Tải bản đầy đủ (.doc) (197 trang)

công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.23 MB, 197 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HÀ THỊ HƯƠNG LAN
C¤NG NGHIÖP Hç TRî TRONG
MéT Sè NGµNH C¤NG NGHIÖP ë VIÖT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ


HÀ NỘI - 2014
HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
H TH HNG LAN
CÔNG NGHIệP Hỗ TRợ TRONG
MộT Số NGàNH CÔNG NGHIệP ở VIệT NAM
Chuyờn ngnh : Kinh t chớnh tr
Mó s : 62 31 01 01

LUN N TIN S KINH T

Ngi hng dn khoa hc: PGS, TS. HONG TH BCH LOAN

H NI - 2014
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu sử
dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc xuất
xứ rõ ràng, đã công bố theo đúng quy định.
Nghiên cứu sinh
Hà Thị Hương Lan
ii
MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NH NG CÔNG TRÌNH KHOA H C Ã C NGHIÊN C U LIÊN QUANỮ Ọ Đ ĐƯỢ Ứ
N TÀIĐẾ ĐỀ
1.2. ÁNH GIÁ CHUNG VÀ NH NG V N T RA C N TI P T C NGHIÊNĐ Ữ Ấ ĐỀ ĐẶ Ầ Ế Ụ
C UỨ
Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP
HỖ TRỢ
2.1. C S LÝ LU N V CÔNG NGHI P H TRƠ Ở Ậ Ề Ệ Ỗ Ợ
2.2. VAI TRÒ C A PHÁT TRI N CÔNG NGHI P H TR I V I N N KINH TỦ Ể Ệ Ỗ ỢĐỐ Ớ Ề Ế
QU C DÂN NÓI CHUNG VÀ NGÀNH CÔNG NGHI P NÓI RIÊNGỐ Ệ
2.3. KINH NGHI M C A M T S QU C GIA V PHÁT TRI N CÔNG NGHI PỆ Ủ Ộ Ố Ố Ề Ể Ệ
H TR TRONG M T S NGÀNH CÔNG NGHI P VÀ BÀI H C CHO VI TỖ Ợ Ộ Ố Ệ Ọ Ệ
NAM
Chương 3 THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG
MỘT SỐ
NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 - 2013
3.1. NH NG THU N L I, KHÓ KH N VÀ NHÂN T M I NH H NG NỮ Ậ Ợ Ă Ố Ớ Ả ƯỞ ĐẾ
PHÁT TRI N CÔNG NGHI P H TR TRONG M T S NGÀNH CÔNGỂ Ệ Ỗ Ợ Ộ Ố
NGHI P VI T NAMỆ Ở Ệ
3.2. TH C TR NG CÔNG NGHI P H TR TRONG NGÀNH CÔNG NGHI P XEỰ Ạ Ệ Ỗ Ợ Ệ
MÁY, D T MAY VÀ I N T VI T NAMỆ ĐỆ ỬỞ Ệ
3.3. ÁNH GIÁ CHUNG V CÔNG NGHI P H TR TRONG M T S NGÀNHĐ Ề Ệ Ỗ Ợ Ộ Ố
CÔNG NGHI P VI T NAMỆ Ở Ệ
Chương 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT
TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH
CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
4.1. QUAN I M C B N NH M PHÁT TRI N CÔNG NGHI P H TR TRONGĐỂ Ơ Ả Ằ Ể Ệ Ỗ Ợ

M T S NGÀNH CÔNG NGHI P VI T NAMỘ Ố Ệ Ở Ệ
4.2. GI I PHÁP CH Y U NH M PHÁT TRI N CÔNG NGHI P H TR TRONGẢ Ủ Ế Ằ Ể Ệ Ỗ Ợ
M T S NGÀNH CÔNG NGHI P VI T NAMỘ Ố Ệ Ở Ệ
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
iii
ASEAN The Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương
BOI Ủy ban đầu tư Thái Lan
CNHT Công nghiệp hỗ trợ
CNPT Công nghiệp phụ trợ
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CCN Cụm công nghiệp
CLKN Cụm liên kết ngành
CNCNC Công nghiệp công nghệ cao
CSDL Cơ sở dữ liệu
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
DNNVV (SMEs) Doanh nghiệp nhỏ và vừa
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GTSX Giá trị sản xuất
KCN Khu công nghiệp
KH-CN Khoa học - công nghệ
MOI Bộ Công nghiệp Thái Lan
MITI (METI) Bộ Kinh tế công nghiệp và Thương Mại Nhật Bản
MLSX Mạng lưới sản xuất

MNCs Công ty đa quốc gia
JETRO The Japan External Trade Organization
Cơ quan xúc tiến ngoại thương Nhật Bản
JICA Japan International Cooperation Agency
Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản
TNCs Công ty xuyên quốc gia
UNIDO The United Nations Industrial Development Organization
Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc
VCCI Vietnam Chamber of Commerce and Industry
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
VDF Việt Nam Development Forum
Diễn đàn phát triển Việt Nam
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: GTSX công nghiệp lĩnh vực sản xuất linh kiện phụ tùng
Bảng 3.2: Lao động trong lĩnh vực sản xuất linh kiện phụ tùng
Bảng 3.3: Quy mô của doanh nghiệp CNHT xe máy
Bảng 3.4: Tỷ lệ nội địa hóa của một số hãng xe máy
Bảng 3.5: GTSX công nghiệp CNHT ngành dệt may
Bảng 3.6: Lao động lĩnh vực CNHT ngành dệt may
Bảng 3.7: Doanh thu của các doanh nghiệp CN dệt may từ 2000 -
2012
Bảng 3.8: Tình hình nhập khẩu của ngành dệt may từ năm 2006-
2012
Bảng 3.9: Số lượng doanh nghiệp CNHT ngành Điện tử 2006 - 2013

Bảng 3.10: Tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm công nghệ thông
tin từ năm 2008-2013
Bảng 3.11: Đánh giá SWOT về công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Bảng 4.1: Nhóm chỉ tiêu phấn đấu của ngành công nghiệp
v
DANH MỤC CÁC BIỂU
Trang
Biểu đồ 3.1: Số lượng doanh nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng
Biểu đồ 3.2: Giá trị sản xuất công nghiệp một số ngành công nghiệp

Biểu đồ 3.3: Lao động trong công nghiệp chế biến, chế tạo
Biểu đồ 3.4: Doanh nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng xe máy
Biểu đồ 3.5: Trị giá hàng dệt may xuất khẩu từ 2000-2013
Biểu đồ 3.6: Số lượng các doanh nghiệp CNHT ngành dệt may năm
2012
Biểu đồ 3.7: Vốn đầu tư của doanh nghiệp sản xuất sợi và dệt vải
Biểu đồ 3.8: Tổng doanh thu công nghiệp điện tử Việt Nam
Biểu đồ 3.9: Vốn kinh doanh bình quân của doanh nghiệp sản xuất
sản phẩm điện tử, máy vi tính
Biểu đồ 3.10: Kim ngạch nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử
& linh kiện theo tháng, giai đoạn 2010 - 2012
Biểu đồ 3.11: Cơ cấu đầu tư trong ngành điện tử
DANH MỤC CÁC HỘP
Trang
Hộp 2.1: Ngành chế tạo ôtô: sau động đất, sóng thần 11/3/2011 tại
Nhật Bản
Hộp 2.2: Rủi ro của các nhà cung ứng linh kiện ô tô
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ 2.1: Các phạm vi của CNHT
Sơ đồ 2.2: CNHT theo nghĩa rộng
Sơ đồ 2.3: Các lớp cung ứng hỗ trợ
vi

Sơ đồ 2.4: Chuỗi giá trị trong một ngành công nghiệp
Sơ đồ 2.5: Cấu trúc chuỗi giá trị giữa linh kiện và lao động
Sơ đồ 4.1: Mô hình Cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ quốc gia
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ và quá trình toàn cầu hoá kinh tế mở rộng hiện nay, các nền kinh tế quốc
gia, khu vực đang có xu hướng hợp nhất và trở thành một bộ phận, một hệ thống
quan trọng trong mạng lưới hợp tác phân công lao động toàn cầu. Mọi quốc gia
muốn phát triển phải gắn phân công lao động quốc gia vào hệ thống phân công
lao động quốc tế. Khi trình độ phân công lao động quốc tế và phân chia quá trình
sản xuất đạt đến mức độ cao, không một sản phẩm công nghiệp nào được sản
xuất tại một không gian, địa điểm hay một công ty duy nhất của một quốc gia;
chúng được phân chia thành nhiều công đoạn ở các công ty cắm nhánh tại các
địa phương, quốc gia, châu lục khác nhau. Ngành công nghiệp hỗ trợ ra đời như
một tất yếu xuất phát từ đòi hỏi của nền sản xuất công nghiệp mới với nội dung
cơ bản là chuyên môn hóa sâu sắc các công đoạn của quá trình sản xuất.
Việt Nam, là một nước đang phát triển, đang trong tiến trình đẩy nhanh
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển công nghiệp hỗ trợ có
vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước. Thực tiễn ở một số nước
trên thế giới và Việt Nam đã chứng minh, sự phát triển đúng hướng của ngành
công nghiệp hỗ trợ là tiền đề quan trọng đóng góp vào quá trình phát triển nền
kinh tế quốc dân; phát triển công nghiệp hỗ trợ trở là nhân tố đóng vai trò quyết
định sự phát triển của các ngành công nghiệp. Công nghiệp hỗ trợ phát triển góp
phần làm tăng tỷ lệ nội địa hoá, giảm nhập khẩu, giảm giá thành sản phẩm, giảm
sự phụ thuộc vào “bên ngoài”, đảm bảo tính chủ động cho nền kinh tế. Công
nghiệp hỗ trợ phát triển góp phần đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, phát huy cao độ các yếu tố nội lực, phát triển nguồn nhân lực, mối

liên kết công nghiệp và sử dụng công nghệ cao, tăng giá trị gia tăng của sản phẩm
công nghiệp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, nó đáp ứng
một cách linh hoạt, kịp thời trước nhu cầu phải thay đổi tính năng, kiểu dáng, mẫu
2
mã, dây chuyền, công nghệ của nhà sản xuất công nghiệp do thị hiếu tiêu dùng
ngày càng cao và cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Ngoài ra, phát triển công nghiệp
hỗ trợ sẽ góp phần cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao sức hút đầu tư vào những
lĩnh vực công nghiệp mà công nghiệp hỗ trợ đó đi trước một bước để “mở
đường”. Chính vì vậy, công nghiệp hỗ trợ phát triển sẽ nâng cao sức cạnh tranh
của sản phẩm công nghiệp, ngành công nghiệp nói riêng cũng như của cả nền kinh
tế quốc dân nói chung đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển bền vững.
Tuy nhiên, Việt Nam hiện nay, hệ thống Luật pháp và chính sách chưa đủ
mạnh để tạo điều kiện về môi trường pháp lý, định hướng và khuyến khích đầu
tư, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Hiện ngành công nghiệp hỗ trợ còn khá
non trẻ, quy mô nhỏ, tính cạnh tranh thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của các
ngành công nghiệp chế tạo và lắp ráp. Phát triển công nghiệp hỗ trợ là vấn đề
mới, phạm vi rộng và nội dung phức tạp liên quan đến các lĩnh vực sản xuất và
dịch vụ công nghiệp. Việt Nam, với nguồn lực hạn hẹp, quy mô các ngành kinh
tế hạn chế, phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ đòi hỏi nguồn vốn lớn, công
nghệ cao, lao động chất lượng, đây là khó khăn lớn. Để phát huy lợi thế so sánh,
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nói riêng, quá trình hội nhập quốc tế
nói chung, phù hợp với thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay thì lựa chọn
phát triển công nghiệp hỗ trợ trở thành một vấn đề mang tính khách quan và thiết
thực. Đây là một vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, với ý nghĩa đó tác
giả chọn đề tài: “Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt
Nam” làm luận án tiến sỹ, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1.Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về CNHT, đặc biệt làm
rõ vai trò và những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển CNHT; Luận án phân tích,

đánh giá thực trạng CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam, chỉ ra
những kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong phát
triển CNHT. Từ đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
CNHT trong một số ngành công nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án chủ yếu tập trung vào những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Luận giải những vấn đề lý luận chung về CNHT. Đặc biệt làm rõ vai
trò của CNHT.
- Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển CNHT của một số quốc gia. Từ đó
rút ra một số bài học có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng CNHT trong một số ngành công nghiệp ở
Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2013. Từ đó chỉ ra những kết quả đạt được, hạn
chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với phát triển CNHT trong một số
ngành công nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển CNHT
trong một số ngành công nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là CNHT trong một số ngành công
nghiệp ở Việt Nam, cụ thể là tập trung nghiên cứu CNHT ở 03 ngành chủ yếu là xe
máy, dệt may và điện tử dưới góc độ kinh tế chính trị.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án
- Về không gian: Luận án nghiên cứu CNHT trong một số ngành công
nghiệp Việt Nam, trong đó tập trung nghiên cứu CNHT của 03 ngành xe máy, dệt
may, điện tử trên phạm vi cả nước.
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu CNHT trong một số ngành công
nghiệp ở Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2013.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận

Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc
biệt là lý luận về phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất.
Luận án sử dụng một số lý thuyết và mô hình kinh tế học như liên kết kinh
doanh (business linkages), chuỗi giá trị (value chain), cụm liên kết doanh nghiệp
công nghiệp (industrial cluster) để phân tích và làm rõ vấn đề nghiên cứu.
4
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm
nền tảng cơ sở phương pháp luận.
- Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương
pháp cụ thể như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp lôgic -
lịch sử, kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Làm rõ nội hàm và các nhân tố ảnh hưởng tới CNHT.
- Những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của CNHT.
- Luận giải rõ vai trò mang tính hai mặt của phát triển CNHT đối với nền
kinh tế quốc dân nói chung và ngành công nghiệp nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng CNHT ngành xe máy, dệt may và điện tử
giai đoạn 2006 - 2013.
- Trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2020.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án bao gồm 4 chương, 10 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƯỢC NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
CNHT không phải là một vấn đề mới trên thế giới, rất nhiều nước nhận

thức rõ vai trò của nó trong phát triển kinh tế - xã hội và sớm quan tâm, xây
dựng hệ thống lý thuyết, chính sách phát triển cho ngành CNHT như: Nhật Bản,
Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia Hiện nay, có một số công trình khoa học của
các nước nghiên cứu về CNHT dưới các khía cạnh khác nhau mà tác giả được
biết, cụ thể như sau:
1.1.1. Một số công trình khoa học của nước ngoài
1.1.1.1. Nhóm công trình khoa học lý luận chung về công nghiệp hỗ trợ
và vai trò của công nghiệp hỗ trợ
- Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), (1995), “ Investigation report
for industrial development: Supporting industry sector”, Tokyo. Tài liệu đã đưa
ra báo cáo điều tra phát triển công nghiệp về: “ngành Công nghiệp hỗ trợ”, báo
cáo đã đánh giá vai trò quan trọng và thực trạng CNHT trong các ngành công
nghiệp Nhật Bản; và kết luận về mối liên hệ, tính liên kết trong sản xuất sản
phẩm cũng như những yêu cầu và điều kiện thúc đẩy CNHT Nhật Bản phát triển
phục vụ cho ngành công nghiệp nói riêng, nền kinh tế Nhật Bản nói chung.[26]
- Prema-Chandra Athukorala, (2002), “Đầu tư nước ngoài trực tiếp và
xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo: cơ hội và chiến lược”, Đề án Khoa kinh tế
Trường Nghiên cứu Châu Á Thái Bình Dương, Đại học Quốc gia Australia. Đề
án phân tích về vai trò và mối quan hệ của sản phẩm chi tiết, công nghiệp chế tạo
hỗ trợ cho quá trình sản xuất sản phẩm chính đối với việc thu hút FDI. Từ đó, tác
giả chỉ ra những cơ hội, thách thức trong thu hút FDI và để thu hút FDI hiệu quả,
cần quan tâm phát triển công nghiệp chế tạo, đó là chìa khóa cho việc thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.[58]
6
- Do Manh Hong, (2008), “Promotion of Supporting Industries - The key
for attracting FDI in developing countries” (Xúc tiến CNHT - chìa khóa cho thu
hút FDI ở các nước đang phát triển). Tác giả đã chỉ ra vai trò ngày càng quan
trọng của CNHT trong quá trình phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Để
thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững, các nước đang phát triển cần tạo mọi
điều kiện để thu hút FDI, song để thu hút được nhiều vốn FDI và sử dụng có

hiệu quả nguồn FDI, các nước đang phát triển chỉ có một con đường duy nhất là
thúc đẩy và xây dựng một nền CNHT đủ mạnh để thu hút và thẩm thấu được
nguồn vốn FDI đem lại hiệu quả và sự phát triển bền vững cho nền kinh tế của
các nước đang phát triển.[129]
1.1.1.2. Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về phát triển các ngành
công nghiệp hỗ trợ
- Bộ Công thương Nhật Bản (MITI, nay là Bộ Kinh tế, Công nghiệp và
Thương mại, METI), (1985), “White paper on Industry and Trade” (Sách trắng
về hợp tác kinh tế), Tokyo. Trong cuốn sách này, thuật ngữ CNHT lần đầu tiên
được nhắc đến để chỉ các DNNVV có đóng góp cho việc phát triển cơ sở hạ
tầng công nghiệp ở các nước Châu Á trong trung và dài hạn hay đó chính là các
công ty sản xuất linh phụ kiện. Trong tài liệu, các tác giả đã đánh giá vai trò
của các công ty sản xuất linh phụ kiện trong quá trình CNH, HĐH và phát triển
các DNNVV ở các nước ASEAN, đặc biệt là ASEAN 4 (gồm bốn nước:
Indonesia, Malaysia, Philipines và Thái Lan). Việc thúc đẩy phát triển hệ thống
các DNNVV chính là việc thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp hỗ trợ trong
quá trình CNH, HĐH.[141]
- Goh Ban Lee, (1998), “Linkage between the Multinational Corporations
and Local Supporting Industries” (Liên kết giữa các tập đoàn đa quốc gia và các
ngành CNHT nội địa), Đại học Sains, Malaysia. Tác giả phân tích mối quan hệ chặt
chẽ trong hợp tác, phân công lao động với các tập đoàn đa quốc gia trong việc thúc
đẩy nền kinh tế Malaysia phát triển. Đó chính là việc liên kết, hợp tác trong quá
7
trình sản xuất sản phẩm công nghiệp. Tác giả chỉ rõ tầm quan trọng của chính sách
phát triển nguồn nhân lực và các chính sách hỗ trợ liên kết của Chính phủ Malaysia
đối với các tập đoàn điện tử gia dụng của Nhật Bản với các doanh nghiệp nội địa
trong sản xuất linh kiện cho ngành điện tử tại Malaysia.[136]
- Cục xúc tiến Ngoại thương Nhật Bản (JETRO), (2003), “Japanese -
Affiliated Manufactures in Asia” (Các nhà sản xuất Nhật Bản tại Châu Á) báo
cáo phân tích tình hình thuê ngoài và các nhà cung ứng sản phẩm hỗ trợ cho các

doanh nghiệp sản xuất của Nhật Bản ở Châu Á (ASEAN và Ấn Độ). Từ đó, chỉ
ra những cơ hội thách thức, những thuận lợi khó khăn của các nhà sản xuất Nhật
Bản tại Châu Á.[133]
- Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), (2004), Tổng hợp, xây
dựng báo cáo điều tra, khảo sát: “Survey report on overseas business operations
by Japanese manufacturing companies” (Báo cáo khảo sát các bộ phận ở nước
ngoài của các công ty lắp ráp Nhật Bản). Báo cáo phân tích thực tế quá trình
sản xuất của chi nhánh thuộc các tập đoàn Nhật Bản ở Châu Á, đặc biệt là Thái
Lan, Malaysia, Indonesia đã sử dụng hệ thống thầu phụ được hình thành với vai
trò mạnh mẽ của các doanh nghiệp sản xuất linh kiện có vốn đầu tư từ Nhật
Bản. Đó chính là các doanh nghiệp CNHT. Hệ thống thầu phụ này cung cấp
các nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng cho các nhà sản xuất, lắp ráp tại các nước
Châu Á như: Thái Lan, Malaysia, Indonesia, giúp cho các nước này hoàn chỉnh
quá trình sản xuất sản phẩm.[132]
- D. McNamara, (2004), “ Integrayting Supporting Industries - APEC
next Challege”, Trung tâm nghiên cứu Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á -
Thái Bình Dương (APEC). Tác giả đã luận giải những vấn đề: làm thế nào để
các thành viên APEC cùng nhau thúc đẩy mạng lưới SMEs hiệu quả hơn
nhằm hỗ trợ của các công ty sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài. Dù đã có
nhiều chính sách được đưa ra nhưng vấn đề cung cấp sản phẩm CNHT được
đề cập đến như là mô hình kịp thời để giải quyết mối quan hệ lợi ích và khắc
8
phục những hạn chế của APEC trong quá trình chuyển đổi sang suy giảm hoặc
tăng trưởng nhanh chóng. Bởi các nhà sản xuất thành phần chính sẽ tham gia
vào đối thoại và đại diện phần nào cho mạng lưới nhà cung cấp vừa và nhỏ
mà họ phối hợp và do đó cần xây dựng mạng lưới được phân biệt rõ giữa nhà
cung cấp lớn hơn và nhỏ hơn, sau đó tìm cách để kết hợp lại các ý kiến về các
vấn đề liên quan đến lĩnh vực chính.[127]
1.1.1.3. Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về giải pháp phát triển
công nghiệp hỗ trợ

- GS. Porter E. Michael (1990), “The competitive advantage of nations,
Harvard business review” (Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia), Trường Đại học
Havard - New York Mỹ. Tác giả là nhà quản trị chiến lược nổi tiếng của Mỹ,
trong bài viết tác giả đã phân tích, giải thích thuật ngữ “Công nghiệp liên quan và
hỗ trợ”. Tác giả phân tích khá sâu sắc thuật ngữ này thông qua việc đưa ra lý
thuyết về khả năng cạnh tranh quốc gia qua mô hình “viên kim cương”. Trong đó,
công nghiệp liên quan và hỗ trợ được coi là một trong bốn yếu tố quyết định đến
lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. “Công nghiệp liên quan và hỗ trợ” được coi là
sự tồn tại của ngành cung cấp và ngành công nghiệp liên quan có năng lực cạnh
tranh quốc tế. Tác giả đã chia yếu tố này thành hai phần là CNHT và công nghiệp
liên quan. Theo đó, sự phát triển của một ngành công nghiệp đạt được phải dựa trên
khả năng sáng tạo, đổi mới và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư thông qua mối
quan hệ tác động qua lại và sự liên kết bền vững như cấu trúc tinh thể của kim
cương giữa bốn nhóm yếu tố, trong đó có nhấn mạnh vai trò của CNHT.[146]
- Ryuichiro, Inoue, (1999) “Future prospects of Supporting Industries in
ThaiLand and Malaysia” (Tương lai của ngành CNHT Thái Lan và Malaysia).
Các tác giả đã khảo sát tình hình phát triển CNHT ở Thái Lan và Malaysia sau
cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997. Từ đó, chỉ ra sự cần thiết phải điều chỉnh
chiến lược phát triển các ngành công nghiệp cho phù hợp sau khủng hoảng. Các
tác giả đã đưa ra một loạt giải pháp nhằm điều chỉnh chính sách công nghiệp sau
9
khủng hoảng như: tăng cường phát triển các ngành CNHT ô tô, điện tử đẩy
mạnh mô hình liên kết công nghiệp, xây dựng các khu, cụm công nghiệp , trong
đó nhấn mạnh sự cần thiết xây dựng một hệ thống CNHT hoàn chỉnh.[148]
- Ratana. E, (1999), “The role of small and medium supporting industries in
Japan and Thailand” (Vai trò của CNHT vừa và nhỏ ở Nhật Bản và Thái Lan),
Trung tâm nghiên cứu IDE APEC, Working Paper Series 98/99 Tokyo. Tác giả đã
đi sâu phân tích mối quan hệ giữa DNNVV với CNHT tại hai quốc gia là Nhật Bản
và Thái Lan, từ đó chỉ ra mối liên hệ mật thiết giữa DNNVV với CNHT. Nghiên
cứu chỉ rõ, CNHT chủ yếu do DNNVV thực hiện, do đó muốn CNHT phát triển,

phải tạo điều kiện thúc đẩy DNNVV phát triển. Nghiên cứu khẳng định vai trò quan
trọng của CNHT trong thúc đẩy hệ thống các DNNVV phát triển.[147]
- Halim Mohd Noor, Roger Clarke, Nigel Driffield (2002), “Multinational
cooperation and technological effort by local firm: a case study of the Malaysia
Electronics and Electrical Industry” (Tập đoàn đa quốc gia và các nỗ lực công
nghệ của doanh nghiệp địa phương: trường hợp nghiên cứu ngành công nghiệp
điện và điện tử Malaysia). Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những giải pháp phát
triển CNHT cho ngành công nghiệp điện tử và đặc biệt nhấn mạnh vai trò quan
trọng từ phía Chính phủ trong việc hỗ trợ đổi mới và phát huy sáng tạo của các
doanh nghiệp nội địa nhằm cung ứng hỗ trợ cho ngành điện tử phát triển.[137]
- Tổ chức năng suất Châu Á (Asian productivtity Orgnisation), (2002),
“Strengthening of supporting Industries: Asian Experiences” (Đẩy mạnh CNHT:
các kinh nghiệm của Châu Á). Đây là tài liệu quan trọng và bổ ích cho các
nước đang phát triển, tài liệu đã đúc kết kinh nghiệm phát triển CNHT, tập
trung phân tích chính sách phát triển CNHT qua các thời kỳ ở Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài Loan; đặc biệt, thông qua việc phân tích tình hình phát triển
CNHT và các chính sách thúc đẩy CNHT phát triển ở Nhật Bản, Hàn Quốc và
Đài Loan các tác giả đã chỉ rõ vai trò quan trọng của các chính sách bằng việc
tập trung vào phân tích vai trò thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển CNHT,
10
cũng như những quy định về tỷ lệ nội địa hoá và các chính sách hỗ trợ mạnh
mẽ có hiệu quả từ phía Chính phủ dành cho quá trình liên kết doanh nghiệp, tất
cả các chính sách này được coi như là điều kiện tiên quyết để phát triển CNHT
ở các nước Châu Á. [125]
1.1.1.4. Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về công nghiệp hỗ trợ
với phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung
- Peter Larkin, the President and CEO of the National Grocers Association
(NGA), (2011), “Comprehensive Supporting Industries” ThaiLand Board of
Investment North America”, Supporting industries in Thailand. Khẳng định ngành
CNHT phát triển toàn diện của Thái Lan cho phép các nhà đầu tư, các nhà sản xuất,

lắp ráp giảm thời gian, giảm chi phí và tăng hiệu quả sản xuất thông qua việc tìm
nguồn cung ứng đầu vào ngay tại Thái Lan. Bài viết khẳng định một ngành CNHT
sôi động, hoạt động hiệu quả đã thúc đẩy nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng ổn định,
lâu dài và bền vững. Đây cũng chính là yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh nhằm
thu hút FDI của Thái Lan so với các nước. Chính vì thế, từ lâu Thái Lan đã được
coi là một trong những điểm đến hấp dẫn nhất của các nhà đầu tư trên thế giới.[146]
- Goodwill Consultant JSC và diễn đàn phát triển Việt Nam (VDF), (2011),
“Survey on comparision of backgrounds, polycy measuares and outcomes for
development of supporting industries in ASEAN (Malaysia and Thailand in
comparion with VietNam)” (Điều tra so sánh bối cảnh, biện pháp, chính sách và
kết quả phát triển CNHT ở ASEAN), Publishing House of Communication and
Transport, Nhà xuất bản Giao thông Vận tải. Trong tài liệu này, các tác giả đi
sâu vào phân tích Malaysia và Thái Lan, là hai trong số các nước ở ASEAN đã
có rất nhiều chương trình dành cho CNHT từ những năm 1980. Thông qua việc
phân tích các vấn đề về: bối cảnh; tổ chức chính sách và các bên liên quan; định
nghĩa và phạm vi của CNHT; các biện pháp chính sách; ảnh hưởng chính sách và
kết quả đạt được các tác giả đưa ra những so sánh với Việt Nam trên cơ sở
nghiên cứu hiện trạng CNHT Việt Nam, những thành tựu và bất cập về khung
11
chính sách. Từ đó, đưa ra 07 phát hiện chính từ kết quả so sánh, đó là: khủng
hoảng - chất xúc tác cho chính sách; tác động qua lại giữa lợi ích quốc gia và lợi
ích nước ngoài thời kỳ toàn cầu hóa; xúc tiến mở và xúc tiến bắt buộc; áp dụng
có điều chỉnh; sự quan tâm đến xúc tiến CNHT; các biện pháp chính sách và việc
tổ chức thực hiện. Từ những phân tích đó, các tác giả chỉ ra nét tương đồng và sự
khác biệt rất lớn về chính sách của hai quốc gia này, song dù bằng cách nào, mỗi
quốc gia đều thiết lập cho mình một phương thức hoạch định chính sách công
nghiệp tiên tiến và Việt Nam có thể học hỏi một cách có chọn lọc từ những kinh
nghiệm khác nhau nhưng vô cùng sâu sắc của hai quốc gia này.[130]
- Thomas Brandt, (2012), “Industries in Malaysia Engineering
Supporting Industry”, (CNHT cơ khí tại Malaysia), Malaysian Investment

Development Authority (MIDA)

. Bài viết đã phân tích thực trạng ngành
CNHT cơ khí tại Malaysia, trên các tiêu chí về khuôn mẫu và khuôn chết, gia
công, công nghiệp chế tạo máy, công nghiệp cán kim loại, công nghiệp đúc,
công nghiệp xử lý nhiệt, công nghiệp xử lý bề mặt…, từ đó khẳng định máy
móc đã phát triển nhanh chóng trong vòng 3 thập kỷ qua song song với sự
phát triển tổng thể của ngành công nghiệp sản xuất quốc gia. Malaysia đã
được quốc tế công nhận về khả năng và chất lượng sản xuất trong rất nhiều
lĩnh vực của ngành cơ khí. Từ đó đưa ra kết luận về sự đóng góp vô cùng to
lớn của ngành CNHT cơ khí cho quá trình phát triển ngành công nghiệp nói
riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Do đó, để phát CNHT cơ khí đòi hỏi
phải duy trì lợi thế cạnh tranh thông qua kỹ năng học tập tiên tiến, chuyên
môn, kỹ năng và kinh nghiệm bao trùm những hoạt động phức tạp này, bằng
cách: Giảm tổng chi phí; giảm thời gian đưa ra thị trường; theo dõi và quản lý
các sản phẩm phức tạp và giới thiệu hiệu quả hơn các sản phẩm mới; quản lý
hoạt động toàn cầu; dịch vụ phục vụ nhu cầu của khách hàng và nhà cung cấp
nhanh chóng; thiết lập trung tâm dịch vụ giá trị cao có khả năng phát triển với
sự tăng trưởng của doanh nghiệp.[150]
12
1.1.2. Một số công trình khoa học nghiên cứu trong nước
Hiện nay, ở Việt Nam CNHT là vấn đề mới, là chủ đề có tính thời sự cao,
bước đầu cũng đã có một số công trình nghiên cứu về CNHT dưới nhiều khía
cạnh, góc độ, phạm vi khác nhau được nghiên cứu và trình bày trong rất nhiều đề
tài, chuyên đề, bài báo, hội thảo của các tác giả Việt Nam và các tác giả người
nước ngoài viết về CNHT ở Việt Nam. Tác giả đã sưu tầm, tham khảo cụ thể ở
một số nhóm vấn đề sau:
1.1.2.1. Nhóm công trình khoa học lý luận chung về công nghiệp hỗ trợ
và vai trò của công nghiệp hỗ trợ
- Kyoshiro Ichikawa, Tư vấn đầu tư cao cấp, Cục Xúc tiến Ngoại thương

Nhật Bản tại Hà Nội (JETRO), (2004), “Xây dựng và tăng cường ngành công
nghiệp phụ trợ tại Việt Nam”. Báo cáo này được coi là tài liệu đầu tiên đánh giá
về thực trạng ngành CNPT ở Việt Nam. Tác giả đã khẳng định CNPT ở Việt
Nam đã bắt đầu hình thành. Mặc dù CNPT có vai trò rất quan trọng nhưng nhận
thức của các cơ quan Chính phủ và doanh nghiệp về CNPT còn rất thấp và chưa
đầy đủ, các doanh nghiệp tư nhân và khối doanh nghiệp FDI đang vươn lên và
khá chủ động trong việc nắm bắt các cơ hội để thúc đẩy CNPT phát triển đóng
góp vào thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và đảm bảo nền kinh tế tăng
trưởng ổn định, bền vững.[138]
- GS. Trần Văn Thọ, Đại học Waseda Nhật Bản, (2005), “Biến động kinh
tế Đông Á và con đường công nghiệp hoá Việt Nam” và “Công nghiệp phụ trợ
mũi đột phá chiến lược”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Tác giả đã phân tích
con đường phát triển công nghiệp ở Việt Nam theo hướng toàn cầu hoá, thông
qua phát triển CNPT như là lĩnh vực của hệ thống DNNVV; đồng thời, chỉ rõ vai
trò quan trọng của phát triển CNPT ở Việt Nam hiện nay. Coi CNPT như là một
mũi đột phá chiến lược để trong thời gian ngắn khắc phục các mặt yếu cơ bản
của công nghiệp Việt Nam và Việt Nam cần tập trung tất cả các năng lực về
chính sách cho mũi đột phá chiến lược đó.[75]
13
- PGS, TS. Phan Đăng Tuất, (2005), “Trở thành nhà cung cấp cho các
doanh nghiệp Nhật Bản - Con đường nào cho Việt Nam”, Tạp chí Công nghiệp, ký
1, tháng 12. Thông qua bài viết, tác giả đã khẳng định những vai trò quan trọng của
CNHT đối với nền kinh tế, đồng thời chỉ ra những yêu cầu về phát triển DNNVV,
trên cơ sở đó phân tích con đường phát triển CNHT của Việt Nam cần thúc đẩy
quan hệ hợp tác với Nhật Bản thông qua việc trở thành vệ tinh hay nhà cung cấp các
sản phẩm đầu vào phục vụ cho ngành lắp ráp Nhật Bản thúc đẩy CNHT ở Việt Nam
phát triển. Từ sự phân tích, tác giả khẳng định, đối với Việt Nam cần quan tâm đầu
tư cho CNHT phát triển ngay, nếu không “muốn quá muộn”. Tác giả đã đưa ra 10
đề xuất, gợi ý cho quá trình phát triển CNHT ở Việt Nam. [92]
- Nguyễn Đức Hải, (2005), “Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ ở nước ta

trong giai đoạn hiện nay”, Thông tin số 6: Những vấn đề kinh tế - chính trị học,
Viện Kinh tế chính trị học, Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Bài viết đã chỉ rõ vai trò và tầm quan trọng của vấn đề phát triển CNPT ở Việt Nam
hiện nay. Từ đó, đưa ra một số gợi ý cho phát triển CNPT ở Việt Nam.[38]
- Lê Thị Thanh Huyền, (2006), “Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ”, Tạp
chí Tài chính số 3 (tháng 3). Trong bài viết, tác giả nêu rõ vai trò của CNHT, đánh
giá khái quát hiện trạng CNHT của các ngành lắp ráp, đúc nhựa và ngành dệt may.
Trên cơ sở đó đưa ra một số định hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển CNHT,
trong đó nhấn mạnh giải pháp về vốn cho phát triển CNHT.[39]
- PGS, TS Nguyễn Văn Thanh, (2006), “Xây dựng Khu công nghiệp và
khu chế xuất theo hướng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam”, Tạp
chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới, số 12. Tác giả đã phân tích
diễn biến của dòng FDI trên thế giới và chỉ ra những cơ hội cho Việt Nam
trong quá trình phát triển. Tác giả đã phân tích sự cần thiết và những nhân tố
ảnh hưởng đến quá trình phát triển ngành CNHT. Trên cơ sở đó, đưa ra những
giải pháp thúc đẩy các khu công nghiệp, khu chế xuất phát triển tạo điều kiện
phục vụ cho CNHT phát triển.[68]
14
- Diễn đàn phát triển Việt Nam - VDF, (2007), “Xây dựng công nghiệp hỗ
trợ tại Việt Nam”, GS. Kenichi Ohno chủ biên, Nhà xuất bản Lao động Xã hội.
Cuốn sách đã đưa ra kết quả khảo sát về thực trạng các ngành CNHT; trong
Chương 1 “Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam dưới góc nhìn của các nhà sản xuất
Nhật Bản”, với 11 nội dung đánh giá tổng quan về thực trạng và vấn đề phát
triển CNHT hiện nay ở Việt Nam; Chương 2 “Công nghiệp hỗ trợ: Tổng quan
về khái niệm và sự phát triển”, đã tổng kết lịch sử ra đời và năm khái niệm liên
quan đến CNHT và đề xuất khái niệm cho Việt Nam. Đặc biệt trong Chương IV:
“Thiết kế và quản lý cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ”, tác giả Junichi Mori
đã đề xuất việc xây dựng cơ sở dữ liệu về CNHT, tác giả đã đưa ra những
nguyên nhân đòi hỏi cần phải xây dựng cơ sở dữ liệu trong quá trình phát triển
CNHT và chỉ ra những yêu cầu, đặc điểm của cơ sở dữ liệu. Thông qua đó, tác giả

chứng minh việc xây dựng cơ sở dữ liệu là yêu cầu cấp bách, là “dầu bôi trơn” cần
thiết trong chiến lược phát triển CNHT do FDI dẫn dắt và mang lại lợi ích cho các
doanh nghiệp trong nước.[27]
- PGS, TS Vũ Chí Lộc, (2010), “Vai trò của các công ty xuyên quốc gia
trong quá trình phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ tại các quốc gia đang
phát triển”, Tạp chí Thương Mại (số 19). Tác giả đã phân tích một số nhân tố
ảnh hưởng đến phát triển các ngành CNHT trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các công ty xuyên quốc gia. Theo tác
giả, chính các công ty xuyên quốc gia sẽ là “diễn viên” chính trong “vở kịch”:
“Chuyên môn hóa sản xuất quốc tế”, còn CNHT chỉ là “diễn viên quần chúng”
nhưng không thể thiếu được trong nền kinh tế toàn cầu. Thông qua bài viết, tác
giả muốn khẳng định vai trò không ngừng tăng lên của ngành CNHT Việt Nam
trong quá trình phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế. [47]
- Trương Đình Tuyển - nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, (2011),
“Phát triển công nghiệp hỗ trợ. Kiến nghị cách tiếp cận và chính sách cho Việt
15
Nam”. Bài viết trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Chính sách tài chính phát
triển công nghiệp hỗ trợ” do Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài
chính) và Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp (Bộ Công thương)
tổ chức. Bài viết đã phân tích và làm rõ khái niệm CNHT và vị trí của CNHT
trong chuỗi giá trị, từ đó chỉ ra việc lựa chọn sản phẩm CNHT cho Việt Nam.
Đặc biệt, trong giải pháp tổ chức sản xuất các sản phẩm CNHT và những ưu
đãi cho CNHT, tác giả đưa ra mô hình tổ chức sản phẩm CNHT theo sơ đồ hình
thang với bốn giai đoạn, thông qua đó chỉ ra Việt Nam mới ở giai đoạn III và
IV, sản xuất phần lớn những sản phẩm chi tiết có độ phức tạp không cao. Do
đó, Việt Nam cần tạo mọi điều kiện cho CNHT phát triển lên đỉnh hình thang
thông qua việc làm trước mắt là xây dựng và ban hành Nghị định, Luật về
CNHT cũng như chương trình hành động quốc gia về CNHT và lập Cục Công
nghiệp hỗ trợ thuộc Bộ Công thương để quản lý và phát triển CNHT.[96]

1.1.2.2. Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về phát triển các ngành
công nghiệp hỗ trợ
- Viện Kinh tế Việt Nam, (2007), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ: nghiên
cứu trường hợp công nghiệp hỗ trợ cho ngành sản xuất ô tô, xe máy”, đề tài
nghiên cứu khoa học cấp viện do TS. Nguyễn Trọng Xuân chủ nhiệm. Nhóm tác
giả đã đánh giá khái quát CNHT Việt Nam, những thuận lợi và khó khăn trong
quá trình phát triển, đặc biệt là đi sâu phân tích thực trạng CNHT trong hai ngành
ô tô và xe máy thông qua việc nghiên cứu nhu cầu về sản phẩm hỗ trợ và thực
trạng cung cấp sản phẩm hỗ trợ trong hai ngành này. Trên cơ sở đó đưa ra một
loạt các giải pháp phát triển cho hai ngành ô tô và xe máy, đặc biệt là quan tâm,
xây dựng một hệ thống CNHT đảm bảo phục vụ ngành công nghiệp ô tô, xe máy
nói riêng, cũng như toàn ngành kinh tế nói chung.[112]
- Đại học Ngoại thương, (2008), “Nghiên cứu chuỗi giá trị toàn cầu và khả
năng tham gia của các doanh nghiệp ngành điện tử Việt Nam”. Đề tài khoa học
cấp Bộ, TS. Nguyễn Hoàng Ánh chủ nhiệm. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, trong
16
chiến lược phát triển các ngành công nghiệp, Việt Nam nên lựa chọn, định hướng
phát triển ngành công nghiệp điện tử trở thành ngành mũi nhọn, mang tính đột phá
chiến lược vì có nhiều ưu thế và lợi thế cạnh tranh. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện
nay và sắp tới, trong chuỗi giá trị toàn cầu Việt Nam nên tập trung vào công đoạn
sản xuất, là khâu có thể tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ của các tập đoàn điện tử quốc
tế, chứ chưa nên tham gia vào khâu thiết kế, phân phối của chuỗi giá trị. Trong
quá trình đó, ở công đoạn sản xuất Việt Nam cần quan tâm, đầu tư nhiều hơn nữa
hệ thống các sản phẩm hỗ trợ cho phát triển ngành công nghiệp điện tử.[5]
- Nguyễn Ngọc Sơn, (2008), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành dệt
may Việt Nam”, Tạp chí Công nghiệp số 359. Bài viết đưa ra các quan điểm về
CNHT và CNHT ngành dệt may trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Trên cơ sở
đó phân tích thực trạng ngành dệt may Việt Nam ở các tiêu chí như: lĩnh vực sản
xuất xơ sợi tổng hợp, công nghiệp cơ khí ngành dệt may, công nghiệp hóa chất
phục vụ ngành dệt may, tình hình sản xuất phụ liệu ngành dệt may Trên cơ sở

đó, tác giả đã đánh giá chung những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và
chỉ ra nguyên nhân yếu kém của ngành dệt may và đưa ra giải pháp thúc đẩy
CNHT ngành dệt may phát triển trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.[64]
- Trương Thị Chí Bình, (2010), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong
ngành điện tử gia dụng ở Việt Nam”; Luận án tiến sĩ kinh tế, Khoa Quản trị
kinh doanh, Viện Đào tạo sau đại học, Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Tác
giả đã phân tích các luận cứ lý thuyết và thực tiễn về cách thức phát triển CNHT
ngành điện tử gia dụng. Làm rõ bản chất, thành phần, các nhân tố ảnh hưởng đến
phát triển CNHT, từ đó khẳng định quan điểm “hợp lý” về phát triển CNHT cho
Việt Nam là dựa trên mạng lưới của “lý thuyết trò chơi”, với vai trò tích cực của
các TĐĐQG và các nhà cung ứng quốc tế. Tác giả còn phân tích quy trình sản
xuất các sản phẩm điện tử gia dụng, xác định phạm vi của CNHT ngành điện tử
gia dụng bao gồm quá trình sản xuất 3 nhóm sản phẩm chính: linh kiện điện và
điện tử, linh kiện kim loại, linh kiện nhựa và cao su. Nghiên cứu lý do CNHT
17
ngành điện tử gia dụng ở Việt Nam chưa phát triển và khẳng định, CNHT ngành
điện tử gia dụng có thể phát triển, khi Việt Nam tham gia được vào các lớp cung
ứng trong mạng lưới sản xuất của các TĐĐQG. Trên cơ sở các luận cứ này,
Luận án kiến nghị một số giải pháp chính để phát triển CNHT ngành điện tử gia
dụng: Xây dựng định hướng phát triển CNHT ngành ĐTGD Việt Nam với việc
tập trung cung ứng các linh kiện kim loại và nhựa cho các lớp cung ứng trong
mạng lưới sản xuất của các TĐĐQG, từ đó đề xuất chương trình phát triển
CNHT ngành điện tử gia dụng; kiến nghị điều chỉnh Quy hoạch phát triển CNHT
Việt Nam: xác định CNHT theo các ngành cung ứng; thu hẹp khái niệm CNHT;
lựa chọn lĩnh vực ưu tiên và xây dựng chương trình hành động; xây dựng mô
hình phát triển CNHT ngành ĐTGD theo 03 mức: Khu CNHT, Cụm liên kết
ngành và Vườn ươm doanh nghiệp CNHT.[7]
- Viện Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách công nghiệp - Bộ Công
thương, (2011), “Công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam”, đề tài khoa học
cấp Bộ. Đề tài đã đánh giá tổng quan thực trạng phát triển CNHT của ngành dệt

may. Đề tài được chia làm ba phần nghiên cứu, trong Phần I, nhóm tác giả đi
sâu phân tích năng lực của các doanh nghiệp CNHT trong ngành dệt may Việt
Nam trên các mặt như: năng lực tài chính, năng lực công nghệ, năng lực thị
trường và nguồn nhân lực Từ đó, đánh giá những tiềm năng, lợi thế trong
phát triển ngành dệt may Việt Nam. Trong Phần II, các tác giả đã tập trung
nghiên cứu mối liên kết trong ngành dệt may Việt Nam hiện nay, đồng thời
cũng nghiên cứu những kinh nghiệm xây dựng và vận hành mô hình liên kết
phù hợp với bối cảnh phát triển CNHT ngành dệt may Việt Nam trong thời gian
tới. Trên cơ sở đó, trong Phần III, nhóm tác giả đã đưa ra những giải pháp thúc
đẩy CNHT ngành dệt may phát triển, trong đó đặc biệt nhấn mạnh hai giải
pháp: nâng cao năng lực các doanh nghiệp CNHT ngành dệt may và vận hành
có hiệu quả các mô hình liên kết.[103]
- Nguyễn Thị Dung Huệ, (2012), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành
dệt may của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án tiến sĩ

×