Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Phân tích diện thừa kế và hàng thừa kế theo pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.34 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
ĐẶT VẤN ĐỀ 2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
1. DIỆN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT.

2
2. HÀNG THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT.

11
KẾT LUẬN 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 19
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự dịch chuyển di sản từ một người đã chết sang người còn sống được thực
hiện theo một trong hai căn cứ là ý chí của người để lại di sản và quy định
của pháp luật. Nếu sự dịch chuyển di sản đó căn cứ vào ý chí của người đã
chết để lại thì được gọi là thừa kế theo di chúc, nếu sự dịch chuyển tài sản
của người chết để lại sang người còn sống căn cứ vào quy định của pháp luật
thì được gọi là thừa kế theo pháp luật. Như vậy thừa kế theo pháp luật được
hiểu một cách đơn giản là quá trình dịch chuyển di sản của người chết sang
những người còn sống theo quy định của pháp luật về thừa kế. Mặt khác
theo quy định của pháp luật thì khi không có căn cứ để dịch chuyển di sản
của người chết theo theo ý chí của họ thì di sản đó phải dịch chuyển theo
quy định của pháp luật về hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế. Điều
674 Bộ luật Dân sự 2005 đã định nghĩa về thừa kế theo quy định của pháp
luật như sau: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện
và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”. Diện và hàng thừa kế chỉ được
đặt ra trong loại hình thừa kế theo pháp luật.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Diện thừa kế theo pháp luật.


Thừa kế theo pháp luật là trình tự dịch chuyển di sản thừa kế của người chết
để lại theo hàng thừa kế, điều kiện, trình tự thừa kế theo quy định của pháp
luật. Nghĩa là theo trình tự này thì ai được hưởng di sản của người chết để
lại, hưởng như thế nào, bao nhiêu, hoàn toàn do pháp luật xác định. Tuy
nhiên, khi xác định phạm vi những người được hưởng di sản của người chết
để lại, pháp luật về thừa kế của bất kì quốc gia nào cũng phải dựa trên ý chí
mang tính truyền thống của người để lại di sản nếu họ chết tài sản còn lại
của họ (di sản thừ kế) phải được dịch chuyển cho những ngời thân thích của
họ. Mặt khác, pháp luật về thừa kế còn phụ thuộc vào chế độ sở hữu, điều
kiện kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia và theo từng thời kì phát triển lịch sử
2
nhất định. Vì thế, có thể nói rằng thừa kế theo pháp luật là việc pháp luật
phỏng đoán ý chí của người để lại di sản để theo đó xác định việc dịch
chuyển di sản của người đó cho những ai trên cơ sở dựa vào điều kiện kinh
tế xã hội của nhà nước trong từng thời kì nhất định.
Một trong những vấn đề chình yếu của chế định thừa kế theo pháp luật là
việc xác định diện thừa kế. Diện thừa kế theo pháp luật là phạm vi những
người được pháp luật xác định nằm trong diện có thể được hưởng di sản của
người chết theo quy định của pháp luật. Những người được pháp luật xác
định nằm trong diện thừa kế phải là người thân thích của người để lại di sản
thừa kế được xác định trên cơ sở quan hệ hôn nhân gia đình giữa họ với
người để lại di sản.
Về diện và hàng thừa kế chỉ được đặt ra trong trình tự thừa kế theo pháp
luật. Ở nước ta, trước năm 1945 dưới các chế độ cũ, nhất là dưới chế đọ
phong kiến với ý thức bảo vệ chế độ tư hữu tài sản nhằm duy trì sự bóc lột
của mình, giai cấp thống trị xem quyền tư hữu là một quyền thiêng liêng bất
khả xâm phạm. Ngay trong quan hệ gia đình thì quan hệ huyết thống được
coi trọng và được đề cao, con quan hệ hôn nhân đã bị xem nhẹ. Tư tưởng
trọng nam khinh nữ nặng nề đã có ảnh hưởng sâu sắc đến chế định thừa kế.
Thừa kế di sản trong thời kì này được xem như một phương tiện để duy trì

và bảo vệ khối tài sản của nội tộc và do những người trong nội tộc của người
để lại di sản được ưu tiên thừa hưởng. Địa vị của người vợ trong quan hệ gia
đình luôn bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các con và người chồng trong
những quan hệ xã hội thông thường và trong cả quan hệ thừa kế. Bộ luật của
chế độ cũ quy định về diện thừa kế theo nguyên tắc ưu tiên bảo vệ quyền
thừa kế của những người thuộc họ nội của người để lại di sản và có sự phân
biệt giữa vợ cả với vợ thứ trong việc hưởng di sản của người chồng chết
trước. Quyền lợi của người vợ góa chỉ được bảo vệ sau các con, cháu, cha,
mẹ, ông, bà, các cụ, anh, chị, em ruột của người để lại di sản. Tóm lại, diện
thừa kế theo pháp luật của chế độ cũ chủ yếu dựa trên quan hệ huyết thống
3
nội tộc, quan hệ huyết thống ngoại tộc chỉ được xét vào diện thừa kế khi
không còn người thừa kế theo quan hệ huyết thồng nội tộc.
Ngược lại với bản chất pháp luật của chế độ cũ, pháp luật phong kiến ở nước
ta đã xóa bỏ tàn tích của tư tưởng lạc hậu trọng nam khinh nữ và quy định
người vợ góa hay người chồng góa thuộc diện thừa kế theo pháp luật của
người chồng hay người vợ chết trước. Trong giai đoạn đầu thực hiện các chủ
trương đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, nền
kinh tế của nước ta từng bước chuyển hướng phát triển theo kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều thành phần kinh tế và nhiều hình
thức sở hữu cùng tồn tại và phát triển. Bên cạnh sở hữu nhà nước, sở hữu tập
thể là hình thức sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ và sở hữu tư bản tư nhân cũng
đã có cơ sở pháp lý để tồn tại và phát triển. Nhằm củng cố hơn nữa sự ổn
định và bền vững trong quan hệ của các thành viên trong gia đình, dòng
tộc…để bảo vệ có hiệu quả hơn quyền thừa kế cảu công dân phù hợp với
hoàn cảnh kinh tế, xã hội ở nước ta trong thời kí đổi mới, diện những người
thừa kế theo pháp luật đã được Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990 quy định
rộng rãi hơn. Diện những người thừa kế theo pháp luật mà Pháp lệnh thừa kế
quy định không những có tất cả những người mà Thông tư số 81 hướng dẫn
xác định mà còn bao gồm thêm những người thuộc quan hệ huyết thống trực

hệ và bang hệ khác, đó là cụ nội, cụ ngoại, chú, bác, cô, dì, cậu ruột của
người để lại di sản và những người mà người để lại di sản là chú, bác, cô, dì,
cậu ruột.
Phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật được Pháp lệnh thừa
kế về thực chất dựa trên quan điểm mang tính truyền thống về quan hệ gia
đình Việt Nam là: “Giọt máu đào hơn ao nước lã”. Những người có quan hệ
huyết thống với người để lại di sản thuộc diện thừa kế theo pháp luật của
người đó. Lợi ích của mỗi thành viên trong một gia đình, một dòng tộc luôn
được pháp luật của nước ta coi trọng và bảo đảm thực hiện trong mối quan
hệ với lợi ích của toàn xã hội, khi mà tài sản thuộc sở hữu tư nhân ngày càng
phong phú về chủng loại và tăng cao về giá trị. Những quan hệ giữa người
4
để lại di sản và những người thuộc phạm vi được thừa kế theo quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống va quan hệ nuôi dưỡng. Người thuộc diện thừa kế
theo pháp luật là người có một hoặc đồng thời hai mối quan hệ với người để
lại di sản trong phạm vi ba mối quan hệ trên và được thể hiện cụ thể:
- Người thuộc diện thừa kế theo pháp luật có mối quan hệ nuôi
dưỡng với người để lại di sản.
- Hay người đó có mối quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng
với người để lại di sản.
- Hay người đó có mối quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng
với người để lại di sản.
Ba mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng giữa
người để lại di sản với người thừa kế chỉ là những căn cứ xác định diện
những người thừa kế theo pháp luật. Phạm vi những người có quan hệ huyết
thống gần, có quan hệ huyết thống xa (tính theo đời và theo thứ bậc bề trên,
bề dưới) với người để lại di sản có thuộc diện hay không thuộc diện thừa kế
còn tùy thuộc vào những quy định của pháp luật trong giai đoạn lịch sử khác
nhau.
Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ hôn nhân:

Theo quy định tại khoản 6 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình thì: “Hôn nhân
là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Tại khoản 2 của Điều luật
nói trên còn quy định: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng
theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn”. Quan
hệ hôn nhân là quan hệ vợ chồng cho đến thời điểm mở thừa kế phải được
xác định là hôn nhân hợp pháp. Như vậy, quan hệ hôn nhân hợp pháp là
quan hệ giữa vợ và chồng khi kết hôn đã tuân thủ các điều kiện và thủ tục
pháp luật quy định: về độ tuổi kết hôn, ý chí tự do, tự nguyện kết hôn, tự do
thỏa thuận không áp đặt ý chí của một bên đối với bên kia trong kết hôn,
không vi phạm quan hệ huyết thống, không vi phạm chế độ một vợ một
chồng và không vi phạm các điều cấm khác của pháp luật trong kết hôn như
5
giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi, giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con
nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của
vợ, mẹ kế với con riêng của chồng, giữa những người cùng giới tính. Người
mất năng lực hành vi không được kết hôn. Việc kết hôn phải được đăng kí
và do cơ quan nhà nước có hầm quyền thực hiện theo nghi thức tổ chức đăng
kí kết hôn. Vợ và chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau, khi
quan hệ hôn nhân của họ tính đến thời điểm mở thừa kế của người vợ hoặc
người chồng được xác định là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ vào quan hệ hôn
nhân hợp pháp, quyền thừa kế của vợ, chồng trong việc nhận di sản của nhau
được bảo vệ bằng pháp luật. Quan hệ hôn nhân hợp pháp là quan hệ hôn
nhân được xác lập thông qua việc đăng kí kết hôn. Thủ tục đăng kí kết hôn
đều được quy định trong luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, luật Hôn nhân
và gia đình năm 1986, luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đang có hiệu lực
thi hành.
Tuy nhiên, ngoài việc xác định một quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy
định của pháp luật thì trong những giai đoạn lịch sử nhất định vẫn cân thiết
phải đánh giá đúng mức những quan hệ hôn nhân măc dù không tiến bộ, trái
với pháp luật hiên hành nhưng vẫn tồn tại và được thừa nhận ở nước ta như

giải pháp giả quyết những tàn dư của chế độ thực dân phong kiến còn sót lại.
Để gải quyết vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số
690_DS ngày 29/4/1960 hướng dẫn xử lý việc ly hôn và các vấn đề có liên
quan đến việc ly hôn vì chế đọ đa thê. Nhằm từng bước xóa bỏ những tàn dư
như vậy của chế độ cũ, pháp luật của nhà nước ta đã xác định giới hạn đình
chỉ những quan hệ hôn nhân trái với pháp luật hiện hành: quan hệ hôn nhân
của vợ chồng xác lập trước ngày 13/01/1960 (ở miền Bắc) và trước ngày
25/3/1977 (ở miền Nam) tuy có vi phạm chế độ một vợ, một chồng nhưng
vẫn tồn tại và được coi là không trái pháp luật. Theo quy định trên, khi
chồng chết các người vợ được thừa kế của chồng hoặc khi các người vợ chết
trước thì chồng được thừa kế của các người vợ. Một vấn đề nữa được đặt ra
là hôn nhân thực tế, hôn nhân thực tế được tòa án thừa nhận cũng được coi
6
là hôn nhân hợp pháp. Vấn đề hôn nhân thực tế được thừa nhận ở nước ta
chỉ là một giải pháp tình thế nhằm giải quyết những vấn đề về con chung của
vợ chồng, vấn đề tài sản của vợ chồng, vấn đề thừa kế di sản nhằm bảo vệ
những quyền và lợi ích chính đáng của công dân nhất là bảo vệ lợi ích của
người phụ nữ và trẻ em. Những cuộc hôn nhân nào thỏa mãn đầy đủ các điều
kiện kết hôn nhưng không đăng kí kết hôn đã sống chung với nhau hàng
chục năm, có tài sản chung hay con cái chung thì có thể coi là hôn nhân thực
tế để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho các bên đương sự, nhất là đối với
phụ nữ. Quan hệ vợ chồng chưa đăng kí mà được xác lập trước ngày
03/01/1987 thì việc đăng kí kết hôn không bị hạn chế về thời gian. Nhưng
nếu nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ 03/01/1987 đến
01/01/2001 mà có đủ điều kiện đăng kí kết hôn theo quy định của luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng kí kết hôn. Từ sau ngày
01/01/2003 mà họ không đăng kí kết hôn thì pháp luật không công nhận họ
là vợ chồng.
Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ huyết thống:
Pháp luật về hôn nhân và gia đình luôn bảo vệ lợi ích chính đáng của những

người con xét về quan hệ huyết thống với cha, mẹ và nghĩa vụ của người
làm cha, làm mẹ của con. Quyền thừa kế theo pháp luật của con không phụ
thuộc vào hình thức hôn nhân của cha, mẹ đẻ. Các con đẻ của người để lại di
sản, không phân biệt con trai hay con gái, con trong giá thú hay con ngoài
giá thú, có năng lực hành vi dân sự hay không có năng lực hành vi dân sự,
theo quy định của pháp luật họ đều thuộc diện thừa kế theo pháp luật của
nhau vì giữa họ với cha đẻ, mẹ đẻ có quan hệ huyết thống. Cha đẻ, mẹ đẻ
của con dù là con trong giá thú hay con ngoài giá thú (về hậu quả pháp lý do
pháp luật quy định để có cơ sở xác định con chung của vợ, chồng hay con
của người cha, người mẹ không phải là vợ chồng sinh ra đều là những người
có quan hệ huyết thống với con) đều có quan hệ huyết thống. Do vậy, cha
đẻ, mẹ đẻ, với các con đẻ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Việc
xác định cha mẹ là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của mỗi người con
7
và là danh dự uy tín của mỗi người trong xã hội. Luật Hôn nhân và gia đình
đã quy định về quyền xin xác nhận cha, mẹ của con và quyền xin xác nhận
con của cha, mẹ là nhằm bảo vệ những quyền dân sự chính đáng của công
dân, trong đó có quyền thừa kế tài sản. Quan hệ huyết thống được xác định
giữa cha và con thì lợi ích của người con được bảo đảm trong việc thừa kế
tài sản của bố đẻ, khi người bố chết. Xác định quan hệ huyết thống giữa cha
mẹ và các con là việc làm quan trọng. Mục đích của việc xác định quan hệ
huyết thống là nhằm bảo vệ những quyền lợi tài sản và lợi ích nhân thân của
cá nhân với quan điểm mỗi người sinh ra đều phải có cha, có mẹ là cội
nguồn của mối quan hệ ruột thịt, là căn cứ để xác định nghĩa vụ và quyền lợi
của các thành viên trong quan hệ gia đình. Việc xác định cha, mẹ, con (xác
định huyết thống) không những là cơ sở để xác định quyền và nghĩa vụ của
cha, mẹ và con đối với nhau trong quan hệ gia đình mà còn là cơ sở để xác
định diện thừa kế giữa cha, mẹ và các con trong trường hợp một người chết.
Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản, có ba
nhóm sau đây:

- Nhóm thứ nhất: Những người có quan hệ huyết thống với người
chết thuộc trực hệ (quan hệ huyết thống nghành dọc) bề trên (tôn
thuộc) bao gồm: cụ, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cha đẻ, mẹ
đẻ, của người để lại di sản.
- Nhóm thứ hai: Những người có quan hệ huyết thống với người để
lại di sản thuộc trực hệ bề dưới (ty thuộc) của người để lại di sản bao
gồm: các con đẻ (bao gồm cả con trong giá thú, con ngoài giá thú),
các cháu nội, cháu ngoại, chắt của người để lại di sản.
- Nhóm thứ ba: Những người có quan hệ huyết thống với người để
lại di sản thuộc bàng hệ (quan hệ huyết thống ngành ngang) gồm
anh, chị, em ruột; anh, chị, em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác
cha của người để lại di sản.
Diện thừa kế theo pháp luật được xác định theo quan hệ nuôi dưỡng:
8
Quan hệ nuôi dưỡng là sự thể hiện nghĩa vụ chăm sóc nhau, nuôi dưỡng
nhau giữa những người thân thuộc theo quy định của pháp luật. Cha mẹ có
nghĩa vụ nuôi dưỡng con đã thành niên mà không có khả năng lao động để
tự nuôi mình; con có nghĩa vị kính trọng, nuôi dưỡng cha mẹ. Nếu những
người trong quan hệ huyết thống mà vi phạm nghĩa vị theo pháp luật là vi
phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục nhau giữa những người có
quan hệ huyết thống là căn cứ vào điều kiện có thể nuôi dưỡng nhưng đã vi
phạm. Người vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại tài sản đã bị tòa án
kết án bằng bản án có giá trị pháp lý, người đó bị tước quyền thừa kế theo
pháp luật.
Quan hệ nuôi dưỡng còn được thể hiện giữa anh, chị, em ruột đối với nhau
trong hoàn cảnh mồ côi cha, mẹ hoặc cha, mẹ còn nhưng không có khả năng
lao động hoặc đều không có năng lực hành vi dân sự.
Quan hệ nuôi dưỡng giữa ông bà nội, ngoại và các cháu nội, ngoại: Ngoài
nghĩa vụ nuôi dưỡng, cháu và ông bà còn là người giám hộ đương nhiên của
nhau và đồng thời cũng có nghĩa vụ đại diện pháp luật cho nhau. Pháp luật

còn quy định, trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành
niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình, trong trường hợp cháu không có anh, chị,
em ruột đã trưởng thành để có thể thực hiện được việc chăm sóc, giáo dục
nhau thì ông bà nội, ông bà ngoại có nhiệm vụ nuôi dưỡng cháu. Về phía
cháu, cũng có bổn phận kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông
bà ngoại. Như vậy, giữa ông bà nội, ngoại và các cháu nội, ngoại có nghĩa
vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau và họ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của
nhau.
Quan hệ giữa cha kế và mẹ kế với con riêng của vợ, của chồng. Theo quy
định của pháp luật thì giữa người con riêng với cha kế, mẹ kế đã thể hiện
được nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì họ được
thừa kế theo pháp luật của nhau. Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình quy
định bố dượng, mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm
9
sóc, giáo dục con riêng cùng chung sống với mình và đã thực hiện được
nghĩa vụ của người cha, người mẹ đối với con thì theo quy định của pháp
luật họ thuộc diện thừa kế của nhau. Nếu con riêng của vợ, của chồng mà
chết trước cha kế, mẹ kế, con của họ được thừa kế thế vị nhận di sản của ông
bà kế khi qua đời. Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc,
nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế tài sản của nhau mà
còn được thừa kế theo quy định tại điều 679 và 680 của Bộ Luật Dân sự.
Trong thời kỳ hôn nhân mà vợ chồng muốn nhận nuôi con nuôi thì phải có
sự đồng ý của cả vợ, chồng; nếu chỉ vợ hoặc chồng nhận nuôi con nuôi mà
không được người kia đồng ý thì quan hệ cha nuôi, mẹ nuôi không được xác
lập. Trong thực tế xảy ra trường hợp nhận nuôi con nuôi nhưng không đăng
ký việc nuôi con nuôi với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký và
không ghi vào sổ hộ tịch. Con nuôi thực tế và người nuôi có quan hệ nuôi
dưỡng, chăm sóc nhau trong quan hệ cha, mẹ với con thì họ thuộc diện thừa
kế theo háp luật của nhau. Quyền và lợi ích của người con nuôi thực tế với

quyền và lợi ích của người làm cha nuôi, mẹ nuôi trong quan hệ thừa kế tài
sản của nhau tương tự như cha con, mẹ con. Theo nguyên tắc thì quan hệ
giữa con nuôi thực tế với cha nuôi, mẹ nuôi không vi phạm những điều kiện
nhận con nuôi mà chỉ vi phạm thủ tục nhận con nuôi thì họ có quan hệ cha
con, mẹ con. Con nuôi thực tế được Tòa án thừa nhận.
Đối với chú, bác, cô, dì, cậu ruột của các cháu và các cháu gọi người để lại
di sản là chú, bác, cô, dì, cậu ruột luật không quy định họ có nghĩa vụ chăm
sóc, nuôi dưỡng nhau. Nhưng pháp luật lại quy định họ được thừa kế của
nhau theo trình tự hàng. Quy định này dựa trên quan hệ huyết thống giữa
cháu với chú, bác, cô, dì, cậu ruột của người chết và những người gọi người
để lại di sản là chú, bác, cô, dì, cậu ruột.
Tóm lại, diện thừa kế theo pháp luật bao gồm những cá nhân còn sống có
quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại
di sản được tính đến thời điểm mở thừa kế của người đó và những cá nhân
sinh ra mà còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi
10
người để lại di sản chết. Phạm vi những cá nhân thuộc diện thừa kế theo
huyết thống được xác định theo số người được pháp luật chỉ định trong các
hàng thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Diện thừa kế không bao
gồm người không được quyền hưởng di sản theo quy định của pháp luật.
2. Hàng thừa kế theo pháp luật.
Sau khi đã xác định phạm vi những người có quyền thừa kế theo pháp luật
dựa trên ba mối quan hệ giữa người thuộc diện thừa kế với người để lại di
sản. Di sản của người chết phải được dịch chuyển cho những người thân
thích của người đó. Tuy nhiên, trong số những người thân thích đó thì mức
độ gần gũi, thân thích của mỗi người đối với người chết là khác nhau. Theo
trình tự hưởng di sản thừa kế thì người nào có mức độ gần gũi nhất với
người chết sẽ được hưởng di sản mà người đó để lại, nhiều người có cùng
một mức độ gần gũi với người chết sẽ cùng được hưởng di sản của người đó.
Khi không có người gần gũi nhất thì những người có mức độ gần gũi tiếp

theo sẽ được hưởng d sản của người chết để lại. Như vậy, theo quy định của
pháp luật không phải tất cả những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật
đều được hưởng thừa kế cùng một lúc. Để những người thuộc diện thừa kế
theo pháp luật hưởng di sản theo trình tự trước, sau căn cứ vào mức độ gần
gũi giữa họ với người chết, pháp luật về thừa kế đã xếp những người đó theo
trình tự nhóm khác nhau. Mỗi một nhóm đó được gọi là một hàng thừa kế
theo pháp luật.
Vậy hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần
gũi với người chết và theo đó họ cùng được hưởng ngang nhau đối với di
sản thừa kế mà người chết để lại.
Để đảm bảo hơn nữa về quyền thừa kế của mọi chủ thể nói chung và của
mọi cá nhân nói riêng, Pháp lệnh thừa kế và hơn nữa Bộ luật Dân sự 1995 đã
xác định diện những người thừa kế theo pháp luật với một phạm vi rộng
hơn. Vì vậy, số lượng hàng thừa kế theo pháp luật cũng nhiều hơn so với các
văn bản pháp luật vê thừa kế trước đó. Điều 25 của pháp lệnh Thừa kế và
Điều 679 Bộ luật Dân sự 1995 đã quy định ba hàng thừa kế như sau:
11
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi,
mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại,
anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết.
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác
ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của
người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì
ruột.
Theo quy định trên thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người thừa kế
của cháu ở hàng thừa kế thứ hai nhưng cháu không thuộc hàng thừa kế thứ
hai của ông bà. Tương tự như vậy, cụ nội, cụ ngoại là người thừa kế của chắt
ở hàng thừa kế thứ ba nhưng chắt không thuộc hàng thừa kế thứ ba của các
cụ. Sở dĩ các nhà làm luật không đưa cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông,

bà, không đưa chắt vào hàng thừa kế thứ ba của các cụ là vì muốn để cho
cháu hưởng di sản của ông bà, chắt hưởng di sản của các cụ theo chế độ thừa
kế thế vị trong trường hợp cha, mẹ của cháu và cha, mẹ của chắt chết trước
ông, bà, các cụ. Khi ban hành bộ Luật Dân sự 1995, các nhà làm luật cho
rằng dù có xếp cháu vào hàng thừa kế thứ hai để hưởng di sản của ông, bà
thì theo trình tự cháu vẫn không được hưởng di sản của ông, bà nếu cha, mẹ
cháu vẫn còn sống vào thời điểm ông, bà chết. Nếu cha, mẹ cháu chết trước
ông, bà thì cháu đã được hưởng di sản của ông, bà theo chế độ thừa kế thế
vị. Vì thế, sẽ là thừa nếu xếp cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông, bà, chắt
vào hàng thừa kế thứ ba của các cụ. Tuy nhiên, cách hiểu này và quy định
trên đã bộc lộ sự thiếu sót và đã được bổ sung trong bộ Luật Dân sự năm
2005. Về hàng thừa kế theo pháp luật, điều 676 Bộ Luật Dân sự 2005 quy
định như sau:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi,
mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
12
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại,
anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết, cháu ruột của người chết
mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác
ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của
người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì
ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Như vậy, về cơ bản thì Bộ Luật Dân sự 2005 giữ lại quy định của Bộ Luật
Dân sự 1995 về hàng thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, có bổ sung thêm
cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông bà, chắt vào hàng thừa kế thứ ba của
các cụ. Sự bổ sung này là cần thiết trong việc bảo vệ quyền hưởng di sản của
cháu đối với di sản của ông, bà và quyền hưởng di sản của chắt đối với di
sản của các cụ trong một số trường hợp cụ thể. Chẳng hạn, cha của cháu là
người thừa kế theo luật duy nhất của ông, bà nhưng lại là người không được

quyền hưởng di sản theo khoản 1 Điều 643. Nếu không có bổ sung này thì
trong trường hợp đó cháu sẽ không được hưởng thừa kế di sản mà ông bà để
lại vì cháu không thuộc hàng thừa kế nào của ông, bà và thừa kế thế vị chỉ
được đặt ra khi cha, mẹ chết trước ông, bà và không bị tước quyền thừa kế.
Ở hàng thừa kế thứ nhất có hai mối quan hệ giữa những người có quyền
hưởng di sản của nhau:
Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng:
Vợ - chồng là mối quan hệ giữa một người đàn ông với một người đàn bà
trên cơ sở hôn nhân được pháp luật thừa nhận. Quan hệ thừa kế giữa vợ và
chồng là một quan hệ thừa kế mang tính hai chiều hay còn gọi là “thừa kế
đối nhau”, “thừa kế của nhau”, nghĩa là trong đó, khi bên này chết thì bên
kia là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất và ngược lại, khi bên kia chết
thì bên này là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất. Căn cứ để xác định
quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân. Theo quy định tại
Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “hôn nhân là quan hệ giữa
13
vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Mặ khác, cũng tại Điều 8 của luật trên còn
quy định “kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định
của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn”. Vì thế, vợ - chồng
được thừa kế di sản của nhau khi một bên chết, nếu vào thời điểm mở thừa
kế mà quan hệ hôn nhân giữa họ về mặt pháp lý vẫn còn tồn tại. Khi xác
định quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa vợ và chồng cần lưu ý các trường
hợp sau đây:
- Vợ, chồng đã chia tài sản chung nhưng không ly hôn, sau đó một
bên chết thì về mặt pháp lý, quan hệ hôn nhân của họ vẫn tồn tại. Do
đó người còn sống vẫn được thừa kế di sản của người đã chết.
- Vợ chồng đã sống ly thân và về mặt tình cảm hầu như tình yêu
giữa họ đã không còn nhưng vì một lý do tế nhị nào đó nên họ không
ly hôn thì dù mặt tình cảm không còn nhưng về mặt pháp lý, hôn
nhân giữa họ vẫn đang tồn tại. Vì vậy, người còn sống vẫn được

hưởng di sản của người đã chết.
- Khi một bên chết, dù người còn sống đang chung sống với người
khác như vợ chồng một cách bất hợp pháp thì người đó vẫn được
hưởng di sản của người đã chết.
- Vợ chồng đang xin ly hôn mà chưa được Tòa án cho ly hôn hoặc
đã được Tòa án cho ly hôn nhưng quyết định hoặc bản án cho ly hôn
chưa có hiệu lực pháp luật mà một bên chết thì bên còn sống vẫn
được thừa kế di sản của người chết.
- Nếu một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc hôn nhân đó đều
được tiến hành trước 13/01/1960 ở miền Bắc và trước ngày
25/3/1977 ở miền Nam thì khi người chồng chết trước tất cả các
người vợ (nếu còn sống vào thời điểm người chồng chết) đều là
người thừa kế ở hàng thứ nhất của người chồng. Ngược lại, chồng là
người thừa kế thứ nhất của những người vợ đã chết trước người
chồng đó.
14
- Nếu cán bộ, chiến sĩ đã có vợ ở miền Nam, sau khi tập kết ra Bắc,
lấy vợ ở miền Bắc mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng một
bản án có hiệu lực pháp luật thì những người vợ đó đều là người thừa
kế ở hàng thừa kế thứ nhất của người chồng khi người chồng chết
trước, và ngược lại khi những người vợ chết trước người chồng thì
người chồng là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của người vợ
đã chết.
- Đối với các trường hợp hôn nhân không đăng kí kết hôn nhưng
được thừa nhận là hôn nhân thực tế thì quan hệ vợ chồng giữa họ vẫn
được thừa nhận và do vậy họ là người thừa kế theo pháp luật của
nhau ở hàng thừa kế thứ nhất.
- Hai vợ chồng đã ly hôn nhưng sau đó quay lại sống chung với
nhau trước ngày luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực
pháp luật mà cuộc sống chung đó không bị hủy bỏ bằng một bản án

có hiệ lực pháp luật thì họ vẫn được thừa nhận là có quan hệ vợ
chồng theo hôn nhân nên vẫn là người thừa kế theo pháp luật của
nhau ở hàng thừa kế thứ nhất.
Quan hệ thừa kế giữa cha, mẹ và con:
Quan hệ thừa kế giữa một bên là cha, mẹ với một bên là con cũng là quan hệ
thừa kế mang tính chất hai chiều. Quan hệ này được xác định theo một trong
hai căn cứ. Nếu căn cứ vào quan hệ huyết thống thì đó là những người có
cùng một dòng máu trực hệ trong phạm vi hai đời liền kề nhau. Trong đo,
cha đẻ, mẹ đẻ của một người là người đã sinh ra người đó và được pháp luật
thừa nhận. Vì vậy, cha, mẹ của người do mình sinh ra dù trong hay ngoài giá
thú nhưng được pháp luật thừa nhận đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất để
hưởng di sản theo pháp luật khi người con chết. Và ngược lại, người con
trong hay ngoài giá thú đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất để hưởng di
sản do cha, mẹ mình để lại. Nếu căn cứ vào quan hệ nuôi dưỡng thì đó là
quan hệ giữa những người nuôi dưỡng lẫn nhau theo cha – con, mẹ - con
hoặc theo cha, mẹ - con. Cha nuôi, mẹ nuôi của một người là người đã nhận
15
người đó làm con nuôi của mình theo quy định của pháp luật. Cha nuôi, mẹ
nuôi là những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của con nuôi khi người
con nuôi đó chết và ngược lại, con nuôi là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ
nhất của cha, mẹ nuôi khi cha, mẹ nuôi chết.
Trong trường hợp một người vừa có con nuôi vừa có con đẻ thì họ vừa là
người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của người con nuôi
khi người con nuôi đó chết, vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để
hưởng di sản của người con đẻ khi người con đẻ đó chết. Ngược lại, một
người đang là con nuôi của người khác thì họ vừa là người thừa kế ở hàng
thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của cha, mẹ nuôi khi cha, mẹ nuôi chết,
vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của cha, mẹ đẻ
khi cha, mẹ đẻ chết.
Đối với trường hợp người nhận nuôi con nuôi không đăng kí việc nhận con

nuôi theo đúng quy định của phap luật thì cha, mẹ nuôi với con nuôi chỉ là
người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của nhau khi được công nhận là nuôi
con nuôi thực tế.
Hàng thừa kế thứ nhất còn có thể được bổ sung thêm người thừa kế là con
riêng và cha kế, mẹ kế được thừa kế theo pháp luật của nhau khi một bên
chết trước. Căn cứ để xác định quyền thừa kế theo pháp luật giữa con riêng
với cha kế, mẹ kế nếu họ có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha
con, mẹ con thì được thừa kế theo pháp luật của nhau. Do vậy, con riêng và
cha kế, mẹ kế không phải là người đương nhiên thừa kế theo pháp luật của
nhau mà có cơ sở để xác định được thừa kế theo pháp luật của nhau là quan
hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con.
Ở hàng thừa kế thứ hai:
Quan hệ thừa kế giữa ông, bà với cháu:
Theo điểm b khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005 thì căn cứ để xác định
mối quan hệ này là hoàn toàn dực vào quan hệ huyết thống mà không dựa và
quan hệ nuôi dưỡng. Pháp luật không đương nhiên thừa nhận giữa cha đẻ,
16
mẹ đẻ của một người với người con nuôi của người đó có quan hệ thừa kế.
Vì vậy, ông nội, bà nội của một người là người đã sinh ra cha đẻ của người
đó, ông ngoại, bà ngoại của một người là người đã sinh ra mẹ đẻ của người
đó. Nếu ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại còn sống vào thời điểm người
cháu của mình chết sẽ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế thứ hai
của người cháu đó. Ngược lại, khi ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại chết
thì cháu của người chết sẽ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế
thứ hai của người đó.
Quan hệ thừa kế giữa anh ruột, chọ ruột với em ruột:
Đây là quan hệ thừa kế giữa hai bên, trong đó một bên hoặc là anh ruột hoặc
là chị ruột hoặc là cả anh ruột, chị ruột với một bên là em ruột. Quan hệ thừa
kế này được hình thành theo một căn cứ duy nhất là quan hệ huyết thống,
bao gồm những người có quan hệ huyết thống trực hệ cùng một đời. Anh,

chị, em ruột bao gồm: Những người có cùng cha, cùng mẹ, những người có
cùng mẹ tuy khác cha, những người có cùng cha tuy khác mẹ. Cần lưu ý
rằng không hình thành quan hệ thừa kế giữa anh, chị, em từ quan hệ nuôi
dưỡng, vì vậy trong trường hợp một người vừa có con nuôi, vừa có con đẻ
thì giữa con nuôi và con đẻ của người đó không phải là anh, chị, em ruột của
nhau nên họ không phải là người thừa kế theo pháp luật của nhau.
Ở hàng thừa kế thứ ba:
Quan hệ giữa cụ với chắt
: Cụ nội của một người là người sinh ra ông nội hoặc bà nội của người đó.
Cụ ngoại của một người là người sinh ra ông ngoại hoặc bà ngoại của người
đó. Trường hợp cụ nội, cụ ngoại chết không có người thừa kế là con và cháu
hoặc có người thừa kế nhưng họ đều từ chối nhận di sản hoặc không có
quyền hưởng di sản thì chắt sẽ được hưởng di sản của cụ.
Quan hệ thừa kế giữa bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột với cháu
ruột
17
: Bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của một người là anh ruột, chị
ruột, em ruột của cha đẻ hoặc của mẹ đẻ của người đó. Cơ sở hình thành mối
quan hệ thừa kế giữa những người này là quan hệ huyết thống bàng hệ giữa
hai đời liền kề nhau. Đây là những người có quyền hưởng di sản của nhau
theo hàng thừa kế thứ ba, nghĩa là khi cháu chết trước thì chú, bác, cô, dì,
cậu ruột nếu còn sống là những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ ba của
cháu. Ngược lại, nếu cô, dì, chú, bác, cậu ruột chết thì cháu là người thừa kế
ở hàng thứ ba của người chết.
KẾT LUẬN
Thừa kế theo pháp luật là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho những
người còn sống theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật
quy định. Cá nhân có quyền sở hữu với tài sản của mình, sau khi chết, số tài
sản còn lại được chia đều cho những người thừa kế. Người được thừa kế
theo pháp luật là những người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân,

quan hệ nuôi dưỡng. Những người được hưởng thừa kế theo quy định của
pháp luật không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi. Mọi người bình
đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế của người chết, thực hiện nghĩa vụ mà
người chết chưa thực hiện trong phạm vi di sản nhận. Do phạm vi những
người thừa kế rất rộng, vì vậy pháp luật quy định thành nhiều hàng thừa kế.
Trong đó hàng thứ nhất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống
gần gũi nhất so với các hàng khác. Các hàng thứ hai, thứ ba là những hàng
dự bị nếu như người chết không có những người ở hàng thứ nhất hoặc có
nhưng họ đều không nhận hoặc không có quyền nhận. Quy định của pháp
luật về thừa kế theo pháp luật tuy còn có những điểm bất cập, vướng mắc
chưa phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế xã hội tuy nhiên, những quy
định đó đã giúp các nhà làm luật xét xử công bằng hơn và từ đó đã tạo được
lòng tin trong nhân dân.
18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật thừa kế Việt Nam, NXB Hà Nội, TS. Phùng Trung Tập.
2. Thừa kế _quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, NXB Chính trị
quốc gia, TS. Phạm Văn Tuyết.
3. Pháp luật thừa kế của Việt Nam_những vấn đề lý luận và thực tiễn,
NXB Lao động xã hội, Trường Đại học Luật Hà Nội, TS. Nguyễn
Minh Tuấn.
4. Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay,
NXB Tư Pháp, TS. Phùng Trung Tập.
5. Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của Bộ luật Dân sự, Bộ Tư
pháp_Viện nghiên cứu pháp lý, NXB Chính trị quốc gia.
6. Di sản thừa kế theo pháp luật Dân sự Việt Nam_những vấn đề lý luận
và thực tiễn, NXB Tư Pháp, TS. Trần Thị Huệ.
7. Giáo trình luật dân sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Trường Đại
học Luật Hà Nội.
8. Bộ Luật Dân sự năm 2005, NXB Chính trị quốc gia.

19

×