Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.03 KB, 14 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Để nâng cao chất lượng dạy học, thực hiện phương châm “dạy học lấy người
học làm trung tâm” cần phải tổ chức hoạt động tự học cho học sinh và coi đó là một
hình thức đổi mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên trong thực tế việc
nâng cao năng lực tự học cho học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế việc
tìm ra các biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho học sinh đã trở thành một yêu
cầu cấp bách trong các THPT miền núi nói chung và trường THPT Mường Lát nói
riêng. Trong những năm qua có nhiều công trình nghiên cứu đã xác định các
phương hướng, những biện pháp đổi mới phương pháp dạy học khác nhau, các tư
tưởng tập trung vào việc phát huy năng lực tự học, tự rèn luyện của người học,
chuyển dần từ hệ phương pháp “tập trung vào người dạy” sang hệ phương pháp
“tập trung vào người học”, chuyển dần từ phương pháp dạy học sang phương pháp
nghiên cứu. Tổ chức hoạt động tự học cho học sinh trở thành một nội dung đổi mới
trong nhà trường, nếu được thực hiện tốt sẽ góp phần đổi mới phương pháp dạy học
ở phổ thông hiện nay.
Từ thực tiễn dạy học tại trường THPT Mường Lát, đa phần học sinh là dân tộc
miền núi tôi nhận thấy khả năng tự học của các em chưa cao. Do điều kiện miền
núi đi lại khó khăn nên hầu hết các em đều ở nội trú (khu ký túc xá và làng học sinh
của trường), điều này là một thuận lợi cho việc học tập ngoài giờ lên lớp. Tuy
nhiên, các em chưa dành thời gian để học bài cũ và chuẩn bị bài mới, chưa tự tìm
tòi tài liệu để tự học, tự nghiên cứu chính vì vậy mà kết quả học tập chưa cao, còn
quá nhiều điểm kém khi giáo viên kiểm tra bài cũ, tinh thần xây dựng bài trong giờ
học chưa cao. Sau một thời gian tìm tòi tôi đã mạnh dạn áp dụng “Một số biện
pháp tổ chức tự học cho học sinh nội trú trường THPT Mường Lát nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục” với mong muốn cải thiện tình hình trên.
1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận của vấn đề
I.1 Khái niệm tự học
Khái niệm tự học (Self - learning) là quá trình nỗ lực chiếm lĩnh tri thức của
bản thân người học bằng hành động của chính mình, hướng tới những mục đích


nhất định. Hoạt động tự học của học sinh có thể diễn ra dưới các dạng: Tự học diễn
ra dưới sự điều khiển trực tiếp của giáo viên khi đó, học sinh là chủ thể nhận thức
tích cực, phát huy mọi năng lực cá nhân, tiến hành các hành động học tập để lĩnh
hội tri thức theo sự hướng dẫn của giáo viên.
Hoạt động tự học của học sinh diễn ra dưới sự điều khiển gián tiếp cửa giáo
viên, học sinh tự mình sắp xếp kế hoạch sử dụng điều kiện vật chất, củng cố, đào
sâu, mở rộng và hoàn chỉnh tri thức, hoàn thành các nhiệm vụ học tập. Trong hoạt
động này, kỹ năng tự tổ chức học tập có vai trò quan trọng đối với người học, nó
vừa là điều kiện làm cho mọi hoạt động học tập đạt kết quả cao, đồng thời là mực
đích của dạy học, giáo dục hiện nay. Ngoài hoạt động tự học dưới sự điều khiển và
tổ chức của gián viên, học sinh còn tiến hành tự học độc lập nhằm thoả mãn nhu
cầu hiểu biết riêng, bổ sung tri thức, mở rộng tri thức ngoài chương trình.
Như vậy, phạm vi tự học của học sinh rất rộng, trong phạm vi tài liệu nay, chỉ
nghiên cứu hoạt động tự học của học sinh ngoài thời gian lên lớp dưới sự tổ chức
của nhà trường, sự điều khiển (trục tiếp hay gián tiếp) của giáo viên, đó là tổ chức
tự học. Lý luận dạy học hiện đại chỉ ra rằng: tự học là một bộ phận quan trọng của
quá trình tự giáo dục của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng tiếp thu hệ thống
tri thức kỹ năng kỹ xảo cũng như phát triển năng lực sáng tạo cho người học.
I.2 Nội dung và yêu cầu của tự học
Đối với mỗi học sinh, dưới sự giúp đỡ của giáo viên, tự xác định cho mình
mục tiêu, nội dung yêu cầu cụ thể của việc tự học. Có thể nói công việc tự học của
học sinh tương tự nhau nhưng do đặc điểm tâm sinh lý và năng lực tiếp thu của mỗi
em khác nhau, nên cách tự học, mức độ tự học ở mỗi em cũng khác nhau.
Trong quá trình tự học, ở giai đoạn đầu, học sinh thường rất lúng túng, bỡ ngỡ
gặp nhiều khó khăn, dễ sinh chán nản, chúng ta cần làm cho các em biết rõ để có
2
thể từng bước thực hiện có hiệu quả.
Đối với học sinh nội trú trường THPT Mường Lát có điều kiện không gian và
thời gian tương đối giống nhau, do đó trước hết phải giúp đỡ các em xây dựng được
kế hoạch và lập thời gian biểu tự học. Mỗi học sính căn cứ vào lực học của mình,

quỹ thời gian để sắp xếp công việc thích hợp. Có thể là:
Sắp xếp lịch học cho từng môn (khá, kém) phù hợp với yêu cầu và khối lượng công
việc từng bộ môn, phù hợp với điều kiện cụ thể của bản thân (sách vở, nguồn tài
liệu, thời gian ) tương ứng với các yêu cầu đề ra. Lịch trình tự học phải hợp lý,
cần bố trí xen kẽ luân phiên nhau hợp lý giữa các môn học (khó, khó vừa phải, bù
khuyết các lỗ hổng kiến thức theo tính chất từng môn) để tránh dồn ép, căng thẳng,
dễ thất bại, sinh ra nản. Luôn luôn tự kiểm tra với thái độ nghiêm túc, thật sự cầu
thị, không dễ làm khó bỏ, hoặc tự an ủi, bằng lòng một cách dễ dãi với bản thân.
Khác với học trên lớp, ở đây các em vừa phải là người thực hiện các yêu cầu tự học
vừa là người kiểm tra. Do đó phải căn cứ vào mục tiêu đã đề ra (kiến thức, kỹ năng,
thái độ niềm tin vào kết quả vào công việc), nếu sai, hỏng thì tự buộc mình phải
làm lại, không buông lỏng bản thân. Khi cần có thể áp dụng các quy luật tập trung
nhận thức để tự kiểm tra về trình độ, chất lượng tiếp nhận, nhất là năng lực diễn đạt
vấn đề bằng ngôn ngữ, lời nói của mình, khi cần thì đối chiếu với bài giải, sách giải
bài tập để tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập. Một trong những quy luật quan
trọng khi đề ra các yêu cầu tự học cho học sinh dân tộc miền núi là phải đi từ dễ
đến khó, đi từ đơn giản đến phức tạp. Nội dung tự học phải được nêu ra dưới dạng
các hình thức phong phú, hấp dẫn, có thể phải chuyển hoá các nội dung yêu cầu
thành những tình huống hoặc bài tập có cách diễn đạt riêng, dễ hiểu, phù hợp với
quy luật nhận thức của học sinh miền núi )
II. Thực trạng của vấn đề
Từ thực tiễn giảng dạy môn Tin học tại trường THPT Mường Lát và qua tìm
hiểu ở sổ đầu bài của các lớp trong trường tôi nhận thấy việc tự học của học sinh
chưa cao. Chính vì vậy tình trạng chưa học bài cũ và chưa chuẩn bị bài mới diễn ra
thường xuyên. Học sinh lên lớp với tinh thần uể oải, làm bài kiểm tra một cách đối
phó. Mặc dù giáo viên bộ môn giảng dạy một cách rất tâm huyết song kiến thức các
3
em tiếp thu được không là bao. Tôi thiết nghĩ cần tìm ra một phương pháp để cải
thiện tình hình này.
III. Giải pháp và tổ chức thực hiện

1 Giải pháp
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn dạy học ở trường THPT Mường Lát, tôi đã đưa
ra một số biện pháp tổ chức tự học cho học sinh dân tộc miền núi như sau:
1.1. Hình thành và phát triển vững chắc kỹ năng tự học cho học sinh.
Như chúng ta đã biết, học sinh dân tộc thiểu số có những đặc điểm riêng về
nhận thức, có khó khăn hơn về điều kiện học tập so với học sinh ở những miền
xuôi. Từ mục đích, động cơ học tập đến quá trình nhận thức, các phẩm chất ý chí,
tinh thần, thái độ học tập của các em có những đặc trưng, đòi hỏi các lực lượng
giáo dục phải chú ý trong quá trình tổ chức tự học. Trong quá trình học tập ở
trường phổ thông Mường Lát, nhiều học sinh chưa có kĩ năng tự học hoặc có nhưng
ở mức độ thấp. Do vậy, hình thành kỹ năng tự học cho học sinh và trên cơ sở đó,
rèn luyện, phát triển vững chắc kỹ năng tự học cho học sinh dân tộc thiểu số là
phương hướng có tính quyết định đến việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà
trường.
Theo quan niệm của tâm lý học lao động, kỹ năng là khả năng, năng lực sử
dụng tri thức thực hiện thuộc tính của sự vật hiện tượng, giải quyết thành công các
nhiệm vụ lý luận hay thực tiễn nhất định. Theo các nhà giáo dục học, kỹ năng về
học tập là một loại kỹ năng chuyên biệt của hệ thống kỹ năng sư phạm dùng để lĩnh
hội tri thức, phát triển trí tuệ, gồm có: kỹ năng kế hoạch hoá, kỹ năng tổ chức và
điều chỉnh, kỹ năng kiểm tra và tự kiểm tra. Đây là 3 khâu quan trọng của hoạt
động tự 'học. Sự thống nhất giữa 3 khâu là điều kiện cơ bản để học sinh có thể tự
học.
- Kỹ năng kế hoạch hoá hoạt động tự học
Các yêu cầu cơ bản đối với tổ chức tự học cho học sinh miền núi là: bảo đảm
giữa khối lượng yêu cầu tự học với thời gian tự học của học sinh hợp lý phù hợp
với năng lực học sinh; bảo đảm sự xen kẽ giữa hoạt động tự học với các hoạt động
vui chơi, văn hoá - văn nghệ, thể dục thể thao Các bước xây dựng kế hoạch tự
4
học gồm: thống kê các việc cụ thể trong thời gian tự học; phân phối thời gian, xác
định mức độ hoàn thành, kiểm tra sự hợp lý của kế hoạch. Học sinh thực hiện kế

hoạch tự học theo yêu cầu sau: làm việc độc lập, tập trung chú ý tự học, tiết kiệm
thời gian, sắp xếp các điều kiện phục vụ cho tự học, tự kiểm tra, đánh giá.
- Kỹ năng làm việc với sách giáo khoa và tài liệu
Đây là kỹ năng liên quan đến các khâu của quá trình tự học. Mặc dù đọc sách
không phải là mục đích duy nhất của tự học, song nó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Các yêu cầu cơ bản của đọc sách là: đọc có mục đích, đọc sách phụ thuộc vào
nhiệm vụ tự học; chọn cho đúng tài liệu, lựa chọn nhiều cách đọc khác nhau, đọc
sách có suy nghĩ về vấn đề đang quan tâm, đọc ghi chép một cách khoa học.
Đọc sách có thể theo các bước: xây dựng mục đích đọc sách, tìm mục lục, xác định
ý chính, xem lời mở đầu hoặc mục lục, đọc sâu vào nội dung quan tâm. Các bước
trên giáo viên cần đưa ra mẫu, hướng dẫn chu đáo và khuyến khích học sinh đọc
sách.
- Kỹ năng ghi chép tài liệu trong tự học của học sinh
Phần lớn học sinh dân tộc thiếu kỹ năng ghi chép cẩn thận trong học trên lớp
và tự học. Theo thống kê, cách ghi chép bài học trên lớp của học sinh cũng còn
nhiều lỗi: ghi chép thiếu trọng tâm, không chú ý đến các vấn đề cơ bản từ bài
giảng, chưa biết cách ghi tóm tắt bài giảng. Trong tự học, ở khâu đọc sách, học sinh
chưa có kỹ năng ghi chép tài liệu, do vậy khả năng ghi nhớ ý chính của tài liệu hạn
chế.
- Hình thành các kỹ năng giải bài tập nhận thức trong tự học của học sinh
Bài tập nhận thức đòi hỏi học sinh phải huy động kiến thức, kỹ năng để thực
hiện nhiệm vụ đề ra. Đối với học sinh, loại bài tập nhận thức có tác dụng rèn luyện
những thao tác tư duy cơ bản cho các em: phân tích, tổng hợp, khái quát hoá
Các bước giải bài tập nhận thức như sau:
- Tìm hiểu yêu cầu của từng đề tài;
- Xác định tri thức đã biết, xác định cái phải tìm;
- Phân tích mối liên hệ giữa hai yếu tố trên;
- Xác định trật tự lời giải và thực hiện;
- Tìm ra kết quả và kiểm tra lại kết quả.
5

Trong thực tế, học sinh chưa tuân thủ các bước giải bài tập theo quy trình trên.
Nhiều giáo viên đánh giá, nhận xét rằng: các em chưa nắm chắc tri thức (chưa xác
định cái đã biết) đã vội vàng tìm đáp số, khi bế tắc dễ chóng nản. Ngay cả kỹ năng
(được coi là bước cơ bản) khi giải bài tập là xác định rõ yêu cầu của bài cũng còn
yếu kém. Vì thế, ngay cả khi thực hiện những bài tập, bài viết, bài thi, các em
thường làm lạc đề. Đối với môn xã hội, sự phân tích kỹ năng xác định yêu cầu còn
yếu, với môn tự nhiên, bước xác định mối quan hệ giữa cái đã biết và cái phải tìm
các em còn bỡ ngỡ. Nhiều khi, kết quả giải bài tập nhận thức của học sinh là do
thói quen, hoặc kết quả ngẫu nhiên, chứ chưa phải là do được rèn luyện kỹ theo
5 bước cơ bản ở trên.
- Hình thành kỹ năng hành động khái quát hoá và hệ thống hoá trong hoạt
động tự học
Khái quát hoá gồm các thao tác: phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hoá.
Những phẩm chất trí tuệ này là cốt lõi để hình thành hệ thống năng lực học tập. Sự
phát triển nhân cách của học sinh dân tộc thiểu số cũng như ở các đối tượng
học sinh khác phụ thuộc vào những yếu tố trên. Con đường cơ bản để khái quát hoá
là quy nạp và diễn dịch. Đối với học sinh dân tộc ở những lớp dưới, nên sử dụng
các quy nạp, ở đối tượng lớn hơn, con đường diễn dịch được dùng phổ biến hơn.
Tuy nhiên, sự kết hợp giữa quy nạp và diễn dịch là yếu tố cơ bản tạo nên hiệu quả
của khái quát hoá, đồng thời nó phụ thuộc chặt chẽ vào từng loại bài tập, từng thời
điểm, hoặc từng giai đoạn trong quá trình nhận thức.
Học sinh dân tộc ít người có khả năng khái quát hoá chậm hơn so với học sinh phổ
thông cùng lứa. Đặc điểm này không phải do năng lực, mà chủ yếu là các em chưa
được rèn luyện các kỹ năng khái quát hoá. Do các cấp học trước đó, giáo viên chủ
yếu dạy học theo con đường cung cấp khái niệm, hoạt động tự học của học sinh
chưa được chú ý toàn diện.
Kỹ năng hệ thống hoá là một kỹ năng rất quan trọng đối với học sinh trong
hoạt động nhận thức. Bản chất của sự vật hiện tượng (đối tượng của hoạt động nhận
thức) là một chỉnh thể, do vậy nhận thức nó đòi hỏi phải có cách tiếp cận theo quan
điểm hệ thống. Đồng thời, có nhận thức theo quan điểm này ta sẽ thấy rõ chức

năng, giá trị của từng nhân tố trong hệ thống đó. Chẳng hạn, khi dạy một nội dung,
6
theo một đề mục trong một giờ học, phải giúp học sinh nhận ra vị trí ý nghĩa của đề
mục đó nằm trong hệ thống tri thức của môn học. Hoặc khi làm bài tập, giải đề thi,
kiểm tra, đòi hỏi học sinh phải có sự liên hệ, nghiên cứu vấn đề đó trong một chỉnh
thể .
- Rèn luyện kỹ năng tự kiểm tra, tụ đánh giá trong hoạt động tự học của học
sinh
Hoạt động tự học, ngoài mục đích đạt được các nhiệm vụ, yêu cầu tự học, học
sinh còn phải biết và thường xuyên tự kiểm tra, tự đánh giá hoạt động tự học của
mình. Do tính chất và đặc điểm tự học của học sinh nói chung là huy động ở mức
độ cao các phẩm chất cá nhân như: sự nỗ lực, ý chí, quyết tâm, tinh thần tự lực, tự
giác trong học tập do vậy, nếu sự đánh giá, kiểm tra của giáo viên chính xác và
kịp thời, có tác dụng tích cực đối với hoạt động tự học của học sinh. Trên thực tế,
mọi hoạt động học tập nói chung và tự học nói riêng của học sinh, giáo viên chỉ thu
được thông tin ngược ngoài, sự kiểm soát đánh giá bên trong của học sinh khó toàn
diện và chính xác. Tuy nhiên, công tác kiểm tra đánh giá học sinh ở loại hình
trường nào cũng phải hướng đến mục đích tự kiểm tra, tự đánh giá.
Các bước tự kiểm tra, tự đánh giá có thể như sau: nhận thức rõ mục đích và
nội dung cần kiểm tra, đánh giá; nêu rõ các chuẩn ứng với các nội dung cho phù
hợp; đối chiếu khách quan giữa nội dung kiểm tra đánh giá so với chuẩn; tự nhận
xét lý do đạt hoặc không đạt chủ yếu so với chuẩn.
1.2. Giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học trong giờ dạy trên lớp
Quá trình hình thành một kỹ năng học tập cho học sinh cũng trải qua các
bước: nhận thức, thể nghiệm, thành thạo trong luyện tập và sáng tạo. Kỹ năng tự
học không phải là những "tiểu xảo" có thể luyện tập trong thời gian ngắn hoặc máy
móc, đơn điệu. Với điều kiện không gian và thời gian thuận lợi hoặc không thuận
lợi của môi trường tự học, nhưng nhờ vào đội ngũ giáo viên thường xuyên tham gia
tổ chức tự học cho học sinh, có thể hình thành kỹ năng tự học cho học sinh dân tộc
theo các bước sau:

+ Hướng dẫn lý thuyết về tự học. Đây là bước nhận thức quan trọng đối với
học sinh. Vấn đề cơ bản là chuyển hoá từ quan niệm tự học có tính bắt buộc, cưỡng
7
chế ở học sinh sang nhận thức tích cực: tự học là cho mình, để đạt được mục đích
tự thân. Không ít học sinh còn chưa có ý niệm đúng về tự học, vì thế có các biểu
hiện sai lệch trong tự học: có chấp hành tất thời gian, chăm chú, song không động
não; hoặc: luôn trao đổi để thoả mãn tò mò, hoặc gây mất trật tự, hoặc có thái độ uể
oải, chán học, làm việc riêng Phải làm tốt bước này đối với học sinh đầu cấp; đối
với học sinh trung bình, yếu kém lại càng cần phải chú trọng, trước khi chuyển
sang bước tiếp sau.
+ Các kỹ năng tự học phải được giáo viên làm mẫu thật chuẩn, rõ ràng, có
tác dụng như công thức áp dụng cho học sinh khi tự học. Chẳng hạn: kỹ năng lập
kế hoạch trong tự học, kỹ năng đọc sách, ghi chép, với các yêu cầu, các bước hết
sức cụ thể, càng chi tiết càng tốt, ở dưới dạng học lý thuyết hay thực hành đều
phải làm mẫu cụ thể.
+ Giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện theo mẫu. Chú ý đến từng loại đối
tượng: giỏi, khá, trung bình, yếu kém, kịp thời điều chỉnh những lệch lạc, uốn nắn
những sai lầm của học sinh khi luyện tập.
+ Giao nhiệm vụ tự học với mức độ khó ngày càng cao cho học sinh. ở bước
này đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trong. suốt quá trình dạy học
nhằm duy trì liên tục yêu cầu tự học đối với học sinh, nhờ đó mà hoàn thiện, phát
triển kỹ năng tự học của học sinh. Nhìn chung, các bước cơ bản hình thành kỹ năng
tự học cho học sinh phải được thực hiện đồng bộ, đặc biệt chú ý bước luyện tập
thường xuyên với những yêu cầu vừa sức nhưng độ khó ngày càng cao. Những
phương hướng tổ chức tự học cho học sinh phải được triển khai trong thực tiễn nhà
trường bằng các biện pháp cụ thể. Những biện pháp cụ thể do giáo viên bộ môn và
giáo viên chủ nhiệm đề xuất và thực hiện. Điểm mấu chốt của các biện pháp tổ
chức tự học nhằm phát triển kĩ năng tự học cho học sinh dân tộc là phải chú ý đến 2
đối tượng:
Đối với học sinh khu nội trú, tập trung rèn luyện kĩ năng học tập thể, học

nhóm; giáo viên tăng cường biện pháp kiểm tra hoạt động tự học trên lớp (mặc dù
ngoài giờ lên lớp chính khoá, song được xem như một khâu quan trọng của quá
trình dạy học trên lớp).,
Đối với những học sinh khác, tập trung rèn luyện kĩ năng tự tổ chức học tập, kĩ
8
năng hoàn thành các nhiệm vụ tự học (đã được xác định trong phiếu tự học); giáo
viên tăng cường kiểm tra mức độ hoàn thành nhiệm vụ tự học qua giờ học ngày
hôm sau. Tổng kết kinh nghiệm hoạt động tổ chức tự học cho học sinh miền núi đã
có nhiều kinh nghiệm quý, mặc dầu những biện pháp do giáo viên thực hiện, để có
thể trở thành một công việc thường xuyên lại là một vấn đề không đơn giản trong
điều kiện khó khăn hiện nay.
1.3. Thường xuyên kiểm tra việc tự học của học sinh tại khu nội trú
Giáo viên nên dành thời gian đến phòng ở của các em, việc làm này vừa có tác
dụng thể hiện sự quan tâm đối với học sinh vừa là một hình thức ngầm kiểm tra
mức độ tự học của học sinh. Để từ đó làm tăng ý thức tự học cho các em.
1.4. Cải tiến cách thức kiểm tra và đánh giá hoạt động tự học của học sinh
Vai trò, ý nghĩa của kiểm tra, đánh giá tự học
Hoạt động dạy học, với chức năng điều chỉnh quá trình nhận thức của học sinh
đòi hỏi phải có sự liên hệ qua lại. Các thông tin ngược ngoài và ngược trong có tác
dụng làm cơ sở quan trọng để người dạy, người học kịp thời điều chỉnh hoặc tự
điều chỉnh hoạt động của mình. Có thể biểu diễn qua sơ đồ khái quát:
Chức năng của kiểm tra, đánh giá trong hoạt động tự học cũng tập trung vào
việc phát hiện, điều chỉnh, phát triển trí tuệ cho học sinh. Đồng thời, việc kiểm tra,
đánh giá còn có ý nghĩa giáo dục, làm hoàn thiện những phẩm chất của người học.
Như chúng ta đã biết, dưới dạng các yêu cầu, hệ thống bài tập tự học thực chất
là hình thức cơ bản để qua đó, người học thực hiện các nhiệm vụ. Kết quả cuối
cùng của việc học phản ánh ở việc nắm 'tri thức, phát triển tri thức, thái độ, thế giới
quan của học sinh ở mức độ nào, đều được xác định bởi khâu kiểm tra đánh giá. Vì
9
vậy, có thể coi kiểm tra đánh giá là một hình thức tổ chức dạy học, một phương

pháp dạy học, một khâu quan trọng của dạy học.
Về mặt thực tiễn, không ít giáo viên còn quan niệm việc kiểm tra, đánh giá tự
học là kiểm tra giờ giấc hành chính, thái độ, nền nếp học tập, chứ chưa tập trung
vào ý nghĩa cơ bản là kiểm tra đánh giá mức độ hoàn thành các nhiệm vụ tự học.
Do đó, vai trò và chức năng kiểm tra đánh giá trong tự học chưa được coi trọng,
hoặc không thể hiện rõ, ở các trường phổ thông dân tộc nội trú, do điều kiện thuận
lợi về môi trường tự học, không gian, thời gian tự học, việc tự học được kế hoạch
hoá nên việc kiểm tra đánh giá tự học tưởng như dễ dàng kiểm soát. Tuy nhiên,
vấn đề lại không hoàn toàn như vậy. Tôi lấy một ví dụ cụ thể: 80% tập thể lớp ngồi
tự quản rất trật tự song ngồi quan sát kín đáo có thể nhận thấy hàng trăm hoạt động
xảy ra, có khoảng 35% học sinh tự học chuyên tâm; 10% học vẹt, đọc to; 10% ghi
chép ra giấy nhưng kết quả hạn chế; 15% hổng kiến thức nên chểnh mảng trong tự
học; 5% lười học, ỷ lại ngồi rất nghiêm nhưng không học; một số làm thơ, ghi nhật
ký, đọc truyện, viết thư cho nhau. . .
Như vậy, kiểm. tra đánh giá chất lượng tự học của học sinh phải có tác dụng
hỗ trợ, kích thích người học, nó phải tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình
tổ chức học tập của học sinh. Hình thức khen thưởng kịp thời, cho điểm, cộng
điểm, có thể có tác dụng tích cực đối với học sinh.
Một số biện pháp cải tiến hình thức kiểm tra đánh giá tự học của học sinh
Cải tiến hình thức kiểm tra đánh giá học tập của học sinh phải đảm bảo các
nguyên tắc cơ bản: tính khách quan, tính toàn diện, tính thường xuyên, tính phát
triển, và ý nghĩa giáo dục. . . Các hình thức cơ bản như: hỏi miệng, viết, làm bài tập
trắc nghiệm. . . phải được kết hợp chặt chẽ.
Xuất phát từ thực trạng công tác kiểm tra, đánh giá ở trường hiện nay, tôi đề
xuất các biện pháp cải tiến công tác này như sau: Kế hoạch hoá công tác kiểm tra,
đánh giá; căn cứ vào nội dung tự học của từng đối tượng được kiểm tra, đánh giá.
Biện pháp này nhằm mục đích: việc kiểm tra đánh giá lấy nội dung tự học của học
sinh (với yêu cầu cụ thể) làm cơ sở để kiểm tra, tránh tình trạng kiểm tra hình thức.
Đối với giáo viên bộ môn: chức năng cơ bản là kiểm tra tỉ mỉ, cụ thể các
nhiệm vụ tự học trên môn học cụ thể. Có thể cho điểm ngay trong quá trình kiểm

10
tra, đánh giá (vận dụng trong bối cảnh như trên). Phương châm cơ bản là: khuyến
khích học sinh tự kiểm tra, tự đánh giá. Đây là biện pháp cơ bản, lâu dài, có ý nghĩa
như một nhân tố quyết định đến chất lượng công tác kiểm tra, đánh giá tự học. Có
thể thực hiện theo các biện pháp:
+ Tự kiểm tra hoạt động của mình căn cứ vào kế hoạch tự học cá nhân;
+ Kiểm tra trong nhóm (kiểm tra lẫn nhau) nhằm bổ sung, trao đổi thắc mắc
và giải đáp;
+ Giữa các nhóm kiểm tra chéo.
2. Tổ chức thực hiện
Để tổ chức tự học cho học sinh, trước hết giáo viên và học sinh cần phải xác
định rõ tầm quan trọng của việc tự học đối với quá trình giáo dục. Giáo viên đổi
mới phương pháp giảng dạy, sử dụng các bài tập về nhà hay phân nhóm cho học
sinh để giao các nhiệm vụ chuẩn bị trước cho bài học. Phương pháp này có thể sử
dụng nhiều cho lớp chọn để giúp nâng cao ham muốn tự tìm tòi, học sinh tự mình
tìm hiểu, chuẩn bị bài trước và lên bảng thuyết trình cho giáo viên cùng các bạn
đặt câu hỏi, nhận xét, góp ý. Tuy nhiên, với phương pháp này giáo viên nên chú ý
cách thức làm việc nhóm tránh trường hợp chỉ một vài em trong nhóm chuẩn bị bài.
Đối với bộ môn Tin học, tôi đã sử dụng phương pháp này trong học kỳ I năm học
2013 – 2014 qua các bước như sau:
B1: Giáo viên lên kế hoạch, phân chia nội dung và bài tập cho từng nhóm
B2: Giáo viên hướng dẫn các nhóm, đưa ra yêu cầu cho từng nhóm
B3: Học sinh tự tìm tài liệu, chuẩn bị nội dung theo yêu cầu (có giới hạn
thời gian)
B4: Đại diện từng nhóm lên báo cáo
B5: Giáo viên và học sinh trong lớp nêu câu hỏi cho lớp
B6: Nhận xét về kết quả và quá trình làm việc của từng nhóm
B7: Giáo viên tổng kết và cho điểm từng nhóm.
Lưu ý: Trong khi tiến hành để tăng thêm sự kích thích cho học sinh thì giáo viên
nên cộng điểm ưu tiên cho những học sinh trong lớp đưa ra nhiều câu hỏi hay hoặc

trả lời được những câu hỏi mà tổ trình bày không trả lời được.
11
Đây là một trong những phương pháp có thể sử dụng để tổ chức giờ dạy trên
lớp nhằm lấy học sinh trung tâm, ngoài phương pháp này giáo viên có thể sử dụng
kết hợp với giao những bài tập phù hợp về nhà, tăng cường kiểm tra việc học bài
cũ, đến thăm khu nội trú của học sinh, nhắc nhở các em học bài và làm bài.
IV. Kiểm nghiệm
Sau một thời gian áp dụng những biện pháp trên và theo dõi kết quả tôi nhận
thấy học sinh nội trú của trường đã có tiến bộ rõ rệt trong bộ môn của tôi, cụ thể:
- Tình trạng học sinh không học bài cũ đã được khắc phục, các em xung phong
lên trả bài cũ nhiều hơn.
- Tinh thần tích cực xây dựng bài trong giờ học.
- Từ việc kiểm tra phòng ở của học sinh vào buổi tối tôi còn nhận thấy các em
chăm học bài hơn, tình trạng chơi đêm đã giảm nhiều.
Từ những kết quả trên đã cho thấy những biện pháp tôi đưa ra đã phần nào
mang lại hiệu quả tích cực nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
12
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận
Hoạt động tự học của học sinh là một nhân tố quan trọng, có tính chất quyết
định sự trưởng thành của nhân tố người học và hiệu quả giáo dục trong nhà trường
phổ thông. Nó có quan hệ biện chứng với hoạt động dạy của giáo viên và có quan
hệ chặt chẽ với hoạt động quản lý học sinh của nhà trường.
Hoạt động tự học của học sinh là một hoạt động mang tính chất tự nghiên cứu,
tự khám phá, dưới sự tổ chức, điều khiển và hướng dẫn của giáo viên. Do đó, cán
bộ quản lý khu nội trú của trường, giáo viên trực tiếp giảng dạy và học sinh cần
phải nhận thức một cách đầy đủ về vai trò và ý nghĩa của hoạt động tự học.
Hiệu quả của hoạt động tự học phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cụ thể: phụ thuộc
vào cách tổ chức giảng dạy và năng lực của học sinh và phụ thuộc vào tính tích
cực, độc lập sáng tạo trong hoạt động học tập của học sinh.

Hoạt động tự học của học sinh chỉ có kết quả cao khi có sự thống nhất giữa
hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò, hơn nữa còn phải có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các biện pháp tổ chức hoạt động tự học với nhau.
2. Đề xuất
- Một số biện pháp tổ chức tự học cho học sinh nội trú nêu trên không chỉ áp
dụng cho môn Tin học mà có thể áp dụng vào giảng dạy cho tất cả những bộ môn
khác trong nhà trường đều có thể mang lại hiệu quả giảng dạy cao.
- Nhà trường và Sở GD cần trang bị thêm nhiều tài liệu để phục vụ cho việc
tự học, tự nghiên cứu của học sinh.
Thanh hoá, ngày… tháng… năm 2014
Xác nhận của thủ trường đơn vị Người viết SKKN
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Lê Thị Duyên
13
14

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×