Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

tiểu luận quản trị stress, làm việc nhóm và hoạt động sáng tạo 10đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.41 KB, 46 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu hiện nay mà các quốc gia trong đó có Việt
Nam đều mong muốn. Nó được tạo ra bởi những mối liên kết và sự trao đổi
ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa,
kinh tế,v.v trên quy mô toàn cầu; kéo theo đó là sự du nhập, pha trộn các dòng
chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin,văn hoá…
Trước xu thế đó, Việt Nam mà cụ thể là từng doanh nghiệp, từng tổ chức,
từng con người Việt Nam cần trang bị cho mình những kiến thức cũng như kĩ
năng cần thiết nào để thích nghi, hòa nhập để bắt kịp và phát triển thành một
quốc gia có vị thế kinh tế, chính trị cao trong khu vực và thế giới.
Trong môi trường toàn cầu hóa ấy, chúng ta sẽ không tránh khỏi những
bỡ ngỡ và khó khăn bước đầu. Khó khăn do có sự du nhập về văn hóa, sự khác
biệt trong phong cách sống và làm việc…, từ đó việc gặp phải những áp lực
trong cuộc sống vượt quá tầm kiểm soát là không thể tránh khỏi.
Trong bài tiểu luận này nhóm chúng em xin trình bày cnhững đánh giá
của nhóm về vấn đề stress trong cuộc sống hiện nay mà đối tượng cụ thể là các
bạn sinh viên; văn hóa tổ chức của Việt Nam với văn hóa tổ chức của một số
nước tiêu biểu để chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong phong cách làm việc theo
tổ chức của người Việt; và một vài điều cần biết về hoạt động sáng tạo trong tổ
chức hiện nay. Từ đó đưa ra những nhìn nhận và đề xuất hướng giải quyết để
làm thế nào quản lý stress trong sinh viên và xem nó như một một tác động tích
cực cho quá trình học tập, làm việc và hoàn thiện bản thân; đề ra những giải
pháp giúp người Việt chúng ta làm việc theo tổ chức hiệu quả, tạo một bản sắc
riêng cho văn hóa của tổ chức Việt không thua kém khi so sánh với phong cách
làm việc của người Nhật hay người Âu Mỹ; và làm thế nào để kích thích sự sáng
tao trong tổ chức hiện nay.
Câu hỏi 1:Sự căng thẳng (stress) là thứ mà tất cả chúng ta đều phải đối mặt,
đặc biệt là sinh viên có cuộc sống cực kỳ căng thẳng. Làm thế nào bạn có thể
nhận ra khi nào bạn đang bị căng thẳng ? bạn sẽ làm gì để đối phó với sự căng
thẳng đó ?
Đề tài I: Stress và quản lý stress


I. Đặt vấn đề:
Với những guồng quay hối hả của cuộc sống thường ngày, mỗi người
chúng ta, đặc biệt là sinh viên thường phải đối mặt với nhiều áp lực, có thể về
tinh thần có thể về thể chất dẫn đến trạng thái căng thẳng thần kinh, mệt mỏi,
chán chường… Chúng ta thường gọi chúng với cái tên chung là “stress”. Vậy
stress là gì, có lợi hay có hại, khi nào ta biết mình đang bị stress và làm sao để
đối phó với trạng thái ấy?
II. Các lý thuyết về stress:
1.Khái niệm:
Thuật ngữ “stress” ban đầu được sử dụng trong vật lý học, dùng để chỉ
một sức nén mà loại vật liệu nào đó phải chịu đựng.
Năm 1914, Walter Canon đã sử dụng thuật ngữ này trong sinh lý học để
chỉ các stress cảm xúc. Cùng với nghiên cứu của Walter Canon và định nghĩa về
stress của nhiều nhà khoa học đưa ra sau đó thì có thể thấy stress không chỉ liên
quan đến các vấn đề sinh lý mà stress còn được đề cập ở khía cạnh tâm lý. Năm
1935, ông đã đi sâu nghiên cứu về sự cân bằng nội môi ở động vật có vú khi
chúng lâm vào tình huống khó khăn. Ông cũng mô tả các nhân tố cảm xúc trong
quá trình phát sinh, phát triển một số bệnh và xác định vai trò của hệ thần kinh
cơ thể đối phó với các tình huống khẩn cấp.
Bác sĩ chuyên khoa nội tiết Hans Selye (1907 – 1982) định nghĩa stress
là một hội chứng đặc hiệu bao gồm tất cả những thay đổi được gây ra một cách
không đặc hiệu bên trong hệ thống sinh học, là mối tương quan giữa tác nhân
kích thích và phản ứng cơ thể.
Theo R.S. Lazarus, stress là căng thẳng xuất hiện khi cá nhân nhận thấy
rằng họ không thể ứng phó hoặc đáp ứng được với những yêu cầu đối với họ
hoặc đe dọa sự tồn tại khỏe mạnh của họ. (1966)
Theo cuốn “Stress, Appraisal and Coping” của tác giả R.S. Lazarus và
S. Folkman năm 1984, stress là kết quả của sự mất cân bằng giữa những yêu cầu
và những nguồn lực.
Còn theo S. Palmer định nghĩa thì: Stress xuất hiện khi áp lực vượt quá

khả năng thông thường của bạn để ứng phó.
Như vậy, stress là một đáp ứng thích nghi, được điều chỉnh, sắp xếp bởi
các đặc tính của cá nhân hoặc quá trình tâm lý. Nó chính là kết quả của những
hành động, tình huống hay sự kiện bên ngoài tạo ra những đòi hỏi về vật chất
hoặc tâm lý lên con người, là phản ứng của cơ thể trước bất cứ một yêu cầu, áp
lực hay một yếu tố tác động là những đòi hỏi của tình huống buộc con người
phải thích nghi.
Stress được hiểu trong mối quan hệ giữa con người và những tác động
từ môi trường bên ngoài. Tuy nhiên không phải môi trường bên ngoài mà chính
việc nhìn nhận của con người về kích thích từ môi trường mới quyết định mức
độ căng thẳng của sự kiện đó.
2. Phân loại
Stress có hai loại là: stress cấp tính và stress mạn tính. Cần phân biệt
stress mạn tính với trạng thái stress cấp tính. Trong khi stress cấp tính thuộc về
hoạt động nghề nghiệp (ví dụ khi phải nạp một báo cáo khẩn cấp) thì stress mạn
tính xảy ra khi các căng thẳng kết hợp với nhau (ví dụ trạng thái mất cân bằng
giữa đòi hỏi về tâm lý của chức vụ với giới hạn thao tác mà cá nhân vốn có để
làm công việc của mình). Stress cấp tính là một hệ thống bảo vệ cơ thể, nó là
điều cốt tử; stress mạn tính thì lại không nhất thiết phải nặng, nhưng có tính lặp
lại trong một thời kỳ dài. Các hormon của stress (các catécholamin, trong đó có
épinephrine tức adrénaline) gây những hiệu quả tiêu cực khi tim chịu hàm lượng
cao các chất này trong thời gian dài. Stress có thể làm tăng mức đòi hỏi oxy trong
cơ thể, một sự co thắt động mạch tim (động mạch vành và rối loạn nhịp tim bởi hệ
thống dẫn máu của tim bị bất ổn định về mặt điện). Stress mạn tính làm tăng tần
số nhịp tim và huyết áp nên tim gặp khó khăn khi tạo ra lưu thông máu để nuôi cơ
thể. Sự tăng lâu dài huyết áp cũng được nhận thấy cùng với hiện tượng cao huyết
áp (không phải do stress), đều có hại cho sức khoẻ và có thể gây nhồi máu cơ tim
(cơn đau tim), rối loạn nhịp tim và tai biến mạch máu não.
3. Phân chia các giai đoạn của stress
Theo bác sĩ chuyên khoa nội tiết người Canada, gốc Áo - Hans Selye

(1907 – 1982), phản ứng stress hay hội chứng thích nghi tổng
quát (GAS - general adaptation syndrome) được chia thành ba giai đoạn: giai
đoạn báo động, giai đoạn thích nghi và giai đoạn kiệt quệ:
• Giai đoạn báo động: là giai đoạn biểu hiện bằng những biến đổi
đặc trưng của chủ thể khi tiếp xúc với các yếu tố gây stress, chẳng hạn như: các
hoạt động tâm lý được kích thích, đặc biệt là quá trình tập trung chú ý, quá trình
ghi nhớ và tư duy; những phản ứng chức năng sinh lý của cơ thể như tăng huyết
áp, tăng nhịp tim, nhịp thở và sự hoạt động của của cơ bắp. Giai đoạn này có thể
diễn ra rất nhanh hoặc kéo dài vài giờ , vài ngày Chủ thể bị tác động có thể
chết trong giai đoạn này nếu yếu tố gây stress quá mạnh. Nếu chủ thể tồn tại
được thì phản ứng chuyển sang giai đoạn thứ hai.
• Giai đoạn thích nghi: hay còn được gọi dưới tên gọi khác là giai
đoạn chống đỡ. Trong giai này, mọi cơ chế thích ứng được động viên để cơ thể
chống đỡ và điều hòa các rối loạn. Sức đề kháng của cơ thể tăng lên, con người
có thể làm chủ được tình huống stress, lặp lại các trạng thái cân bằng nội môi và
tạo ra sự cân bằng mới với môi trường. Trong một tình huống stress bình
thường, chủ thể đáp ứng lại bằng giai đoạn báo động và giai đoạn chống đỡ. Nếu
giai đoạn chống đỡ tiến triển tốt thì các chức năng tâm lý , sinh lý của cơ thể
được phục hồi. Nếu khả năng thích ứng của cơ thể mất dần thì quá trình phục
hồi không xảy ra và cơ thể chuyển sang giai đoạn cuối cùng là giai đoạn kiệt
quệ.
• Giai đoạn kiệt quệ: lúc này, phản ứng stress trở thành bệnh lý
khi tình huống stress hoặc bất ngờ hoặc quá dữ dội, hoặc ngược lại, quen thuộc
nhưng lặp đi lặp lại, vượt quá khả năng dàn xếp của chủ thể. Ở giai đoạn này
các biến đổi tâm lý, sinh lý của giai đoạn báo động xuất hiện trở lại, hoặc là cấp
tính và tạm thời, hoặc là nhẹ nhàng hơn và kéo dài. Tất cả các nguồn lực của cơ
thể cuối cùng cũng đã bị cạn kiệt và cơ thể không thể duy trì chức năng bình
thường. Các triệu chứng ban đầu có thể xuất hiện trở lại (tim đập nhanh, ra mồ
hôi, thở nhanh…). Giai đoạn này nếu kéo dài có thể dẫn đến tình trạng hệ thống
miễn dịch của cơ thể không làm việc được nữa và các chức năng của cơ thể trở

nên suy yếu dần. Tình trạng stress kéo dài sẽ gây nên các vấn đề về tim mạch,
rối loạn hệ tiêu hóa, tiểu đường trầm cảm và các bệnh tâm thần khác.
4. Nguyên nhân
Stress vốn dĩ là một khái niệm đa bình diện, bao gồm những đáp ứng
thuộc về cảm xúc, hành vi và sinh lý của cơ thể thông qua sự tương tác với môi
trường. Có nhiều lý thuyết về stress, xem nó như một sự kiện từ môi trường, một
đáp ứng sinh lý, một quá trình nhận thức - hành vi. Sau đây nhóm xin trình bày
những lý thuyết giải thích nguyên nhân gây ra stress dưới hai góc độ sinh học và
quản trị học.
Thứ nhất, dưới góc độ sinh học, theo bác sĩ chuyên khoa nội tiết
người Canada, gốc Áo - Hans Selye (1907 – 1982), ông định nghĩa stress là một
hội chứng đặc hiệu bao gồm tất cả những thay đổi được gây ra một cách không
đặc hiệu bên trong hệ thống sinh học, là mối tương quan giữa tác nhân kích
thích và phản ứng cơ thể, là một đáp ứng của chủ thể trước một nhu cầu hoặc
một sự tương ứng của mối quan hệ giữa con người với môi trường xung quanh,
là một đáp ứng thích nghi về mặt tâm lý, sinh học và tập tính. Stress đặt chủ thể
vào quá trình dàn xếp thích nghi với môi trường xung quanh, tạo cho cơ thể một
cân bằng mới sau khi chịu tác động của môi trường, nói cách khác, stress là
phản ứng bình thường của cơ thể góp phần làm cho cơ thể thích nghi với môi
trường xung quanh. Nếu đáp ứng của cá nhân với các yếu tố stress không đầy
đủ, không thích hợp và cơ thể không tạo ra một cân bằng mới, thì những chức
năng của cơ thể ít nhiều bị rối loạn, những dấu hiệu bệnh lý cơ thể, tâm lý, tập
tính sẽ xuất hiện và sẽ tạo ra những stress bệnh lý cấp tính hoặc kéo dài.
Thứ hai, dưới góc độ nghiên cứu của môn Quản trị học, là tháp
nhu cầu Maslow ((Maslow's hierarchy of needs) của nhà tâm lý học Abraham
Maslow (1908- 1970). Đây là một lý thuyết quan trọng của quản trị kinh doanh
được ông đưa ra vào năm 1943 trong bài viết A Theory of Human Motivation.
Cấu trúc của tháp nhu cầu có 5 tầng, trong đó, những nhu cầu con người được
liệt kê theo một trật tự thứ bậc hình tháp kiểu kim tự tháp. Những nhu cầu cơ
bản ở phía đáy tháp phải được thoả mãn trước khi nghĩ đến các nhu cầu cao hơn.

Các nhu cầu bậc cao sẽ nảy sinh và mong muốn được thoả mãn ngày càng mãnh
liệt khi tất cả các nhu cầu cơ bản ở dưới (phía đáy tháp) đã được đáp ứng đầy
đủ. Năm tầng của tháp nhu cầu gồm:
+ Tầng thứ nhất: Các nhu cầu về căn bản nhất thuộc "thể lý"
(physiological) - thức ăn, nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ
ngơi.
+ Tầng thứ hai: Nhu cầu an toàn (safety) - cần có cảm giác yên
tâm về an toàn thân thể, việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo.
+ Tầng thứ ba: Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực
thuộc (love/belonging) - muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn
có gia đình yên ấm, bạn bè thân hữu tin cậy.
+ Tầng thứ tư: Nhu cầu được quý trọng, kính mến (esteem) - cần
có cảm giác được tôn trọng, kinh mến, được tin tưởng.
+ Tầng thứ năm: Nhu cầu về tự thể hiện bản thân (self-
actualization) - muốn sáng tạo, được thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình
diễn mình, có được và được công nhận là thành đạt
Tháp nhu cầu Maslow (Maslow's hierarchy of needs)
Con người cá nhân hay con người trong tổ chức chủ yếu hành
động theo nhu cầu. Chính sự thỏa mãn nhu cầu làm cá nhân hài lòng và khuyến
khích họ hành động, đồng thời sự thỏa mãn đó trở nên mục đích hành động của
cá nhân. Theo cách xem xét đó, nhu cầu trở thành động lực quan trọng và việc
tác động vào nhu cầu cá nhân sẽ thay đổi được hành vi của con người. Vậy nếu
những nhu cầu của cá nhân không được đáp ứng hoặc đáp ứng chưa đầy đủ sẽ
dẫn đến trạng thái không hài lòng, bất mãn và mất động lực phấn đấu, lâu dài
sinh ra stress. Những nhà quản trị thường dựa vào lý thuyết này để có những
biện pháp khuyến khích nhân viên mình làm việc tích cực hơn.
Thứ ba, theo thuyết kỳ vọng (expectancy theory) của Victor H.
Vroom (1964) cho rằng, một người hành động theo một cách thức và nỗ lực nhất
định vì kỳ vọng là hành động đó sẽ dẫn đến một kết quả nhất định và vì mức độ
hấp dẫn của kết quả đối với người đó. Theo đó, nếu cá nhân có sự nỗ lực cao để

đạt được một thành tích tốt thì mức phần thưởng dành cho người đó sẽ là xứng
đáng, và khi phần thưởng phù hợp với mục tiêu của cá nhân thì sẽ thúc đẩy cá
nhân nỗ lực lớn hơn nữa để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của bản thân mình.
Tuy nhiên, nếu phần thưởng dành cho người đó là xứng đáng nhưng không phù
hợp với mục tiêu của cá nhân thì có thể gây ra tâm lý không thỏa mãn vì mục
tiêu đặt ra không đạt được và phần nào đó làm hạn chế sự nỗ lực phấn đấu của
cá nhân, điều này diễn tiến lâu dài sẽ là nguyên nhân dẫn đến stress.
Thứ tư, thuyết công bằng - Equity theory của J. Stacy Adam, cá
nhân có xu hướng so sánh giữa phần thưởng mình được nhận trên những nỗ lực
(mức độ đóng góp) của bản thân với phần thưởng của người khác nhận được
trên nỗ lực của họ. Khi thấy có sự bất công bằng, ba hướng biểu hiện thái độ có
thể diễn ra ở cá nhân: chấp nhận, chịu đựng và khi sự bất công bằng biểu hiện ở
tần suất và mức độ cao cá nhân có thể có những thái độ ở cấp cao nhất là chống
đối. Ngoài những biểu hiện ra hành vi và thái độ, sự bất công bằng có thể gây ra
những hiện tượng tâm lý tiêu cực như sự không hài lòng, chán nản ở cá nhân –
là nguyên nhân dẫn đến stress.
III. Vận dụng lý thuyết giải quyết vấn đề:
1.Biểu hiện của stress:
Stress có thể được biểu hiện qua nhận thức, tình cảm, thể chất hay hành
vi.
• Các biểu hiện qua nhận thức của stress như: trí nhớ sút kém, học
trước quên sau; không tập trung vào công việc, học tập, hay thờ ơ, lơ đãng; có
những biểu hiện chán nản; tiếp cận hoặc suy nghĩ về một vấn đề thường theo
chiều hướng tiêu cực, bi quan; thường có cảm giác bất an, lo lắng.
• Các biểu hiện về cảm xúc như buồn rầu; nóng tính, thường có cảm
giác bực bội, khó chịu về mọi thứ xung quanh; dễ kích động, cảm xúc thay đổi
thất thường, dễ cáu bẩn dù chuyện không có gì đáng kể; không có khả năng thư
giãn; có cảm giác choáng ngợp, khó thích nghi với sự thay đổi, cảm thấy cô đơn,
bị cô lập, trầm cảm.
• Các biểu hiện thể chất như kiệt sức, hay nhức mỏi, đau ốm, uể oải,

da dẻ nhợt nhạt, hay choáng váng và buồn nôn, tim đập nhanh, thở nhanh và
luôn có cảm giác bồn chồn, hệ tiêu hóa bị rối loạn, cụ thể là cảm giác chướng
bụng, khó tiêu, tiêu chảy hoặc táo bón, chóng mặt, đau ngực, thường xuyên bị
cảm lạnh, mỏi cơ…
• Các biểu hiện về hành vi như ăn nhiều hơn hoặc ít đi so với bình
thường; ngủ quá nhiều hay quá ít; tự cô lập chính mình từ những người khác, có
khuynh hướng tách mình ra khỏi mọi người; trì hoãn, bỏ qua hoặc buông xuôi
trách nhiệm; sử dụng rượu, thuốc lá, các chất kích thích để giải tỏa căng thẳng
hoặc các loại thuốc an thần, thuốc ngủ để thư giãn và có các thói quen thần kinh
như cắn móng tay, nhịp chân…
Đã có rất nhiều trường hợp tự sát trong học sinh, sinh viên vì áp lực đã
thực sự vượt quá giới hạn của sự chịu đựng. Theo thông tin do Cơ quan Cảnh sát
quốc gia Nhật Bản (NPA) đưa ra, số người Nhật tìm đến cái chết do không thể
tìm được việc năm 2009 là 354 người, trong năm 2010 là 424. Cảnh sát cho biết
trong số đó, sinh viên chiếm tỷ lệ cao nhất, năm 2009 có 23 sinh viên và năm
2010 53 người, tăng 130%.
Tại Việt Nam, đó là trường hợp cậu sinh viên Trịnh Công Sỹ (sinh viên
năm nhất trường Đại học Công nghiệp TP.HCM) vốn là một sinh viên xuất sắc
nhưng do trong kì thi học kì I làm bài không tốt, cùng với áp lực thi cử quá nặng
nên đã tìm đến cái chết để tự giải thoát cho chính mình. Đây chỉ là một trong số
rất ít trường hợp tự sát vì stress, trong khoảng thời gian gần đây, các báo liên tục
đưa các tin về những cái chết thương tâm do áp lực. Đó thực sự đã trở thành một
vấn đề của xã hội, nhất là trong nhịp sống ngày một vồn vã như hiện nay cùng
với tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa quá nhanh và sự phá triển vượt bậc của
công nghệ thông tin làm cho mọi người ngày càng sống thu hẹp hơn vào thế giới
nội tâm của mình.
2. Nguyên nhân của Stress:
2.1. Nguyên nhân chung:
Stress sẽ xảy ra khi áp lực từ môi trường tác động lên cá nhân, vượt
quá giới hạn chịu đựng của họ, bao gồm những nguyên nhân từ môi trường bên

ngoài và từ mỗi cá nhân. Nhóm nguyên nhân bên ngoài là những nguyên nhân
nảy sinh từ vấn đề sức khỏe của mỗi người; từ những áp lực trong công việc,
học tập; từ môi trường làm việc cũng như môi trường sống, và từ những mối
quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng.
• Về vấn đề thể chất và sức khỏe:
Những thay đổi sinh lý của cơ thể trong quá trình đang hoàn
thiện cũng là nguyên gây nên những căng thẳng, mệt mỏi ở lứa tuổi thanh thiếu
niên học sinh, sinh viên. Cơ thể gầy gò, sức đề kháng yếu, dễ bị say nắng, cảm,
sốt, đau đầu… do chế độ sinh hoạt không hợp lý, ăn uống không đủ chất dinh
dưỡng cũng làm cho chúng ta dễ rơi vào trạng thái mệt mỏi, stress. Khi đang bị
cảm sốt bạn thường cảm thấy mệt mỏi, ăn uống không ngon miệng, đau cơ, chỉ
muốn ngồi hoặc nằm một chỗ không muốn hoạt động; khi bị đau đầu bạn sẽ có
cảm giác mọi thứ như đang quay và muốn nổ tung, chỉ muốn được yên tĩnh
nhưng nếu bị làm phiền bạn sẽ rất dễ nổi nóng. Hoặc khi biết mình đang mắc
những căn bệnh hơi nghiêm trọng, thời gian điều trị kéo dài và tốn kém (như
viêm gan, bệnh về tim mạch, cao huyết áp…) hoặc biết mình mắc bệnh nan y
(ung thư dạ dày, ung thư máu ) người ta sẽ không ngừng lo nghĩ về nó, buồn rầu
và suy nghĩ về những chiều hướng có thể xảy ra đối với bản thân, điều đó cũng
góp phần làm nảy sinh căng thẳng.
• Nguyên nhân từ môi trường:
Sự thay đổi của thời tiết, thời tiết nắng mưa thất thường, oi bức
cũng dễ làm người ta sinh ra bực bội, cáu gắt; sự ô nhiễm từ môi trường bởi
tiếng ồn, khói xe, bụi, chất thải công nghiệp, giao thông tắc nghẽn cũng là
nguyên nhân dẫn đến stress thường gặp.
Môi trường học tập, làm việc không thoải mái, thiếu những tiện
nghi cần thiết chẳng hạn như không gian quá hẹp, bừa bộn, nóng bức, không đủ
ánh sáng, không có màu xanh từ thiên nhiên, gần những nguồn phát ra tiếng ồn,
không có không gian cho sự sáng tạo cũng làm giảm hiệu suất trong quá trình
học tập, làm việc. Hoặc nếu sống, học tập, làm việc trong một môi trường mà
mọi người không làm việc theo hết khả năng của mình, không tập trung chuyên

môn mà còn nói chuyện gây ảnh hưởng đến hoạt động của người khác cũng là
nguyên nhân nảy sinh những bất mãn, chán nản và căng thẳng cho những người
xung quanh.
• Những căng thẳng, áp lực từ công việc, gia đình, xã hội và các
mối quan hệ:
Công việc yêu cầu phải hoàn thành trong thời gian ngắn và gấp
rút yêu cầu phải dốc toàn lực để hoàn thành đúng tiến độ tạo nên áp lực lớn cho
mỗi cá nhân, nếu không hoàn thành hoặc làm không tốt sẽ ảnh hưởng đến thành
tích cá nhân, đó cũng có thể là nguyên nhân của stress.
Các vấn đề tài chính, đặc biệt trong thời kỳ bão giá hiện nay làm
cho nhiều người phải suy tính và đau đầu vì nó. Phải cắt giảm việc chi tiêu cho
những khoản hơi tốn kém, phân bổ thế nào cho hợp lý để vẫn đảm bảo những
điều kiện cần thiết cho cuộc sống nhưng vẫn còn những khoản tiết kiệm cho
tương lai.
Sự mất mát người thân làm cho chúng ta cảm thấy hụt hẫng và
đau đớn, gây ra những cú sốc lớn về tâm lý cũng như mất đi chỗ dựa về kinh tế.
Mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia đình, giữa bạn bè với
nhau cũng gây ra những đè nặng về tâm lý của cá nhân, khiến họ không tập
trung trong quá trình làm viêc…
Bên cạnh đó áp lực từ sự kỳ vọng của mọi người dành cho mình
cũng tạo nên sức ép lớn cho cá nhân, cũng là nhân tố gây nên tình trạng strees
của họ.
• Cách nghĩ của bản thân về các vấn đề trong cuộc sống:
Đây có thể xem là nguyên nhân quyết định việc cá nhân có phải
đối mặt với stress hay không, qua “lăng kính phản chiếu cuộc sống” của mỗi
người, cùng một vấn đề có thể tạo nên những thái độ và phản ứng rất khác nhau.
Cách chúng ta suy nghĩ và cảm nhận về cuộc sống, về những khó khăn sẽ quyết
định trạng thái tinh thần và tâm lý của ta. Nếu chúng ta nghĩ mọi chuyện theo
hướng tích cực, đơn giản vấn đề rằng nó cũng không đến mức không thể giải
quyết được thì sẽ làm giảm bớt những đè nặng về tâm lý thay vì cứ nghĩ đến

những hậu quả xấu nhất và cho rằng nó sẽ xảy đến thì chỉ làm cho tâm lý nặng
nề hơn mà vấn đề vẫn không được giải quyết.
Ví dụ, bạn nghĩ nếu trượt đại học, tương lai của bạn sẽ thật mù
mịt, gia đình sẽ rất thất vọng và mọi người sẽ cười chê, suy nghĩ đó sẽ làm cảm
xúc của bạn tệ hơn thay vào đó bạn nên nghĩ rằng đại học không phải là con
đường duy nhất dẫn đến thành công; bạn sẽ học ở hệ cao đẳng rồi tiếp tục học
lên hoặc sẽ cố gắng ôn tập để năm tiếp tục thi thì vấn đề sẽ trở nên đơn giản.
2.2. Nguyên nhân của stress trong sinh viên
Ngoài những nguyên nhân chung được nêu ở trên, stress ở sinh viên
còn bị tác động bởi các nguyên nhân cụ thể sau.
• Nguyên nhân bên ngoài:
Vấn đề sức khỏe: những bạn đang gặp những vấn đề về sức
khỏe như đang bị bệnh, cơ thể bị suy nhược do làm việc quá sức, chế độ sinh
hoạt – học tập – nghỉ ngơi không hợp lý. Sinh viên thường có thói quen thức
khuya - dậy trễ do vậy hay bỏ bữa sáng vì không kịp thời gian, hơn nữa chế độ
sinh hoạt (ăn, ngủ, nghỉ ngơi) cũng không điều độ và hợp lý. Đa phần các bạn bỏ
qua thói quen tập thể dục mỗi ngày, lười vận động nên cơ thể yếu ớt, thay vào
đó bạn dành thời gian ngồi máy tính hàng giờ. Việc ngồi hàng giờ trên máy tính
để tìm kiếm tài liệu hay hoàn thành bài tập gây ra nhiều hậu quả không tốt như
mỏi mắt, đau lưng, đau vai, đau đầu…và đây cũng là nguyên nhân của stress.
Áp lực từ công việc và học tập: phương pháp học ở đại học khác
nhiều so với phương pháp học ở bậc phổ thông, đòi hỏi các bạn sinh viên phải
dành thời gian tự học, tự tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, thầy cô chỉ có nhiệm vụ
hướng dẫn và định hướng phương pháp. Nhiều bạn không quen với phương
pháp đó sẽ không theo được, dần cảm thấy chán nản, xem việc học hành là một
áp lưc lớn. Nhiều bạn ngoài việc học chính thức trên giảng đường, còn đi làm
thêm để cải thiện thu nhập, góp phần phụ giúp gia đình, đồng thời cũng tham
gia các hoạt động đoàn thể, hoạt động tình nguyện, học thêm về ngoại ngữ, tin
học, các môn năng khiếu khác như đàn, hát, nhảy,…nếu không biết cách phân
bổ thời gian hợp lý thì các bạn sẽ rất dễ sao lãng việc học hoặc có tâm lý để đến

gần thi mới bắt đầu học như vậy sẽ không đạt được kết quả cao và gây mệt mỏi
cho bản thân. Không phân bổ, điều chỉnh hơp lý lịch sinh hoạt của cá nhân,
nhiều sinh viên cảm thấy quá tải và stress. Những đối tượng dễ bị stress hơn cả
là sinh viên năm nhất và sinh viên năm cuối. Với sinh viên năm nhất họ chưa
kịp có thời gian để thích ứng với sự thay đổi nên đa phần cảm thấy khó khăn;
với sinh viên năm cuối ngoài việc học tập và tham gia các hoạt động khác trong
và ngoài trường họ còn phải trang bị những kĩ năng cần thiết để chuẩn bị cho
quá trình xin việc làm, với tình hình kinh tế khó khăn hiện nay để tìm kiếm một
công việc có thu nhập ổn đinh phù hợp với năng lực tạo cho sinh viên năm cuối
những lo lắng, căng thẳng nhất định.
Môi trường sống ô nhiễm do tiếng ồn, từ bụi đường, khí thải từ
các nhà máy, giao thông và sự biến đổi thời tiết làm cho mọi người trong đó có
sinh đều cảm thấy stress.
Sinh viên, đặc biệt là những sinh viên sống xa nhà, sinh viên
năm nhất, không còn được sự chăm sóc của ba mẹ, nhiều bạn không thể thích
nghi được với cuộc sống mới, môi trường mới, không quen với điều kiện thời
tiết, thức ăn, lối sống ở nơi mới, mọi thứ đều mới lạ nếu bạn nào không sớm
thích nghi thì rất dễ gặp phải những vấn đề sức khỏe cũng như những vấn đề
khác như đau ốm, nhớ nhà… cũng làm tinh thần giảm sút.
Khi các mối quan hệ giữa với mọi người xung quanh, với bạn bè
gặp những hiểu nhầm hoặc chuyện không như ý muốn mà chưa có cách tháo gỡ
cũng là nguyên nhân. Việc gia đình gặp phải những biến cố lớn về kinh tế hoặc
gia đình không hạnh phúc, cũng gây nên những bất ổn, tổn thương về tâm lý, tài
chính của bạn. Nhiều sinh viên đã hoặc đang có người yêu, sau những cú sốc về
tình cảm, mới chia tay người yêu sẽ có cảm giác cô đơn, nhớ về những kỉ niệm
để luyến tiếc, buồn bã, hối hận hoặc cảm thấy bị tổn thương…
Khi có quá nhiều tham vọng, đặt quá nhiều mục tiêu hoặc đặt ra
những mục tiêu vượt qua tầm của mình các bạn cũng sẽ rất mệt mỏi để phấn đấu
đạt được mục tiêu bằng mọi giá.
Kỳ vọng từ phía gia đình và xã hội đặt lên vai bạn sẽ ra những

áp lực nhất định, cũng là nguyên nhân gây ra stress. Ba mẹ muốn bạn có được
những thành tích cao trong học tập, các anh chị của bạn đều tốt nghiệp đại học
loại xuất sắc, ba mẹ cũng muốn bạn được như họ.
• Nguyên nhân từ chính cá nhân:
Cuộc sống của một cá nhân có phải đối mặt với sự căng thẳng
hay lo sợ hay không phụ thuộc phần lớn vào cách họ nhìn nhận vấn đề. Khi cá
nhân dự liệu được những việc không hay sắp xảy ra với mình và những người
xung quanh, chuẩn bị tâm lý vững vàng để đón nhận và có dự tính để ứng phó
với sự thay đổi sẽ giúp cá nhân không cảm thấy sốc hay hụt hẫng. Hoặc việc cá
nhân nhìn nhận vấn đề sẽ xảy ra là một tất yếu khách quan, suy nghĩ về nó theo
hướng tích cực giúp cá nhân cảm thấy thoải mái và sáng suốt hơn trong việc lựa
chọn giải pháp. Ngược lại, với những sự việc xảy đến dù to hay nhỏ, dù đơn
giản hay phúc tạp bạn đều nghĩ nó sẽ gây nên những phiền toái, khó khăn và
nghĩ rằng mình sẽ không thể giải quyết nó êm đẹp, những hậu quả xấu nhất có
thể sẽ xảy đến với mình. Điều đó sẽ làm tâm trạng bạn tệ hơn, không thể sáng
suốt để giải quyết mọi chuyện.
3. Quản lý stress
Khi rơi vào trạng thái stress, đầu tiên ta phải tìm hiểu đâu là nguyên
nhân gây nên stress để tìm cách khắc phục dễ dàng. Khi xác định được nguyên
nhân ta cần tìm cách thoát khỏi nguồn gây stress, không đưa mình vào những
trạng thái tiêu cực như uống rượu, hút thuốc, dùng các chất kích thích…và có
những ý nghĩ dại dột.
• Quản lý công việc:
Trong thời đại ngày nay, không thể phủ nhận áp lực công việc (do học
tập, làm việc ở các công ty – tổ chức, hoạt động ngoại khóa ) là một trong
những tác nhân chính gây nên tình trạng stress ở cá nhân. Để tránh điều này, cần
thực hiện một số cơ chế quản lý đối với công việc của cá nhân– bảo đảm cho
chúng được hoàn thành hiệu quả và đúng thời hạn:
- Thực hiện chu trình PDCA: Plan (lập kế hoạch) – Do (thực hiện) –
Check (kiểm tra) – Adjust (điều chỉnh) cho các công việc cần phải thực hiện.

- Lập thời khóa biểu tổ chức thực hiện các công việc để cụ thể hóa về
thời gian và phương thức thực hiện công việc mà cá nhân dự liệu cho mình.
- Lập danh sách các công việc ưu tiên là một giải pháp hay cho những
người bận rộn với một số lượng lớn các công việc phải hoàn thành. Khi lập danh
sách ưu tiên công việc của mình, nó vừa giúp cá nhân liệt kê các công việc cần
làm lại vừa giúp cá nhân phân bố các nguồn lực hợp lý ứng với mức độ ưu tiên
của công việc.
- Cùng các quá trình lập kế hoạch (lập thời khóa biểu, lập danh sách
các công việc ưu tiên) và thực hiện công việc, cá nhân nên tiến hành hoạt động
kiểm tra tiến độ bản thân bằng nhật kí công việc, từ đó khắc phục những hạn chế
(nếu có).
- Phân bổ thời gian học tập sinh hoạt hợp lý, thời gian học tập và
tham gia các phong trào, các hoạt động xã hội, không để dồn việc, dồn bài vở
đến khi gần thi mới bắt đầu học.
• Quản lý nhàm chán:
Chấp nhận những giới hạn của cá nhân, ở giới hạn nào cá nhân có thể
làm tốt, cái nào quá tầm. Đôi khi ta cũng phải đặt ra những mục tiêu cao hơn để
phấn đấu nhưng phải biết lượng sức mình. Đặc biệt tránh ôm đồm công viêc,
gây quá tải.
• Quản lý sự hài lòng:
Ôn hòa trong các mối quan hệ với mọi người xung quanh, xây dựng
tình cảm tốt đẹp với mọi người, thân thiện, không ganh ghét đố kỵ. Luôn vui vẻ,
cởi mở, tươi cười với mọi người để tạo sự thân mật, gần gũi. Cố gắng sử dụng
khiếu hài ước trong những tình huống khó khăn. Cười với chính bản thân mình
để cảm thấy cuộc đời luôn tươi đẹp và còn nhiều thứ để mình khám phá. Thay
đổi suy nghĩ, cách nhìn các sự việc xảy ra xung quanh ta theo chiều hướng lạc
quan, tích cực. Tránh những phản ứng thái quá. Tại sao lại phải “Ghét” khi mà
“Một chút xíu không thích” là ổn rồi? Tại sao lại phải “lo cuống lên” khi mà
“hơi lo một tẹo” là được? Tại sao phải“Giận sôi người” khi mà “hơi giận môt
chút” đã đủ độ? Tại sao phải “đau khổ tột cùng khi mà bạn chỉ cần “buồn một

tẹo”? Hãy làm điều gì đó cho những người khác để giúp đầu óc bạn nghỉ ngơi
một lát, không phải nghĩ liên tục về những phiền muộn của mình.
• Quản lý môi trường làm việc xung quanh:
Chẳng hạn như khi biết bạn bị stress bởi những tác nhân từ môi
trường như khói bụi, kẹt xe và tiếng ồn bạn nên thoát ra khỏi nó, tìm cho mình
những không gian yên tĩnh, âm nhạc nhẹ nhàng hoặc trở về với gia đình nơi có
những người thân yêu hoặc đến những nơi gắn với nhiều kỉ niệm để tâm hồn
được thư thái.
Môi trường học tập, làm việc nên trồng thêm cây xanh, trang trí theo
sở thích để kích thích sự sáng tạo và khơi nguồn cảm hứng mới. Gọn gàng, ngăn
nắp để cảm thấy thoải mái. Tránh việc ngồi hàng giờ trên máy tính gây mỏi mắt,
cơ thể mệt mỏi.
Stress chủ yếu là phản ứng tâm lý mang tính cá nhân trước những
biến đổi và đòi hỏi của môi trường nên cá nhân cũng là chủ thể chủ yếu thực
hiện việc quản lý stress của bản thân mình. Dưới góc độ nghiên cứu của môn
Quản trị học, còn cần phải quan tâm đến công tác quản trị stress trong tổ chức để
giữa những áp lực từ công việc, nhà quản trị vẫn tạo cho nhân viên một môi
trường làm việc thoải mái, gần gũi với thiên nhiên và có được những mối quan
hệ tốt đẹp.
Thương hiệu Google được nhiều người biết đến qua công cụ tìm
kiếm thông tin trực tuyến cùng tên. Tại công ty Google, môi trường làm việc
luôn được bảo đảm là thoải mái nhất cho nhân viên với thiết kế văn phòng theo
hướng gần gũi với thiên nhiên, đáp ứng mọi nhu cầu nghỉ ngơi, giải tỏa căng
thẳng của nhân viên với các máy mát –xa, bàn chơi bi – da hoặc những nhân
viên xoa bóp chuyên nghiệp sẵn sàng phục vụ…
• Quản lý chất lượng làm viêc:
Lập những kế hoạch cho bản thân, từ những kế hoạch ngắn hạn đến
kế hoach dài hạn để dể dàng thực hiện và phân bổ thời gian. Như thế hiệu quả
công việc sẽ cao hơn. Nên ghi ra những việc phải làm và nên làm biết công việc
nào có thứ tự ưu tiên cao hơn thì làm trước. Đừng để tâm đến những việc lặt vặt,

việc nào thật sự quan trọng thì làm trước, và gạt những việc linh tinh sang một
bên. Sự thiếu tổ chức, thiếu khoa học trong việc lập kế hoạch có thể gây ra căng
thẳng và gây mất thời gian. Cảm giác hoàn thành công việc (dù là nhỏ) sẽ giúp
bạn cảm thấy phấn khích, tạo đà cho những công việc khác thực hiện được suôn
sẻ. Không nên làm cho bản thân mình “ngập đầu ngập cổ”bằng việc gánh nhận
quá nhiều công việc cùng một lúc.
Một giải pháp nữa không kém phần quan trọng đó là việc phát huy
tốt sức mạnh nội tâm: khả năng kiềm chế cảm xúc trước những sự việc đang xảy
ra quanh mình, tự tìm sự cân bằng cho bản thân và thích nghi với những thay
đổi, để dù có xảy ra những việc không mong muốn hoặc vượt quá tầm kiểm soát
của mình thì ta vẫn bình tĩnh để tìm cách đối phó và giải quyết vấn đề. Tránh
việc để những vấn đề nhỏ, đơn giản lại trở nên quá phức tạp trông mắt chúng ta.
• Quản lý sự thay đổi:
Cần xem sự thay đổi vốn là nhu cầu khách quan bởi sự vật luôn vận
động và phát triển. Chiến lược tốt nhất là dự báo các biến động của môi trường
và tự tạo các điều kiện thay đổi bản thân để có thể thích ứng và chủ động đối với
mọi sự thay đổi. Nếu cơn stress của bạn vượt quá mức chịu đựng và khiến bạn
không thể làm được các việc khác, học tập, lao động , thì hãy tìm đến sự trợ
giúp của các chuyên gia tâm lý và bác sỹ.
Đối với nhà quản trị, việc bảo đảm sự thấu hiểu và ổn định cho nhân
viên trước những thay đổi của tổ chức là điều cần thiết. Trước những thay đổi,
nhà quản trị cần bình tĩnh thông tin cho nhân viên biết được nhu cấu tất yếu
khách quan phải thay đổi và những lợi ích từ sự thay đổi đối với tổ chức và mỗi
nhân viên, ngoài ra quan tâm hỏi thăm và hỗ trợ những khó khăn của nhân viên
do sự thay đổi gây ra Sự quan tâm đúng mức của nhà quản trị sẽ góp phần định
hướng cho những phản ứng tích cực của nhân viên đối với stress và làm bền
vững thêm mối quan hệ giữa nhà quản trị và nhân viên của mình.
• Nghỉ ngơi và tập thể dục:
Duy trì việc tập thể dục thường xuyên. Tập thể dục giúp bạn khỏe
mạnh hơn và giải tỏa phần nào những cảm xúc tiêu cực. Bên cạnh tập thể dục,

bạn cũng có thể tham gia các môn thể thao khác có tính mạo hiểm hơn như bơi
lội, leo núi, boxing hay các môn võ… nó không chỉ giúp giải tỏa stress mà còn
tạo ra những cảm xúc mới, kích thích mới giúp cuộc sống thêm phần thú vị.
Ngoài ra bạn cũng có thể tìm kiếm những hoạt động hoặc giải trí mình say mê
và hứng thú mà không cần quan tâm đến khả năng và trình độ của mình ở mức
độ nào. Chẳng hạn như tập chơi nhạc cụ và tham gia vào các câu lạc bộ, nó sẽ
giúp bạn khám phá những năng khiếu của bản thân, giúp bản thân tự tin hơn để
thể hiện mình. Thư giãn cũng là một phương pháp hữu hiệu để loại bỏ stress.
Thư giãn là những bài tập sử dụng sức mạnh tập trung của tâm trí để thả lỏng
các cơ bắp và đưa tâm trí vào trạng thái thư thái bình an. Hãy học các cách thư
giãn từ các nhà tâm lý học, giáo viên thiền, Yoga… Xoa bóp và những bài tập
thở thư giãn rất hữu dụng để kiếm soát stress. Những thư giãn như vậy sẽ giúp
xoa bớt ưu phiền khỏi tâm trí của bạn.
• Ăn kiêng và quản lý giấc ngủ:
Duy trì chế độ ăn uống hợp lý, đầy đủ dinh dưỡng, giấc ngủ điều độ,
không thức khuya khi không cần thiết. Điều này có vẻ khó vì trong khi căng
thẳng, đôi lúc bạn thực sự không muốn ăn không muốn ngủ hoặc muốn nhưng
ăn không ngon và lo lắng đến mức không ngủ được. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng,
chính ăn và ngủ sẽ giúp bạn hồi phục sức khỏe và do đó tỉnh táo và mạnh mẽ
hơn trong việc giải quyết vấn đề của mình. Một người bình thường cần 8 tiếng
đồng hồ để ngủ (mặc dù có sự khác nhau giữa 3 giờ và 11giờ, phụ thuộc vào độ
tuổi của từng người). Nếu chúng ta có thói quen ngủ ít, sự tập trung và hiệu quả
sẽ suy giảm và tinh thần làm việc sẽ bị ảnh hưởng.
Có câu: “Chết là cách duy nhất để thoát khỏi stress”, sự thật là những
căng thẳng sẽ luôn hiện diện trong cuộc sống chúng ta nhưng cách phản ứng của
chúng ta mới đóng vai trò quyết định liệu chúng ta có bị đánh bại bởi chúng.
Thông qua những kiến thức của môn Quản trị học và một số môn khoa học
khác, nhóm 20 mong rằng đã gửi đến được cái nhìn tổng quan về stress và cách
quản lý stress trong cuộc sống nói chung và đối với sinh viên nói riêng, để
chúng ta có thể áp dụng chúng cải thiện cuộc sống cân bằng hơn giữa những bộn

bề của học tập và công việc hàng ngày.
Câu hỏi 2:Bạn thường nghe câu truyền miệng “ một người Việt thi với một
người Nhật thì chắc thắng, nhưng ba người Việt thi với ba người Nhật thì sẽ
thua” bạn có đồng ý như vậy không? Trong trường hợp người Âu Mỹ, họ rất đề
cao chủ nghĩa cá nhân, vậy đối với người Nhật họ có thua không? Hãy biện
luận quan điểm của bạn.
Đề tài II: Nhóm làm việc và đánh giá sự thành bại trong cách vận hành
nhóm làm việc
I. Đặt vấn đề:
Kho tàng văn hóa truyền thống của Việt Nam từ lâu đã ngợi ca tinh thần
đoàn kết hợp tác qua những câu chuyện kể hoặc kho tàng ca dao tục ngữ. Trong
thời đại hiện nay, việc hợp tác chiếm một vai trò to lớn trong bình diện thúc đẩy
liên kết và hỗ trợ lẫn nhau trên toàn thế giới. Vậy phong cách làm việc nhóm của
người Việt Nam liệu có những hạn chế nào cần khắc phục và đề xuất cho những
hạn chế đó là gì? Qua bài tiểu luận này nhóm 20 sẽ trả lời những câu hỏi đó
II. Lý thuyết liên quan:
1. Nhóm và các yếu tố tạo nên sự thành công của nhóm
Nhóm là tập hợp những người có tổ chức, có mục tiêu hoạt động, có liên
quan về mặt kĩ thuật, nghiệp vụ mang tính chuyên môn hóa vì lợi ích của hệ
thống. Như vậy, để được xem là một nhóm cần phải thỏa mãn 3 điều kiện: có hai
người trở lên, có tổ chức, có mục tiêu hoạt động chuyên môn giống nhau vì lợi
ích chung của hệ thống
1
.
Một nhóm thành công khi biết kết hợp các nguồn lực của nhóm – mà chủ
yếu là nguồn lực con người cách hợp lý và đạt được những mục tiêu đề ra đúng
kế hoạch. Các yếu tố tạo nên sự thành công của một nhóm có thể kể đến:
• Nhóm có người lãnh đạo có tầm nhìn, có năng lực và uy tín
• Có mục đích chung được các thành viên cam kết cùng nhau thực hiện
• Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hợp lý

• Có được sự tôn trọng và chấp nhận sự khác biệt của nhau giữa các
thành viên trong nhóm
• Có phạm vi ảnh hưởng đến các nhóm trong hệ thống
2
Theo lý thuyết về quan hệ nhóm KAYTIFT, khi tham gia vào một nhóm
làm việc con người có 3 mối quan tâm:
+ I: Tôi (Các vấn đề cá nhân)
1
Trường ĐH Kinh tế quốc dân – Giáo trình Quản trị học, NXB. Tài chính, 2010, tr. 299
2
Sđd, tr. 300
+ WE: Chúng ta (Quan tâm đến các thành viên trong nhóm về vị trí,
tính cách, thái độ làm việc, khả năng của họ,…).
+ IT: Nội dung côg việc hay lý do tạo nên nhóm (Những chủ đề nhóm
cần trao đổi, những vấn đề cần giải quyết,…).
Ba mối quan tâm này là 03 mối quan tâm cơ bản, không thể thiếu khi một
người tham gia vào nhóm làm việc. Ba mối quan tâm này được sắp xếp theo thứ
tự ưu tiên từ “I” đến “WE” và cuối cùng mới đến “IT”. Từ sự sắp xếp trên, có
thể thấy con người thường bị những suy nghĩ cá nhân lấn phần cho những suy
nghĩ về công việc.
Một nhóm được coi là làm việc hiệu quả khi năng lượng của các thành
viên được tập trung ngược lại với sự quan tâm, tức là năng lượng dành cho “IT”
nhiều nhất, sau đó mới đến “WE” và cuỗi cùng là “I”.
1. Văn hóa nhóm và văn hóa tổ chức
Tổ chức là một nhóm lớn được tổ chức dưới một hình thái cơ cấu nhất
định như doanh nghiệp, trường học, quân đội, phòng ban… Điểm khác biệt cơ
bản là tổ chức là một hệ thống được thể hiện dưới các hình thái cơ cấu chính
thức trong khi nhóm có thể biểu hiện dưới cả hai loại cơ cấu là chính thức hoặc
không chính thức
3

. Trong một tổ chức thường sẽ có cả hai loại nhóm kể trên.
Điều gì tạo nên sự khác biệt trong phong cách của các nhóm, các tổ chức
đến từ các quốc gia và khu vực khác nhau? Câu trả lời chính là: văn hóa. Theo
một chu trình, văn hóa khu vực tác động đến văn hóa dân tộc, văn hóa dân tộc
tác động lên văn hóa tổ chức và cá nhân trong dân tộc đó, đến lượt mình, văn
hóa tổ chức lại ảnh hưởng trưc tiếp đến văn hóa các nhóm trong hệ thống tổ
chức. Như vậy, một cách chung nhất, khi nói đến văn hóa tổ chức thì cũng có
thể chấp nhận văn hóa nhóm thuộc tổ chức đó sẽ gần như tương đồng với nó.
Như thế nào là văn hóa? Khái niệm chính thức về văn hóa đến nay vẫn
chưa được ghi nhận, thông qua việc tìm hiểu khái niệm văn hóa từ một số định
nghĩa khác nhau sẽ cho ta những tiếp cận khái niệm này từ nhiều góc độ:
Theo TS Federico Mayor - nguyên TGĐ UNESCO: “Văn hoá bao gồm
tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm
tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao
động.”
Theo TS. Hoàng Vinh trong Đề cương văn hóa và tôn giáo: “Văn hóa là
vốn hiểu biết của con người, tích lũy được trong suốt quá trình hoạt động thực
tiễn - lịch sử, được kết tinh lại thành các giá trị và chuẩn mực xã hội, gọi chung
3
Sđd, tr. 300
là hệ giá trị xã hội, biểu hiện ở vốn di sản văn hóa và phong cách ứng xử của
cộng đồng. Hệ giá trị là thành tố cơ bản làm nên bản sắc riêng của mọi cộng
đồng xã hội, có khả năng liên kết các thành viên làm cho công đồng trở thành
một khối vững chắc và có khả năng điều tiết hoạt động của các thành viên sống
trong cộng đồng xã hội ấy”.
“Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt
của cuộc sống con người đã và đang diễn ra qua hàng bao nhiêu thế kỉ, nó đã
cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống thẩm mĩ và lối sống mà
dựa trên đó mỗi dân tộc khẳng định bản sắc của mình để tồn tại và phát triển” -
Theo Federico Mager Zaragoza,TGĐ UNESCO. Lễ phát động Thập kỉ Thế giới

Phát triển Văn Hóa của UNESCO – 1992 . Paris .
Một cách tổng quát, có thể định nghĩa văn hóa là một hệ thống của các
giá trị do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong
mối quan hệ với môi trường tự nhiên và xã hội.
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, nhóm xin tiếp cận khái niệm văn
hóa doanh nghiệp theo định nghĩa sau đây: “Văn hoá doanh nghiệp (VHDN) là
một hệ thống các ý nghĩa, giá trị, niềm tin chủ đạo, nhận thức và phương pháp
tư duy được mọi thành viên của một tổ chức cùng đồng thuận và có ảnh hưởng
ở phạm vi rộng đến cách thức hành động của từng thành viên”.
Trên đây là phần tiếp cận lý thuyết văn hóa tổ chức được nhóm chọn
làm tiền đề giải thích những sự khác biệt trong phong cách làm việc của các
nhóm làm việc người Việt Nam, Nhật Bản và Âu Mỹ.
III. Vận dụng lý thuyết giải quyết vấn đề:
Ngày nay, kỹ năng làm việc nhóm đã trở thành một trong những tiêu chí
quan trọng để đánh giá khả năng làm việc của một nhân viên. Theo dự báo của
các chuyên gia kinh tế, thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ làm việc theo nhóm. Nền kinh tế
Việt Nam đang trong quá trình phát triển và hội nhập, khả năng làm việc nhóm
ngày càng được đánh giá cao. Tại các trường đại học, sinh viên đang được ưu
tiên rèn luyện và phát triển kỹ năng này. Nhưng khả năng làm việc nhóm của
người Việt vẫn chưa được đánh giá cao và còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục.
Đặc biệt khi so sánh với các nước phát triển như Nhật Bản và các nước Âu Mỹ,
những hạn chế trong kỹ năng làm việc nhóm của người Việt Nam là một vấn đề
đáng nói.
Dựa vào các các nhân tố quyết định sự thành công của một nhóm đã trình
bày ở phần trên, sau đây nhóm xin tiếp cận phong cách làm việc của người Nhật
và Việt Nam cũng theo các góc độ xem xét này
1. So sánh giữa nhóm làm việc Nhật Bản và nhóm làm việc Việt Nam
1.1. Nhật Bản
Thực tiễn đã chứng minh khả năng làm việc nhóm của người Nhật vượt
trội hơn rất nhiều so với người ở các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam.

Từ lâu người ta đặt ra 1 câu hỏi: “Tại sao nước Nhật nhỏ bé với rất ít tài
nguyên thiên nhiên lại trở thành một nền kinh tế hùng mạnh khiến mọi quốc gia
khác phải kiêng nể?”. Câu trả lời nằm trong phong cách làm việc của họ: Độc
đáo, khác biệt và hiệu quả. Ở đó có những bài học rất quý giá cho bất kỳ ai
muốn thành công.
Nhật Bản là một xã hội luôn nhấn mạnh “Chúng tôi” thay vì “Tôi”. Các
quyết định quan trọng thường được thảo luận và chỉ khi có sự nhất trí thì mới
được đưa ra. Cũng vì mọi kết quả đều là sự nỗ lực của cả một tập thể nên sẽ là
không phù hợp khi khen ngợi một cá nhân cụ thể.
Thành công là nỗ lực của cả nhóm. Không ai có thể tự thành công. Người
Nhật hiểu rõ điều này và nhấn mạnh việc cần phải có mọi người làm việc cùng
nhau. Họ ưu tiên một quy trình thảo luận mang tính hợp tác mà đôi khi có thể
chậm chạp, nhưng cuối cùng, nó sẽ đảm bảo được rằng tất cả mọi người đều có
tiếng nói và đều chung một nhịp.
Một trong những yếu tố then chốt khi ngoại giao là lắng nghe người khác.
Người phương Tây thường quen với việc chỉ ra một vị lãnh đạo sẽ đưa ra các
quyết định và nói những người khác cần phải làm gì. Hình thức hoạt động từ
trên xuống này không tính đến việc vị lãnh đạo đó cần sự cộng tác của những
thành viên cấp cao khác để tiến hành công việc một cách trôi chảy. Người Nhật
dường như hiểu được điều này. Họ luôn đảm bảo mọi phần thưởng được chia
đều giữa các thành viên, như thế không làm nảy sinh sự ghen tị, so đo.
Người Nhật luôn chủ động hạn chế những tình huống đối đầu, vì thế lời
nói và phép tắc giao tiếp của họ được kết hợp nhằm tránh gây hiềm khích đồng
nghiệp cũng như đối tác. Thay vì đi thẳng vào vấn đề, người Nhật thường gợi ý
nhẹ nhàng, nói bóng gió. Đôi lúc, họ nói một cách rõ ràng hơn nhưng càng cẩn
trọng để không làm người khác bị phật ý hay tức giận.
Giới công sở xứ hoa anh đào đặt nặng giá trị của kao, tức là thể diện. Khái
niệm “thể diện” bao gồm niềm tự hào cá nhân, danh tiếng và địa vị xã hội. Bất
kỳ một hành động nào có thể khiến cho người nhận bị mất mặt sẽ bị coi là độc
hại trong môi trường công sở, và sẽ bị cực lực phản đối. Để giữ được thể diện,

bạn phải học cách thể hiện lòng tôn trọng cao nhất. Cách đơn giản nhất là đến
đúng giờ đối với bất kỳ cuộc hẹn nào. Người Nhật thường đến sớm một chút.
Ở Nhật Bản, việc gọi điện và hẹn gặp sẽ được đánh giá cao hơn rất nhiều
so với gửi thư, fax hay email. Dành thời gian riêng để tiếp xúc trực tiếp được
xem là dấu hiệu của sự tôn trọng bên kia.Người Nhật cũng coi trọng các mối
quan hệ làm ăn lâu dài, vì vậy khi làm việc ở đây, cần phải biết cách duy trì việc
liên lạc qua lại, hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp.
1.2. Việt Nam
Còn phong cách làm việc nhóm của người Việt Nam như thế nào? Vì sao
03 sinh viên người Việt Nam, dù so tài từng cá nhân thì khả năng thắng sinh
viên Nhật rất cao nhưng khi kết hợp với nhau trong một nhóm làm việc để thi tài
với một nhóm 03 sinh viên Nhật thì lại thua? Những đặc điểm sau đây của người
Việt sẽ lý giải điều đó.
Khi hỏi về các đặc điểm tính cách hay đặc tính nói chung của người Việt
Nam thì thường nhận được câu trả lời là "Người Việt Nam thường rất kém trong
vấn đề làm việc theo tập thể". Đây là đặc điểm gắn liền thống nhất với sự tự
đánh giá đối với bản thân cho rằng "Mình là trung tâm", và đôi khi được miêu tả
bằng một cách khác như, đó đơn giản là đặc tính của người Việt Nam
Thứ nhất, luôn giữ vững chủ trương của bản thân. Quả thật, người Việt
Nam đúng thật là có nét tính cách khá là cương nghị, đôi khi cố chấp, và một khi
đã chủ trương một điều gì, không dễ dàng có thể thay đổi được suy nghĩ đó.
Ngoài ra, cũng có những trường hợp, người Việt Nam khi có ấn tượng mạnh mẽ
về điều gì, sẽ hành động một cách đơn phương, độc lập theo quan điểm của bản
thân mình mà không quan tâm đến quan điểm hay tình trạng của đối phương.
Theo một số người, ví dụ như các giám đốc tại những công ty Nhật đang đầu tư
vào Việt Nam, có những trường hợp, dù có chỉ dẫn thế nào cho nhân viên người
Việt Nam về cách tiến hành công việc, người nhân viên đó vẫn không tiếp nhận
chỉ dẫn và một lúc nào đó, thực hiện công việc được giao theo cách riêng của
mình. Khi hỏi người nhân viên đó về lý do vì sao lại làm như vậy, câu trả lời
nhận được là, "Vì làm như vậy tốt hơn", và người nhân viên đó vẫn tiếp tục làm

theo cách của mình cho đến khi vấp phải kết quả cuối cùng là thất bại.
Thứ hai, hành động theo suy nghĩ tùy tiện của bản thân. Dường như trong
tính cách của người Việt Nam, có một nét gì đó đặc biệt về niềm kiêu hãnh của
bản thân hay cũng có thể có một điều gì đó khiến người Việt Nam từ chối một
cách bản năng việc hành động theo những gì người khác (đặc biệt là người nước
ngoài) yêu cầu. Có lẽ đây là lý do khiến người Việt không quen với việc hành
động trong mối quan hệ tổng hòa với tập thể, trên cơ sở hiểu và thông cảm với
những cảm xúc cũng như tình trạng của những người xung quanh.
Tuy nhiên, đôi khi người Việt Nam cũng có những hành động trái với
chiều hướng tính cách nói trên. Điều này được thể hiện ở việc người Việt Nam
cũng có đặc điểm là thích tụ tập. Ví dụ như, giả sử có 3 nhân viên, cấp trên giao
cho 3 người 3 nhiệm vụ. Đứng ở cương vị của cấp trên, rõ ràng ông ta rất hi
vọng 3 người nhân viên của mình có thể phân chia phần công việc theo thế
mạnh của từng người để phụ trách và cùng song song tiến hành đồng thời những
nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, trong trường hợp đó là những nhân viên người
Việt Nam, thường thì họ hay có xu hướng tập hợp lại thành nhóm và thực hiện
nhiệm vụ được giao theo thứ tự bắt đầu từ công việc mà họ cho là dễ dàng, đơn
giản nhất. Tất nhiên, thành ngữ cũng đã có câu "Một cây làm chẳng nên non, ba
cây chụm lại nên hòn núi cao", nếu làm theo cách này, cho dù thành quả đạt
được không phải là tuyệt đối 100% hiệu quả yêu cầu, đồng thời, sẽ tốn nhiều
thời gian hơn mức thông thường để hoàn thành, song cũng có một ưu điểm là
bằng cách này hay cách khác, những người nhân viên đó sẽ hoàn tất xong 3
công việc được giao phó. Người Việt Nam thường không có xu hướng phân
công trách nhiệm, hoặc chia nhau các phần công việc để hoàn thành nội dung
nhiệm vụ được giao một cách hiệu quả.
Vậy, chúng ta nên hiểu kiểu hành động "thích tập trung theo nhóm hay
đoàn thể" như trên của người Việt Nam như thế nào? Cách lý giải thứ nhất là,
điều này giống như một cách thể hiện "tình đồng chí", nó là một quan điểm
được hình thành nên bởi ý thức đồng đội, muốn tránh tình thế bất lợi cho những
người không có năng lực trước cấp trên của mình trong khi có một thực tế hiển

nhiên là luôn tồn tại một sự cách biệt về năng lực giữa các cá nhân. Một cách lý
giải khác cho vấn đề này là, mỗi cá nhân người Việt Nam đều nhận thức được
rằng, mình thiếu khả năng để làm một việc gì đó, song mặt khác, qua những bài
học kinh nghiệm đã trải qua, họ hiểu rằng, nếu hợp sức lại (cho dù có mất nhiều
thời gian), bằng một cách nào đó, họ có thể làm tốt công việc cần thực hiện. Hay
nói cách khác, đây chính là lý luận như nhóm đã đề cập trên, gọi là "Một cây
làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao". Tuy nhiên, điều này cũng
lại mâu thuẫn với tính cách chung của người Việt Nam là "tinh thần làm việc tập
thể hạn chế". Cách giải thích của nhóm về sự mâu thuẫn này như sau. Nói
chung, ở người Việt Nam, có thể nhìn thấy một xu hướng tính cách chung, đó là
không muốn chịu trách nhiệm, nếu làm với tư cách cá nhân, nếu công việc
không diễn ra suôn sẻ hay thất bại, người đảm trách công việc đó rất có thể sẽ bị
truy cứu về trách nhiệm, đây phải chăng chính là lí do mà hình thức hành động
theo tập thể theo kiểu "cùng làm cùng chịu" được hình thành. Người Việt Nam
một mặt mang trong mình tính cách in đậm màu sắc của chủ nghĩa cá nhân, song
mặt khác, người Việt Nam cũng rất khó chịu khi chỉ một mình bị chỉ trích.
Từ những nguyên nhân nêu trên, ta thấy người Việt Nam còn rất nhiều
hạn chế cần khắc phục trong cách làm việc nhóm. Và nếu đưa một nhóm sinh
viên Việt Nam thi tài với một nhóm sinh viên Nhật, chắc chắn nhóm sinh viên
của Việt Nam sẽ thua. Tại thời điểm hiện tại, ta một lần nữa khẳng định rằng câu
truyền miệng “Một người Việt Nam thi với một người Nhật thì chắc thắng
nhưng 3 người Việt Nam thi với 3 người Nhật thì sẽ thua” là hoàn toàn có cơ sở.
Hi vọng đây sẽ là một bài học, một cơ hội cho người Việt tự nhìn nhận lại cách
làm việc nói chung và cách làm việc nhóm nói riêng của mình, tích cực học tập
người Nhật để một ngày không xa, câu truyền miệng đó không còn lưu truyền
trong dân gian nữa.
2. So sánh giữa nhóm làm việc Nhật Bản và nhóm làm việc Âu Mỹ
Như đã trình bày ở phần trên, một nhóm làm việc được xem là hiệu quả
khi giữa các thành viên có sự tin tưởng, hợp tác, thống nhất với nhau, cùng đóng
góp và chịu trách nhiệm đối với công việc chung của nhóm. Người Nhật thành

công trong cách làm việc nhóm vì họ có tinh thần tập thể cao, coi trọng mọi
quyết định tập thể, nhấn mạnh cái chung và không chú ý đến yếu tố cá nhân
trong nhóm làm việc. Người Việt thất bại trong cách làm việc nhóm vì họ quá
tôn sùng chủ nghĩa cá nhân, không coi trọng vai trò của tập thể. Còn người Âu
Mỹ, họ rất đề cao chủ nghĩa cá nhân, vậy trong cách làm việc tập thể, họ có vấp
phải những thất bại của người Việt không? Họ có thua người Nhật không?
Theo thống kê thì tỷ lệ người Mỹ thành đạt trên các lĩnh vực và giàu có
chiếm con số cao trên thế giới. Vậy điều gì đã làm cho người Mỹ thành công
đến vậy? Những đặc điểm sau chính là những yếu tố giúp người Mỹ thành công.
Thứ nhất, đề cao tính cá nhân. Một nhóm giáo viên Mỹ được mời sang dự
lê kỷ niệm quốc khánh ở Đài Bắc. Mọi người đều được phát một phù hiệu để
đeo. Khác với những người Trung Hoa đều đeo phù hiệu ở ve áo, những người
Mỹ lại đeo phù hiệu ở những nơi khác, một số còn để trong túi áo. Không phải
họ coi thường hay cố tình xúc phạm đến nước này, mà vì họ muốn thể hiện tính
cách cá nhân và chống lại quan điểm "tất cả mọi người đều giống nhau”. Người
Mỹ có quan niệm rằng "Hãy là chính mình" là điều quan trọng. Họ thấy hầu như
không có lý do gì buộc họ phải thay đổi cách ứng xứ để hợp với số đông. Bạn sẽ
thấy rằng, người Mỹ sống theo quan niệm "Nếu bạn muốn một việc gì đó được
thực hiện tốt, phải tự tay bạn làm lấy" hoặc "Về lâu về dài, người duy nhất mà
bạn có thể trông cậy được là chính bạn".
Thứ hai, thích độc lập. Từ hồi còn rất nhỏ, người Mỹ đã đề cao tính độc
lập. Nguời ta dạy họ rằng, chi bằng nỗ lực của bản thân anh mới có thể xây dựng
được chỗ đứng vững chắc cho mình, bởi không ai quan tâm đến anh cả. Những
ông bố, bà mẹ Mỹ đều cố gắng tạo cho con mình phải có trách nhiệm với bản
thân chúng. Một bà mẹ Mỹ rất hiếm khi đòi hỏi đứa con 2 tuổi của mình muốn
ăn gì trong bữa sáng, hay giúp một đứa trẻ 3 tuổi mặc quần áo. Họ thường
khuyến khích con mình đua ra ý kiến, buộc chúng phải lựa chọn và làm mọi thứ.
Ở độ tuổi 20, hầu hết chúng đã có nhà riêng, không ở cùng bố mẹ của chúng
nữa. Trong các ngôi nhà ở Châu Á, mọi người có thể đi vào bất cứ phòng nào
mà họ muốn, nhưng các ngôi nhà ở Mỹ thường có cửa khóa ở tất cả các phòng,

bố mẹ cũng cần gõ cửa phòng con mình trước khi muốn vào. Đó là lãnh thổ
riêng của trẻ và bố mẹ cũng cần tôn trọng sự riêng tư của chúng. Ở trong các
trường Đại học, các Sinh viên thường tự trang trải các khoản nợ của mình bằng
cách làm thêm, chứ không yêu cầu bố mẹ hỗ trợ. Bạn sẽ thấy các nhà quản lý
cấp cao vào ngày nghỉ cuối tuần sẽ tự cắt cỏ, sửa nhà và sửa xe lấy.
Thứ ba, thể diện ít quan trọng. Người Mỹ cũng như người Châu Á đều có
thể diện. Họ không bị bẽ mặt ra hay mất thể diện trước công chúng. Các nhà
quản lý Mỹ thường phải từ bỏ thói quen cá nhân để giữ gìn nhân phẩm và lòng
tôn trọng của nhân viên, đồng nghiệp. Tuy nhiên, người Mỹ ít quan tâm tới thể
diện hơn người Châu Á. Còn nhớ, đợt khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997,
nhiều nhà quản lý Nhật Bản đã tự vẫn, vì theo họ đó là một cách để bảo toàn
nhân phẩm. Nhưng đối với người Mỹ, trong những trường hợp tương tự họ
không bao giờ làm chuyện đó. Vì người Mỹ nhấn mạnh đến tính cá nhân, nên họ
ít quan tâm đến những gì mà người khác có thể nghĩ về họ. Việc nói "không"
một cách thẳng thắn không bị coi là thô lỗ, mà trái lại được xem nhu là cần thiết
để tránh sự hiểu lầm trong tương lai. Họ đã phát triển khái niệm "phê bình có
tính chất xây dựng" và chỉ ra rằng sự phê bình để có sự thay đổi về phong cách
là hết sức cần thiết. Thông thường, mọi người Mỹ khi dã phê phán, thì nhu vậy
là xong và họ chuyển ngay sang việc khác chữ không nói đi nói lại. Mục đích
bày tỏ thái độ trong phong cách kiểu Mỹ là không làm bạn bị tổn thương hoặc
mất thể diện, ngược lại điều đó giúp bạn hoàn thiện hơn sau này.
Thứ tư, tự khuyếch trương. Nguời Châu Á, dù là chơi golf lão luyện,
nhưng chỉ nói: "Tôi chơi golf xoàng thôi!". Nhưng một người Mỹ, dù chỉ mới
học tiếng Nhật một năm ở trường Đại học lại rất thích nói: "Tôi nói được tiếng
Nhật". Người Châu Á, thường cho người Mỹ là thiếu khiêm tốn, hay khoe
khoang. Trong khi người Mỹ cho rằng, sự khiêm tốn của người Châu Á như một
sự thiếu khả năng, hay không tự tin. Lớn lên trong xã hội cá nhân chủ nghĩa,
người Mỹ tin rằng, cá tính của họ có từ thành tựu và khả năng của họ. Họ nghĩ
rằng, điều quan trọng không phải là khoe khoang, nó không bi coi là khoe
khoang khi cho người khán biết về khả năng của mình. Đối với người Châu Á,

nói giảm khả năng hoặc thành tích cũng là một cách để bảo vệ danh dự. Bởi họ
sợ sẽ có lúc họ bị bẽ mặt, nếu những lần sau họ không thể làm tốt như lần trước.
Hầu hết người Mỹ không quan tâm đến thể diễn như người Châu Á, nên họ
thường nói quá chứ không nói rút đi trong cái họ gọi là "tự quảng cáo thực tế”.
Thứ năm, luôn đúng hẹn. Không ở đâu câu nói "Thời gian là tiền bạc"
được đánh giá cao như ở Mỹ. Đúng hẹn là điều rất quan trọng đối với người Mỹ,
cũng nhu nhiều nước Châu Á. Những người kinh doanh ở Mỹ được coi là bất
lịch sự nếu đến họp muộn, đặc biệt khi bạn là cấp dưới. Họ thường đến sớm hơn
giờ hẹn 5 - 7 phút. Nếu biết là bạn sẽ phải đến muộn trong cuộc gặp với người
Mỹ, hãy gọi điện xin lỗi và thông báo với họ mấy giờ bạn có thể đến được. Tuy
nhiên, khi bạn được mời đến ăn tối tại nhà riêng, hãy đến muộn hơn thời gian
ghi trên giấy mời từ 5 - 10 phút. Khi ăn tối xong, bạn không nên về ngay, mà
nên ở lại để uống cà phê và nói chuyện. Cố gắng đừng là người cuối cùng rời
nhà, chủ nhà có thể mệt hơn vẻ bề ngoài của họ.
Cùng là đề cao chủ nghĩa cá nhân nhưng giữa người Âu Mỹ và người Việt
có sự khác nhau rõ rệt. Người Âu Mỹ có tính tự lập từ nhỏ nên họ tự phát triển
cá nhân sớm còn người Việt từ nhỏ đến lớn luôn được sống hòa hợp trong cộng
đồng nên sự tự lập của họ rất kém. Nguyên nhân gây nên sự đề cao chủ nghĩa cá
nhân của người Việt là do chính bản thân họ cảm thấy mình nhỏ bé và muốn
khẳng định mình trước tập thể. Người Việt muốn mình nổi trội trong tập thể
nhưng không đủ dũng khí thoát khỏi tập thể. Chính vì vậy, sự đề cao chủ nghĩa
cá nhân của họ dẫn đến sự bảo thủ trong quan điểm, thiếu tinh thần hợp tác
trong làm việc. Điều đó khiến họ thất bại trong nhóm làm việc của mình. Vấn đề
này đã được nhắc đến ở phần trên nhưng dưới đây xin được phép dẫn lại để
khẳng định rằng không phải bao giờ sự tôn sùng chủ nghĩa cá nhân cũng gây
nên những thất bại trong cách làm việc tập thể.
Vì đề cao chủ nghĩa cá nhân nên khả năng làm việc độc lập của người Âu
Mỹ rất cao. Nếu được giao làm một việc nào đó theo nhóm, họ họp nhau lại,
phân công công việc cụ thể cho từng người. Khi công việc hoàn thành, mỗi cá
nhân lại trở về với công việc của mình, không phụ thuộc vào nhau. Đặc điểm

này của người Âu Mỹ thoạt nhìn thấy giống người Việt trong cách phân công
công việc cho từng cá nhân hoàn thành nhưng bản chất và cơ sở cho sự phân
công đó của người Âu Mỹ hoàn toàn khác với người Việt. Nguyên nhân khiến
người Việt chia công việc cho từng cá nhân trong nhóm hoạt động một cách độc
lập đã được nêu khi so sánh thái độ làm việc nhóm của họ với người Nhật. Ở
đây không nhắc đến nữa nhưng nguyên nhân quan trọng vẫn là do sự thiếu thiện
chí, thiếu thống nhất và thiếu hợp tác trong nhóm làm việc.
Người Âu Mỹ cũng phân công công việc cho từng thành viên trong nhóm
nhưng không phải là do họ không hợp tác được với nhau mà là do trong quá
trình tranh luận để đưa ra cách thức thực hiện công việc chung, họ đã tích cực
tham gia tranh luận và đóng góp hết mình. Quyết định cuối cùng được đưa ra
cũng trên tinh thần thống nhất chung của tập thể. Người Âu Mỹ có tinh thần
trách nhiệm rất cao trong công việc nên sau khi đạt được sự thống nhất trong tập
thể, họ muốn rạch ròi theo từng cá nhân để chế độ trách nhiệm được rõ ràng hơn
trong công việc.
Sự phân chia công việc cụ thể cho từng cá nhân trong nhóm làm việc của
người Âu Mỹ cũng xuất phát từ tính sòng phẳng, rõ ràng của họ. Không phải
bao giờ sự phân công riêng lẻ như vậy cũng gây nên sự thất bại trong cách làm
việc nhóm. Vấn đề tùy thuộc vào cách thức phân chia cũng như sự thống nhất
trước khi phân chia cụ thể. Nếu một nhóm làm việc sau khi đạt được sự thỏa
thuận chung dẫn đến phân chia công việc riêng lẻ cho từng thành viên thực hiện
thì khả năng hoàn thành tốt công việc nhiều lúc cũng hơn xa sự hợp tác không
thiện chí giữa các thành viên với nhau.
Nói thêm một chút về thái độ là việc của người Âu Mỹ, trong khi làm
việc, đặc biệt là làm việc nhóm, họ luôn thể hiện mạnh mẽ cái tôi của mình
trong nhóm. Họ tham gia tranh luận rất gay gắt, căng thẳng, đặc biệt khi các ý
kiến không cùng hướng với nhau. Nhưng không phải vì vậy mà họ tạo nên sự
bất đồng trong nhóm. Cùng là tranh luận để bảo vệ quan điểm của mình nhưng
khác với thái độ bất chấp của người Việt, người Âu Mỹ tranh luận trên tinh thần
học hỏi và đóng góp. Họ đề cao quan điểm cá nhân của mình nhưng khi biết

rằng mình sai, họ sẵng sàng chấp nhận và học hỏi. Sự tranh luận căng thẳng, gay
gắt của người Âu Mỹ là sự tranh luận để phát triển nhóm còn sự tranh luận của
người Việt là sự tranh luận để bảo vệ sự nhỏ bé của cá nhân mình.
Người Âu Mỹ không bao giờ có thái độ thờ ơ đối với công việc của tập
thể, mặc dù sau khi hoàn thành xong nhiệm vụ, họ lại trở về với vị tri cá nhân
của mình, không phụ thuộc nhiều vào nhóm làm việc. Một trong những biểu
hiện của thái độ có trách nhiệm này là sự tranh luận gay gắt để dẫn đến sự thống
nhất cuối cùng vừa nêu ở trên. Hơn nữa, người Âu Mỹ luôn có sự tách biệt giữa
tình cảm và công việc nên khi tham gia vào nhóm làm việc, từng cá nhân không
bị ảnh hưởng lẫn nhau, không có sự kiên nể lẫn nhau khi đưa ra ý kiến tranh
luận. Đặc điểm này người Việt cũng không làm được.
Và chính sự coi trọng cá nhân, chính sự tranh luận gay gắt khi làm việc
tập thể đã kích thích mỗi thành viên trong nhóm làm việc của người Âu Mỹ có
điều kiện để thể hiện hết mình và có động lực để nâng cao hiệu quả làm việc,
tăng khả năng ham học hỏi và tạo nhiều kiện phát huy sức sáng tạo trong tập thể.
Sự tranh luận, một vấn đề mà người Nhật Bản luôn muốn né tránh lại trở thành
động lực phát triển nhóm làm việc của người Âu Mỹ. Vì vậy khó có thể đánh giá

×