LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng khóa luận tốt nghiệp “Giải pháp nâng cao thu
nhập cho hộ nông dân xã Quang Bình, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái
Bình” chuyên ngành Kinh tế nông nghiệp là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Số liệu và kết quả nghiên cứu là trung thực và chưa từng được công bố
cho việc bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận
đều được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong khóa luận đều được chỉ rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Nhung
1
1
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài “Giải pháp nâng cao thu nhập cho hộ
nông dân xã Quang Bình, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình”, tôi đã nhận được
sự hướng dẫn, giúp đỡ, động viên của nhiều cá nhân và tập thể, tôi xin được bày tỏ
sự biết ơn sâu sắc tới các cá nhân, tập thể đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Kinh tế và Phát
triển nông thôn, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã dạy bảo và trang bị cho
tôi những kiến thức giúp tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới thầy giáo – TS. Lê Ngọc Hướng đã
trực tiếp tận tình hướng dẫn tôi trong suốt thời gian làm khóa luận tốt nghiệp.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tập thể cán bộ lãnh đạo ủy ban
nhân dân xã, hợp tác xã, hội nông dân và tập thể bà con trong xã Quang Bình,
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian tôi
thực tập tại địa bàn.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và những
người thân đã động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập cũng như hoàn
thành khóa luận này.
Tuy đã có nhiều cố gắng trong khi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này
nhưng trình độ, năng lực của bản thân còn hạn chế nên không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Vì vậy, kính mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của
các thầy cô và các bạn để nội dung nghiên cứu này được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Nhung
2
2
TÓM TẮT
Qua 20 năm đổi mới, cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, nông
nghiệp nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc và đạt được nhiều thành tựu
to lớn góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển chung của nền kinh tế quốc
dân. Sản xuất nông nghiệp phát triển, đời sống nhân dân không ngừng nâng cao, bộ
mặt nông thôn đã có nhiều khởi sắc. Từ một nước nhập khẩu gạo thì nay chúng ta
đã là một nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới, dẫn đầu về một số nông sản
trong đó có gạo. Là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số làm nông nghiệp thì
kinh tế hộ nông dân đã góp một phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng nền kinh tế
nước nhà, có thể thấy kinh tế nông nghiệp đã và đang làm tốt vai trò "bệ đỡ” của
nền kinh tế. Kinh tế hộ nông dân đang ngày càng được quan tâm, chú trọng phát
triển. Tuy nhiên, trong thời gian qua đời sống người nông dân vẫn còn gặp nhiều khó
khăn. Thu nhập của người nông dân ngày càng đa dạng và có xu hướng tăng nhưng
mức chênh lệch về thu nhập của lao động nông nghiệp so với lao động phi nông
nghiệp thì ngày càng giãn rộng. Vì vậy vấn đề nâng cao thu nhập cho hộ nông dân
sống trong khu vực nông nghiệp, nông thôn là hết sức cần thiết trong tiến trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, cũng như quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Quang Bình là một xã nằm phía nam huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình với
nền sản xuất của xã nói chung vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Đời sống nhân
dân nơi đây từng ngày được cải thiện tuy nhiên vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong
sản xuất và đời sống. Cùng với xu thế chung của sự phát triển là sự chuyển dịch
dần cơ cấu lao động giữa các ngành (chủ yếu là từ nông nghiệp sang các ngành
khác), thế nhưng thu nhập của các hộ nông dân trong xã còn thấp và không ổn định.
Vì vậy, việc nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao thu nhập cho các hộ nông dân
là cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Giải pháp nâng
cao thu nhập cho hộ nông dân xã Quang Bình, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình”.
Nghiên cứu này nhằm đề xuất một số giải pháp chủ yếu để giúp người nông dân
trong xã phát triển sản xuất để nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của gia đình.
3
3
Nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu nghiên cứu, đánh giá thực trạng thu
nhập của hộ nông dân xã Quang Bình, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thu
nhập của các hộ. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả kinh tế và phát triển cho phù hợp với tình hình thực tế giúp nâng cao
thu nhập cho các hộ nông dân trên địa bàn xã. Đề tài nghiên cứu với các nội dung
cụ thể sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực tiễn về vấn đề thu nhập và nâng cao thu
nhập cho người dân.
- Đánh giá thực trạng thu nhập của các hộ nông dân xã Quang Bình.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao thu nhập cho các hộ nông dân xã Quang
Bình.
Để giải quyết vấn đề nghiên cứu, trên phương diện lý thuyết, đề tài góp phần
hệ thống hóa cơ sở lý luận về hộ nông dân, kinh tế hộ nông dân, đặc điểm của kinh
tế hộ và thu nhập, các lý luận về thu nhập của hộ nông dân, cách tính thu nhập, đặc
điểm và các yếu tố ảnh hưởng tới thu nhập của hộ. Các khái niệm và đặc điểm được
tìm hiểu qua nhiều góc độ và cách nhìn nhận của nhiều nhà nghiên cứu trước đây.
Từ các khái niệm, đặc điểm về thu nhập của hộ nông dân, đề tài bước đầu khái quát
hóa lý luận về giải pháp nâng cao thu nhập cho hộ nông dân.
Trong quá trình tiến hành nghiên cứu, đề tài sử dụng phương pháp chọn mẫu
điều tra nghiên cứu dùng để điều tra thực trạng thu nhập của các nhóm hộ nông dân
trên địa bàn xã, các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nhóm hộ và phương hướng
sản xuất của các nhóm hộ trong thời gian tới; tôi đã chia các hộ điều tra thành 3
nhóm hộ: thuần nông, kiêm và chuyên. Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu (dữ
liệu do UBND xã Quang Bình, do HTX dịch vụ nông nghiệp, do các hộ nông dân
cung cấp). Phương pháp phân tích dùng để phân tích thực trạng thu nhập của các
nhóm hộ, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới thu nhập của hộ (về lao động, đất đai,
vốn). Phương pháp thống kê so sánh dùng để so sánh mức thu nhập, các điều kiện
cơ bản của các nhóm hộ với nhau từ đó tìm ra các yếu tố ảnh hưởng tới mức thu
nhập của hộ.
4
4
Xã Quang Bình với 72% lao động trong nông nghiệp, giá trị sản xuất của
ngành nông nghiệp đạt 43,42% tổng giá trị sản xuất của toàn xã. Với điều kiện tự
nhiên và kinh tế xã hội có nhiều thuận lợi, trong những năm vừa qua tình hình phát
triển kinh tế xã hội của xã đã có những chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân
ngày càng được cải thiện.
Qua quá trình nghiên cứu thực tế tình hình thu nhập của các hộ nông dân
trên địa bàn xã cho thấy, nhìn chung thu nhập của các hộ nông dân nơi đây còn thấp
và có sự khác nhau giữa các nhóm hộ. Nhóm hộ thuần nông có thu nhấp ở mức
thấp nhất là 47143,50 nghìn đồng/hộ/năm, sau đó đến nhóm hộ kiêm là 79022,38
nghìn đồng/hộ/năm và có mức thu nhập cao nhất là nhóm hộ chuyên với 83941,34
nghìn đồng/hộ/năm. Nhóm hộ thuần nông là nhóm hộ có xu hướng đầu tư hoàn
toàn vốn sản xuất vào các hoạt động nông nghiệp, bao gồm trồng trọt và chăn nuôi
là chủ yếu nên thu nhập của hộ phụ thuộc hoàn toàn vào hoạt động sản xuất nông
nghiệp. Nhóm hộ kiêm là nhóm hộ đa dạng các hoạt động sản xuất hơn cả, ngoài
thời gian làm nông nghiệp nhóm hộ này còn làm thêm ngành nghề phụ như nấu
rượu, may mặc để giải quyết thời gian nông nhàn ngoài mùa vụ đồng thời tạo
thêm thu nhập cho hộ. Trong khi đó, nhóm hộ chuyên có xu hướng đầu tư đại bộ
phận vốn sản xuất vào các hoạt động phi nông nghiệp mà chủ yếu là các hoạt động
ngành nghề, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ nên thu nhập của nhóm hộ
này không chịu ảnh hưởng bởi hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Sự khác nhau về thu nhập của các nhóm hộ là do tác động của nhiều yếu tố:
yếu tố số lượng lao động và trình độ lao động (đặc biệt là của chủ hộ), yếu tố đất
đai, yếu tố nguồn vốn và hiệu quả sử dụng vốn Hộ có trình độ của chủ hộ và các
lao động trong hộ cao thường có những phương án sản xuất tốt hoặc đưa ra các
quyết định sản xuất kịp thời, theo kịp nhu cầu của thị trường. Đối với nhóm hộ
thuần nông những hộ có diện tích đất sản xuất lớn, tập trung thì thu nhập của hộ
cao và ổn định hơn nhưng lại yêu cầu có mức đầu tư lớn hơn.
Kết quả trên là cơ sở để tôi nghiên cứu và đưa ra những giải pháp nâng cao
thu nhập cho các hộ nông dân trên địa bàn xã. Đề tài nêu những giải pháp chủ yếu
5
5
nâng cao thu nhập cho các hộ nông dân như sau: (1) Nâng cao trình độ cho lao
động trong hộ đặc biệt là trình độ, năng lực của chủ hộ; (2) Tập trung tích tụ đất sản
xuất, giảm tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, tiến tới mở rộng sản xuất hàng
hóa theo nhu cầu của thị trường; (3) Huy động và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả,
khắc phục tình trạng thiếu trong sản xuất; (4) Quan tâm, đầu tư nâng cấp, xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất; (5) Nhà nước cần đầu tư vào cho việc
nghiên cứu hoàn thiện quy trình công nghệ về giống cây trồng vật nuôi áp dụng
kỹ thuật mới vào sản xuất; (6) Đối với thị trường cung ứng các yếu tố đầu vào: điều
tiết giá và trợ giá - Đối với thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra: khuyến khích các
doanh nghiệp ký kết các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho các hộ nông dân; (7)
Cung cấp các giống mới, vật tư nông nghiệp với giá ưu tiên hoặc ủng hộ cho các hộ
nghèo, hình thức này cần được khuyến khích duy trì.
Tóm lại, Đảng và nhà nước cũng như chính quyền địa phương cần quan tâm
hơn nữa đối với kinh tế hộ nông dân; cần có những chính sách khuyến khích, thúc
đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển để nâng cao thu nhập cho người dân,
cuộc sống của bà con ngày càng ấm no, hạnh phúc.
6
6
MỤC LỤC
7
7
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
8
8
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BQ Bình quân
BQC Bình quân chung
BVTV Bảo vệ thực vật
CNH – HĐH Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
CC Cơ cấu
CN Công nghiệp
DT Diện tích
ĐVT Đơn vị tính
GTSX Giá trị sản xuất
HTX Hợp tác xã
NN Nông nghiệp
SL Số lượng
SX Sản xuất
SXNN Sản xuất nông nghiệp
Tr.đ Triệu đồng
TLBQ Trọng lượng bình quân
TLXC Trọng lượng xuất chuồng
TMDV Thương mại dịch vụ
TN Thu nhập
TNBQ Thu nhập bình quân
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
UBND Ủy ban nhân dân
9
9
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước đông dân với nhiều thành phần dân tộc khác nhau,
dân số tăng nhanh dẫn đến tốc độ tăng nguồn lao động khoảng 3%/năm, hàng năm
có hơn 1 triệu thanh niên đến tuổi gia nhập lực lượng lao động cần có việc làm.
Khu vực nông thôn chiếm khoảng 70% lực lượng lao động của cả nước, trong đó
thường xuyên có gần 30% lao động thiếu việc làm, phổ biến là thiếu do mang tính
thời vụ hoặc thiếu đất canh tác (theo điều tra biến động dân số, lao động, nguồn lao
động và kế hoạch hóa gia đình 1/4/2008). Hằng năm lượng lao động tăng thêm của
nước ta rất lớn, số lượng lao động cũ chưa giải quyết hết giờ lại tăng thêm một số
lượng khá lớn, tình trạng thiếu việc làm càng tăng, việc làm không ổn định gây khó
khăn cho nền kinh tế nước ta, đặc biệt là ở nông thôn. Với 70% dân số sống ở nông
thôn và gần 90% dân số ở nông thôn làm nông nghiệp thì việc phát triển kinh tế
quốc dân phải gắn liền với phát triển kinh tế hộ gia đình. Phát triển kinh tế hộ gia
đình là nền tảng để phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng và nền kinh tế quốc
dân nói chung.
Những năm gần đây, nông nghiệp và nông thôn nước ta đã có sự phát triển
vượt bậc, đạt được những thành tựu đáng khích lệ với năng suất và sản lượng ngày
càng tăng. Tuy nhiên bên cạnh mặt đạt được, vẫn còn tồn tại những khó khăn. Đây
là tất yếu khách quan.
Đó là nền kinh tế hàng hoá đã tạo ra sự phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu
sắc, vấn đề chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng, giữa thành
thị và nông thôn ngày một rõ. Hiện nay, hơn 70% dân số nước ta ở nông thôn đây là
nguồn lao động dồi dào nhưng chưa được sử dụng hợp lý, tuy nhiên nó cũng là
một thách thức về vấn đề giải quyết việc làm tạo thu nhập cho người lao động. Bởi
vì hiện nay ruộng đất có hạn mà dân số ngày càng tăng lên. Do vậy việc duy trì thu
nhập đã khó, nâng cao thu nhập cho hộ nông dân lại càng khó hơn bởi nông thôn
thì sản suất nông nghiệp vẫn còn là chủ yếu.
10
10
Quang Bình là một xã nằm ở phía nam của huyện Kiến Xương thuộc tỉnh Thái
Bình với 3.010 hộ dân, 10.374 nhân khẩu sinh sống, nền sản xuất của xã nói chung
vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Đời sống người dân nơi đây đang từng ngày
được nâng cao và cải thiện, tuy nhiên vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất và
đời sống. Cùng với xu thế chung của sự phát triển là sự chuyển dịch dần cơ cấu lao
động giữa các ngành (chủ yếu là từ nông nghiệp sang các ngành khác), thế nhưng
thu nhập của các hộ nông dân còn thấp và không ổn định. Vì vậy, việc nghiên cứu
các giải pháp nhằm nâng cao thu nhập cho các hộ nông dân là cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Giải pháp
nâng cao thu nhập cho hộ nông dân xã Quang Bình, huyện Kiến Xương, tỉnh
Thái Bình”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng thu nhập của hộ nông dân xã Quang Bình, phân tích các
nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của các hộ, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp
nâng cao thu nhập cho các hộ nông dân trên địa bàn xã.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực tiễn về vấn đề thu nhập và nâng cao thu
nhập cho người dân.
- Đánh giá thực trạng thu nhập của các hộ nông dân xã Quang Bình.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao thu nhập cho các hộ nông dân xã Quang
Bình.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan
đến thu nhập của hộ nông dân.
11
11
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu thu nhập và các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của
các hộ nông dân, các giải pháp nhằm nâng cao thu nhập cho các hộ nông dân xã
Quang Bình, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
+ Phạm vi không gian
Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn xã Quang Bình, huyện Kiến Xương, tỉnh
Thái Bình.
+ Phạm vi thời gian của số liệu
Đề tài nghiên cứu tình hình sản xuất, kết quả sản xuất kinh doanh của địa
phương giai đoạn 2011 – 2013 và phân tích thu nhập, cơ cấu thu nhập của hộ năm
2013.
Đề xuất các giải pháp áp dụng cho giai đoạn 2015 – 2020.
Đề tài được thực hiện trong thời gian từ tháng 1/2014 đến tháng 5/2014.
12
12
PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THU NHẬP
CỦA HỘ NÔNG DÂN
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1Khái niệm về hộ
Trong một số từ điển ngôn ngữ học cũng như một số từ điển chuyên ngành
kinh tế, các tác giả định nghĩa về “hộ” như sau: “Hộ” là tất cả những người sống
chung trong một ngôi (mái) nhà và nhóm người đó có cùng chung huyết tộc và
người làm công, người cùng ăn chung.
Thống kê Liên Hợp Quốc cũng có khái niệm về “Hộ” gồm những người
sống chung dưới một ngôi nhà, cùng ăn chung, làm chung và cùng có chung một
ngân quỹ.
Giáo sư Mc Gê (1989) – Đại học tổng hợp Colombia (Canada) cho rằng:
“Hộ” là một nhóm người có cùng chung huyết tộc hoặc không cùng chung huyết
tộc ở chung một mái nhà và ăn chung một mâm cơm.
Nhóm các học giả lý thuyết phát triển cho rằng: “Hộ là một hệ thống các
nguồn lực tạo thành một nhóm các chế độ kinh tế riêng nhưng lại có mối quan hệ
chặt chẽ và phục vụ hệ thống kinh tế lớn hơn”.
Nhóm “hệ thống thế giới” (các đại biểu Wallerstan (1982), Wood (1981,
1982), Smith (1985), Martin và BellHel (1987)) cho rằng: “Hộ là một nhóm người
có cùng chung sở hữu, chung quyền lợi trong cùng một hoàn cảnh. Hộ là một đơn
vị kinh tế giống như các công ty, xí nghiệp khác”.
2.1.1.2 Khái niệm hộ nông dân (nông hộ)
Giáo sư Frank Ellis Trường đại học tổng hợp Cambridge (1988) đưa ra định
nghĩa về nông dân, nông hộ. Cụ thể: “Hộ nông dân là hộ có phương tiện kiếm sống
từ ruộng đất, chủ yếu sử dụng lao động gia đình cho sản xuất, hộ luôn nằm trong hệ
thống kinh tế rộng lớn nhưng về cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một
phần trong thị trường với trình độ hoàn chỉnh không cao”.
13
13
Ở nước ta, có nhiều tác giả đề cập đến khái niệm hộ nông dân. Theo Lê Đình
Thắng (1993) cho rằng: “Nông hộ là tế bào kinh tế xã hội, là hình thức kinh tế cơ
sở trong nông nghiệp và nông thôn”. Đào Thế Tuấn (1997) cho rằng: “ Hộ nông
dân là những hộ chủ yếu hoạt động nông nghiệp ở nông thôn”. Còn theo PGS.TS
Nguyễn Sinh Cúc, trong phân tích điều tra nông thôn 2001 cho rằng: “Hộ nông
nghiệp là những hộ có toàn bộ hoặc 50% số lao động thường xuyên tham gia trực
tiếp hoặc gián tiếp các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp (làm
đất, thủy nông, giống cây trồng, bảo vệ thực vật, ) và thông thường nguồn sống
chính của hộ dựa vào nông nghiệp”.
• Phân loại hộ nông dân
- Căn cứ vào mục tiêu và cơ chế hoạt động, hộ nông dân được chia thành:
+ Hộ nông dân hoàn toàn tự cấp không có phản ứng với thị trường.
Loại hộ này có mục tiêu là tối đa hoá lợi ích, đó là việc sản xuất các sản phẩm cần
thiết để tiêu dùng trong gia đình. Để có đủ sản phẩm, lao động trong nông hộ phải
hoạt động cật lực và đó cũng được coi như một lợi ích, để có thể tự cấp tự túc cho
sinh hoạt, sự hoạt động của họ phụ thuộc vào:
Khả năng mở rộng diện tích đất đai.
Có thị trường lao động để họ bán sức lao động để có thu nhập.
Có thị trường sản phẩm để trao đổi nhằm đáp ứng nhu cầu của mình.
+ Hộ nông dân sản xuất hàng hoá chủ yếu: loại hộ này có mục tiêu là tối đa
hoá lợi nhuận được biểu hiện rõ rệt và họ có phản ứng gay gắt với thị trường vốn,
ruộng đất, lao động.
- Căn cứ vào tính chất của các ngành sản xuất hộ nông dân gồm có:
+ Hộ thuần nông: là loại hộ chỉ thuần tuý sản xuất nông nghiệp.
+ Hộ chuyên: là loại hộ chuyên làm các ngành nghề như cơ khí, mộc nề, rèn,
sản xuất nguyên vật liệu xây dựng, vận tải, thủ công mỹ nghệ, dệt, may, làm dịch
vụ kỹ thuật cho nông nghiệp.
+ Hộ kiêm nông: là loại hộ vừa làm nông nghiệp vừa làm nghề tiểu thủ công
nghiệp, nhưng thu từ nông nghiệp là chính.
+ Hộ buôn bán: ở nơi đông dân cư, có quầy hàng hoặc buôn bán ở chợ.
14
14
Các loại hộ trên không ổn định mà có thể thay đổi khi điều kiện cho phép, vì
vậy sản xuất công nghiệp nông thôn, phát triển cơ cấu hạ tầng sản xuất và xã hội ở
nông thôn, mở rộng mạng lưới thương mại và dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nông thôn để chuyển hộ độc canh thuần nông sang đa ngành hoặc chuyên
môn hoá. Từ đó làm cho lao động nông nghiệp giảm, thu hút lao động dư thừa ở nông
thôn hoặc làm cho đối tượng phi nông nghiệp tăng lên (Chu Văn Vũ, 1995).
- Căn cứ vào mức thu nhập của hộ nông dân gồm: hộ giàu, hộ khá, hộ trung
bình, hộ nghèo và hộ đói.
2.1.1.3 Khái niệm kinh tế hộ nông dân
Kinh tế hộ nông dân là một cơ sở kinh tế có đất đai, các tư liệu sản xuất thuộc
sở hữu của hộ gia đình, sử dụng chủ yếu sức lao động của gia đình để sản xuất và
thường là nằm trong một hệ thống kinh tế lớn hơn, nhưng chủ yếu được đặc trưng
bởi sự tham gia cục bộ vào các thị trường có xu hướng hoạt động với mức độ
không hoàn hảo cao.
Tóm lại trong nền kinh tế hộ gia đình nông dân được quan niệm trên các khía
cạnh:
Hộ gia đình nông dân (nông hộ) là đơn vị xã hội làm cơ sở cho phân tích kinh
tế; các nguồn lực (đất đai, tư liệu sản xuất, vốn sản xuất, sức lao động…) được góp
thành vốn chung, cùng chung một ngân sách; cùng chung sống dưới một mái nhà,
ăn chung, mọi người đều hưởng phần thu nhập và mọi quyết định đều dựa trên ý
kiến chung của các thành viên là người lớn trong hộ gia đình.
Gia đình (family) là một đơn vị xã hội xác định với các mối quan hệ họ hàng,
có cùng chung huyết tộc. Trong nhiều xã hội khác nhau các mối quan hệ họ hàng
xây dựng nên một gia đình rất khác nhau. Gia đình chỉ được xem là hộ gia đình
(Household) khi các thành viên gia đình có cùng chung một cơ sở kinh tế.
2.1.2 Thu nhập của hộ nông dân
Trong cơ chế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của nông hộ diễn ra
rất đa dạng, ngoài sản xuất nông nghiệp hộ còn tham gia vào các ngành nghề khác
như: Công nghiệp nông thôn, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, xây dựng và nghề
rừng. Chính vì thu nhập của hộ nông dân bao gồm toàn bộ những kết quả của các
15
15
ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ và một số ngành nghề khác như: sửa chữa, sản
xuất nguyên vật liệu, chế biến nông sản mang lại.
Thu nhập của hộ nông dân là phần còn lại sau khi trừ đi hết chi phí sản xuất.
Như vậy, thu nhập của hộ nông dân bao gồm lợi nhuận kinh doanh, tiền công của
chủ hộ và các thành viên trong hộ, phần chi phí tự sản xuất không trao đổi trên thị
trường và các khoản thu từ hoạt động ngoài nông hộ. Một phần thu nhập sẽ được
hộ sử dụng vào chi tiêu đời sống, sinh hoạt, một phần dùng để đầu tư cho quá trình
sản xuất tiếp theo hay gửi tiết kiệm.
Thu nhập của hộ = Tổng thu của hộ - tổng chi phí sản xuất
Tổng thu nhập của hộ = Thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp + Thu
nhập từ phi nông nghiệp + Thu nhập khác.
• Những nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông dân
Trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế hộ nông dân chịu sự tác động bởi các
nhóm yếu tố chủ quan và khách quan. Các nhân tố này tác động đến thu nhập của
hộ thông qua hai bộ phận chính là tổng thu và chi phí. Do đó, các yếu tố ảnh hưởng
đến hai thành phần này sẽ ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông dân. Có nghĩa là
một yếu tố nào đó làm thay đổi một trong hai thành phần này cũng làm thay đổi thu
nhập của hộ. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổng thu và tổng chi phí trên còn có quan
hệ với nhau.
- Ảnh hưởng của lao động và nhân khẩu
Lao động là yếu tố cần thiết của mọi quá trình sản xuất, không có lao động
thì không thể có hoạt động sản xuất, đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp, cũng như
đất đai lao động ảnh hưởng đến thu nhập trên cả hai mặt, lượng và chất.
Mặt lượng lao động thể hiện ở mức đầu tư lao động vào một công việc cụ
thể nào đó, nếu đầu tư sức lao động cao sẽ cho sản lượng cao hơn và thu nhập cao
hơn và ngược lại. Khi đánh giá vấn đề nhân khẩu, chúng ta phải đánh giá tỷ số giữa
số lượng lao động và số lượng nhân khẩu. Khi tỷ số giữa số lao động trên số nhân
khẩu thấp nghĩa là tỷ lệ phụ thuộc cao, điều này gây bất lợi cho hộ, nó làm cho
những hộ nghèo ngày càng nghèo thêm.
16
16
Mặt chất của lao động thể hiện ở trình độ học vấn, kỹ năng lao động, khả
năng tiếp thu khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất. Trong đó kiến thức
chuyên môn và trình độ học vấn là cơ sở để tiếp thu và đưa kỹ thuật hiện đại vào
sản xuất, kiến thức chuyên môn có được thông qua quá trình đào tạo ở trường, ở
các lớp tập huấn ngắn hạn hoặc dài hạn. Trang bị kiến thức chuyên môn cho người
lao động là rất cần thiết, đặc biệt đối với chủ hộ vì họ là người cuối cùng đưa ra
quyết định lựa chọn phương án sản xuất, những quyết định của chủ hộ ảnh hưởng
trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập của hộ.
Kinh nghiệm sản xuất của hộ là những gì mà người lao động tích lũy được
trong cuộc sống, vì sản xuất nông nghiệp là một ngành sản xuất đặc biệt, nó tuân
theo quy luật của tự nhiên dù chúng ta có kiến thức chuyên môn cao vẫn có thể bị
thất bại nếu không có kinh nghiệm. Vì vậy, kinh nghiệm sản xuất ảnh hưởng lớn
đến thu nhập của hộ.
- Ảnh hưởng của quy mô, chất lượng đất đai
Đất đai là tư liệu sản xuất không thể thay thế được trong sản xuất nông
nghiệp. Do tính chất đặc biệt của nó mà đất đai có thể coi như một dạng của vốn
nhưng lại được xem như một nguồn lực riêng biệt. Sẽ không thể có hoạt động sản
xuất nông nghiệp nếu không có đất đai, số lượng và chất lượng đất đai sẽ quy định
lợi thế so sánh của mỗi vùng trong sản xuất nông nghiệp. Hướng sử dụng đất quy
định hướng sử dụng các tư liệu sản xuất khác. Đối với tài nguyên đất đai, cần chú ý
đến hai yếu tố đó là diện tích và độ màu mỡ làm giảm chi phí sản xuất và tăng năng
suất.
Quy mô diện tích là nhân tố quan trọng để xác định mức thu nhập từ sản
xuất mà hộ khai thác được. Chất lượng đất đai thể hiện ở độ phì, độ màu mỡ của
đất là chất dinh dưỡng cho cây trồng tồn tại và phát triển. Chất lượng của đất còn
quy định lợi thế của từng vùng, tạo ra sự đa dạng của sản phẩm. Chất lượng đất
không những làm tăng khối lượng sản phẩm mà còn làm giảm được chi phí sản
xuất.
17
17
- Ảnh hưởng của yếu tố vốn
Vốn là một yếu tố quan trọng không thể thiếu được để tiến hành tổ chức sản
xuất, kinh doanh nó bao gồm tiền mặt, nguyên liệu và công cụ sản xuất. Có vốn có
thể mở rộng quy mô, chuyển dần sang sản xuất hàng hóa, có vốn có thể đầu tư
thêm trang thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất làm giảm chi phí sản xuất, góp
phần tăng thu nhập cho hộ. Vốn được xếp vào các yếu tố chủ quan vì chủ hộ có
quyền huy động hoặc quyết định phân bổ vốn theo chu kỳ sản xuất. Vốn được tạo
ra từ hai nguồn cơ bản là vốn tự có và vốn đi vay. Việc sử dụng vốn có hiệu quả
hay không nó quyết định đến sự phát triển của kinh tế hộ. Nếu ta cố định các yếu tố
khác, chỉ xét riêng ảnh hưởng của vốn đến thu nhập của hộ thì vốn đầu tư cho sản
xuất và thu nhập của hộ là đại lượng đồng biến.
- Ảnh hưởng của yếu tố khoa học kỹ thuật
Sản xuất của hộ nông dân không thể tách rời những tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ vì nó tạo ra sản phẩm năng suất cao và chất lượng tốt. Cải thiện
tiến bộ kỹ thuật là tăng khối lượng và chất lượng hàng hóa, đồng thời giảm được
chi phí sản xuất và mở rộng được quy mô sản xuất do đó làm tăng thu nhập cho các
hộ.
- Ảnh hưởng của trình độ tổ chức, quản lý
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của hộ nông dân, việc lựa
chọn phương án sản xuất và cách bố trí sản xuất phù hợp với nguồn lực hiện tại của
hộ có vai trò quyết định đến thu nhập. Yếu tố này phụ thuộc vào trình độ văn hóa,
kinh nghiệm sản xuất và nhạy bén với thị trường của chủ hộ.
- Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên
Những nhân tố về điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến mảnh đất
mà người nông dân canh tác như: thời tiết, khí hậu, độ màu mỡ của đất… Do đối
tượng sản xuất là sinh vật sống nên quá trình sinh trưởng và phát triển của cây
trồng, vật nuôi chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoại cảnh. Nếu điều kiện ngoại cảnh
thuận lợi, phù hợp với các giai đoạn phát triển của cây trồng, vật nuôi thì sẽ cho
năng suất cao và ngược lại thiên tai, dịch bệnh sẽ làm giảm năng suất cây trồng, vật
nuôi dẫn đến làm giảm thu nhập của hộ nông dân. Như vậy trong sản xuất nông
18
18
nghiệp thì điều kiện tự nhiên là yếu tố quyết định khá lớn đến kết quả sản xuất của
nông hộ.
- Ảnh hưởng của yếu tố thị trường
Nói đến thị trường là nói đến nhu cầu của xã hội đối với nông sản hàng hóa
và giá cả các yếu tố đầu vào. Trong cơ chế thị trường, các hộ nông dân hoàn toàn tự
do lựa chọn sản xuất sản phẩm mà họ có khả năng và chi phí cơ hội thấp. Đối với
từng hộ nông dân, để đáp ứng nhu cầu của thị trường nông sản, họ có xu hướng liên
kết, hợp tác sản xuất với nhau. Thị trường là nơi mà giá cả các yếu tố đầu vào và
đầu ra trong sản xuất được hình thành nên thị trường ảnh hưởng trực tiếp đến thu
nhập của hộ.
Đối với thị trường đầu ra (thị trường tiêu thụ sản phẩm), nó phản ánh cung
sản phẩm. Trong nông nghiệp cung về sản phẩm thường là cung muộn, hơn nữa các
sản phẩm trong nông nghiệp thường khó bảo quản, vì vậy rủi ro do thị trường đem
lại trong sản xuất nông nghiệp là rất lớn. Bên cạnh đó thị trường các sản phẩm
trong nông nghiệp là thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nên người nông dân không thể
kiểm soát được thị trường, vì vậy sự tác động của thị trường làm cho thu nhập của
hộ nông dân không ổn định.
Đối với thị trường các yếu tố đầu vào, giá cả đầu vào trên thị trường ảnh
hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất của nông hộ, vì thế nó tác động rất lớn đến quy
mô sản xuất, đến mức độ đầu tư của nông dân. Nếu giá đầu vào tăng làm cho chi
phí đầu tư tăng dẫn đến hiệu quả sản xuất giảm xuống.
- Ảnh hưởng của phong tục tập quán
Ở mỗi vùng có điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác nhau, đặc biệt yêu cầu
thích nghi của các cây trồng, vật nuôi cũng khác nhau ở mỗi vùng sinh thái, đòi hỏi
phải có những kỹ thuật canh tác và nuôi trồng phù hợp với điều kiện của từng vùng.
Ngoài ra, mỗi vùng mỗi địa phương còn có những ngành nghề truyền thống khác
nhau, quan niệm về kinh doanh thương mại dịch vụ khác nhau. Do đó cần có những
quyết định sản xuất kinh doanh phù hợp với phong tục tập quán của từng địa
phương.
19
19
- Ảnh hưởng của chính sách nhà nước
Chính sách kinh tế là công cụ đắc lực của Chính phủ. Trong quản lý kinh tế
mỗi chính sách ban hành đều có tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh
dù là lớn hay nhỏ. Nếu chính sách đúng sẽ kích thích được sản xuất và ngược lại.
Vì vậy chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của hộ hay đến
sự phát triển của kinh tế hộ. Trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn ở
Việt Nam, Nhà nước ta đã chứng tỏ được vai trò của mình trong quản lý kinh tế. Nó
thể hiện rõ nét nhất ở chính sách ruộng đất trong công cuộc đổi mới. Chính sách
này đã làm thay đổi thu nhập của toàn bộ dân cư nông thôn. Ngoài ra còn có sự
đóng góp hàng loạt các chính sách khác như đặt giá trần, giá sàn nhằm bảo vệ
người sản xuất và người tiêu dùng.
- Mức độ hoàn thiện của hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
Đây là yếu tố có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trước hết là hệ thống giao
thông, thuỷ lợi, hệ thống thông tin và năng lượng. Hệ thống giao thông thuận lợi sẽ
giảm chi phí vận tải, thuận lợi cho giao lưu kinh tế và văn hoá với các vùng khác từ
đó hình thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá và phát triển các ngành nghề phi
nông nghiệp. Hệ thống điện, thông tin giúp cho người dân có khả năng trang bị
máy móc kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động, thuận lợi trong việc
tiếp thu những thành tựu mới về khoa học kỹ thuật, trình độ dân trí được nâng cao.
Hệ thống trường học, bệnh viện có vai trò quan trọng trong việc chăm sóc sức khoẻ
cho nhân dân và đào tạo nhân lực. Vì vậy, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội tác
động một cách tổng hợp tới quá trình phát triển kinh tế xã hội và mức sống của dân
cư.
- Ảnh hưởng của tình trạng di cư tìm việc làm của thành viên lao động trong
hộ.
Việc di cư lao động không chỉ góp phần giải quyết thu nhập, cho bản thân
người di cư mà còn giúp cho người thân ở quê nhà có thêm những khoản tiền để cải
thiện điều kiện sống hiện tại của họ.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến khoản thu khác của hộ
20
20
Các khoản thu khác của hộ nông dân chịu ảnh hưởng của các yếu tố như số
người được hưởng trợ cấp, số người có lương hưu, số người đi làm việc ở các công
ty, xí nghiệp, số người đi xuất khẩu lao động… Trong đó trình độ của số người đi
làm việc ở nước ngoài thể hiện ở số tiền mà lao động nhận được trong một đơn vị
thời gian, thu nhập của những hoạt động này thể hiện ở số tiền đóng góp và ngân
sách của hộ, khoản thu này không lớn so với thành thị nhưng có ảnh hưởng lớn đến
thu nhập của hộ nông dân ở nông thôn (Võ Ngọc Khôi, 2007).
2.1.3 Những đặc trưng cơ bản của kinh tế hộ nông dân
Kinh tế hộ nông dân có các đặc trưng cơ bản là:
- Có sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền sở hữu với quá trình quản lý và sử dụng các
yếu tố sản xuất. Bởi vì sở hữu trong nông hộ là sở hữu chung, mọi thành viên đều
có thể sử dụng và tự quản lý các yếu tố sản xuất như vốn, đất đai để tạo ra của cải
đóng góp vào ngân quỹ chung của nông hộ.
- Lao động quản lý và lao động trực tiếp có sự gắn bó chặt chẽ với nhau và được chi
phối bởi quan hệ huyết thống. Thông thường chủ hộ thường là người quản lý, điều
hành và trực tiếp tham gia sản xuất. Với đặc điểm này, việc tổ chức sản xuất trong
nông hộ diễn ra tương đối linh hoạt và thống nhất, cơ cấu tổ chức rất đơn giản.
- Quy mô sản xuất nhỏ, hơn nữa các nguồn lực có thể được huy động hay thu hồi dễ
dàng nên các nông hộ hoàn toàn có khả năng thích nghi và tự điều chỉnh tốt. Gặp
điều kiện thuận lợi, nông hộ có thể phát huy tối đa nguồn lực cho sản xuất ngay cả
khi giảm khẩu phần ăn tất yếu của mình. Trong hoàn cảnh bất lợi, sản xuất được
thu hẹp, thậm chí có thể quay về với sản xuất giản đơn.
- Quan hệ huyết thống, họ tộc, văn hoá và đặc biệt là lợi ích kinh tế chung của các
thành viên Tất cả nằm đan xen trong một trật tự tổ chức hết sức đa dạng và phức
tạp, song chúng cùng tác động tạo nên sự đồng tâm, hiệp lực giữa các thành viên,
họ cùng tự giác lao động để phát triển kinh tế mà không cần đến thưởng phạt.
- Kinh tế hộ được đặc trưng bởi sự tham gia từng phần vào thị trường. Chính vì thế,
trên thị trường đầu vào, hộ chỉ bán từng phần nguồn lực của mình như: đất đai, sức
lao động với thị trường đầu ra, nông hộ chỉ mua những gì mà họ không có khả
năng tự túc như: quần áo, thuốc men hay các đồ gia dụng khác
21
21
- Kinh tế hộ nông dân sử dụng sức lao động, nguồn vốn của mình là chủ yếu. Chỉ
khi nào quy mô sản xuất vượt quá nguồn lực sẵn có, các hoạt động mua bán hay đi
thuê mới diễn ra.
Với các đặc trưng trên, có thể khẳng định rằng kinh tế nông hộ luôn là hình
thức tổ chức kinh tế rất thích hợp với sản xuất nông nghiệp. Bởi vì, đối tượng sản
xuất của nông nghiệp là các sinh vật sống rất cần sự chăm sóc trực tiếp và thường
xuyên của con người. Người lao động trong nông hộ với ý thức trách nhiệm cao, có
sự gắn bó mật thiết với cây trồng vật nuôi nên hoàn toàn có thể đảm nhận công việc
đó.
2.1.4 Vai trò của kinh tế hộ nông dân trong điều kiện hiện nay
Trong nền kinh tế quốc dân, sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh
tế, các phương thức sản xuất là hoàn toàn khách quan. Kinh tế nông hộ là một bộ
phận cấu thành của nền kinh tế. Từ trước đến nay kinh tế hộ dù phát triển dưới bất
kỳ hình thức nào cũng đều là nhân tố quan trọng giúp cho nền kinh tế quốc dân
phát triển. Kinh tế nông hộ có sắc thái riêng về kinh tế nhân văn và xã hội.
Ở Việt Nam, giá trị sản phẩm nông nghiệp còn chiếm một tỷ trọng lớn trong
nền kinh tế. Mặt khác đối với nông nghiệp sản xuất hàng hoá chưa cao nên kinh tế
nông hộ càng có vai trò hết sức to lớn, nó thúc đẩy nông nghiệp và nông thôn phát
triển. Theo ước tính thì kinh tế hộ nông dân đã cung cấp cho xã hội khoảng 90%
sản lượng thịt và cá, 90% sản lượng lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp, cây
ăn quả. Đẩy mạnh xuất khẩu và góp phần sử dụng tốt hơn tài nguyên đất, lao động,
vốn, rừng, biển nâng cao thu nhập cho người nông dân. Từng bước phát triển các
ngành nghề dịch vụ ở nông thôn theo tinh thần mà Đảng và Nhà nước ta đang
hướng tới là công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Trong cơ chế phát triển của nền kinh tế chúng ta đang chủ trương xoá bỏ thế
độc canh tiến đến đa canh cây trồng vật nuôi và phát triển ngành nghề, dịch vụ ở
nông thôn theo điều kiện từng vùng, từng bước xoá bỏ cơ chế sản xuất tự cung tự
cấp sang sản xuất hàng hoá theo hình thức trang trại gia đình để tăng khả năng đầu
tư cũng như các tiềm lực khác, góp phần nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi,
phát triển các ngành nghề dịch vụ, nâng cao thu nhập cho người nông dân, từng
22
22
bước “thành thị hoá” trong lòng nông thôn để phát triển một nền nông nghiệp
mạnh và bền vững.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Kinh nghiệm nâng cao thu nhập cho hộ nông dân ở một số quốc gia trên
thế giới
Để tồn tại và phát triển mỗi sự vật hiện tượng khi ra đời phải phù hợp với quy
luật. Kinh tế hộ ra đời đã tỏ rõ sự phù hợp của nó và ngày càng phát triển mạnh mẽ,
liên tục trên khắp thế giới. Mặc dù nông nghiệp trên thế giới có nhiều hình thức phát
triển khác nhau về sản xuất. Song các hộ, các trang trại gia đình nông dân vẫn là lực
lượng sản xuất chủ yếu ra các mặt hàng nông sản đáp ứng cho nhu cầu của xã hội.
Ở các nước châu Á, chế độ phong kiến kéo dài, kinh tế nông nghiệp sản xuất
hàng hóa ra đời chậm hơn. Sau chiến tranh thế giới thứ II, nhiều quốc gia châu Á đã
tiến hành cải cách ruộng đất với những nội dung và mức độ khác nhau nhằm chuyển
giao ruộng đất cho những người nông dân trực tiếp sản xuất nông nghiệp.
Việt Nam là một nước đang phát triển, tình hình thu nhập của hộ nông dân
còn ở mức rất thấp so với các nước trên thế giới và khu vực. Đối với các nước châu
Âu và châu Mỹ thì trình độ phát triển kinh tế hộ nông dân đang ở trình độ cao. Do đó
khi nghiên cứu về thu nhập của hộ nông dân Việt Nam, chúng tôi chỉ tìm hiểu tình
hình nâng cao thu nhập của hộ nông dân ở một số nước châu Á.
Trung Quốc
Trung Quốc là một quốc gia đông dân nhất thế giới với 1,3 tỷ người, trong đó
hơn 800 triệu người sống trong ngành nông nghiệp. Trung Quốc trong những năm
gần đây phát triển rất mạnh trong lĩnh vực đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Một
trong những thành tựu của Trung Quốc trong cải cách mở cửa là phát triển nông
nghiệp hương trấn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, từ đó tăng trưởng với tốc
độ cao. Trung Quốc đặc biệt coi trọng kinh tế hộ nông dân với ba mũi nhọn cơ bản
đó là dựa vào chính sách, dựa vào đầu tư, dựa vào tiến bộ khoa học kỹ thuật.
- Về chính sách: năm 1984, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành chuyển giao
quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân, khuyến khích mở rộng ngành nghề, dịch vụ,
phát triển hàng hóa, khuyến khích thành phần kinh tế trong nông thôn phát triển. Cụ
23
23
thể, Trung Quốc đã đề ra và thực hiện tốt chính sách “ly nông bất ly hương”, “mua
đắt, bán rẻ”, “lấy công bù nông”…
- Về đầu tư: tiến hành nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn… Bên
cạnh đó, Chính phủ còn tăng cường đầu tư tài chính mở thêm nhiều hình thức tín
dụng để nông hộ có điều kiện vay vốn phát triển sản xuất.
- Chuyển giao khoa học công nghệ: việc kết hợp khoa học công nghệ với tiềm
năng kinh tế đã huy động và tận dụng mọi nguồn lực trong nông hộ, tạo được hiệu
quả cao trong sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân, giảm tối đa số hộ nghèo.
Năm 1985, cả nước có khoảng 25 triệu hộ sản xuất chuyên canh trong tổng số
180 triệu nông hộ (Nguyễn Sinh Cúc và Nguyễn Văn Tiêm, 1996). Chỉ sau 10 năm
thực hiện cải cách, bộ mặt nông thôn Trung Quốc đã thay đổi nhanh chóng, bình
quân hàng năm giá trị sản lượng trồng trọt tăng 4,6%, chăn nuôi tăng 9%, thu nhập
bình quân một người tăng 10,7%, quy mô xí nghiệp hương trấn ngày càng được mở
rộng. Năm 1987, có 1,524 triệu xí nghiệp hương trấn, năm 1991 có 19,08 triệu xí
nghiệp với tổng giá trị sản phẩm 846,1 tỷ nhân dân tệ, giải quyết việc làm cho 20%
lao động ở nông thôn (Vũ Thị Ngọc Trân, 1997).
Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia điển hình cho vùng Đông Bắc Á. Mặc dù các nông
hộ có quy mô nhỏ bé nhưng trong quá trình công nghiệp hóa đã ứng dụng rộng rãi,
có hiệu quả cao các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại về giống cây trồng vật
nuôi, các loại vật tư kỹ thuật nông nghiệp, phân bón cho cây trồng, thức ăn công
nghiệp cho gia súc, năng lượng cơ điện, nước, gió, các máy móc thiết bị nông nghiệp
và ứng dụng đồng bộ vào các chu trình sản xuất và chế biến, bảo quản nông, lâm,
thủy sản tạo ra năng suất cây trồng, vật nuôi cao và năng suất lao động nông nghiệp
cao.
Ở Nhật Bản năm 1946 – 1949, nhà nước đã mua 1,95 triệu ha đất của các chủ
ruộng để bán cho nông dân thiếu ruộng hoặc không có ruộng. Nhìn chung, việc tiến
hành cải cách ruộng đất đã có tác dụng trực tiếp đến quá trình hình thành và phát triển
các trang trại gia đình theo hướng sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Quy mô ruộng đất
bình quân một trang trại ở Nhật Bản năm 1990 là 1,2 tăng lên 1,5 lần trong vòng 40
24
24
năm. Số trang trại chuyên làm nông nghiệp trong giai đoạn 1960 – 1998 giảm trên 3
lần, từ 2 triệu xuống chỉ còn 620.000 cơ sở. Các trang trại có thu nhập từ nông nghiệp
giảm dần, nghề ngoài nông nghiệp tăng lên (Nguyễn Sinh Cúc và Nguyễn Văn Tiêm,
1996).
Đài Loan
Ý thức được xuất phát điểm của mình có vị trí quan trọng là nông nghiệp
nhưng ở trình độ thấp, nên ngay từ đầu Đài Loan đã coi trọng và chú ý đầu tư cho
nông nghiệp. Trong những năm 1950 đến 1960 chủ trương “Lấy nông nghiệp nuôi
nông nghiệp, lấy công nghiệp phát triển nông nghiệp”, từ năm 1949 đã có một
chương trình cải cách ruộng đất theo ba bước: giảm tô, giải phóng đất công (1951),
bán đất cho tá điền với giá thấp, thực hiện người cày có ruộng (1953 – 1954).
Theo Đạo luật Cải cách ruộng đất của Đài Loan, địa chủ chỉ được giữ lại 3 ha
nếu là ruộng thấp và 6 ha nếu là ruộng cao, số còn lại nhà nước trưng mua để bán
cho tá điền với giá thấp và được trả dần. Từ năm 1974, họ thành lập nông trường, hộ
nông dân trồng những sản phẩm quý hiếm như “cao sơn trà”, bán các mặt hàng sản
phẩm của rừng như cao các loại, thịt hươu, nai khô… cùng các sản vật nông dân sản
xuất được trong vùng. Về chính sách thuế và ruộng đất, chính quyền phân biệt giữa
hai đối tượng “nông mại nông” (nông dân bán đất cho nông dân khác) thì miễn thuế,
“nông mại bất nông” (bán đất cho đối tượng phi nông nghiệp) thì phải đóng thuế gấp
3 lần tiền mua, nguồn lao động trẻ ở nông thôn rất dồi dào nhưng không di chuyển ra
thành thị, mà dịch vụ tại chỗ theo kiểu “ly nông bất ly hương”, các cơ quan khoa học
ở Đài Loan rất mạnh dạn nghiên cứu cải tạo giống mới cho nông dân, nông dân
không phải trả tiền (Đỗ Văn Viện và Đặng Văn Tiến, 2000).
Thái Lan
Thái Lan là một trong những nước có nền nông nghiệp phát triển ổn định và
là một quốc gia đứng đầu về xuất khẩn gạo trên thế giới. Tại quốc gia này các hình
thức nông hộ, nông trại rất phát triển, nó cung cấp hầu hết nông sản hàng hóa cho
tiêu dùng và cho xuất khẩu. Chính sách của Thái Lan trước hết là chú trọng vào
nâng cấp, xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đủ mạnh để thúc đẩy được kinh tế phát
triển. Bên cạnh việc củng cố cơ sở hạ tầng và cung cấp đầy đủ các yếu tố đầu vào
25
25