Tải bản đầy đủ (.docx) (103 trang)

các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại lý luận, pháp luật và thực tiễn tài phán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.91 KB, 103 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
LUẬN VĂN
TÊN ĐỀ TÀI:
CÁC TRƯỜNG HỢP VÔ HIỆU
CỦA HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI: LÝ LUẬN, PHÁP
LUẬT
VÀ THỰC TIỄN TÀI PHÁN
Giáo viên hướng
dẫn:
Nguyễn Mai Hân
Sinh viên :Nguyễn Như Dạ Ngọc
MSSV : 5044052
Lớp:Luật thương mại_ K30
Năm học: 2008- 2009
MỤC LỤC
Trang
CHƯ
ƠNG
1: LÝ
LUẬN
VỀ
HỢP
ĐỒN
G
THƯ
ƠNG
MẠI
1.1

lược


về
hợp
đồng

hợp
đồng
thươ
ng
mại





1
1.1
.1
Kh
ái
niệ
m .













2
1.1.2 Hình thành hợp đồng 3
1.1.3 Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thương mại 5
1.1.3.1 Năng lực chủ thể 5
1.1.3.2 Sự tự nguyện,tự do của các bên giao kết hợp đồng 7
1.1.3.3 Nội dung và mục đích của hợp đồng 8
1.1.3.4 Hình thức của hợp đồng 11
1.2 Sơ lược hợp đồng vô hiệu và phân loại hợp đồng vô hiệu 13
CHƯƠNG
2:
CÁC TRƯỜNG HỢP VÔ HIỆU
CỦA HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
2.1 Khái quát những qui định của pháp luật về các
trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại 15
 Định nghĩa
2.2 Các trường hợp vô hiệu cụ thể của hợp đồng thương mại 16
2.2.1 Hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm
điều cấm pháp luật, trái đạo đức xã hội 16
2.2.2 Hợp đồng thương mại vô hiệu do giả tạo 17
2.2.3 Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ hình thức 19
2.2.4 Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự xác lập, thực hiện 21
2.2.5 Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa 22
2.2.5.1 Hợp đồng lừa dối 22
2.2.5.2 Hợp đồng vô hiệu do đe dọa 25
2.2.6 Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn 27

2.2.7 Hợp đồng vô hiệu do người kí hợp đồng
không đúng thẩm quyền 31
2.3 Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu 34
CHƯƠNG 3:THỰC TIỄN TÀI PHÁN CÁC TRƯỜNG HỢP VÔ HIỆU
CỦA HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1 Nhìn chung về thực tiễn tài phán các hợp đồng thương mại vô hiệu 38
3.2 Một số kiến nghị 45
LỜI KẾT 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO 48

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN



































LỜI MỞ ĐẦU
 Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật, nền kinh tế thế
nước ta phải phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc
lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa , bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc
văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường để tạo thêm uy tín và sức mạnh cho nước ta trên
trường thế giới.
 Tham gia sân chơi, khi Việt Nam là thành viên của tổ chức kinh tế thế giới
(WTO) và là thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc; nền
kinh tế nước nhà cần phải vững mạnh, hệ thống pháp luật liên quan phải thông thoáng
nhưng chặt chẽ để các nhà đầu tư trong và ngoài nước yên tâm, thu hút đầu tư. Hơn hết
các cá nhân, tổ chức, pháp nhân hoạt động thương mại cần thiết phải bản lĩnh, thông
minh và không chỉ dừng lại ở biết luật mà còn hiểu đúng, hiểu sâu và nắm bắt kịp thời,
chính xác các qui định pháp luật hiện hành để thu lợi nhuận và hạn chế rủi ro cho chính
bản thân.
 Công cụ để xác lập quyền, nghĩa vụ của các chủ thể hoạt động thương mại là hợp

đồng. Do đó, hợp đồng phải tuân thủ theo qui định của pháp luật để có hiệu lực ràng
buộc các bên kết ước, gióp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của những chủ thể kinh
doanh chân chính.
 Bất cứ một vấn đề nào, khi nắm được những kiến thức cơ bản cũng mang lại
những lợi ích nhất định. Khi có những tranh chấp, rủi ro bất ngờ có liên quan đến hợp
đồng và hợp đồng thương mại bị tuyên bố vô hiệu sẽ khó tránh khỏi tổn thất. Cho nên,
phải hiểu sâu, hiểu rõ các qui định của pháp luật hiện hành về các trường hợp vô hiệu
của hợp đồng thương mại để tiến hành kinh doanh có hiệu quả. Chính vì vậy, tôi xin có
một vài dòng phân tích để các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại được rõ
ràng hơn trong lý luận, pháp luật và thực tiễn tài phán.
 Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình tìm kiếm, nghiên cứu tư liệu nhưng với
những kiến thức và khả năng nhìn nhận vấn đề có giới hạn nên bài viết sẽ còn nhiều
hạn chế và thiếu sót.Vì vậy, mong thầy cô góp thêm ý kiến để vấn đề được cụ thể và
khái quát hơn. Xin chân thành cảm ơn.
SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc
GVHD: Nguyễn Mai Hân
CHƯƠNG 1
L
Ý
L
U

N
V

H

P
Đ


N
G
T
H
Ư
Ơ
N
G
M

I
1.1 Sơ lược
về hợp đồng
và hợp đồng
thương mại
1.1.1 Khái
niệm
• Mối quan
hệ giữa hợp
đồng dân sự
và hợp đồng
thương m ại
Trong một
nền kinh tế
thị trường
vai trò của
hợp đồng
vô cùng
quan trọng,
đó là

một công cụ pháp lý hết sức quan trọng, đó là công cụ pháp
lý thông dụng nhất
trong việc kinh doanh buôn bán.
Trong pháp chế Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
danh từ “hợp đồng” được
xuất hiện lần đầu tiên trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế công
bố ngày 28/09/1989 và
pháp lệnh về hợp đồng dân sự công bố ngày 07/05/1991.
Theo hai văn bản này, hợp
đồng kinh tế bao gồm các hợp đồng được kí kết nhằm mục
đích kinh doanh giữa
pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với tư nhân có
đăng kí kinh doanh theo
pháp luật. Các tranh chấp phát sinh trong việc thi hành hợp
đồng kinh tế thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa kinh tế, các hợp đồng khác không
phải là hợp đồng kinh
tế đều là hợp đồng dân sự. Như vậy, một hợp đồng được coi
là hợp đồng kinh tế hay
dân sự tùy theo chủ thể và mục đích theo đuổi: hợp đồng
mua bán là hợp đồng kinh
tế nếu được kí kết giữa các công ty với nhau, giữa công ty và
tư nhân có đăng kí
kinh doanh nhằm mục đích kinh doanh; hợp đồng là dân sự
nếu được kí kết giữa
các cá nhân với nhau.
Tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, luật pháp không
phân biệt giữa hợp đồng
dân sự và hợp đồng kinh tế ( còn gọi là hợp đồng thương
mại), các qui định về hợp

đồng dân sự được áp dụng cho hợp đồng thương mại ( Hoa
Kỳ, Thụy Sĩ, Ý, Pháp).
Tuy nhiên , tại Pháp một số hợp đồng do mục đích của nó
được xem là hành vi
thương mại bị chi phối bởi các qui tắc của Bộ luật thương
mại.
Tại Việt Nam hai pháp lệnh nói trên nay đã bị bãi bỏ và
Bộ luật dân sự 2005 chỉ
còn dự liệu một lọai hợp đồng là hợp đồng dân sự. Tuy nhiên
luật thương mại công
bố ngày 27/06/2005 quy định một số giao dịch được xem là
hoạt động thương mại,
Điều 3 Luật thương mại 2005: “Hoạt động thương mại là
hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu
tư, xúc tiến thương mại
và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Các hợp
đồng thực hiện các hoạt
động thương mại này do Luật thương mại chi phối; do đó
chúng ta có thể tạm gọi
các hợp đồng này là các hợp đồng thương mại. Nhưng lợi ích
của sự phân biệt giữa
hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại chẳng còn là bao
khi mà ngày nay Bộ luật
Tố tụng dân sự Việt Nam 2005 đã qui tụ mọi tranh tụng về
một mối: Tòa
án dân sự
xét xử mọi
tranh chấp về
dân sự, thương

mại, lao
động…Mặc dù
vậy các hợp
đồng
thực hiện hoạt
động thương
mại được dự
liệu trong Luật
thương mại
cũng có những
đặc tính riêng
của nó, ngoài
các qui tắc
chung cho mọi
hợp đồng được
dự liệu trong
luật dân sự.
Nói chung
các hợp
đồng không
được phân
chia thành
hai loại:
hợp đồng
dân sự
và hợp đồng
thương mại. Ví
dụ: hợp đồng
mua bán một
chiếc xe ôtô

giữa người bán
là công ty sản
xuất và người
mua là công ty
kinh doanh xe
là hợp đồng
thương mại
Luận văn
tốt
nghiệp
Đại học
1
SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc
GVHD: Nguyễn Mai Hân
đối với cả hai
bên; nếu nhà
sản xuất bán
chiếc xe ấy cho
một tư nhân
mua để sử
dụng thì hợp
đồng có tính
cách thương
mại đối với
người bán, còn
dân sự đối với
người mua; sau
đó nếu người
mua này bán lại
cho một tư

nhân khác để
sử dụng thì
khi đó hợp
đồng là dân sự
đối với cả hai
bên. Cũng có
những hợp
đồng luôn luôn

dân sự vì đó là
các hợp đồng
không đền bù
bởi vì mọi hoạt
động thương
mại đều
theo đuổi mục
đích lợi nhuận.
Vì lẽ, ngoại
trừ một vài
biệt lệ, một
hợp đồng có
thể khi là
thương mại
khi là dân
sự, cho nên
không thể phân
chia các hợp
đồng thành hai
loại có bản chất
khác nhau:

một có bản chất
thương mại,
một có bản chất
dân sự, và
nghiên cứu
chúng trong hai
lĩnh vực riêng biệt, một trong luật dân sự, một trong luật
thương mại. Mọi hợp đồng
cần được xem xét theo nguyên tắc đại tổng được qui định
trong Bộ luật dân sự vốn
vẫn được coi là luật chung áp dụng cho mọi giao dịch trong
xã hội. Tuy nhiên, theo
qui định của Luật thương mại, các hợp đồng thương mại
cũng bị chi phối bởi một
vài qui tắc khác với qui tắc chung liên quan đến vấn đề
chứng cứ và trách nhiệm
trong trường hợp vi phạm hợp đồng. Nhưng khuynh hướng
chung hiện nay của các
nền pháp luật trên thế giới là phải xóa bỏ ngay các sự khác
biệt này bởi lẽ các qui
tắc đặc thù của Luật thương mại nhằm đảm bảo sự an toàn
mau lẹ và trong các giao
dịch tỏ ra thích hợp hơn và cần được áp dụng cho mọi giao
dịch thương mại và dân
sự.(1)
Hiện nay, pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam nằm rải rác
trong rất nhiều văn
bản pháp luật có giá trị pháp lý cao thấp khác nhau và cũng
chưa có bất kì thử
nghiệm nào nhằm thống nhất hóa hệ thống các văn bản pháp

luật về hợp đồng cũng
như chỉ ra sự liên kết, liên thông hoặc tính hệ thống của pháp
luật hợp đồng nói
chung. Tuân thủ nguyên tắc về mối quan hệ giữa luật chung
và luật riêng, có thể
thấy rằng, các qui định chung của pháp luật hợp đồng được
qui định từ các điều từ
388 – 411 Bộ luật dân sự 2005 có thể được áp dụng cho tất
cả các loại hợp đồng
khác nhau. Bên cạnh các qui định chung đó, Bộ luật dân sự
2005 có các qui định
riêng cho các hợp đồng chuyên biệt. Các qui định về các hợp
đồng chuyên biệt, theo
nghĩa rộng có thể bao gồm tất cả các hợp đồng khác mang
tính luật tư ( ví dụ: hợp
đồng lao động, tín dụng, hợp đồng thương mại…); đó là các
qui định riêng so với
nguyên tắc chung của Bộ luật dân sự 2005 . Đối với những
vấn đề mà luật tư đã qui
định thì áp dụng luật tư để điều chỉnh, đối với những vấn đề
luật tư chưa đề cập đến
thì áp dụng luật chung để điều chỉnh. Nói cách khác, Các
hoạt động có 1tính chất
thương mại, nếu được quy định tại một luật riêng hay đã
được qui định trong bộ
Luật thương mại thì sẽ được điều chỉnh bởi luật đó, và các
hoạt động không được
quy định trong Luật thương mại và cũng không được quy
định trong một luật riêng
khác, thì sẽ được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự.

(1): Các hợp đồng
thương mại thông
dụng – Ts.Luật sư
Nguyễn Mạnh Bách
– NXB Giao thông
vận tải 2007
– Tr 5-7
(2): Trích trong
“Giáo trình luật dân
sự Việt Nam (quyển
2-tập 1)” - Trường
ĐHCT – Khoa luật –
Ts.Nguyễn
Ngọc Điện
chủ biên – Tr 4-
5
Luận văn
tốt
nghiệp
Đại học
2
SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc
GVHD: Nguyễn Mai Hân
 Khái niệm
hợp đồng
Hợp đồng là
công cụ chủ
yếu để xác
lập quan hệ
giữa người

và người
liên quan
đến tài sản
trong một xã
hội có tổ chức.
Các quan hệ ấy
không chỉ hình
thành trong
lĩnh vực dân sự
mà cả trong các
lĩnh vực thương
mại, lao động,
thậm chí trong
lĩnh
vực hành
chính. Mỗi loại
hợp đồng, trong
mỗi lĩnh vực,
có những đặc
điểm rất riêng
và, do đó, được
chi phối bởi
những quy định
riêng. Tuy
nhiên, là sản
phẩm của sự
gặp gỡ ý chí,
tất cả các hợp
đồng đều hình
thành và vận

hành trên cơ sở
nguyên tắc
tự do kết ước
và những
nguyên tắc cơ
bản khác mà
xoay quanh
những nguyên
tắc
đó, một hệ
thống các quy
tắc pháp lý
được xây dựng
và tạo thành
luật về quan hệ
kết ước hay còn gọi là luật chung về hợp đồng.
• Vậy,hợp đồng là sự thỏa thuận của hai hay nhiều bên
nhằm làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ.
Để quan hệ hợp đồng được xác lập một cách có hiệu lực,
cần tồn tại các điều
kiện theo Điều 388 Bộ luật dân sự 2005
 Tồn tại một sự thỏa thuận
 Giữa các bên có thẩm quyền giao kết hợp
đồng
 Dựa trên việc thống nhất ý chí giữa các bên
 Mục đích của giao dịch phải hợp pháp
 Thỏa thuận được xác lập theo một hình thức
do pháp luật xác định
Chỉ những giao dịch hợp pháp mới làm phát sinh quyền,

nghĩa vụ của chủ thể
tham gia giao dịch. Mọi cam kết, thỏa thuận hợp pháp có
hiệu lực bắt buột đối với
các bên và được pháp luật bảo hộ.Theo Khoản 1 Điều 122
Bộ luật dân sự 2005, giao
dịch có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau:
 Người tham gia giao dịch có năng lực hành
vi dân sự
 Mục đích và nội dung giao dịch không trái
pháp luật, đạo đức xã
hội
 Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự
nguyện
1.1.2 Hình thành hợp đồng
Điều 404 Bộ luật dân sự 2005 có qui định:“Hợp đồng
dân sự được giao kết vào
thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết”.
Nói một cách khác,
cần tồn tại một sự thống nhất về ý chí giữa bên đề nghị chấp
nhận giao kết hợp đồng
và bên chấp nhận giao kết hợp đồng về một nội dung xác
định thì hợp đồng được
hình thành. Khoản 1 Điều 390 Bộ luật dân sự 2005: “ Đề
nghị giao kết hợp đồng là
việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng
buộc về đề nghị này của
bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể”. Như vậy
đề nghị giao kết hợp
đồng có hiệu lực khi đáp ứng được các yêu cầu: thể hiện
được ý chí, nội dung giao

kết hợp đồng và xác định rõ bên được đề nghị.
Nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng cần mang tính
xác định, cần mô tả các
nội dung được coi là chủ yếu của một quan hệ hợp đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng nếu thỏa mãn yêu cầu theo
luật định sẽ có hiệu lực
vào thời điểm được gửi tới người nhận.
Luận văn
tốt
nghiệp
Đại học
3
SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc
GVHD: Nguyễn Mai Hân
• Đối với đề
nghị giao kết
hợp đồng có
xác định rõ
thời hạn trả
lời:
Trong thời
hạn đề nghị
giao kết hợp
đồng có
hiệu lực,
người được
đề nghị có
quyền chấp
nhận, sửa đổi
hoặc không

chấp nhận; nếu
người được đề
nghị chấp nhận
thì đó là một
hành vi thể
hiện ý chí của
người được đề
nghị, chấp nhận
toàn bộ các
điều kiện mà đề
nghị đưa ra.
Chấp nhận này
phải được
chuyển đến cho
người đề
nghị thì hợp
đồng mới được
coi là đã được
xác lập Nói
cách khác,
trong trường
hợp
này, đề nghị
giao kết hợp
đồng có hiệu
lực làm phát
sinh trách
nhiệm của bên
đề
nghị và quyền

của bên nhận
có thể ràng
buột bên đề
nghị bởi các
nghĩa vụ hợp đồng
và bên đề nghị giao kết hợp đồng không được mời người thứ
ba giao kết trong thời
hạn chờ đợi bên được đề nghị trả lời và phải chịu trách nhiệm
về lời đề nghị của
mình (Khoản 2 Điều 390 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 )
• Đối với đê nghị giao kết hợp đồng không có xác định rõ
thời hạn trả lời:
Có thể nói đây là một thiếu sót trong một đề nghị giao kết
hợp đồng. Và theo các
nhà làm luật người đề nghị giao kết hợp đồng cần được bảo
vệ khi bên được đề nghị
cố ý trì hoãn việc trả lời. Không có lý do gì để bảo vệ cho
hành vi cố ý gây thiệt hại
của bên được đề nghị đối với bên đề nghị.
Có quan điểm cho rằng trong mọi đề nghị đều có thời hạn
hợp lý để chấp nhận,
thời hạn này nếu không được ghi trong đề nghị thì sẽ do tập
quán nghề nghiệp ấn
định. Luật thương mại 1997 qui định thời gian hết hiệu lực
của một chào hàng là
không quá 30 nếu chào hàng không xác định thời gian cụ thể,
điều này sẽ gây
những tổn thất và tranh chấp nếu hàng hóa giao dịch là nông
sản ngắn ngày ( ví dụ:
cà chua, đu đủ…). Luật thương mại 2005 đã thay đổi thời

hạn 30 ngày thành một
thời gian hợp lý, điều này phù hợp với qui định của Luật
thương mại quốc tế ở
Khoản 2 Điều 18 của công ước viên 1980 (1)
• Thay đổi, rút lại, hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng:
Đề nghị giao kết hợp đồng có xác định thời hạn trả lời
hay không đều có thể
thay đổi, rút lại hoặc hủy bỏ trong một số trường hợp nhất
định theo qui định của
pháp luật. Khoản 1 Điều 392 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 :
“ Nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc
thay đổi hoặc rút lại đề
nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị;
Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong
trường hợp bên đề nghị
có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều
kiện đó phát sinh”
Theo Điều 393 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005: “ Trong
trường hợp bên đề nghị
giao kết hợp đồng thực hiện quyền hủy bỏ đề nghị do đã nêu
rõ quyền này trong đề
nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị và thông báo
này chỉ có hiệu lực khi
bên được đề nghị nhận được thông báo trước khi bên được
đề nghị trả lời chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng”
Khoản 2 Điều 18 của công ước viên 1980: “Chào hàng có hiệu lực kể từ khi nó tới nơi
người được chào
hàng nhưng thời hạn
để chấp nhận chào

hàng được bắt đầu
từ khi chào hàng
được gửi đi đối với
thư, điện
tín và từ khi chào
hàng tới nơi người
được chào đối với
các phương tiện
truyền thông tức
thời;thời hạn hiệu
lực của chào hàng
được người chào ấn
định hoặc là một
khoảng thời gian
hợp lý; chấp nhận
chào hàng có
hiệu lực kể từ khi nó
tới nơi người chào
hàng trong thời hạn
hiệu lực của chào
hàng”
Luận văn
tốt
nghiệp
Đại học
4
SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc
GVHD: Nguyễn Mai Hân
Hợp đồng
hình thành

khi bên
được đề
nghị trả lời
chấp nhận
đề nghị và
gửi đến
bên đề nghị. Sự
chấp nhận giao
kết hợp đồng
không cần thể
hiện theo một
hình thức
nhất định nào
cả, chỉ cần có
sự thỏa hiệp ý
chí là đủ, do đó
sự chấp nhận
có thể là
minh thị hay
mặc nhiên. Khi
hai bên trực
tiếp giao dịch
với nhau mặt
đối mặt hay
qua điện thoại
hoặc phương
tiện thông tin
khác thì bên
được đề nghị
phải trả lời

ngay có chấp
nhận hay không
chấp nhận, trừ
khi hai bên có
thỏa thuận với
nhau về
thời gian trả lời
( Điều 397 Bộ
luật dân sự
2005 )
Khó có thể
xác định khi
nào có sự
chấp nhận
mặc nhiên,
ngoại trừ
hai bên đã

quan hệ giao dịch từ trước: một nhà buôn tiếp tục nhận hàng
hóa của nhà sản xuất
mặc dù hợp đồng mua bán đã hết hạn và cần được tái tục
theo đề nghị của nhà sản
xuất.
Sau hết, một sự chấp nhận trong thời hạn nhưng có sự sửa
đổi đề nghị ban đầu
được coi là một đề nghị mới chứ không phải chấp nhận, một
sự chấp nhận trễ hạn
cũng được coi là một đề nghị mới.( Điều 395-397 Bộ luật
dân sự 2005 )
Ngoài ra theo Khoản 2 Điều 404 Bộ luật dân sự 2005 thì

hợp đồng có hiệu lực
ràng buộc hai bên khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được
đề nghị vẫn im lặng,
nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.
Đối với hợp đồng bằng
lời nói thì thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của
hợp đồng thì hợp đồng
có hiệu lực( khoản 3 Điều 404). Đối với hợp đồng bằng văn
bản, hợp đồng có hiệu
lực từ thời điểm bên sau cùng kí vào văn bản (Khoản 4 Điều
404)
1.1.3 Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thương mại
1.1.3.1 Năng lực chủ thể
Ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển và hệ
thống pháp luật lâu đời
không có sự phân biệt và cách biệt giữa khái niệm thương gia
và doanh nghiệp với
tính cách là những thành viên hợp pháp của thương trường.
Khi giao lưu trong
thương trường, các thành viên thường quan tâm đến tính chất
và đặc tính pháp lý
của nhau mà trước hết đó là một pháp nhân hay thể nhân, và
quan trọng hơn là xét
tư cách chủ thể của hai chủ thể này.
• Năng lực pháp luật:
 Cá nhân: là chủ thể đầu tiên của các quan hệ xã hội, là
“tổng hòa các mối
quan hệ xã hội”. Cá nhân – con người là trung tâm của các
chính sách kinh tế, xã
hội mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang phục vụ với mục

đích phục vụ con người,
vì con người . Trong các mối quan hệ tài sản và nhân thân mà
luật dân sự điều chỉnh
thì cá nhân là chủ thể nguyên sinh, đầu tiên và các chủ thể
khác tham gia vào các
quan hệ dân sự cũng thông qua hành vi của con người. Để
tham gia vào quan hệ xã
hội nói chung và quan hệ dân sự, thương mại nói riêng, cá
nhân phải có tư cách chủ
thể để tham gia vào các quan hệ đó. Đó là năng lực chủ thể
được tạo thành
bởi năng
lực pháp luật
và năng lực
hành vi.
Luận văn
tốt
nghiệp
Đại học
5
SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc
GVHD: Nguyễn Mai Hân
“Năng lực
pháp luật
dân sự của
các nhân là
khả năng
của cá nhân
có quyền và
có nghĩa vụ

dân sự”
( Khoản 1 Điều
14 Bộ luật dân
sự 2005 ).
Năng lực pháp
luật
dân sự của cá
nhân là khả
năng, là tiền đề,
điều kiện cần
thiết để công
dân có quyền,
có nghĩa vụ; là
thành phần
không thể thiếu
được của cá
nhân với tư
cách chủ thể
của
quan hệ pháp
luật dân sự, là
một mặt của
năng lực chủ
thể.(1)
 Pháp
nhân: có
năng lực
pháp luật kể
từ thời điểm
tư cách

pháp nhân
phát
sinh. Khác với
tư cách pháp
luật của cá
nhân, năng lực
pháp luật của
pháp nhân do
luật xác định về
nội dung, phù
hợp với đặc
điểm của từng
loại pháp nhân, thậm chí
với từng cá nhân của pháp nhân. Mỗi pháp nhân có những
mục đích xác định để
theo đuổi và, do đó, có khả năng có những quyền và nghĩa vụ
giới hạn bởi chính các
mục đích đó.
Mục đích của các pháp nhân tư pháp và pháp nhân hỗn
hợp được xác định trong
điều lệ pháp nhân. Bởi vậy, khi giao dịch với pháp nhân loại
này, người thứ ba,
muốn tránh khả năng giao dịch bị tuyên bố vô hiệu do không
phù hợp với mục đích
của pháp nhân đối tác, nên tham khảo điều lệ của pháp nhân
trước khi quyết định
nên hay không nên tiến hành giao kết. Cần lưu ý rằng người
thứ ba luôn ở trong tình
trạng buộc phải biết nội dung điều lệ của pháp nhân tư pháp,
bởi trong mọi trường

hợp, điều lệ này luôn được đăng kí tại cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền, nghĩa là
được công bố cho tất cả mọi người.(2)
• Năng lực hành vi:
 Cá nhân: Tư cách chủ thể của cá nhân chỉ đầy đủ, hoàn
thiện, độc lập khi họ
có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, ngoài năng lực pháp luật
dân sự vốn là thuộc
tính được pháp luật ghi nhận cho mọi cá nhân.
“Năng lực pháp luật hành vi dân sự của cá nhân là khả
năng của các nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”
( Điều 17 Bộ luật dân
sự 2005 )
Nếu năng lực pháp luật là tiền đề, là quyền dân sự khách
quan của chủ thể, thì
năng lực hành vi là khả năng hành động của chính thể tạo ra
các quyền, thực hiện
quyền và nghĩa vụ của họ. Ngoài ra, năng lực hành vi dân sự
còn bao hàm cả năng
lực trách nhiệm dân sự khi vi phạm nghĩa vụ dân sự.
Cùng với năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự là
thuộc tính của cá nhân ,
tạo ra tư cách chủ thể của cá nhân trong các quan hệ dân sự.
(3)
(1): Trích trong “Giáo trình Luật dân sự Việt Nam” - Trường ĐH Luật Hà Nội –
NXB Công an nhân dân
2004 – Tr 64-65
(2): Trích trong “Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (quyển 1 - tập 1)” - Trường
ĐHCT – Khoa luật –

Ts.Nguyễn Ngọc Điện chủ biên
Tr 51-52
(3): Trích trong “Giáo trình Luật dân sự Việt Nam” - Trường Đại học Luật Hà Nội
– NXB Công an nhân dân
2004 – Tr 74
Luận văn
tốt
nghiệp
Đại học
6
SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc
GVHD: Nguyễn Mai Hân
Ý chí phát
sinh nghĩa
vụ khi nào
các bên
giao kết có
đầy đủ năng
lực cần thiết
để tạo lập hợp
đồng. Mặt khác
người kí kết
hợp đồng nhiều
khi không cam
kết cho
chính mình mà
chỉ đại diện cho
một người khác
chiếu theo một
sự ủy quyền.

Bất cứ ai
cũng có
quyền kí kết
hợp đồng
chỉ trừ là
những
người bị
pháp luật
coi
là không có
năng lực hành
vi được qui
định bởi Điều
19 Bộ luật dân
sự 2005 :
“Người thành
niên có năng
lực hành vi dân
sự đầy đủ” .
Người thành
niên là người
đủ 18 tuổi trở
lên ( Điều 18
Bộ luật dân sự
2005 ), do đó
người chưa đủ
18 tuổi tròn
trở xuống là
người chưa
thành niên và

trên nguyên tắc
không có năng
lực kí kết hợp
đồng. Ngoài ra, những người bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể
nhận thức được hành vi của mình, và các người nghiện ma
túy hay chất kích thích
khác có thể bị Tòa án ra quyết định tước bỏ hay hạn chế năng
lực hành vi ( Điều 22-
23 Bộ luật dân sự 2005 ).Người kí kết hợp đồng mà không có
năng lực hành vi dân
sự thì hợp đồng bị tuyên vô hiệu.
Khoản 2 Điều 139 Bộ luật dân sự 2005: “ Cá nhân, pháp
nhân, chủ thể khác có
thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại
diện. Cá nhân không
được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật qui
định họ phải tự mình xác
lập, thực hiện giao dịch đó”. Có hai loại đại diện: đại diện
theo pháp luật và đại
diện theo ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật của người
dưới 18 tuổi, của
người mất trí là cha mẹ hoặc người giám hộ. Đại diện theo
ủy quyền xuất phát từ
hợp đồng ủy quyền, theo đó một người ủy quyền cho một
người khác để nhân danh
mình kí kết hợp đồng. Hợp đồng phát sinh hiệu lực đối với
người ủy quyền, còn
người được ủy quyền chỉ chịu trách nhiệm về việc thực hiện
hợp đồng ủy quyền.

Theo Điều 148 Bộ luật dân sự 2005 , đại diện theo ủy
quyền chấm dứt khi người
được ủy quyền hoàn thành việc ủy quyền, hoặc khi hết thời
hạn ủy quyền, người ủy
quyền rút lui sự ủy quyền, khi người ủy quyền hay người
được ủy quyền qua đời.
Như vậy, sau khi hợp đồng được kí kết thì người được ủy
quyền đã làm xong nhiệm
vụ của họ và trên nguyên tắc không còn dính líu gì đến hợp
đồng đã kí kết.
 Pháp nhân: Pháp nhân không có năng lực hành vi thực.
Suy cho cùng, khái
niệm năng lực hành vi của pháp nhân không thể được xây
dựng như một khái niệm
ứng dụng được. Pháp nhân dù được nhân cách hóa, không
phải là con người cụ thể
và do đó, không thể tự mình xử sự. Ngay cả các cơ quan của
pháp nhân cũng chỉ
vận hành thông qua vai trò của những cá nhân cụ thể để đảm
nhận các chức vụ cụ
thể. Suy cho cùng, pháp nhân luôn luôn phải được đại diện,
từ khi được thành lập
cho đến khi chấm dứt, trong tất cả các hoạt động của mình.
Năng lực hành vi của
pháp nhân thực ra là năng lực hành vi mà pháp nhân vay
mượn của những con
người mà pháp nhân hóa thân vào (1). Người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân
là người đứng
đầu pháp nhân.

1.1.3.2 Sự
tự
nguyện,t
ự do của
các bên
giao kết
hợp đồng
Bản chất
của mọi
giao dịch là
sự thống
nhất giữa ý
chí và bày
tỏ ý chí, cho
nên
sự tự nguyện
bao gồm các
yếu tố cấu
thành là tự do ý
chí và bày tỏ ý
chí. Không có
(1) Trích trong “Giáo
trình Luật dân sự
Việt Nam (tập 1 -
quyển 1)” - Trường
Đại học Cần Thơ –
Khoa Luật
– Ts. Nguyễn Ngọc
Điện chủ biên –
Tr51. 52

Luận văn
tốt
nghiệp
Đại học
7
SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc
GVHD: Nguyễn Mai Hân
tự do ý chí và
bày tỏ ý chí
không thể có tự
nguyện, nếu
một trong hai
yếu tố này
không có hoặc
không thống
nhất cũng
không thể có tự
nguyện. Sự tự
nguyện của
một bên ( hành
vi pháp lý đơn
phương ) hoặc
sự tự nguyện
của các bên
trong một
hợp đồng là
một trong các
nguyên tắc
được qui định
tại Điều 4 Bộ

luật dân sự
2005
: Nguyên tắc tự
do, tự nguyện
cam kết, thỏa
thuận. Vi phạm
sự tự nguyện
của chủ
thể là vi phạm
pháp luật. Vì
vậy giao dịch
không có sự tự
nguyện không
làm phát
sinh hậu quả
pháp lý.(1)
Quyền tự do
của các bên
trong việc
quyết định
có tham gia
vào một
giao dịch cụ
thể và đồng ý
về các điều
khoản của giao
dịch đó hay
không là nền
tảng pháp lý của
nền kinh tế thị trường. Từng cá nhân có thể tham gia vào các

mối quan hệ pháp lý
một cách nhanh chóng và trực tiếp mà không có bất kỳ sự
can thiệp chính trị hay
ngoại giao nào. Do vậy, các bên có thể đưa ra các quyết định
kinh tế tức thì, có liên
quan trực tiếp đến s ự thành công của họ. Ngoài ra, các bên
sẽ tự quyết định sự được
mất trong phần lớn các cuộc thương lượng của họ (với điều
kiện là không bên nào
bị ở vị thế quá bất lợi).
Luật thương mại chỉ có hiệu lực ràng buộc các nghĩa vụ
pháp lý khi các bên
tham gia được cho là đã tự nguyện gánh vác các nghĩa vụ đó.
Một bộ luật thương
mại có thể qui định cụ thể khi nào một bên đã thực sự gánh
vác các nghĩa vụ pháp
lý đó, ví dụ như là việc xác định ranh giới khi việc thỏa thuận
về một thương vụ nào
đó trở thành một cam kết mang tính hợp đồng. Nhưng các
bên có thể tự thỏa thuận
các điều khoản cho các cam kết của họ. Thậm chí ngay cả
khi khi bộ luật thương
mại có các qui định về việc thực hiện các giao dịch cụ thể
nào đó, các bên vẫn có
quyền tự do bãi bỏ hoặc thay đổi các quy tắc áp dụng. Một ví
dụ điển hình là Ðiều 6
của Công ước Liên Hiệp Quốc về Bán hàng hoá quốc tế, cho
phép các bên “không
phải áp dụng Công ước này hoặc làm giảm bớt hay thay
đổi hiệu lực của bất kỳ

điều khoản nào của Công ước này”, Còn ở Việt Nam, Khoản
1 Điều 423 Bộ luật
dân sự 2005 có qui định: “Các bên có thể thỏa thuận sửa đổi
hợp đồng và giải quyết
hậu quả của việc sửa đổi, trừ trường hợp pháp luật có qui
định khác”.
Tất nhiên tự do hợp đồng cũng có những giới hạn của nó.
Một hợp đồng được
xác lập trên cơ sở tự nguyện, tự do nhưng cũng phải đảm bảo
tuân thủ theo qui định
của pháp luật.
1.1.3.3 Nội dung và mục đích của hợp đồng
“Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà
các bên mong muốn đạt
được khi xác lập giao dịch đó” ( Điều 123 Bộ luật dân sự
Việt Nam 2005 ). Nội
dung của mọi giao dịch là tổng hợp các điều khoản mà các
bên đã cam kết, thỏa
thuận trong giao dịch. Những điều khoản này xác định quyền
, nghĩa vụ của các bên
phát sinh từ giao dịch. Mục đích và nội dung của giao dịch
có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Con người xác lập, thực hiện giao dịch luôn nhằm đạt
được mục đích
nhất
định. Muốn dạt
được mục đích
đó họ phải cam
kết, thỏa thuận
về nội dung và

ngược lại
những cam kết,
thỏa thuận về
nội dung của
họ là để đạt
được mục đích
của giao dịch.
Ví dụ: Trong
hợp đồng mua
bán tài sản,
mục đích của
các bên hướng
Trích trong “Giáo trình Luật dân sự Việt
Nam” - Trường Đại học Luật Hà Nội –
NXB Công an nhân dân
2004 – Tr 123
Luận văn
tốt
nghiệp
Đại học
8
SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc
GVHD: Nguyễn Mai Hân
đến là quyền sở
hữu tài sản. Để
đạt được mục
đích này. họ
phải thỏa thuận
được về
nội dung của

hợp đồng mua
bán bao gồm
các điều khoản
như: đối tượng
(vật bán),
giá cả , thời
hạn, địa điểm,
phương thức
thực hiện hợp
đồng. Sự thỏa
thuận về các
điều khoản đó
lại nhằm đạt
đựơc mục đích
là quyền sở hữu
tài sản.
Để các giao
dịch có hiệu
lực pháp
luật thì mục
đích và nội
dung của
giao dịch
không trái pháp
luật, đạo đức xã
hội, nói cách
khác, các giao
dịch này không
vi
phạm điều cấm

của pháp luật,
không xâm
phạm đến lợi
ích của Nhà
nước, lợi ích
công cộng,
quyền và lợi
ích hợp pháp
của người khác
( Điều 10 Bộ
luật dân sự Việt
Nam 2005 ). Vì
thế, chỉ những
tài sản được
phép giao dịch, những công việc được
phép thực hiện không vi phạm điều cấm pháp luật, không trái
đạo đức xã hội là
những giao dịch có mục đích và nội dung không hợp pháp,
không làm phát sinh
hiệu lực pháp luật của giao dịch đó (1).Tuy vậy, nội dung của
hợp đồng cũng phụ
thuộc vào tự do ý chí của các bên giao kết trong khuôn khổ
pháp luật.
Học thuyết về tính độc lập của ý chí được thiết lập trong
triết học luật. Tư tưởng
chủ đạo là: ý chí của con người là luật; con người chỉ bị ràng
buộc vào một nghĩa vụ
bởi ý chí của mình, một cách trực tiếp trong quan hệ hợp
đồng (ý chí đặc thù) hoặc
một cách gián tiếp một khi nghĩa vụ do luật áp đặt (ý chí

chung được suy đoán).
Cũng vì ý chí tạo ra nghĩa vụ mà hợp đồng phải được tự do
giao kết. Cá nhân có
quyền tự do quyết định giao kết hoặc không giao kết hợp
đồng; có quyền tự do
quyết định hình thức và nội dung của hợp đồng.(2)
Thực ra, không có hệ thống luật nào thừa nhận giá trị
tuyệt đối của học thuyết về
tính độc lập của ý chí. Sự tự do trong xã hội có tổ chức luôn
mang tính tất yếu.
Trong luật Việt Nam hiện hành, tính độc lập của ý chí được
chấp nhận trong chừng
mực tôn trọng những giới hạn do luật thiết lập
Một hợp đồng bao giờ cũng bao gồm chủ thể và khách
thể. Chủ thể của hợp
đồng là các bên tham gia thực hiện cam kết, khách thể là nội
dung mà các bên cam
kết thực hiện, còn được gọi là mục tiêu hay mục đích của hợp
đồng. Khách thể của
hợp đồng phải có tính hợp pháp, có thể thực hiện được và có
hạn định rõ ràng.
Nội dung và mục đích của hợp đồng phải tuân thủ các qui
định của pháp luật,
đồng thời pháp luật cũng cho chủ thể có quyền tự do thể hiện
ý chí của mình trong
nội dung và hình thức của hợp đồng.
Tính độc lập của ý chí thể hiện trong nội dung của hợp
đồng (3) Chủ thể của
quan hệ pháp luật có quyền tự do giao kết hoặc không giao
kết hợp đồng. Quy tắc

này được thừa nhận tại Bộ luật dân sự 2005 Ðiều 389 khoản
1: “Tự do giao kết hợp
đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Một
trong những nội dung
của sự tự do giao kết là sự tự do xác định nội dung của hợp
đồng: các bên có quyền
thỏa thuận về loại hình, đối tượng, điều kiện giao dịch, thời
gian, địa điểm giao
dịch, trách nhiệm của mỗi bên, Khi một hợp đồng có điều
khoản không rõ
ràng,
Trích trong “Giáo trình Luật dân sự Việt
Nam” - Trường Đại học Luật Hà Nội –
NXB Công an nhân dân
2004 – Tr 122
2
Luật – Ts.Nguyễn
Ngọc Điện chủ biên
– Tr 10, 30, 31
3
Luật – Ts.Nguyễn
Ngọc Điện chủ biên
– Tr 30, 31
Luận văn
tốt
nghiệp
Đại học
9
Trích trong “Giáo trình Luật dân sự Việt Nam ( tập 1 - quyển2)” - Trường Đại học Luật Cần Thơ_Khoa
Trích trong “Giáo trình Luật dân sự Việt Nam ( tập 1 - quyển2)” - Trường Đại học Luật Cần Thơ_Khoa

SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc
GVHD: Nguyễn Mai Hân
thì không chỉ
dựa vào ngôn
từ của hợp
đồng mà còn
phải căn cứ vào
ý chí chung
của các bên để
giải thích điều
khoản đó
( Ðiều 409
khoản 1 Bộ luật
dân sự 2005 :
“khi hợp đồng
có điều khoản
không rõ ràng
thì không chỉ
dựa vào ngôn
từ của hợp
đồng mà còn
phải căn cứ
vào ý chí
chung của các
bên để giải
thích điều
khoản đó”
). Nói chung,
không có quan
hệ kết ước

được xác lập
trái với ý chí
của người kết
ước.
Tuy nhiên,
nội dung
của hợp
đồng không
được trái
pháp luật và
đạo đức xã
hội
(BLDS Ðiều
389 khoản 1).
Pháp luật mà
các bên không
được phép làm
trái khi giao
kết hợp đồng là
pháp luật mệnh
lệnh; còn đạo
đức xã hội mà
các bên không

×