Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

bài giảng triết học dành cho ôn thi đầu vào cao học hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.24 KB, 39 trang )


I.TRIẾT HỌC LÀ GÌ ?
1.Khái niệm triết học và đối tượng của triết học
a. Khái niệm:
* Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây (khoảng thế kỷ thứ VIII đến
thế kỷ thứ VI TCN)
+ Ở Trung Quốc: Triết học được xem là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
+ Ở Ấn Độ : Triết học được xem là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với
lẽ phải.
+ Ở phương Tây(Hy Lạp) : Theo tiếng Hy Lạp thì triết học là “ Philôsôphia”, nghĩa là
yêu mến sự thông thái. “ Philôsôphia”vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến
khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.
Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, triết học là hoạt động tinh thần biểu
hiện khả năng, nhận thức đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái
ý thức xã hội.
* Khái niệm: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
* Nguồn gốc ra đời của triết học: Với tư cách là một hệ thống lý luận chung nhất, triết
học chỉ xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau :
+ Về nhận thức: Con người phải có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng
rút ra được cái chung trong muôn vàn các sự kiện riêng lẻ.
+ Về xã hội: Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc, họ đã
nghiên cứu, hệ thống hoá các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành
lý luận và từ đó triết học ra đời.
II. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC.CNDV VÀ CNDT TRIẾT HỌC.
1. Vấn đề cơ bản của triết học.
Theo Ăng Ghen : Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện
đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại.
Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học không chỉ xác định được nền tảng và điểm
xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học mà nó còn là tiêu chuẩn để xác
định lập trường, thế giới quan của các triết gia và học thuyết của họ.


* Vấn đề cơ bản của triết học có 2 mặt:
+ Mặt bản thể luận: Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức cái nào có trước,
cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Việc trả lời câu hỏi này, xuất hiện hai trường
phái triết học: duy vật và duy tâm.
+ Mặt nhận thức: Trả lời câu hỏi con người có khả năng nhận thức đươc thế giới hay
không? Việc giải quyết vấn đề này đã làm xuất hiện hai học thuyết: Khả tri luận và bất
khả tri luận.
III. SIÊU HÌNH VÀ BIỆN CHỨNG.
1. Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
1


Phương pháp siêu hình Phương pháp biện chứng
 Nghiên cứu thế giới trong sự tách rời
cô lập
- Nghiên cứu trong mối liên hệ tác động
qua lại
- Nghiên cứu thế giới trong sự tĩnh tại
bất biến
- Nghiên cứu thế giới trong sự vận động
biến đổi không ngừng.
 Không thừa nhận xu hướng phát triển - Thừa nhận xu hướng phát triển
Tìm nguyên nhân của sự vận động phát
triển từ bên ngoài sự vật hiện tượng
- Tìm nguồn gốc của sự vận động, phát
triển chính trong sự vật hiện tượng
- Được sử dụng khi nghiên cứu trong
một phạm vi hẹp(chất điểm) và thời gian
ngắn(thời điểm)
- Trong phạm vi rộng thấy được mối

liên hệ và thời gian dài thấy được sự
vận động
2. Các giai đoạn phát triển cơ bản của phép biện chứng.
a. Phép biện chứng tự phát thời cổ đại.(Hình thức thứ nhất)
Các nhà biện chứng thời kỳ này(cả phương Đông và phương Tây) đã thấy được các
sự vật hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hoá trong những sợi dây liên hệ vô cùng vô
tận. Tuynhiên, những gì các nhà biện chứng hồi đó thấy chỉ là những trực kiến, chứ
chưa phải là kết qủa nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
b. Hình thức thứ hai là PBC duy tâm.
Đỉnh cao của hình thức này đựoc thể hiện trong triết học cổ điển Đức(người khởi đầu là
Cantơ và người thực hiệ là Hê Ghen). Đây là lần đầu tiên trong lịch sử các nhà triết học
Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phương
pháp biện chứng. Song theo họ biện chứng ở đây bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh
thần, thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép của“ ý niệm”, nên biện chứng của các nhà triết
học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm.
c. Hình thức thứ ba là PBC duy vật.
Được thể hiện trong triết học do C.Mác và Ăng Ghen xây dựng. Sau đó được Lênin
phát triển và hoàn thiện . PBC duy vật với tư cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến
và sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.
IV. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC MÁC –LÊ NIN.
1. Những điều kiện, tiền đề lịch sử của sự ra đời triết học Mác.
a. Điều kiện kinh tế- xã hội.
* Sự củng cố và phát triển phương thức tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng
công nghiệp.
- Vào những năm 40 của thế kỷ XIX cách mạng công nghiệp ở các nước Tây Âu bước
vào giai đoạn hoàn thành, lực lượng sản xuất có một bước phát triển mới về chất- đó là
ra đời nền công nghiệp cơ khí
2
- Nhờ có lực lượng sản xuất mới, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố
và phát triển.

- Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho mâu thuẫn xã
hội ngày càng gay gắt, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tư sản với vô sản và đã trở thành cuộc
đấu tranh giai cấp
* Sự xuất hiện giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách là một lực lượng
chính trị – xã hội độc lập.
- Mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản đã dẫn đến cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản. Cụ thể như:
+ Cuộc khởi nghĩa của những người thợ dệt Li Ông ở Pháp năm 1831 bị đàn áp và sau
đó lại nổ ra vào năm 1834.
+ở Anh có phong trào Hiến chương vào cuối những năm 3o của thế kỷ XIX.
+Cuộc đấu tranh của những người thợ dệt Xi Lê Di ở Đức năm 1834
- Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản đã thể hiện giai cấp vô sản là
một lực lượng chính trị độc lập, đang đi tiên phong đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ
xã hội.
* Nhu cầu lý luận của thực tiễn cách mạng.
- Thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra
đời triết học Mác. Bởi vì, thực tiễn cách mạng đòi hỏi phải được soi sáng bằng lý luận
nói chung và triết học nói riêng.
- Chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng ra đời là nhằm đáp ứng yêu cầu đó.
b Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên.
* Nguồn gốc lý luận.
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm cao của trí tuệ nhân loại, C.Mác và P.Ăng
Ghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Cụ thể là:
+Triết học cổ điển Đức với hai nhà triết học tiêu biểu là Hê Ghen và PhơBách là
nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.
Hai ông đã đánh giá cao tư tưởng biện chứng của Hê Ghen, kế thừa bằng cách cải
tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí trong phép biện chứng duy tâm của Hê Ghen để xây dựng lý
luận mới của PBC -–PBC duy vật.
Hai ông đã kế thừa triết học duy vật của Phơ Bách, đồng thời cải tạo khắc phục tính
chất siêu hình và những hạn chế lịch sử của nó. Từ đó C.Mác và Ăng Ghen đã xây dựng

học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với
nhau một cách hữu cơ.
Sự hình thành triết học Mác còn diễn ra trong sự tác động lẫn nhau và thâm nhập vào
nhau với những tư tưởng, lý luận về kinh tế và chính trị- xã hội. Cụ thể là:
+ Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học, với những đại biểu xuất sắc là
A.Đamxmít và Đ.Ricácđô là nhân tố không thể thiếu được trong sự hình thành và phát
triển triết học Mác.
+ Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông
và Sáclơ Phuriê là một trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
* Tiền đề khoa học tự nhiên.
3
Cùng với nguồn gốc lý luận trên, những thành tựu khoa học tự nhiên là những tiền đề
cho sự ra đời triết học Mác.
+ Trong những năm đầu thế kỷ XIX có những phát minh mới làm cho tư duy siêu
hìnhkhông còn thích hợp nữa. Ba phát minh có ảnh hưởng lớn nhất đối với sự hình
thành triết học Mác là định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng,học thuyết tế bào,
học thuyết tién hoá của Đác Uyn về sự tiến hoá của các giống loài.
Với những phát minh trên khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những
dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận động trong tính thống nhất vật chất của thế
giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.
• Như vậy, triết học Mác cũng như toàn bộ CN Mác ra đời như một tất yếu lịch sử
không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp
công nhân đòi hỏi phải có một lý luận mới soi đường, mà còn vì những tiền đề
cho sự ra đời lý luận mới đã được nhân loại tạo ra.
2. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăng Ghen thực
hiện.
* Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử
phát triển của nhân loại. Điều đó biểu hiện ở chỗ:
- Triết học trước Mác đã tách rời chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng. Triết học
Mác đã thống nhất chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng.

- Triết học trước Mác mới chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên, còn duy tâm trong
trong lĩnh vực xã hội. Triết học Mác không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên, mà còn
duy vật cả trong lĩnh vực xã hội . Đó là duy vật triệt để.
- Triết học trước Mác chỉ chú ý giải thích thế giới. Ngược lại, triết học Mác đặc biệt
đề cao vai trò thực tiễn, coi lý luận phải phục vụ thực tiễn cải tạo thế giới.
- Triết học trước Mác là thế giới quan của giai cấp bóc lột. Ngược lại triết học Mác là
thế giới quan của giai cấp vô sản, nó thống nhất chặt chẽ giữa tính khoa học với tính
cách mạng.
- Triết học trước Mác coi “ triết học là khoa học của các khoa học”. Triết học Mác
cho rằng, triết học hình thành, phát triển trên cơ sở khái quát các thành tựu khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội. Nó là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất cho khoa
học cụ thể. Triết học không ngừng phát triển trên cơ sở những thành tựu của khoa học
hiện đại.
Triết học Mác đã kế thừa và phát triển các thành tựu triết học trước đó trong điều kiện
mới và đã tạo nên bước chuyển biến cách mạng trong lịch sử triết học. Triết học Mác
không phải là giáo điều, mà là không ngừng phát triển gắn liền với thực tiễn xã hội và
các thành tựu của khoa học hiện đại.
CHƯƠNG II: VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC (6 TIẾT: 3, 3).
I. PHẠM TRÙ VẬT CHẤT.
1. Lược khảo các quan niệm trước Mác về vật chất.
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử khoảng 2500 năm. Ngay từ lúc
mới ra đời, xunh quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan
4
nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Phạm trù vật chất có quá trình
phát sinh và phát triển gắn với hoạt động thực tiễn của con người và với sự hiểu biết của
con người về giới tự nhiên.
+ Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn
tại là một bản nguyên tinh thần nào đó, có thể là “ý chí của thượng đế”, là “ý niệm tuyệt
đối”,
+ Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất, cái tồn

tại một cách vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những thuộc tính của
chúng.
- Vào thời cổ đại, các nhà triết học duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung với những
dạng cụ thể của nó, tức là những vật thể hữu hình cảm tính đang tốn tại ở thế giới bên
ngoài. Ví dụ : Ta Lét đồng nhất vật chất với nước.
Anaxi men đồng nhất vật chất với không khí
Hêracơlít đồng nhất vật chất với lửa
Đỉnh cao của tư tưởng duy vật cổ đại về chất là thuyết nguyên tử của Lơxíp và Đêmô
crít
(Thuyết nguyên tử đã chứng minh nguyên tử là phần tử cực nhỏ, cứng không thể
xâm nhập được, không cảm giác được. Nguyên tử có thể nhận biết bằng tư duy.
Nguyên tử có nhiều loại, sự tách rời hoặc kết hợp nguyên tử theo trật tự khác nhau
của không gian tạo nên toàn bộ thế giới.)
• Nhận xét: Thuyết nguyên tử tuy còn mang tính chất chất phác,nhưng những
phỏng đoán thiên tài ấy về cấu tạo vật chất đã có ý nghĩa định hướng đối với lịch
sử phát triển khoa học nói chung, đặc biệt là vật lý học.
- Từ thời phục hưng, đặc biệt là thời kỳ cận đại thế kỷ XVII- XVIII, khoa học thực
nghiệm ở Châu Âu phát triển khá mạnh. Chủ nghĩa duy vật nói chung và phạm trù vật
chất nói riêng đã có bước phát triển mới, chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng.
- Kế thừa quan điểm nguyên tử luận cổ đại, các nhà triết học duy vật cận đại vẫn coi
nguyên tử là phần tử nhỏ nhất, không thể phân chia được, tách rời nguyên tử với vận
động, không gian, thời gian. Các nhà khoa học thời kỳ này còn đồng nhất vật chất với
khối lượng, coi vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ học.
2. Nguyên nhân dẫn đến sự bế tắc của những quan điểm trước Mác về vật chất.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi xuất hiện những phát minh mới trong khoa học
tự nhiên, con người mới có những hiểu biết căn bản hơn, sâu sắc hơn về nguyên tử. Cụ
thể là:
+ Năm 1895 Rơn Ghen phát hiện ra tia X
+ Năm 1896 Béccơlen phát hiện ra hiện tượng phóng xạ.
+ Năm 1897 Tôm xơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được điện tử là một

trong những phần tử cấu tạo nên nguyên tử.
+ Năm 1901 Kaufman đã chứng minh được khối lượng cử điện tử không phải là
khối lượng tịnh mà là khối lượng thay đổi theo tốc độ vận động của điện tử.
5
• Nhận xét : Những phát minh trên là bước nhảy của loài người trong nhận thức,
nó bác bỏ quan niệm siêu hình về thế giới. Những quan niệm đương thời về giới
hạn tột cùng của vật chất là nguyên tử hoặc khối lượng đã bị bác bỏ.
Vấn đề là trong nhận thức lúc bấy giờ, các hạt điện tích và trường điện từ lại bị coi là cái
gì đó phi vật chất. Đây chính là mảnh đất để chủ nghĩa lợi dụng. Những ngưòi theo chủ
nghĩa duy tâm cho rằng “nguyên tử biến mất” có nghĩa là vật chất của chủ nghĩa duy vật
đã biến mất, nền tảng của chủ nghĩa duy vật đã sụp đổ.
Sự phát triển của khoa học và cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm đòi hỏi các nhà
duy vật phải có quan điểm đúng đắn hơn về vật chất qua định nghĩa vật chất của Lê nin.
3. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất.
- Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng Ghen, tổng kết những thành tựu khoa học tự
nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và từ những nhu cầu của cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa duy tâm, Lê nin đã định nghĩa : “Vật chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, phản ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.” (Lê
nin Toàn tập ,tập 18, trang 151).
* Ở định nghĩa này, Lê nin phân biệt hai vấn đề quan trọng :
+ Trước hết, vật chất với tư cách là phạm trù triết học dùng để chỉ vật chất nói chung,
vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi, còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa
học cụ thể nghiên cứu đề có giới hạn.
+ Thứ hai: Đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vât chất chính là thuộc tính khách
quan, có nghĩa là vật chất tồn tại độc lập với ý thức của con người và được con người
phản ánh lại.
Như vậy định nghĩa vật chất của Lê nin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
+ Vật chất cái đang tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý
thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.

+ Vật chất cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động nên
giác quan của con người.
+ Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
* Ý nghĩa của định nghĩa:
+ Định nghĩa vật chất của Lê nin đã bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ
thuyết không thế biết, khắc phục những hạn chế trong những quan điểm của CNDV
trước Mác về vật chất. Đồng thời, định nghĩa vật chất của Lê nin còn có ý nghĩa định
hướng đối với các khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới
của vật thể trong thế giới.
+ Khi nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật chất của Lê nin
đã cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội (tồn tại xã hội , không phụ
thuộc vào ý thức của con người). Từ đó giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải
thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc
về sự vận động của phương thức sản xuất. Trên cơ sở đó người ta có thể tìm ra các
phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển.
II. NHỮNG PHƯƠNG THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT.
6
1.Vận động.
a. Khái niệm vận động: Trong triết học, cùng với phạm trù vật chất, phạm trù vận
động cũng xuất hiện rất sớm. Cùng với sự phát triển của khoa học, của triết học, nội
dung của các phạm trù trên đã được làm phong phú, làm sâu sắc thêm.
- Vận động đã được Ăng Ghen đinh nghĩa như sau : “Vận động hiểu theo nghĩa
chung nhất ( ) bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ,
kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy” (C. Mác và P. Ăng Ghen Toàn tập.
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1994, tập 20, trang 519)
Khi định nghĩa vận động là sự biến đổi nói chung, thì vận động “là thuộc tính cố
hữu của vật chất”, “là phương thức tồn tại của vật chất”. (C. Mác và P. Ăng Ghen
Toàn tâp. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1994, tập 20, trang 519). Điều này có nghĩa
vật chất tồn tại bằng cách vận động. Trong vận động và thông qua vận động mà các
dạng vật chất biểu hiện, bộc lộ sự tồn tại của mình, chỉ rõ mình là cái gì ? Không thể có

vật chất không có vận động và ngược lại không thể có sự vận động nào lại không phải là
vận động của vật chất, không thuộc về vật chất.
Với tính cách là “là thuộc tính cố hữu của vật chất”, vận động là sự tự thân vận
động của vật chất, được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại
trong cấu trúc vật chất.
Vật chất là vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi và vận động là một thuộc tính
không thể tách rời vật chất nên bản thân sự vận động cũng không thể bị mất đi hoặc
sáng tạo ra. Vận động của vật chất được bảo toàn cả về cả lượng và chất. Nếu một hình
thức vận động nào đó của vật chất mất đi, tất yếu nảy sinh một hình thức vận động khác
thay thế.
* Thế giới vật chất rất đa dạng phong phú, nên vận động của vật chất cũng có
nhiều hình thức khác nhau. P.Ăng Ghen đã phân chia vận động thành năm hình
thức vận động cơ bản như sau:
- Vận động cơ học: Là sự di chuyển của các vật thể trong không gian.
- Vận động vật lý: Là sự vận động của phân tử, các hạt cơ bản, vận độngcủa điện tử
- Vận động hoá học: Là quá trình hoá hợp và phân giải các chất.
- Vận động sinh học: Sự trao đổi giữa cơ thể và môi trường.
- Vận động xã hội : Sự thay thế các qúa trình xã hội của các hình thái kinh tế xã hội .
Các hình thức vận động của vật chất có quan hệ chặt chẽ với nhau:
+ Các hình thức vận động có sự khác nhau về chất.
+ Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao
hàm trong đó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Trong khi đó, các hình thức vận
động thấp không có khả năng bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao hơn.
+ Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động
khác nhau; nhưng bao giờ cũng có một hình thức vận động đặc trưng cho bản chất của
sự vật.
b. Đứng im.
Trong khi khẳng định thế giới vật chất tồn tại trong sự vận động vĩnh cửu của nó,
thì điều đó không có nghĩa là phải phủ nhận hiện tượng đứng im của thế giới vật chất.
7

Quá trình vận động không ngừng của thế giới vật chất chẳng những không loại trừ mà
còn bao hàm trong đó hiện tượng đứng im tương đối, không có hiện tượng đứng im
tương đối thì không có sự vật nào tồn tại được.
Đặc điểm cơ bản của hiện tượng đứng im tương đối :
+ Đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định chứ không phải mọi quan hệ cùng
một lúc.
+ Đứng im chỉ xảy ra với một hình thức vận động chứ không phải với cả năm hình thức
vận động trong cùng một lúc.
+ Đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động trong thăng bằng.
+ Vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật. Vận động nói chung làm cho tất cả
không ngừng biến đổi.
2. Không gian và thời gian.(Tự học)
3. Tính thống nhất của vật chất.(Tự học)
II. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ KẾT CẤU CỦA Ý THỨC.
1. Nguồn gốc của ý thức.
a. Nguồn gốc tự nhiên.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất
có tổ chức cao là bộ óc của con người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức.
Nhưng tại sao bộ óc con người - một tổ chức vật chất cao lại có thể sinh ra ý thức? -
Đó là mối liên hệ vật chất giữa bộ óc với thế giới khách quan. Chính mối liên hệ vật
chất này đã hình thành nên quá trình phản ánh thế giới vật chất vào bộ óc con người.
* Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất. Phản ánh là sự tái tạo
lại những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc cả
vật tác động và vật nhận tác động và vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin
của vật tác động.
+ Hình thức phản ánh giản đơn nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vô sinh là phản
ánh vật lý, hoá học. Các hình thức phản ánh này có tính chất thụ động, sao chép thông
thường không chọn lọc, chưa có sự định hướng, chưa có sự lựa chọn. (Ví dụ: )
+ Hình thức phản ánh sinh học là đặc trưng cho giới tự nhiên sống, là bước phát

triển mới về chất trong sự tiến hoá của các hình thức phản ánh. Hình thức phản ánh
của cá thể sống đơn nhất là tính kích thích, là sự trả lời của cơ thể đối những tác động
của môi trường.(Ví dụ )
+ Hình thức phản ánh tiếp theo của các động vật chưa có hệ thần kinh là tính cảm
ứng, tính nhạy cảm đối với sự thay đổi của môi trường. Hình thức phản ánh của các
động vật có hệ thần kinh là các phản xạ không điều kiện.(Ví dụ )
+ Hình thức phản ánh của động vật bậc cao khi có hệ thần kinh trung ương xuất
hiện là các phản xạ có điều kiện ( tâm lý). Tâm lý động vật chưa phải là ý thức, nó mới
là sự phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do qui
luật sinh học chi phối. (Ví dụ )
Ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất cùng với sự xuất
hiện của con người. Ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không thể
8
tách rời con người. Nội dung của ý thức là thông tin về thế giới bên ngoài. ý thức là sự
phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc con người. Bộ óc con người là cơ quan phản
ánh, nhưng chỉ riêng có bộ óc thì chưa thể có ý thức. Không có sự tác động của thế giới
bên ngoài lên các giác quan và qua đó lên bộ óc thì hoạt động của ý thức không thể xảy
ra.
• Như vậy, bộ óc ngưòi cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc, đó là nguồn
gốc tự nhiên của ý thức.
b. Nguồn gốc xã hội .
Để cho ý thức ra đời, nguồn gốc tự nhiên rất quan trọng, không thể thiếu được
nhưng chưa đủ, điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội đó là
lao động và ngôn ngữ.
- Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại, qua lao động con
người bắt thế giới tự nhiên phục vụ mục đích của mình và con người có thể phản ánh
được thế giới khách quan, mới có ý thức về thế giới đó. Lao động là quá trình tác động
qua lại giữa con người với thế giới khách quan và kết quả đã hình thành dần các tri thức
về tự nhiên và xã hội. Như vậy, ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động cải tạo thế
giới khách quan của con người, làm biến đổi thế giới đó.

- Lao động không xuất hiện ở trạng thái đơn nhất, mà ngay từ đầu nó đã mang tính
tập thể xã hội. Vì vậy, nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và nhu cầu trao đổi tư tưởng cho
nhau xuất hiện. Chính nhu cầu đó đòi hỏi ngôn ngữ xuất hiện.
- Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Ngôn ngữ là hệ
thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể
tồn tại và thể hiện được.
• Vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết đinh sự ra đời và phát triển của ý
thức là lao động, là thực tiễn xã hội. ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng
xã hội.
2. Bản chất của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở lý luận phản ánh coi ý thức là sự phản
ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động và sáng tạo.
+ Để hiểu bản chất của ý thức trước hết, chúng ta thừa nhận cả vật chất và ý thức
đều tồn tại. Nhưng giữa chúng có sự khác nhau mang tính đối lập. Vật chất là cái được
phản ánh, tồn tại khách quan, ở ngoài và độc lập với cái phản ánh tức là ý thức. Cái
phản ánh là ý thức, là hình ảnh tinh thần của sự vật khách quan, bị sự vật khách quan
qui định. Vì vậy không thể đồng nhất hoặc tách rời cái được phản ánh(vật chất) với cái
phản ánh(ý thức).
Thứ hai, khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, thì đó không
phải là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động vật về sự vật. ý thức là của con người,
ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên ý thức con người
mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu thực tiễn xã hội. Theo C.Mác,
ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được
cải biến đi trong đó”.
9
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú và đó là sự thống nhất của ba
mặt sau:
Một là, Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự tra đổi này mang
tính chất hai chiều, có định hướng, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, Mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.

Ba là, Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình hiện thực
hoá tư tưởng thông qua hoạt động thực tiễn.
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo của ý thức là
sáng tạo của sự phản ánh, theo qui luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh mà kết quả
bao giờ cũng là những khách thể tinh thần.
Ý thức là một hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội.
3. Kết cấu của ý thức (Tự học)
a. Theo các yếu tố hợp thành gồm các yếu tố cấu thành như : Tri thức, tình cảm,
niềm tin, lý trí, ý chí (tri thức là yếu tố cơ bản nhất)
b. Theo chiều sâu của nội tâm bao gồm: ý thức, tiềm thức, vô thức.
CHƯƠNG III : HAI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA P.B.C DUY VẬT.
I. NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN.
1. Khái niệm mối liên hệ.
Liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự qui định, sự tác động qua lại, sự chuyển
hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện
tượng trong thế giới.
Ví dụ: Môi trường có ảnh hưởng to lớn đến con người, và hoạt động của con người
cũng có tác động trở lại to lớn đến sự biến đổi của môi trường.
2. Các tính chất của mối liên hệ.
a. Tính khách quan của mối liên hệ phổ biến.
P.B.C duy vật khẳng định mối liên hệ mang tính khác quan . Bởi các sự vật, hiện
tượng tạo thành thế giới đa dạng, phong phú, khác nhau song chúng đều là những dạng
cụ thể của thế giới vật chất. Và chính tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của
mối liên hệ. Nhờ có tính thống nhất đó, các sự vật, hiện tượng không thể tồn tại biệt lập,
tách rời nhau, mà trong sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau.
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự
vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất, tính qui luật của sự vật, hiện tượng
cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động của chúng với các sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ: Chúng ta chỉ đánh giá sự tồn tại của một con người cụ thể thông qua mối
liên hệ, sự tác động của người đó đối với người khác, đối với xã hội, tự nhiên, thông

qua hoạt động của chính người ấy.
b. Tính phổ biến của mối liên hệ phổ biến.
Tính phổ biến đó được thể hiện:
10
+Thứ nhất: Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác.
Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Mối liên hệ có ở mọi lĩnh vực:
tự nhiên, xã hội, tư duy.
+ Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, tuỳ theo điều kiện
nhất định. Nhưng, dù ở hình thức nào, chúng cũng là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến
nhất, chung nhất.
c.Tính đa dạng phong phú của mối liên hệ.
- Biểu hiện ở các sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau
thì các mối liên hệ biểu hiện ra khác nhau. Có thể chia các mối liên hệ thành nhiều
loại:
+ Mối liên hệ bên trong – mối liên hệ bên ngoài. (Ví dụ : Sự lĩnh hội tri thức của
người học trước hết và chủ yếu được quyết định bởi chính người đó : trình độ, năng
lực, tâm lý Còn sự tác động bên ngoài: nghệ thuật truyền thụ tri thức, cơ sở vật
chất dù có tốt, có đầy đủ đến mấy mà người học không chịu học thì người đó cũng
không bao giờ lĩnh hội được tri thức.)
+ Mối liên hệ bản chất –mối liên hệ không bản chất.
+ Mối liên hệ cơ bản – mối liên hệ không cơ bản.
+ Mối liên hệ chủ yếu- mối liên hệ thứ yếu.
+ Mối liên hệ trong những không gian và thời gian khác nhau
- Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự
vật hiện tượng.
- Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối vì mỗi loại liên hệ chỉ là
một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến.
Tuy sự phân chia thành các mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, nhưng sự phân chia
đó lại rất cần thiết, bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí vai trò xác định trong sự vận
động và phát triển của sự vật. Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó, để có

cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình.
3. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Vì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các
sự vật hiện tượng khác nên khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải đảm bảo
quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi nhận thức sự vật, hiện tượng phải trong tất
cả các mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các mặt của chính sự vật và
trong sự tác động qua lại giữa các sự vật đó với sự vật khác, tránh cách xem xét phiếm
diện một chiều.
- Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú – sự vật hiện tượng khác nhau, không
gian, thời gian khác nhau, các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử – cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự
vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể trong đó các sự vật
sinh ra , tồn tại và phát triển.
II. NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN.
11
1.Khái niệm phát triển.
Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự biến đổi theo chiều hướng đi lên
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển như vậy chỉ là một trường hợp của vận
động, đó là vận động đi lên, có sự ra đời của cái mới thay thế cho cái cũ.
2. Tính chất của sự phát triển.
a. Tính khách quan.
Sự phát triển mang tính khách quan, bởi vì nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay
trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn trong chính sự vật qui định. Đó là quá trình giải
quyết liên tục những mâu thuẫn trong bản thân sự vật. Sự phát triển như vậy hoàn toàn
không phụ thuộc vào ý thức của con người. Dù con người có muốn hay không muốn, sự
vật vẫn luôn phát triển theo khuynh hướng chung của thế giới vật chất.
b. Tính phổ biến của sự phát triển.

Tính phổ biến này được hiểu là nó diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên ,xã hội, tư duy, ở
bất cứ sự vật hiện tượng nào của thế giới khách quan.
+Trong tự nhiên, sự phát triển của giới vô cơ biểu hiện dưới dạng biến đổi các yếu tố
và hệ thống vật chất, sự tác động qua lại giữa chúng và trong những điều kiện nhất định
sẽ làm nảy sinh những hợp chất phức tạp.Từ đó cũng làm xuất hiện các hợp chất hữu cơ
ban đầu, tiền đề của sự sống.
+ Trong giới hữu cơ, sự phát triển thể hiện ở khả năng thích nghi của sinh vật với sự
biến đổi của môi trường.
+ Sự phát triển của xã hội biểu hiện ở sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế -
xã hội, mà hình thái kinh tế –xã hội sau bao giờ cũng cao hơn hình thái kinh tế – xã hội
trước.
+Sự phát triển của tư duy thể hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ,
chính xác hơn về thế giới khách quan.
c. Tính đa dạng phong phú của sự phát triển.
Khuynh hưóng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng. Song
mỗi sự vật hiện tượng lại có quá trình phát triển khác nhau, tồn tại ở không gian thời
gian khác nhau, sự phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển, sự vật
còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự
tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm
thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí còn làm cho sự vật thụt lùi.
3. Ý nghĩa phưong pháp luận.
Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
con người phải tôn trọng quan điểm phát triển.
+ Quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào đó, con
người phải đặt chúng ở trong trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung là phát
triển.
+ Quan điểm phát triển đòi hỏi phải thấy được khuynh hướng phát triển trong tương lai,
đặc biệt là khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
12
+ Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển, còn phải biết phân chia quá trình phát triển

của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức và
cách thức tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát
triển của nó, tuỳ theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người
+ Quan điểm phát triển khắc phục tư tưỏng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn.
CHƯƠNG IV: NHỮNG CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA P. B.C DUY VẬT
I. PHẠM TRÙ CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG.
1. Khái niệm cái riêng và cái chung.
a. Cái riêng: Là một phạm trù triết học, dùng để một sự vật, một hiện tượng, một quá
trình riêng lẻ nhất định.
Ví dụ : Cái bàn, cái ghế, cái cây cụ thể
b. Cái chung: Là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự
vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
Phân biệt cái riêng với cái đơn nhất: Cái đơn nhất là một phạm trù dùng để chỉ những
nét, những mặt, những thuộc tính mà chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất, mà
không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác.
Ví dụ : Thủ đô Hà nội là một “cái riêng”, ngoài các đặc điểm riêng giống các
thành phố khác ở Việt Nam còn có những nét riêng như : có phố Cổ, có Hồ Gươm,
có những nét văn hoá truyền thống mà chỉ ở Hà Nội mới có - Đó là cái đơn nhất.
2. Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung.
* P.B.C duy vật cho rằng: Cái riêng, cái chung, cái đơn nhất đều tồn tại khách
quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ:
+ Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự
tồn tại của mình.
Ví dụ: Không có cái cây nói chung tồn tại bên cạnh cây cam, cây quýt, cây đào cụ
thể, nhưng cây cam, cây quýt, cây đào nào cũng có rễ, có thân, có lá, có quá trình
quang hợp để duy trì sự sống.
+ Thứ hai, Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung.
Ví dụ : mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi người không thể tồn tại ngoài mối

liên hệ với xã hội và tự nhiên.
+ Thứ ba, Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận
nhưng sâu sắc hơn cái riêng .
(Cái riêng phong phú hơn cái chung, vì ngoài đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn
nhất; cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những
mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại, cái chung là cái gắn
liền với bản chất.)
Ví dụ: Người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân các nước trên thế
giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp, sống ở nông thôn còn có đặc điểm riêng
13
là chịu ảnh hưởng của văn hoá làng xã, các tập quán lâu đời của dân tộc, các điều
kiện tự nhiên của đất nước nên họ rất cần cù lao động, có khả năng chịu đựng được
những khó khăn trong cuộc sống.
+ Thứ tư, Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát
triển của sự vật. (Vì trong hiện thực, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay mà
lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về sau, theo qui luật cái mới hoàn thiện dần
và thay thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến. Ngược lai, cái cũ lúc đầu là cái
chung, cái phổ biến nhưng về sau do không phù hợp với điều kiện mới nên mất dần đi
và trở thành cái đơn nhất.)
3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận.
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của
mình nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật
hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người bên ngoài
cái riêng
- Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng, nên nhận thức phải nhằm tìm
ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng.
Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên lý chung sẽ rơi vào tình
trạng hoạt động mò mẫm, mù quáng.
- Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định, cái đơn nhất
có thể biến thành cái chung và ngược lại, nên trong hoạt động thực tiễn có thể cần và

phải tạo điều kiện thuận lợi để cái đơn nhất có lợi cho con ngưòi trở thành cái chung và
cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất.
CHƯƠNG V: NHỮNG QUI LUẬT CƠ BẢN CỦA P.B.C DUY VẬT.
II. QUI LUẬT CHUYỂN HOÁ TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG THÀNH
NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI.
1.Khái niệm chất và khái niệm lượng.
a. Khái niêm chất.
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật,
là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải
là cái khác.
• Chú ý mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính nhưng chỉ những thuộc tính cơ bản được
tổng hợp lại mới tạo thành chất của sự vật.
+ Chất của sự vật còn được qui định bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành,
nghĩa là bởi cấu trúc của sự vật.
Ví dụ : Kim cương và than chì đều do các nguyên tố các bon tạo nên, nhưng do
phương thức liên kết giữa các nguyên tử các bon là khác nhau, do vậy chất của
chúng cũng khác nhau. Kim cương rất cứng, còn than chì lại rất mềm.
b. Khái niệm lượng.
14
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định vốn có của sự vật về mặt số
lượng, qui mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc
tính của sự vật.
+ Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, qui mô to
hay nhỏ,trình độ cao hay thấp,nhịp điệu nhanh hay chậm
Ví dụ : Tốc độ vận động của ánh sáng là 300. 000 km/s.
Một phân tử nước bao gồm hai nguyên tử hyđrô và một nguyên tử ôxy.
+ Lượng còn có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ tri thức
khoa học của một con người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân.(Chúng
ta chỉ nhận thức được sự vật bằng con đường trừu tượng và khái quát hoá.)
Lượng tồn tại cùng với chất của sự vật và cũng có tính khach quan như chất của sự vật.

Sự phân biệt giữa chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Có những tính qui
định trong mối quan hệ này là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng và ngược
lại.
Ví dụ : Số lượng sinh viên học giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất lượng học
tập của lớp đó. Điều này có nghĩa là dù số lượng cụ thể qui định thuần tuý về lượng,
song số lượng ấy cũng có tính qui định về chất của sự vật.
2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất.
a. Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất.
- Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và lượng.
Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, qui định về lượng không bao giờ tồn tại,
nếu không có tính qui định về chất và ngược lại.
- Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động và phát
triển của sự vật. Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng tới sự thay đổi về chất
của nó và ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với sự thay đổi về lượng
của nó. Sự thay đổi về lượng có thể chưa làm thay đổi ngay lập tức sự thay đổi về chất
của sự vật. Ậ một giới hạn nhất định, lượng của sự vật thay đổi, nhưng chất của sự vật
chưa thay đổi cơ bản (hoàn toàn). Trong giới hạn đó gọi là “Độ”.
* Khái niệm “độ” : Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự
thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.
Ví dụ : Trong điều kiện áp xuất bình thường của không khí. Sự tăng hay giảm
nhiệt độ trong khoảng giới hạn từ 0ºC đến 100ºC nước nguyên chất vẫn ở trạng thái
lỏng. Nếu nhiệt độ của nước đó giảm xuống tới 0º và duy trì nhiệt độ ở đó, nước thể
lỏng chuyển thành thể rắn (hoặc) nêú từ 100ºC trở lên, nước sẽ chuyển dần sang
trạng thái hơi.
• Như vậy điểm giới hạn như 0ºC và 100ºC ở ví dụ trên gọi là điểm nút.
* Khái niệm “điểm nút” : Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn
mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Sự tích luỹ đủ về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời.
* Khái niệm “bước nhảy”: Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển
hoá về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.

15
• Như vậy, Sự phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về lượng
trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất.
b. Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng.
Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác động ấy thể
hiện : Chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, qui mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động
và phát triển của sự vật.
Ví dụ : Khi sinh viên vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp, tức cũng là thực hiện
bước nhảy, sinh viên sẽ được nhận bằng cử nhân. Trình độ văn hoá của sinh viên
cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, qui mô, trình độ tri thức,
giúp họ tiến lên trình độ cao hơn.
Cũng như ở ví dụ ở trên, khi nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái hơi, thì vận tốc
của các phân tử nước nhanh hơn, thể tích của nước ở trạng thái hơi sẽ lớn hơn thể
tích của nó ở trạng thái lỏng với cùng một khối lượng, tính chất hoà tan một số chất
tan của nó cũng sẽ khác đi
Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, mà những
thay đổi về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng.
c. Các hình thức cơ bản của bước nhảy.
Bước nhảy để chuyển hoá về chất của sự vật hết sức đa dạng và phong phú với
những hình thức khác nhau.
+ Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy có thể chia làm bước nhảy đột biến và
bước nhảy dần dần.
- Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn,
nhưng cũng đủ để làm thay đổi về chất về chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
Ví dụ : Khối lượng Uranium 235(UR 235) được tăng đến khối lượng tới hạn thì sẽ
xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát.
• Bước nhảy dần dần : Là bước nhảy thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ
dần dần những nhân tố của chất mới.
Ví dụ : Quá trình chuyển hoá từ vượn thành người diễn ra rất lâu, dài hàng vạn
năm.

+ Căn cứ vào qui mô thực hiện bước nhảy của sự vật : có bước nhảy toàn bộ và bước
nhảy cục bộ.
- Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố
cấu thành sự vật.
- Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt, những yếu tố
riêng lẻ của sự vật.
• Kết luận : Từ sự phân tích ở trên, có thể rút ra nội dung của qui luật chuyển hoá
từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại như sau :
Mọi sự vật đều đều là sự thống nhất giữa mặt lượng và chất, sự thay đổi dần dần
về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước
nhảy ; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới, lại có chất mới
cao hơn Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng biến
đổi.
16
3. Ý nghĩa phương pháp luận( tự học).
- Từng bước tích luỹ về lượng  biến đổi về chất.
- Quyết tâm thực hiện bước nhảy, kịp thời chuyển những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất.
- Vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy.
III. QUI LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP.
• Vị trí của qui luật : Qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hạt nhân
của P.B.C, nó vạch ra nguồn gốc động lực của sự phát triển.
1. Khái niệm : Mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
a. Khái niệm mặt đối lập : Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những
thuộc tính qui định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau.
Ví dụ : Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân.
Trong sinh vật có đồng hoá và dị hoá.
Trong kinh tế thị trường có cung và cầu.
b. Khái niệm mâu thuẫn : Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn
nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.

c. Khái niệm “thống nhất” của các mặt đối lập: Sự thống nhất của các mặt đối lập
là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của
mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
d. Khái niệm “đấu tranh” của cá mặt đối lập : Đấu tranh của các mặt đối lập là sự
tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau.
*Khái niệm đồng nhất : Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng
bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự
“đồng nhất” của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó, sự thống nhất của các mặt đối lập
còn bao hàm cả sự đồng nhất của các mặt đối lập.
2. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sư vận động và phát triển.
- Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau
của các mặt đối lập, tạo thành mâu thuẫn. Như vậy, mâu thuẫn biện chứng bao gồm cả
sự thống nhất lẫn sự đấu tranh của các mặt đối lập. Sự thống nhất gắn liền với sự đứng
im, sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận
động và phát triển.
- Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập qui
định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động, làm cho mâu thuẫn phát
triển. Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo
khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó ngày càng phát triển và đi đến đối lập.
Khi hai mặt đối lập xunh đột gay gắt, đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hoá lẫn nhau,
mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó, mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống
nhất mới ; sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế. Lê nin viết : “Sự phát triển là
một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”.
Tuy nhiên, không có sự thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh
giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau
trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất
17
giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập qui
định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của
sự vận động và phát triển.

3. Phân loại mâu thuẫn(Tự học.)
4. Ý nghĩa phương pháp luận.(Tự học)
- Phát hiện ra mâu thuẫn , tìm trong thể thống nhất những mặt, những khuynh hướng
trái ngược nhau
- Phân tích mâu thuẫn : xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn, xem
xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn.
- Tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn. Tìm ra
phương thức, phương tiện, lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải
quyết khi điều kiện đã chín muồi.
- Chống thái độ chủ quan nôn nóng.
IV. QUI LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH.
1.Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng.
a. Khái niệm phủ định: Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá
trình vận động và phát triển.
b. Khái niệm phủ định biện chứng : Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng
để chỉ sự phủ định tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến
bộ hơn sự vật cũ.
* Đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng là tính khách quan và tính kế thừa.
+ Phủ định biện chứng có tính khách quan vì nguyên nhân của sự phủ định nằm
ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là kết quả giải quyết những mâu thuẫn bên trong
của sự vật. Nhờ việc giải quyết mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển. Vì thế phủ định
biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động và phát triển của sự vật.
+ Phủ định biện chứng mang tính kế thừa vì phủ định là kết quả của sự phát triển tự
thân của sự vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới
chỉ có thể ra đời trên nền tảng của cái cũ, là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở
gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ, giữ lại cải tạo những mặt còn
thích hợp, bổ xunh những mặt mới phù hợp với hiện thực.
2. Nội dung qui luật phủ định của phủ định.
- Sự vật ra đời và tồn tại đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật
ấy, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng

diễn ra – Sự vật đó không còn nữa mà bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những
nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ được phủ định bằng sự vật mới
khác. Sự vật mới khác ấy dường như sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp
hoàn toàn, mà nó được bổ xunh những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố thích
hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định hai lần, phủ định của phủ định
được thực hiện, sự vật hoàn thành một chu kỳ phát triển.
Ví dụ : Hạt thóc

Cây lúa

Hạt thóc.
(Khẳng định) (Phủ định) (Phủ định của phủ định)
18
- Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định như trên là sự thống nhất hữu
cơ giữa chọn lọc, bảo tồn và bổ xunh những nhân tố mới, tích cực. Do vậy, thông qua
những lần phủ định biện chứng sự vật sẽ ngày càng phát triển.
- Kết quả của sự phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm
khởi đầu của một chu kỳ phát triển tiếp theo . Sự vật phải trải qua hai lần phủ định trở
lên mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Điều đó phụ thuộc vào từng sự vật cụ thể.
Ví dụ : Vòng đời của con tằm : Trứng

Tằm

Nhộng

Ngài

Trứng ( qua
4 lần phủ định)
- Qui luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật – xu

hướng phát triển. Song sự phát triển không đó không phải diễn ra theo đường thẳng tắp,
mà theo đường “ xoáy ốc”.
* Sự phát triển theo đường “xoáy ốc” biểu thị rõ ràng đầy đủ các đặc trưng của qúa
trình phát triển biện chứng của sự vật: Tính kế thừa, tính lặp lại. tính tiến lên.
• Như vậy, Từ sự phân tích đã được nêu ra ở trên, chúng ta có thể khái quát về nội
dung cơ bản của qui luật phủ định của phủ định như sau: Qui luật phủ định của phủ
định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái khẳng định và cái phủ định. Nhờ đó,
phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển. Nó bảo tồn nội dung tích cực
của các giai đoạn trước và bổ xunh thêm những thuộc tính mới làm cho sự phát
triển đi theo đường “xoáy ốc”.
3. Ý nghĩa phương pháp luận : (Tự học)
- Phủ định cái cũ, tạo lập cái mới phải xuất phát từ mâu thuẫn khách quan của sự vật,
không theo ý muốn chủ quan.
- Khi phủ định phải biết kế thừa những yếu tố tích cực đã đạt đươc từ cái cũ và phát
triển sáng tạo trong điều kiện mới.
- Xu hướng phủ định của phủ định là lặp lại trên cơ sở cao hơn, tiến bộ hơn. Đó là
khuynh hướng cần nắm để chỉ đạo trong thực tiễn.

CHƯƠNG VI : LÝ LUẬN NHẬN THỨC
I. BẢN CHẤT CỦA NHẬN THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI
NHẬN THỨC.
1. Bản chất của nhận thức.
a. Quan niệm về nhận thức của một số trào lưu triết học trước Mác.(Tự học)
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan.
+Chủ nghĩa duy vật trước Mác.
b. Quan niệm về bản chất nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
C. Mác và P. Ăng Ghen đã xây dựng nên học thuyết về nhận thức. Học thuyết này ra
đời dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.

Hai là, Thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của con người. Coi nhận thức là sự phản
ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người. (Là hoạt động tìm hiểu
19
khách thể của chủ thể. Không có cái gì là không nhận thức được, mà chỉ có cái con
người chưa nhận thức được, nhưng sẽ nhận thức được.)
Ba là, Khẳng định sự phản ánh là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng
tạo. (Quá trình p/á ấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết
nhiều, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc
hơn.)
Bốn là, Coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, là động lực, mục đích
của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý.
* Dựa trên những nguyên tắc cơ bản đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng
định : Về bản chất, nhận thức là quá trình phản ánh tích cực và sáng tạo thế giới
khách quan vào bộ óc của con người trên cơ sở thực tiễn.
2.Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
a. Phạm trù thực tiễn:
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử – xã
hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn rất đa dạng phong phú, song có 3 hình thức cơ bản là: Hoạt động sản
xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học. Trong
đó:
+ Hoạt động sản xuất vật chất : Là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn.
Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng công cụ lao động, tác động vào giới tự
nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát
triển của mình và xã hội.
+ Hoạt động chính trị xã hội.: Là hoạt động của các tổ chức, cộng đồng người khác
nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học: Là hình thức đặc biệt của thực tiễn. Đây là hoạt
động được tiến hành trong những điều kiện do con người đặt ra gần giống, giống hoặc
lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các qui luật biến đổi và

phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng có vai trò
quan trọng trong sự phát triển xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại.
• Các hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là
hoạt đông cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định đối với các quan hệ khác. Các
hình thức hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học có tác
động kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất vật chất:
- Nếu hoạt động chính trị xã hội mang tính chất tiến bộ, cách mạng và hoạt động thực
nghiệm khoa học mà đúng đắn sẽ tạo đà cho hoạt động sản xuất vật chất phát triển.
- Nếu hoạt động chính trị xã hội mà lạc hậu phản cách mạng và hoạt động thực nghiệm
khoa học mà sai lầm, không khoa học sẽ dẫn tới kìm hãm sự phát triển của hoạt động
sản xuất vật chất.
b. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
20
+ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức, là động lực của nhận thức, là mục đích của
nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức bởi vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp
của nhận thức. Nó đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ chín muồi, cách thức và khuynh
hướng vận động, phát triển của nhận thức. Chính con người có nhu cầu tất yếu khách
quan là giải thích và cải tạo thế giới mà buộc con người phải tác động trực tiếp vào các
sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự
vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ, quan hệ khác nhau giữa
chúng, đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm được bản chất, các
qui luật vận động, phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó mà hình thành nên các lý thuyết
khoa học.
Ví dụ : Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của con người cần phải “đo đạc diện tích và
đo lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí
” mà toàn học đã ra đời và phát triển.
• Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức còn là vì nhờ có hoạt động thực

tiễn mà các giác quan của con người ngày càng hoàn thiện, năng lực tư duy lô gíc
không ngừng được củng cố và phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng hiện
đại có tác dụng “nối dài”các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
+ Thực tiễn còn đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Điều này có nghĩa là
thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời
thực tiễn không ngừng bổ xunh, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận
thức.
• Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi chúng ta phải luôn quán triệt
quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu nhận thức phải xuất phát từ thực
tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết
thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành.
- Nếu xa rời thực tiễn, sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan duy ý chí, giáo điều, máy
móc, quan liêu.
- Nếu tuyệt đối hoá vai trò thực tiễn, sẽ dẫn đến chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa kinh
nghiệm.
II. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ CÁC CẤP ĐỘ CỦA NHẬN THỨC.
1.Biện chứng của quá trình nhận thức.
Con đường biện chứng của quá trình nhận thức đi từ: Trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
a.Trực quan sinh động (Nhận thức cảm tính)
Đây là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động trực tiếp vào các sự vật
nhằm nắm bắt các sự vật ấy. Trực quan sinh động bao gồm 3 hình thức: Cảm giác, tri
giác, biểu tượng.
* Cảm giác: Là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng
khi chúng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của con người.
* Tri giác: Là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang tác động
trực tiếp vào các giác quan. Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm giác, là sự tổng
21
hợp của nhiều cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức cao hơn,
đầy đủ hơn, phong phú hơn.

* Biểu tượng: Là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn trực
quan sinh động. Đó là hình ảnh có tính đặc trưng và tương đối hoàn chỉnh còn lưu
lại trong bộ óc con người về sự vật, khi sự vật đó không còn trực tiếp tác động vào
các giác quan.(Biểu tượng được hình thành nhờ sự phối hợp, bổ xunh lẫn nhau của các
cảm giác nhưng đã có sự tham gia của các yếu tố phân tích, tổng hợp và ít nhiều mang
tính chất trừu tượng hoá.)
• Như vậy, cảm giác, tri giác, biểu tượng là những hình thức kế tiếp nhau của giai
đoạn nhận thức cảm tính. Nhưng ở đây con người chưa phân biệt được cái gì là
bản chất với không bản chất, đâu là tất nhiên với ngẫu nhiên, đâu là cái bên
trong với cái bên ngoài. Phân biệt được những cái đó, thì con người mới có thể
nắm bắt được những qui luật vận động và phát triển của sự vật. Vì vậy mà nhận
thức sẽ vượt lên một trình độ mới, cao hơn về chất, đó là tư duy trừu tượng.(Nhận
thức lý tính).
b. Tư duy trừu tượng: (Nhận thức lý tính.)
Đây là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát mhững thuộc tính,
những đặc điểm bản chất của đối tượng (Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức
năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất có tính qui luật của các sự vật,
hiện tượng).
Nhận thức lý tính được thể hiện với 3 hình thức: Khái niệm, phán đoán, suy luận.
* Khái niệm : Là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc
điểm bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng
hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp các sự vật. Khái
niệm là cơ sở để hình thành phán đoán.
Ví dụ: Khái niệm “Thủ đô”, “Cái bàn”, “cái nhà”, “thực vật”, “vận động”
* Phán đoán: Là hình thức của tư duy, liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng
định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng.
Ví dụ: “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng” là một phán đoán. Đó chính là
sự liên kết giữa 2 khái niệm “Dân tộc Việt Nam” và “anh hùng”, để khẳng định thuộc
tính “anh hùng của dân tộc Việt Nam”.
• Suy lý: Là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri

thức mới về sự vật.
Ví dụ: Phán đoán 1: Kim loại dẫn điện.
Phán đoán 2: Đồng là kim loại.
Phán đoán 3: Đồng dẫn điện.
c. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính với thức tiễn.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu trình nhận
thức. Chúng có nhiệm vụ và chức năng khác nhau, song lại có mối quan hệ khăng khít
với nhau:
+ Nhận thức cảm tính gắn liền với hoạt động thức tiễn, là cơ sở cho nhận thức lý tính.
22
+ Nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao sẽ giúp cho nhận thức cảm tính có định
hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.
• Tuy nhiên, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có những tri thức
về đối tượng, còn bản thân những tri thức ấy có chân thực hay không thì con người
chưa thể biết được. Để xác định được điều đó, nhận thức phải trở về với thực tiễn,
dùng thực tiễn là tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt
được trong quá trình nhận thức.
• Cấp độ của quá trình nhận thức.(Tự học)
Căn cứ trên mức độ thâm nhập vào bản chất của đối tượng nhận thức, có thể chia nhận
thức thành :
+ Nhận thức kinh nghiệm.
+ Nhận thức lý luận.
Căn cứ trên tính chất phát hay tự giác của quá trình nhận thức, có thể chia thành:
+ Nhận thức thông thường.
+ Nhận thức khoa học.
III. VẤN ĐỀ CHÂN LÝ. (Tự học)
1. Khái niệm: Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: Chân lý là những tri thức phù
hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm.
2. Tính chất của chân lý.
Chân lý có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể.

CHƯƠNG VII: HÌNH THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI
I. XÃ HỘI - BỘ PHẬN ĐẶC THÙ CỦA TỰ NHIÊN.(Tự học)
1. Sự tác động qua lại giữa xã hội và tự nhiên.
2. Đặc điểm của qui luật xã hội.
3. Sản xuất vật chất – cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội.
II. BIỆN CHỨNG CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT.
1.Khái niệm: Phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.
a. Phương thức sản xuất.
* Khái niệm: Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình
sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
- Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Sự thay thế, kế
tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội
loài người từ thấp đến cao.
- Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ
nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
b. Lực lượng sản xuất.
* Khái niệm: Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của
con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm
23
người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ
lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất,
trước hết là công cụ lao động kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, người lao động là chủ thể, đóng vai trò
quyết định của quá trình sản xuất; công cụ lao động là yếu tố cơ bản của lực lượng sản
xuất, quyết định trong tư liệu sản xuất.
- Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khoa học và công nghệ
hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. Những phát minh khoa học trở
thành điểm xuất phát ra đời những ngành sản xuất mới. Yếu tố trí lực trong sức lao động
hiện đại không còn là kinh nghiệm và thói quen mà là tri thức khoa học.

c. Quan hệ sản xuất.
* Khái niệm: Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt: Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản
xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm
sản xuất ra.
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ
xuất phát, quan hệ cơ bản đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội và nó giữ
vai trò quyết định đối với quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm, đồng
thời quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có tác động trở lại đối với quan hệ sở
hữu tư liệu sản xuất.
• Qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng
tồn tại không tách rời nhau mà tác động qua lại với nhau một cách biện chứng tạo thành
qui luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất –
Qui luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.
• Trình độ của lực lượng sản xuất: Biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình
độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công
lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
• Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất .
Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên
tính chất xã hội hoá. (Khi lực lượng sản xuất dựa trên lao động thủ công, phân công
lao động kém phát triển, thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản
xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển, thì lực
lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá.
a. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan
hệ sản xuất cho phù hợp với nó.
- Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó là một trạng thái mà trong đó quan
hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả

các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát
triển.
24
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, làm cho quan hệ sản
xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực
lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất
yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình
độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát
triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương
thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. Nhưng rồi quan hệ
sản xuất mới này sẽ lại trở nên không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển
hơn nữa, sự thay thế phương thức sản xuất mới lại diễn ra
b. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng
có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất qui định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người
trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ Do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
• Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
thì sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
• Nếu quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất.
Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất thì theo qui luật
chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
III. BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG.
1.Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
a. Cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một
xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm: Quan hệ sản xuất

thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội trước và quan hệ sản xuất mầm mống
của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò
chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó qui định xu hướng chung của đời
sống kinh tế – xã hội.
b. Kiến trúc thượng tầng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cùngnhwngx thiết chế xã hội tương ứng như nhà
nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội được hình thành trên cơ sở hạ tầng
nhất định.
3. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
a. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống nhất
biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc
thượng tầng.
25

×