Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

nền VĂN học ấn độ trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.63 KB, 4 trang )

VĂN HỌC ẤN ĐỘ
1.Vêđa
Vêđa vốn nghĩa là hiểu biết. Vêđa có 4 tập là Rích Vêđa, Xama Vêđa, Yagiua Vêđa, và Atácva
Vêđa. Ba tập Vêđa trên gồm những bài ca và những bài cầu nguyện phản ánh tình hình người
Arya tràn vào Ấn Độ, tình hình tan rã của chế độ thị tộc, tình hình cư dân đấu tranh với thiên
nhiên như hạn hán, lũ lụt. Trong đó, Rích Vêđa với 1028 bài thơ là tập quan trọng nhất.Còn
Atácva Vêđa chủ yếu bao gồm các bài chú nhưng nội dung mà tập Vêđa này đề cập đến gồm các
mặt như chế độ đẳng cấp, việc hành quân, chữa bệnh, đánh bạc và cả tình yêu nữa.Ca ngợi thần
sét inđra, Rích Vêđa viết:Tôi muốn ca ngợi sự tích anh hùng của thần Inđra,Những chiến công
của vị thần Thiên Lôi ấy,Ngài đã chém con ác long cho nước mưa tuôn chảy,Và mở toang các
hang động trên non cao.Nói về uy quyền của đẳng cấp Bàlamôn khi họ làm cố vấn tôn giáo cho
nhà vua, Atácva Vêđa viết:Sắc hơn lưỡi búa,Sáng hơn ngọn lửa,Vang hơn tiếng sét của Inđra.Cố
vấn của người như thế chính là ta.Trong Atácva Vêđa cũng có những bài thơ tỏ tình:Như gió lay
ngọn cỏ,Anh lay chuyển lòng emRồi em sẽ yêu anhVà không rời anh nữa.Kế tiếp theo 4 tập Vêđa
và có liên quan với Vêđa còn có các tác phẩm Bramana (Phạn thư), Araniaca (sách rừng rậm)
Ypannisát (sách nghĩa sâu) v.v Những sách này đều viết bằng văn xuôi, nội dung bao gồm
những bài cầu nguyện, thần chú, những nghi thức cúng bái, những bài thuyết pháp, những lời giải
thích triết lý trong kinh Vêđa chứ về văn học thì không có giá trị gì đáng kể.
2.Sử thi
Ấn Độ có hai bộ sử thi rất đồ sộ là Mahabharata và Ramayan. Hai bộ sử thi này được truyền
miệng từ nửa đầu thiên kỷ I TCN rồi được chép lại bằng khẩu ngữ, đến các thế kỷ đầu công
nguyên thì được dịch ra tiếng Xanxcrit.
2.1: Mahabharata
Mahabharata có 18 chương và 1 chương bổ sung tài liệu, gồm 220.000 câu. Đây là bộ sử thi
dài nhất thế giới, so với cả hai bộ Iliat và Ôđixê của Hy Lạp cổ đại gộp lại còn dài hơn 8 lần.
Tương truyền rằng người soạn lại bộ sử thi này là Viasa. Chủ đề của tác phẩm này là cuộc đấu
tranh trong nội bộ một dòng họ đế vương ở miền Bắc Ấn Độ. Bởi vậy tập thơ lấy tên là
Mahabharata nghĩa là "Cuộc chiến tranh giữa con cháu Bharata".Cốt chuyện như sau: Ở thành
phố Haxtinapua có một dòng họ vua chúa gọi là Curu vốn là con cháu của vua Bharata. Dòng họ
này có hai anh em là Đritarattơra và Panđu. Vì người anh bị mù nên Panđu được làm vua,
Đritarattơra có 100 con trai, gọi chung là anh em Curu; còn Panđu có 5 con trai, gọi chung là anh


em Panđu.Sau khi Panđu chết, anh em Curu và anh em Panđu chia đôi vương quốc. Nhưng vì
muốn chiếm toàn bộ đất nước, anh em Curu đã thách anh em Pađu đánh bạc. Nhờ gian lận, anh
em Curu thắng liên tiếp. Bị mất hết mọi của cải, anh em Panđu đặt phần đất nước của mình vào
canh bạc nhưng cũng bị thua nốt. Theo lời giao hẹn, anh em Panđu bị trục xuất và phải trốn tránh
trong 13 năm, không được để phía anh em Curu phát hiện.Hết kỳ hạn, anh em Panđu trở về yêu
cầu anh em Curu trả lại đất đai cho họ, nhưng bị từ chối, do đó một cuộc chiến tranh khốc liệt
giữa hai bên bùng nổ. Sau 18 ngày đánh nhau dữ dội, hàng trăm triệu người đã bị tử trận, phe
Curu chỉ có 3 người sống sót, cả 100 anh em Curu đều chết. Phe Panđu tuy thắng lợi nhưng cũng
chỉ còn lại 6 người, trong đó có 5 anh em Panđu.Xoáy vào cốt chuyện ấy, bộ sử thi này đã miêu
tả rất nhiều cảnh khác nhau với những chi tiết ly kỳ như cảnh ăn chơi xa hoa ở chốn cung đình,
những cuộc tình duyên éo le nhưng chung thủy, những cảnh sinh hoạt trong xã hội lúc bấy giờ và
đậm nét nhất là cảnh chiến đấu anh dũng nhưng vô cùng thảm khốc. Hơn nữa, cùng với thời gian,
những câu chuyện như vậy không ngừng được bổ sung vào làm cho tác phẩm càng thêm phong
phú.

Một trang diễn tả Trận chiến Kurukshetra trong Mahabharata
2.2: Ramayana
Ramayana có VII chương, trong đó chương I và chương VII về sau mới thêm vào, gồm 48000
câu. Tương truyền rằng tác giả là Vanmiki. Chủ đề của tác phẩm này là câu chuyện tình duyên
giữa hoàng tử Rama và người vợ chung thủy Sita.Cốt chuyện như sau: Trong thời Vêđa, vương
quốc Côxala được sống trong cảnh thanh bình dưới sự trị vì của vua Đaxarađa. Người con trưởng
của vua là Rama, một thanh niên thông minh dũng cảm và có đạo đức được vua chọn làm thái tử
nối ngôi.Gần đó có một vương quốc khác, là Viđêha, dân chúng cũng được an cư lạc nghiệp dưới
quyền thống trị của vua Gianắc. Bản thân vua cũng cầm cày cày ruộng. Một hôm nhà vua đang
cày, bỗng thấy từ luống cày hiện lên một thiếu nữ xinh đẹp. Nhà vua đêm về nuôi, đặt tên là Sita
và coi như con. Khi Sita đến tuổi lấy chồng, nhà vua tổ chức một cuộc thi bắn cung để kén phò
mã. Nhiều thanh niên tham dự cuộc thi, nhưng chỉ có Rama giương nổi cây cung của nhà vua.
Rama được kết hôn với công chúa Sita.Nhưng một ái phi của vua Đaxarata vì ghen với hoàng
hậu có con trai là Rama được làm thái tử nối ngôi nên yêu cầu vua đày Rama ra khỏi đất nước 14
năm.Rama cùng Sita đến sống ở trong rừng. Một công chúa góa chồng một hôm dạo chơi trong

rừng gặp Rama rồi đêm lòng yêu chàng. Bị từ chối quyết liệt, nàng công chúa ấy tức giận nên
bảo em trai mình là Ravan, vua nước Qủy ở đảo Lanca bắt cóc Sita.Nhờ sự giúp đỡ của vua nước
Vượn là Xugriva, Rama tổ chức được một đội quân gồm toàn vượn và gấu. Theo lệnh của Rama,
một cái cầu được xây dựng nối liền lục địa với đảo Lanca. Ngày nay, giữa Ấn Độ và Xri Lanca
có những hòn đảo mà theo truyền thuyết của cư dân địa phương, đó chính là dấu vết của cái cầu
ấy. Với đội quân vượn và gấu đó, Rama đánh bại vua nước Qủy và cứu được Sita. Thời gian đi
đày cũng hết, Rama trở về đất nước của mình và lên làm vua.Chương cuối do người đời sau thêm
vào kế tiếp rằng mặc dầu Sita đã thắng được cuộc thử lửa, Rama vẫn nghĩ nàng không giữ được
trinh tiết với mình trong thời gian ở cung điện của Ravan, nên Rama đã đày vợ vào rừng. Tại đây,
Sita sinh được 2 đứa con trai và gặp Vanmiki mà về sau trở thành tác giả của tập thơ. Lớn lên hai
đứa con ấy trở thành người đi hát rong và một hôm chúng đã hát cho Rama nghe bản trường ca
Ramayana. Rama nhận ra con mình, sai sứ giả vào rừng đón Sita về cung. Sita được minh oan
nhưng vẫn đau khổ vì đã bị chồng nghi ngờ nên biến vào lòng đất, người mẹ trước đây đã sinh ra
nàng từ luống cày. Rama tiếp tục trị vì trong nhiều năm nữa, nhân đân được sống yên vui, nhưng
bản thân ông phải sống trong cảnh buồn rầu và cô độc ".Hai bô sử thi Mahabharata và Ramayana
là những công trình sáng tác tập thể của nhân dân Ấn Độ trong nhiều thế kỷ và là niềm tự hào
của nhân dân Ấn Độ trong hai ngàn năm nay. Cho đến nay, các nhà văn nghệ sĩ Ấn Độ thuộc các
ngành thơ, kịch, họa, điêu khắc vẫn tìm được ở trong hai tác phẩm vĩ đại ấy nhiều đề tài và
cảm hứng để sáng tác.Ngoài văn học tiếng Xanxcrít ra, còn có những tác phẩm viết bằng các thứ
ngôn ngữ khác, trong đó trước hết cần phải kể đến những tác phẩm viết bằng tiếng Pali về chủ đề
Phật giáo.
Rama và Sita, tranh của Indischer Maler 1780
3. Những tác phẩm kịch của Caliđaxa
Caliđaxa là nhà thơ và nhà soạn kịch lớn nhất thời Gupta (thế kỷ V). Tác phẩm tiêu biểu nhất
của ông là vở kịch Sơcuntla.Vở kịch Sơcuntla vốn phỏng theo một câu chuyện dân gian chép
trong sử thi Mahabharata, nhưng đã được tác giả cải biên và thêm nhiều tình tiết. Nội dung của
vở kịch miêu tả câu chuyện tình duyên giữa nàng Sơcuntla và vua Đusơnta, trải qua nhiều éo le
trắc trở, cuối cùng hai người được đoàn tụ và được hạnh phúc đời đời.Tuy là một nhà soạn kịch
cung đình, lại chịu ảnh hưởng của đạo Bàlamôn, nhưng Caliđaxa đã thể hiện trong tác phẩm của
mình tư tưởng tự do, chống lại lễ giáo khắt khe, lên án bản chất giả dối, lừa gạt, không chung

thủy của giai cấp thống trị và trên chừng mực nhất định đã chống quan niệm về đẳng
cấp.Sơcuntla và Caliđaxa là niềm tự hào của nhân dân Ấn Độ. Suốt 15 thế kỷ nay, Sơcuntla đã
trở thành nguồn cảm hứng, nguồn đề tài của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau của Ấn Độ như
kịch, điện ảnh, họa, nhạc, vũ v.v Không những ở Ấn Độ mà đối với thế giới, tác phẩm Sơcuntla
cũng có một tiếng vang rất lớn.Gớt nhà đại văn hào Đức đã không tiếc lời ca ngợi:"Nếu muốn có
một tiếng ôm ấp được cả hoa mùa xuân và trái mùa thu,Một tiếng làm đắm say nuôi dưỡng và
thỏa mãn được tâm hồn.Nếu muốn có một tiếng bao gồm được cả trời đất,Thì tôi gọi:
Sơcuntla.Tiếng đó nói lên tất cả.Ngày nay Caliđaxa được xếp vào loại các nhà văn lớn của thế
giới và năm 1957 ông đã được Hội đồng hòa bình thế giới tổ chức kỷ niệm.
4. Các tác phẩm văn học viết bằng các phương ngữ
Từ cuối thế kỷ X về sau, ngoài văn học tiếng Xanxcrít đã xuất hiện nhiều tác phẩm văn học
viết bằng các loại phương ngữ khác nhau.Vào thế kỷ XIII, nhà thơ Tichcala đã dịch 15 chương
trong bộ sử thi Mahabharata ra tiếng Têlugu, làm cho nền văn học cổ điển càng được phổ cập
rộng rãi.Đến thế kỷ XVI, XVII, dưới triều Môgôn, có một số nhà thơ đã sáng tác bằng tiếng Ba
Tư. Tuy nhiên phong phú nhất vẫn là nền văn học bằng tiếng Inđi và các loại ngôn ngữ địa
phương khác. Thiên trường ca Ramayana do Tunxi Đát viết bằng tiếng Inđi là một tác phẩm nổi
tiếng được nhân dân rất ưa thích Tập thơ Xuốc của nhà thơ mù Xuốc Đát viết bằng một loại
phương ngữ khác trong tiếng Inđi mà chủ đề chính là chủ nghĩa anh hùng và tình yêu cũng là một
tác phẩm có giá trị.Những bài ca du dương, gợi cảm ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Ấn Độ của ca sĩ
kiêm nhà thơ Tanxen cũng rất nổi tiếng. Ngoài ra, trong thời kỳ này còn có nhiều nhà thơ
khác.Đặc trưng chung của nền thi ca giai đoạn này là dùng ngôn ngữ dân gian chứ không dùng
ngôn ngữ cung đình, đồng thời còn sử dụng nhiều chất liệu trong văn học dân gian, phản ánh
được tâm tư nguyện vọng của quần chúng nên được nhân dân rất thích thú.

×