thứ hai để điều tra bổ sung thì thời hạn tạm giam đối với bị can để điều
tra bổ sung lần này cũng không quá hai tháng. Nếu hồ sơ do tòa án trả lại để điều tra bổ
sung thì thời hạn tạm giam đối với bị can là không quá một tháng. Trường hợp toà án trả
lại hồ sơ để điều tra bổ sung lần thứ hai thì thời hạn tạm giam bị can để điều tra bổ sung lần
thứ hai cũng là một tháng.

Với cách quy định thời hạn tạm giam và việc gia hạn tạm giam để phục hồi điều tra,
điều tra bổ sung bằng thời hạn phục hồi điều tra, thời hạn điều tra bổ sung nhà làm luật đã
khắc phục được những bất cập về thời hạn tạm giam để điều tra quy định tại Điều 120
BLTTHS. Nhưng việc quy định thời hạn tạm giam để điều tra lại tại Điều 121 BLTTHS:
“Thời hạn tạm giam và gia hạn tạm giam trong trường hợp vụ án được điều tra lại theo thủ
tục chung quy định tại Điều 120 của Bộ luật này” thì nhà làm luật lại quay trở lại những
bất cập về thời hạn như đã phân tích. Do vậy, về kĩ thuật lập pháp thì chỉ cần sửa đổi các
điểm a, b, c khoản 2 Điều 120 BLTTHS như đã đề cập thì đương nhiên khắc phục được
những bất cập (kéo theo) này.
7.2. Giai đoạn truy tố
Thời hạn tạm giam được quy định tại khoản 2 Điều 166 BLTTHS và không được quá thời
hạn để ra một trong bốn quyết định: Truy tố bị can trước toà án bằng bản cáo trạng; trả lại
hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Cũng giống như ở giai đoạn
điều tra, thời hạn tạm giam ở giai đoạn truy tố được quy định đối với từng loại tội phạm
như sau:
Page | 21
Thời hạn tạm giam bị can phạm tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng để truy tố là hai
mươi ngày; có thể được gia hạn thêm nhưng không quá mười ngày. Thời hạn tạm giam bị
can phạm tội rất nghiêm trọng để truy tố là ba mươi ngày có thể được gia hạn thêm nhưng
không quá mười lăm ngày. Thời hạn tạm giam bị can phạm tội đặc biệt nghiêm trọng để
truy tố là ba mươi ngày và có thể gia hạn thêm nhưng không quá ba mươi ngày.
7.3. Giai đoạn xét xử
Giai đoạn này có các loại thời hạn:
• Thời hạn tạm giam để bảo đảm cho việc xét xử sơ thẩm
• Thời hạn tạm giam bảo đảm cho xét xử phúc thẩm
• Thời hạn tạm giam để bảo đảm cho việc thi hành án
7.3.1. Thời hạn tạm giam để bảo đảm cho việc xét xử sơ thẩm
Bao gồm hai loại:
- Loại thứ nhất là thời hạn được tính bằng ngày, tháng và được ghi trong lệnh tạm giam
do chánh án, phó chánh án toà án quyết định sau khi thụ lí hồ sơ vụ án. Thời hạn này

được quy định cụ thể đối với từng loại tội, cụ thể, đó là: Ba mươi ngày đối với tội ít
nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội nghiêm trọng, hai tháng đối với tội rất
nghiêm trọng và ba tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng. Theo hướng dẫn của Toà
án nhân dân tối cao thì thời hạn tạm giam đối với từng trường hợp cụ thể như sau:
• Đối với bị can đang bị tạm giam mà khi thời hạn tạm giam gần hết (thời hạn tạm
giam còn lại không quá năm ngày) và xét thấy cần thiết tiếp tục tạm giam bị can thì
chánh án hoặc phó chánh án toà án ra lệnh tạm giam. Thời hạn tạm giam trong
trường hợp này được tính kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và không được quá bốn mươi
lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm nghiêm trọng,
Page | 22
hai tháng mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và ba tháng mười lăm
ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
• Đối với bị can đang bị tạm giam mà thời hạn tạm giam đang còn thì khi thời hạn tạm
giam gần hết (thời hạn tạm giam còn lại không quá năm ngày) cần phải xem xét có
cần thiết tiếp tục tạm giam nữa hay không. Nếu xét thấy cần thiết tiếp tục tạm giam
bị can (hoặc bị cáo, nếu đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử) thì chánh án hoặc phó
chánh án toà án ra lệnh tạm giam. Thời hạn tạm giam trong trường hợp này được
tính kể từ ngày tiếp theo ngày tạm giam cuối cùng của lệnh tạm giam trước đó và
không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử: Bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng; hai tháng đối với tội phạm nghiêm trọng; hai tháng mười lăm ngày
đối với tội phạm rất nghiêm trọng; ba tháng mười lăm ngày đối với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng
• Đối với bị can đang được tại ngoại, nếu sau khi nhận hồ sơ vụ án hoặc trong thời hạn
nghiên cứu hồ sơ vụ án xét thấy cần thiết áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ thì
chánh án hoặc phó chánh án toà án ra lệnh bắt và tạm giam ngay. Theo quy định tại
đoạn 2 Điều 177 BLTTHS thì thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá
thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 BLTTHS và được tính kể từ ngày bắt
bị can để tạm giam; do đó, trong trường hợp này phải tính thời hạn chuẩn bị xét xử
theo quy định tại Điều 176 BLTTHS để xác định cụ thể ngày kết thúc thời hạn chuẩn
bị xét xử và ghi thời hạn tạm giam trong lệnh bắt và tạm giam như sau: “Thời hạn

tạm giam tính từ ngày bắt để tạm giam cho đến ngày… tháng… năm…” (ghi ngày,
tháng, năm kết thúc thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm).
• Trong trường hợp phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nếu khi gần hết thời hạn
tạm giam (thời hạn tạm giam còn lại không quá năm ngày) và xét thấy cần thiết tiếp
tục tạm giam thì chánh án toà án có quyền ra lệnh tạm giam tiếp. Thời hạn tạm giam
trong trường hợp này không quá mười lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và
Page | 23
tội phạm nghiêm trọng; ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng.
Với hướng dẫn nêu trên của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì:
+ Thứ nhất, việc áp dụng biện pháp tạm giam (đặc biệt là thời hạn tạm giam) của toà
án ít nhiều phụ thuộc vào thời hạn tạm giam theo lệnh của viện kiểm sát. Nếu thời
hạn tạm giam theo lệnh tạm giam của viện kiểm sát đang còn thì toà án chỉ xem xét
có cần tiếp tục tạm giam hay không khi thời hạn tạm giam gần hết.
+ Thứ hai, trong mọi trường hợp toà án (thẩm phán được phân công chủ toạ phiên
toà) phải tính toán rất kĩ để xác định ngày mở phiên toà và ghi trong lệnh tạm giam
là: “Thời hạn tạm giam tính từ ngày bắt để tạm giam cho đến ngày… tháng…
năm…” ghi ngày, tháng, năm kết thúc thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm).
Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy sau khi thụ lí hồ sơ vụ án, thẩm phán được phân công
chủ toạ phiên toà còn phải nghiên cứu hồ sơ để ra một trong bốn quyết định theo quy định
tại Điều 176 BLTTHS. Việc tính toán và lên lịch xét xử chỉ được tiến hành khi quyết định
đưa vụ án ra xét xử. Do vậy, nội dung hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao khó khả thi
trong thực tế và không bảo đảm hoạt động độc lập của toà án; nên chăng cần nghiên cứu lại
hướng dẫn nêu trên.
- Loại thứ hai là thời hạn được tính bằng sự kiện “kết thúc phiên toà”. Thời hạn này chỉ
xuất hiện khi loại thời hạn thứ nhất đã hết mà không có căn cứ để thay đổi, huỷ bỏ biện
pháp ngăn chặn tạm giam đang áp dụng và trả tự do cho bị cáo. Thời hạn này không
phụ thuộc vào loại tội phạm mà giống nhau đối với tất cả các loại tội. Thời hạn này
được ghi trong lệnh tạm giam do chánh án, phó chánh án quyết định với mục đích là để
bảo đảm cho việc xét xử.

7.3.2. Giai đoạn xét xử phúc thẩm
Page | 24
Giai đoạn này cũng có thời hạn tạm giam để đảm bảo cho việc xét xử phúc thẩm và thời
hạn tạm giam sau khi tuyên án phúc thẩm.
- Thời hạn tạm giam để đảm bảo cho việc xét xử phúc thẩm :
Cũng giống như thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thời hạn tạm giam để bảo
đảm cho việc xét xử phúc thẩm bao gồm hai loại:
• Một là, thời hạn tạm giam được tính bằng ngày. Thời hạn này được quy định chung
cho các loại tội phạm và phụ thuộc vào toà án cấp nào thụ lí vụ án. Nếu vụ án do toà
án nhân dân cấp tỉnh, toà án quân sự cấp quân khu thụ lí để xét xử phúc thẩm thì thời
hạn tạm giam là sáu mươi ngày. Nếu vụ án do Toà án quân sự trung ương, Toà phúc
thẩm toà án nhân dân tối cao thụ lí để xét xử phúc thẩm thì thời hạn tạm giam là chín
mươi ngày.
• Hai là, thời hạn tạm giam xuất hiện sau khi loại thời hạn thứ nhất đã hết và kéo dài
cho tới khi kết thúc phiên toà phúc thẩm. Đây là thời hạn tạm giam đối với bị cáo
đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên toà thời hạn tạm giam đã hết và toà án ra
lệnh tạm giam (tiếp theo) khi xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét
xử.
- Thời hạn tạm giam sau khi tuyên án phúc thẩm :
• Tại khoản 3 Điều 243 BLTTHS: “Đối với bị cáo đang bị tạm giam bị xử phạt tù mà
đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì hội đồng xét xử ra quyết
định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp được quy định tại
khoản 4 và khoản 5 Điều 227 của Bộ luật này.
Đối với bị cáo không bị tạm giam nhưng bị xử phạt tù thì hội đồng xét xử có thể ra
quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay sau khi tuyên án, trừ các trường hợp quy định
tại Điều 261 của Bộ luật này.
Page | 25

×