Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

lược sử sinh học hệ thần kinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (959.95 KB, 33 trang )

Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
Một nhóm các bệnh không thể giải thích được bằng lý thuyết vi trùng của
pasteur, đó là những bệnh liên quan đến thần kinh, trong đó tiêu biểu là bệnh tâm
thần. Đã từ lâu, chúng gây cho loài người nhiều nỗi kinh hoàng. Trong giai đoạn
này:
- Ở phương đông quan niệm rằng: bệnh tâm thần là do gây tội nên phải chịu sự
trừng phạt của bề trên.
- Trong thế giới phương Tây, cho đến thế kỷ 18, bệnh tâm thần trong y khoa được
xem là bệnh của phụ nữ.
Trang 1
Người bệnh tâm thần bị giam như tù nhân
Phụ nữ điên rồ
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
Sau đó, có một số người kế tục sự nghiệp của Hippocrates có thái độ tích cực đối
với những chứng bệnh này, trong đó, tiêu biểu nhất là: Philippe pinel (1745- 1826)
Philippe pinel (1745- 1826)
I. Tiểu sử
Là con trai của một bác sĩ phẫu thuật. Năm 1773, ông tốt nghiệp tiến sĩ tại trường
Toulouse. Năm 1793 , ngày 25 tháng 8, khi cách mạng PHÁP nổ ra, ông được bổ nhiệm
làm bác sĩ trưởng tại bệnh viện Bicêtre.
Năm 1798 , ông đã viết một quyển sách mang tên Nosographie triết học, là một
phân loại rối loạn tâm thần. Dựa trên nguyên tắc phân loại khoa học tự nhiên , đây là cơ
sở cho các thế hệ sau này nghiên cứu sâu về bệnh học này
Năm 1801 , ông đã viết một luận thuyết về y si-triết học điên rồ. Dựa trên các cơ
quan bị hư hỏng, luận thuyết này phân biệt:
- U sầu đơn giản (một phần mê sảng)
- Tổng quát mê sảng
- Mất trí nhớ (tổng quát trí tuệ suy giảm)
Trang 2
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
- Ngu ngốc (mất các chức năng của sự hiểu biết)


Pinel cho rằng rối loạn tâm thần là do hư hỏng sinh lý gây ra bởi những cảm xúc và
nó sẽ đưa vào tài khoản quá khứ của mình và thách thức đối với sự phát triển của điều trị.
Ông đã được bầu làm thành viên của Học viện Khoa học năm 1803 và ông được
xem là cha đẻ của TÂM THẦN HỌC.
II. Công trình nghiên cứu
Trong thời sinh viên Philippe pinel có một người bạn thân, người bạn này của ông
bị mắc bệnh tâm thần và đã qua đời vì bị tra tấn đánh đập. Sau cái chết của người bạn
thân, Philippe pinel vô cùng đau lòng và ông cho rằng:
- Bệnh tâm thần là do thần kinh chứ không phải bị trừng phạt bởi bề trên.
Ông đề nghị thay đổi cách chửa trị cho họ vì không nhất thiết phải đánh đập họ vẫn
có thể hết bệnh. Tuy nhiên những quan điểm của ông không được xã hội pháp chấp nhận.
Sau đó, Philippe pinel sang MỸ ông tiếp tục nghiên cứu rất nhiều lĩnh vự trong đó
có bệnh tâm thần và những bệnh do thần kinh gây ra.
Năm 1793 , ngày 25 tháng 8, khi cách mạng PHÁP nổ ra, ông được bổ nhiệm làm
bác sĩ trưởng tại bệnh viện Bicêtre. Ông đã tiến hành triển khai quan điểm của mình:
- Đề nghị và tiến hành giải thoát siềng xích cho bệnh nhân trong bệnh viện Bicêtre
Những việc làm tích cực của ông đã:
- Chữa được cho 200 bệnh nhân tâm thần tại bệnh viện trên.
Trang 3
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
Philippe pinel đã tạo tiền đề cho việc chữa bệnh tâm thần bằng tâm lí.Tuy nhiên,
những quan điểm của ông vẫn chưa đủ sức chống lại các quan điểm của thần học. Thế
nhưng sau nhiều năm nghiên cứu về hệ thần kinh con người nói chung và bệnh tâm thần
nói riêng thì quan niệm của Philip pinel đã được thừa nhận và phát triển. Trong số nhiều
nhà khoa học đã nghiên cứu thành công vấn đề này thì tiêu biểu nhất là: Sigmund Freud
(1856- 1939)
Sigmund Freud (1856- 1939)
I. Tiểu sử
- Tên đầy đủ là Sigmund Schlomo Freud (1856 – 1939 ) nguyên là một bác sĩ về
thần kinh và tâm lý người Áo. Ông được công nhận là người đặt nền móng và phát triển

lĩnh vực nghiên cứu về phân tâm học.
- Đến ngày nay mặc dù lý thuyết về phân tâm học của ông còn gây nhiều tranh cãi
và người ta còn đang so sánh hiệu quả của các phương pháp phân tâm học của ông với
các phương pháp điều trị khác, nhưng cũng phải thừa nhận rằng ông là một nhà tư tưởng
có ảnh hưởng lớn trong thế kỷ 20.
Trang 4
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
- Từ nhỏ, Freud đã sớm bộc lộ là một cậu bé thông minh, nhạy cảm. Ở trường,
Freud là một học sinh giỏi, cậu được vào trung học sớm một năm, và liên tục đứng đầu
lớp trong những năm trung học. Freud là một cậu bé đọc rộng, nắm vững tiếng Latinh, Hy
Lạp, Pháp, Anh và Ý. Mùa thu năm1873, Freud lại vào khoa Y trường Đại học Wien.
- Trong thời gian học y khoa, ông tỏ rất rõ quan tâm của mình đến sinh lý y
khoa và sớm có những công trình nghiên cứu về sinh lý rất quan trọng, mặc dù ông còn
rất trẻ. Năm 1876, ông được nhận làm sinh viên nghiên cứu ở viện sinh lý nổi tiếng
của Ernst Brücke, ở đó ông tiếp tục nghiên cứu các vấn đề về sinh lý thần kinh.
Năm 1881, ông mới học xong đại học, và được công nhận là bác sĩ y khoa.
- Lúc này, Freud, một chàng trai trẻ tuổi, khát khao có được thành công trong khoa
học, vì vậy, ông luôn muốn có được một khám phá mà ông hi vọng rằng có thể đem đến
công danh cũng như tiền bạc. Điều đó ông đã lỡ mất chỉ trong gang tấc.
- Năm 1884, Freud đọc được một tài liệu viết về một bác sĩ quân y Đức sử dụng
thành công cocain để tăng cường năng lực và sự chịu đựng cho binh sĩ. Ông đã quyết định
dùng chính mình để thử, và nhận thấy mình trở nên khỏe khoắn, khả năng làm việc tăng
lên. Lập tức ông khuyên một số đồng nghiệp của mình dùng thử, trong đó có Ernst von
Fleischl-Marxow, một bác sĩ tài giỏi nhưng nghiện morphin. Freud cho rằng cocain có thể
chữa được chứng nghiện morphin, vì thế Ernst von Fleischl-Marxow hăm hở dùng, và
nhanh chóng đạt đến liều cao
- Trong số đồng nghiệp của Freud được giới thiệu về cocain, có Carl Koller, một
bác sĩ nhãn khoa. Koller đã nhận thấy cocain có thể làm thuốc gây tê tại chỗ trong phẫu
thuật mắt, ông đã nhanh chóng nghiên cứu và đã thành công. Ông đã nhanh chóng công
bố phát hiện của mình, và gây được tiếng vang, được giới khoa học công nhận.

- Thực ra Freud cũng biết đến tác dụng này của cocain, nhưng đáng tiếc là ông
không lưu tâm đến điều này, không đi sâu tìm hiểu. Freud đã bỏ lỡ cơ hội. Không những
thế, Fleischl-Marxow, người bạn của ông đã trở thành kẻ nghiện không chỉ morphin mà
cả cocain. Fleischl-Marxow nhanh chóng suy sụp, lâm vào trạng thái thần kinh lẫn lộn, bị
kích động, lo lắng và ảo giác, và chết sau đó vài năm.
Trang 5
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
- Trong khi đó trên thế giới bắt đầu có nhiều báo cáo về ngộ độc cocain, còn Freud
bị chỉ trích nặng nề vì biện hộ cho cocain. Sự chỉ trích này có thể coi là viết nhơ trong
cuộc đời ông, và nó cũng là một lý do khiến những ý tưởng sau này của ông không được
quan tâm đánh giá đúng mức.
- Lúc thuyết Phân tâm học mới ra đời, thì cả nó lẫn tác giả của nó đều không được
ủng hộ. Người ta không bán bánh mì cho Sigmund Freud nên ông phải che mặt nếu muốn
mua được bánh mì.
- Tuy câu chuyện buồn về Fleischl-Marxow là một thất bại ảnh hưởng đến uy tín
của ông Freud lúc đó nhưng Brücke và một số giáo sư ở Đại học Wien tin tưởng. Cũng vì
sự ủng hộ của những giáo sư này mà năm 1885, ông được đề bạt làm giảng viên danh dự
tại đại học này, một vị trí rất được trọng nể
- Freud đã được trao Giải Goethe năm 1930.
II. Công trình nghiên cứu
Nghiên cứu và sử dụng thành công Cocain làm tê liệt những đầu mút của dây thần
kinh
- Thành công đầu tiên về gây mê cục bộ khi phẫu thuật và đã ứng dụng để phẫu
thuật mắt.
- Thay THÔI MIÊN thành một phương pháp khác là: thầy thuốc sẽ dùng phương
pháp nào đó để tiếp xúc với bệnh nhân và giúp họ nói ra những điều không thể nói và
không muốn nói. Người bệnh dần dần thoát khỏi sự rụt rè, và thầy thuốc sẽ làm thức tỉnh
những sư kiện mà trong điều kiện bình thường chúng bị giấu kín ngay cả với bản than
người bệnh.
- Tạo tiền đề cho phương pháp phân tích tâm lí người bệnh

Ngoài ra ông còn nghiên cứu về tiềm thức của con người và GIẤC MỘNG. Đây là
những điều cho tới ngày nay khoa học vẫn chưa giải đáp được.
- Khám phá nội dung của TIỀM THỨC
Trang 6
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
- Khám phá ra nguyên nhân của sụ hưng phấn
Lý thuyết của ông đã có ảnh hưởng rất lớn đến hệ thống lí luận về THÔI MIÊN và
việc khám phá tiềm thức của con người.
Trang 7
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
Sau những nghiên cứu về việc chữa bệnh tâm thần bằng phương pháp thôi miên,
một phương pháp thiên về tâm lý con người. Mà tâm lý người ta thì vô cùng phức tạp, do
đó sự tin tưởng vào khoa chữa bệnh thần kinh vẫn ở mức độ cá biệt. Từ đó thúc đẩy nhiều
nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về cấu tạo và chức năng của hệ thần kinh.
Vào thời cổ đại, người ta quan niệm rằng: “Dây thần kinh hoàn toàn là một cái ống
rỗng có chứa những “linh hồn” huyền bí hoặc là chứa một chất lỏng giống như tĩnh mạch
chứa máu”. Tuy nhiên quan niệm này được đánh đổ bởi Albrecht Von Haller.
Albrecht Von Haller (1708 – 1777)
I. Tiểu sử
- Bác sĩ, nhà thực vật học, nhà thơ, nhà sinh lý học người Thụy Sĩ.
- 16 tuổi tốt nghiệp đại học Tübingen (tháng 12 năm 1723).
- Người đặt nền móng cho thần kinh học.
II. Công trình nghiên cứu
- Bằng nghiên cứu thực nghiệm trên cơ, mô và đại não động vật, Albrecht Von
Haller kết luận:
Trang 8
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
+ Hệ thần kinh điều khiển sự co cơ
+ Mô không tiếp nhận cảm giác mà do chính các dây thần kinh trong mô tiếp nhận
và dẫn truyền. Đặt biệt hơn, những dây này điều đi đến đại não và tủy sống.

+ Khi kích thích hoặc gây tổn thương những phần khác nhau của đại não động vật,
sẽ nhận được những kiểu tác dộng trả lời khác nhau.
- Từ những nghiên cứu trên, ông đã bác bỏ quan niệm cho rằng: “Dây thần kinh
hoàn toàn là một cái ống rỗng có chứa những “linh hồn” huyền bí … “ Đặt nền móng cho
thần kinh học.
Trang 9
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
Trong một thời gian dài ở thế kỷ XIX, đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về
hệ thần kinh và đặc biệt là về dây thần kinh và đại não. Camillo Golgi là một nhà nghiên
cứu thần học rất thành công trong lĩnh vực thần kinh trung ương. Ông đã để lại cho đến
ngày nay phương pháp nhuộm mô thần kinh bằng muối bạc.
Camillo Golgi (1843 – 1926)
I. Tiểu sử
- Là bác sĩ, nhà khoa học, nhà nghiên cứu bệnh học người Ý.
- Ông tốt nghiệp năm 1865. Ông đã dành phần lớn sự nghiệp của mình nghiên cứu
các hệ thống thần kinh trung ương.
- 1906 đạt giải Nobel về Sinh lý học và Y học
II. Công trình nghiên cứu
- Ở nửa sau của thế kỷ 19 kỹ thuật nhuộm mô không đủ để nghiên cứu mô thần
kinh, Trong khi làm việc như nhân viên y tế trưởng trong một bệnh viện tâm thần , Golgi
đã thử nghiệm với chất ngâm tẩm kim loại của mô thần kinh, ông sử dụng chủ yếu là bạc
( nhuộm bạc ). Từ đó ông đã phát hiện ra một phương pháp nhuộm mô thần.
Trang 10
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
- Phương pháp nhuộm bạc của Golgi: Bằng cách cho bạc nitrat (AgNO3) phản
ứng với dicromat kali (K2Cr2O7), cung cấp một hình ảnh cực kỳ rõ ràng và tương phản
của tế bào thần kinh đối với một nền màu vàng, lần đầu tiên cho phép một hình dung rõ
ràng về một thần kinh tế bào.
Purkinje tế bào của tiểu não.
Golgi vết cho thấy các chi nhánh

rộng đuôi gai từ phòng thí
nghiệm của Golgi giữ ở Viện
Bệnh học của Đại học Pavia
Vỏ tiểu não con người được vẽ
bởi Golgi
- Từ những quan sát của
mình Golgi đã cho rằng hệ thống thần kinh là một hệ thống hợp bào, bao gồm các sợi
thần kinh tạo thành một mạng lưới phức tạp, và đó là sai lầm mà ông đã mắc phải.
Mặc dù Camillo Golgi đã rất thành công trong việc nhuộm và quan sát các tế bào
thần kinh, tuy nhiên ông đã mắc phải một sai lầm. Khi nhìn nhận tổng quan về hệ thần
Trang 11
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
kinh, ông cho rằng: “hệ thống thần kinh là một hệ thống hợp bào, bao gồm các sợi thần
kinh tạo thành một mạng lưới phức tạp”. Sai lầm của Camillo Golgi được Santiago y
Cajal góp phần sửa chữa, và Santiago y Cajal cũng là người đặt nền móng cho thần kinh
học hiện đại khi làm sang tỏ thuyết nơron.
Santiago y Cajal (1852 – 1934)
I. Tiểu sử
- Nhà khoa hoc Tây Ban Nha nghiên cứu bệnh học, nhà thần kinh học
- 1906 ông đoạt giải Nobel về Sinh lý và Y học (cùng lúc với Golgi).
- Ông được nhiều người xem là cha đẻ của khoa học thần kinh hiện đại.
- Ông đã vẽ hàng trăm các
hình minh họa về tế bào não mà
vẫn được sử dụng cho các mục
đích giáo dục hiện nay.
II. Ông trình nghiên cứu
Trang 12
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
- Bằng thực nghiệm ông chứng minh rằng mối quan hệ giữa các tế bào thần kinh là
một sự liên tục,hay đúng hơn là tiếp giáp ("Neuron lý thuyết") và đó là nền tảng của khoa

học thần kinh hiện đại.
- Ông kết luận: Hệ thống thần kinh được tạo thành từ hàng tỷ tế bào thần kinh
riêng biệt, đã góp phần sữa chữa sai lầm của Golgi Chân dung của Cajal kính hiển vi
năm 1920.
- Ông mô tả chi tiết tổ chức tế bào thần kinh trong các hệ thống thần kinh trung
ương và ngoại vi của các loài động vật khác nhau, và được minh họa bởi bản vẽ nổi tiếng
của ông, mà trong nhiều thập kỷ (và thậm chí ngày nay) đã được sao chép trong khoa học
thần kinh sách giáo khoa.
Bản vẽ vỏ tiểu não của Cajal (dựa trên
phương pháp nhuộm của Golgi)
Trang 13
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
Sự đa dạng của các tế bào thần kinh được vẽ bởi Cajal (dựa trên phương pháp nhuộm của
Golgi).
Tài liệu tham khảo
/>vi&u= /> />vi&rurl=translate.google.com.vn&u= />ureates/1906/golgi-article.html&usg=ALkJrhhUpx3-KWVIRcH5AOQTv6zI8VQehg
Thuyết nơron tỏ ra hết sức thuận lợi để nghiên cứu vấn đề về tập tính động vật.
Ngay từ năm 1730, Stiven Henle (1677 - 1761) đã phát hiện ra rằng khi tiêm vào da con
ếch bị chặt mất đầu vẫn co giật chân lại. Trong trường hợp phần thân của con vật một
cách máy móc, còn phần não đã bị hủy bỏ. Như vậy đã đặt cơ sở để nghiên cứu những
Trang 14
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
hoạt động phản xạ tự động ở mức độ nào đó mà trong phản ứng trả lời xảy ra không có sự
tham gia của ý muốn, tương ứng với sơ đồ thiết lập chính xác do kích thích.
Ngay cả con người cũng bị lệ thuộc vào hoạt động phản xạ tự động đó. Như mọi
người đều biết khi gõ vào phía dưới xương bánh chè lật tức có sự co giật của đầu gối.
Trang 15
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
Khi vô ý chạm vào vật nóng, thì tay rụt lại, thậm chí người ta biết trước vật đó
nóng. Nhà sinh lý học người Anh Charles Sherrington, khi nghiên cứu hoạt động phản xạ,

đã đặt cơ sở cho sinh lý học thần kinh.
Charles Scott Sherrington (1857-1952)
I. Tiểu sử.
- Charles Scott Sherrington (1857-
1952) được sinh ra tại London là nhà sinh lý
học người Anh những nghiên cứu của ông
kéo dài hơn 50 năm, đã đặt nền tảng cho sinh lí thần kinh học hiện đại.
- Ông cho rằng chức năng quan trọng nhất của hệ thống thần kinh ở động vật cao
hơn là sự phối hợp của các bộ phận khác nhau trong cơ thể. Mặc dù nổi tiếng với loạt
nghiên cứu về phản xạ, ông cũng đã đạt được những tiến bộ tương đương về sinh lý về
phản ứng của nhận thức và hành vi. Ông là người đầu tiên nghiên cứu đầy đủ các synapse.
Quan tâm của ông là phản xạ và ông được biết đến cho các nghiên cứu dài của mình trong
các phản xạ tủy sống. Ông được ghi nhớ với những đóng góp của mình đến sinh lý của
phản ứng, nhận thức và hành vi.
Trang 16
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
- Năm 1932, ông được trao tặng giải thưởng Nobel về sinh lý học.
- Năm 1881, ông đã tham dự một hội nghị y tế ở London, nghiên cứu thực nghiệm
của các chức năng của dây thần kinh sau đó đã được thực hiện ở Anh và ở những nơi
khác ở châu Âu.
II. Công trình nghiên cứu
Trang 17
Đây là hình ảnh mà
Sherrington đã vẽ thể
hiện sự chồng chéo của
các tế bào thần kinh lên
nhau
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
- Charles Scott Sherrington mô tả các cơ chế hoạt động cơ bản của hệ thống thần
kinh ở động vật. Ông đã trình bày nguyên tắc phân bố dây thần kinh của các cơ quan trả

lời kích thích và phát hiện ra ý nghĩa chức năng của các thụ thể cơ bắp.
- Bệnh học thần kinh sớm thu hút Sherrington bắt đầu các nghiên cứu đầu tiên của
ông về thử nghiệm cắt bỏ vỏ não của một con chó để nghiên cứu hoạt động cơ bản ở tủy
sống. Ông nghiên cứu trên đối tượng mèo, chó, khỉ đã bị cắt bỏ não bộ Sherrington tìm
thấy rằng phản xạ phải là hoạt động tích hợp tổng thể, không phải là kết quả của các hoạt
động riêng lẻ "vòng cung phản xạ". Những bằng chứng quan trọng đầu tiên chứng minh
"tích hợp tổng thể" của ông được trình bày là "sự kích thích" của cơ bắp, Sherrington
phát biểu: khi một tập hợp các cơ bắp được kích thích, đồng thời sẽ phản ứng để trả lời lại
các kích thích từ bên ngoài.
- Trong tác phẩm kinh điển của ông, hành động hợp nhất của hệ thống thần
kinh (1906), ông phân biệt ba nhóm chính của các cơ quan cảm giác: kích thích từ bên
ngoài ( ánh sáng, âm thanh, mùi, và các kích thích xúc giác); tiếp nhận kích, trả lời kích
thích. Ông nghiên cứu những hoạt động của tư thế như một phản xạ cho rằng các cơ bắp
tiếp nhận kích thích và thân của tế bào thần kinh đóng vai trò quan trọng trong phản xạ
hành động, giúp duy trì tư thế thẳng đứng của con vật chống lại lực hấp dẫn, mặc dù não
đã bị loại bỏ và cắt đứt các dây thần kinh cảm giác xúc giác của da.
- Hoạt động phản xạ của tủy sống (1932) là quyển sách bao gồm những hoạt
động phản xạ của tủy sống. Nghiên cứu của ông gần như mọi khía cạnh của chức năng
thần kinh của động vật có vú đã trực tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của y học lĩnh vực
phẫu thuật não và điều trị các rối loạn thần kinh như tê liệt và teo. Sherrington cũng đặt ra
các qui luật về nơron và xinap để chỉ các tế bào thần kinh và thời điểm mà các xung thần
kinh được truyền từ một tế bào thần kinh này sang tế bào thần kinh khác tương ứng.
- Vào cuối thế kỷ 19, thần kinh học đã có bước phát triển mới. Tủy sống đã không
còn được xem chỉ là một bó với chức năng kết nối não với các thụ thể tiếp nhận và các
bắp thịt, các nhà khoa học đã tiến hành thí nghiệm để chứng minh các chức năng phản xạ
của nó. Từ đó cũng chứng minh rằng các cột của chất xám, xen giữa các rễ lưng và bụng,
Trang 18
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
gồm vô số tế bào thần kinh liên kết với nhau mà không có sự phân nhánh đã đóng một vai
trò quan trọng trong hoạt động dây thần kinh. Khái niệm của một mối quan hệ giữa các

sợi dẫn truyền thần kinh trung ương và sự tồn tại của các mạng lưới tế bào thần kinh trung
ương đã trở nên rõ ràng. Mặt khác, nghiên cứu của các phản ứng thần kinh ở động vật
không xương sống đã chứng minh sự tương tác của các quá trình cơ bản rất giống với
thành phần có tham gia trong các hoạt động của dây thần kinh ở động vật có xương
sống.
- Chuỗi các quy trình, làm cho tủy sống bị cô lập từ não một cơ chế chính xác cao
và một sự thống nhất chức năng. Tập tính ở động vật bậc cao được thực hiện là kết quả
của sự phối hợp có trật tự của một chuỗi phản xạ. Nghiên cứu một số phản xạ nhịp nhàng
dẫn đến sự khác biệt cơ bản của vai trò chức năng tương ứng của tế bào thần kinh tiếp
nhận và các tế bào thần kinh vận động.
- Sherrington mô tả khác máy móc phức tạp hơn thần kinh. Vỏ não là trung tâm
của bộ nhớ kết hợp. Đó là cơ sở sinh lí học của thần kinh.
/>Trang 19
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
Nhà sinh lý học người Nga đã tiến hành nghiên cứu cơ bản hơn nhiều, có liên trực
tiếp đến tập tính và hệ thần kinh. Đầu tiên, ông đã nghiên cứu sự điều tiết thần kinh tiết
dịch tiêu hóa và phản xạ nói chung. Khi thấy thức ăn thì chó đói tiết nước bọt. Đó là phản
xạ có điều kiện. Chúng ta đang nhắc tới nhà khoa học nào? Đó là I. P. Pavlov (1849 -
1936).
I. P. Pavlov (1849 - 1936)
I. Tiểu sử
- Sinh trong làng Ryazan, Nga, con trai của Peter Dmitrievich Pavlov, vị linh mục
của làng.
- Năm 1904, ông được trao giải Nobel về sinh lý học và y học.
- Năm 1907, ông được bầu làm Viện sĩ của Viện Hàn lâm Khoa học Nga.
- Năm 1915, được trao tặng Huân chương Bắc đẩu bội tinh.
- Các khuyến nghị của Học viện Y khoa Paris.
- Mất tại Leningrad.
Trang 20
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh

II. Công trình nghiên cứu
- Pavlov nhận ra chủ đề ưa thích của ông là sinh lý học. Đó là sau khi đọc gốc của
các loài của Charles Darwin, và các tác phẩm của nhà sinh lý học Nga IM Sechenov
Pavlov quyết định từ bỏ nghiên cứu thần học của mình và trở thành một người đàn ông
của khoa học.
- Khi còn là sinh viên ông đã có bài báo đầu tiên là một tác phẩm về sinh lý học
của các dây thần kinh tuyến tụy mà ông đã được trao tặng một huy chương vàng.
- Pavlov thử nghiệm với những con chó, nghiên cứu mối quan hệ giữa tiết nước bọt
và tiêu hóa.
- Pavlov nghĩ: "Tiếng bước chân của người nuôi chó gắn liền với sự xuất hiện thức
ăn, lâu dần nó và thức ăn có một quan hệ đặc biệt thông qua cái đầu của con chó, tức là
bước chân của người nuôi chó có thể thay thế cho thức ăn. Tiếng bước chân ấy vang lên
chó biết ngay là thức ăn sắp được đưa tới, thông qua thần kinh đại não ra mệnh lệnh làm
cho dạ dày tiết nhiều dịch vị ra".
- Từ phát hiện này, Pavlov nghĩ đến bất kỳ một loại tín hiệu nào như tiếng chuông,
ánh sáng, tiếng còi, Chỉ cần nó gắn liền với sự xuất hiện của thức ăn một thời gian liên
tục nào đó, thì chắc chắn nó cũng sẽ có hiệu quả như vậy.
Trang 21
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
- Nhưng thí nghiệm này chỉ có tác dụng với những chú chó làm thí nghiệm đã được
huấn luyện lâu dài, còn với những chú chó mới sinh ra và chưa qua huấn luyện thì không
được. Pavlov cho rằng đây là một loại phản ứng đối với sự kích thích từ bên ngoài,
ông gọi nó là "phản xạ có điều kiện" của động vật.
 Ý nghĩa:
- Pavlov đã mở đường cho những tiến bộ mới trong y học lý thuyết và thực tế.
- Ông đã cho thấy rằng hệ thống thần kinh đóng vai chủ chốt trong việc điều chỉnh
quá trình tiêu hóa, và khám phá này là trong thực tế, cơ sở sinh lý học hiện đại tiêu hóa.
Trang 22
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
Tuy Hanle và Gall đã đập tan các học thuyết cổ đại về linh hồn truyền trong dây

thần kinh nhưng bản chất thật sự của xung động thần kinh đó là gì thì vẫn là một bí mật.
Đến năm 1791 thì bí mật ấy mới dần được hé mở bởi cái được gọi là “điện động
vật”. Và người tìm ra nó là một nhà khoa học đã đặt nền móng cho ngành kỹ thuật điện
vừa là người mở ra ngành nghiên cứu mới đó là điện sinh lý học. Chúng tôi đang nhắc
đến Luigi Galvani.
Luigi Galvani (1737 - 1789)
I. Tiểu sử
- Ông sinh ngày 9/9/1737 mất ngày 4/12/1798, ông là một nhà vật lý học và nhà y
học người Ý sinh sống và qua đời ở Bologna. Các khám phá của ông dẫn đến việc phát
minh ra pin Volta, ông đã có công lớn trong việc xây dựng nền móng cho ngành kỹ thuật
điện.
- Luigi Galvani được sinh ra ở Bologna, Italy. Cha của ông, Domenico, là một thợ
kim hoàn và mẹ của ông Barbara, là người vợ thứ tư của Domenico.
Trang 23
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
- Theo yêu cầu của cha, Galvani theo học ngành y. Trong khoảng 1755, Galvani
vào Khoa Nghệ thuật của Đại học Bologna. Ông đã tham dự các khóa học y tế, kéo dài
bốn năm với những kiến thức của Hippocrates, Galen, và Avicenna.
- Bên cạnh việc học về thuốc ông còn được học về phẫu thuật cả lý thuyết và thực
hành. Trong các nghiên cứu về lịch sử của ông người ta thường bỏ qua điều này nhưng nó
đã giúp ông làm quen với các thao tác trên cơ thể các động vật sống. Tuy nhiên, Galvani
đã luôn luôn quan tâm đến lĩnh vực điện.
- Năm 1759, Galvani tốt nghiệp trình độ y học và triết học. Năm 1762 ông bảo vệ
luận án tiến sĩ y học, sau đó dược cử làm giảng viên phẫu thuật học ở trường Đại học
Bologne và là giáo sư sản khoa ở Viện Nghệ thuật và Khoa học. Cùng năm 1762 ông lấy
Lucia là con gái độc nhất của Gs. Gabazzi ở viện Hàn lâm khoa học Bologne, mà sau đó
ông trở thành chủ tịch năm 1772.
- Những nghiên cứu ban đầu của Galvani là về lĩnh vực giải phẫu học so sánh,
song có xu hướng sinh lý học nên sau đó ông có khám phá lớn trong lĩnh vực điện.
II. Các công trình nghiên cứu

- Năm 1771, ông đã phát hiện thấy cơ của con ếch bị lột da co giật khi đặt trên
bàn kim loại bị xiên kim loại đâm vào. Câu chuyện bắt đầu từ một lần với một thí nghiệm
về tĩnh điện của Galvani trên một bàn bằng kim loại. Ông đã từ từ lột da một con ếch và
tiến hành thí nghiệm với tĩnh điện bằng cách cọ xát da ếch. Trợ lý của Galvani tình cờ
Trang 24
Chân ếch bị lột da khi
bị xiên kim loại đâm vào
Lược sử sinh học – Nhóm 8 – Chương XI: Hệ thần kinh
chạm vào một dây thần kinh tiếp xúc với hông của những con ếch đang đặt trên bàn bằng
một con dao kim loại. Vào lúc đó, họ nhìn thấy tia lửa và cú đá chân của của con ếch đã
bị lột da.
- Năm 1786 ông phát hiện ra sự co cơ ở ếch khi chạm một cái kẹp vào các dây thần
kinh của nó trong lúc có bão điện.
- Sau khi máy phát tĩnh điện dụng cụ dùng để tạo tia lửa điện và chai Leyden (dụng
cụ dùng để tích trữ tĩnh điện) ra đời ông bắt đầu tiến hành những thí nghiệm kích thích
bắp cơ bằng điện. Thông qua quan sát và nhiều thí nghiệm Luigi Galvani đã gây ra co thắt
cơ bắp trong một con ếch bằng cách chạm vào dây thần kinh của nó với kim loại sạc
điện. Sau đó, ông đã có thể gây ra co thắt cơ bắp bằng cách chạm vào các dây thần kinh
với các kim loại khác nhau mà không cần một nguồn điện tích tĩnh điện. Như vậy có
nghĩa là một hệ gồm một cung kim loại nối hai mô với nhau có vai trò máy phát tĩnh điện.
Từ đó ông kết luận rằng mô động vật có chứa một lực lượng bẩm sinh quan trọng, mà ông
gọi là "điện động vật". Ông tin rằng đây là một hình thức mới của điện ngoài với hình
thức tự nhiên là sét và các hình thức nhân tạo
như ma sát (tức là tĩnh điện). Ông cũng tin rằng
não tiết ra một "chất lỏng điện" và rằng dòng
chảy của chất lỏng này thông qua các dây thần
Trang 25
Thí nghiệm năm 1780
Thí nghiệm năm 1786 của Galvani
Chân ếch co giật khi điện thông qua

thông qua các cơ bắp

×