MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng trị nước thuộc hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội
trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Mặt khác, nó đóng vai trò chỉ đạo thực
hiện các chủ trương quản lý xã hội, quản lý nhà nước về mọi mặt đời sống
xã hội của một thể chế chính trị nhất định. Nghiên cứu tư tưởng trị nước,
theo chúng tôi, có nguyên nhân từ hai yêu cầu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, yêu cầu về mặt lý luận, coi tư tưởng trị nước là sự phản ánh ý
chí, chủ trương của các triều đại phong kiến trong lịch sử, đồng thời quyết
định sự tồn vong của mỗi triều đại. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, tư tưởng
trị nước được hình thành và phát triển cùng với sự thiết lập và hoàn thiện của
bộ máy nhà nước phong kiến. Ngoài sự phái sinh từ tồn tại xã hội, sự phản
tư triết học với tư cách ý thức xã hội bao giờ cũng có tính độc lập tương đối,
tính vượt trước, nhờ đó mà thể chế chính trị xác định đường lối phát triển đất
nước trong các thời đoạn tiếp theo. Mặt khác, tư tưởng trị nước cũng có thể
được kế thừa biện chứng từ các học thuyết chính trị - xã hội vốn có từ trước
trong lịch sử, từng là công cụ hệ tư tưởng của nhiều triều đại phong kiến. Nhờ
có sự kế thừa những hạt nhân hợp lý, đồng thời tích hợp các hạt nhân đó từ
một số học thuyết mà nhà Lê Sơ đã hình thành nên đường lối trị nước khá
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của một đất nước vừa mới được giải phóng
khỏi sự chiếm đóng của nhà Minh suốt hơn 20 năm, với những nhiệm vụ vô
cùng cấp bách trong việc xây dựng vương triều cũng như khôi phục và phát
triển đất nước. Những thành tựu mà nhà Lê Sơ đã đạt được về các mặt chính
trị, văn hóa, giáo dục và kinh tế là nhờ đường lối trị nước dựa trên sự kết hợp
giữa đức trị và pháp trị. Đường lối trị nước đó chính là kho tàng lý luận vô
cùng quý báu của dân tộc ta, nhưng cho đến nay nó vẫn chưa được khai thác
triệt để. Mặt khác những kết quả nghiên cứu sẽ là luận cứ khoa học đóng góp
vào lĩnh vực khoa học xã hội nói chung và lĩnh vực lịch sử tư tưởng nói riêng.
Thứ hai, yêu cầu về mặt thực tiễn từ sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước ta hiện nay. Đó là làm thế nào để xây dựng một nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, thực hiện mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh". Nghiên cứu tư
tưởng về đường lối trị nước trong lịch sử theo tinh thần "ôn cố nhi tri tân" để
rút ra bài học cụ thể nào đó cho sự nghiệp to lớn đó của đất nước, tức là làm
rõ không chỉ những giá trị mang tính trường tồn và phổ biến từ các học
thuyết chính trị - xã hội, mà cả những hạn chế cần phải khắc phục, theo
chúng tôi, rõ ràng là có ý nghĩa cấp thiết.
Có thể nói, đó là những vấn đề muôn thuở của chính trị học mà việc giải
quyết nó không thể thiếu kinh nghiệm lịch sử mà nhà Lê Sơ đã để lại cho
chúng ta ngày nay. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên,
chúng tôi lựa chọn đề tài "Tư tưởng trị nước thời Lê Sơ và ý nghĩa lịch sử
của nó" với hy vọng góp phần nhỏ bé của mình vào lĩnh vực nghiên cứu cơ
bản về lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam cũng như sự nghiệp đổi mới về mọi
mặt đời sống chính trị - xã hội của đất nước ta hiện nay do Đảng Cộng sản Việt
Nam khởi xướng và lãnh đạo.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích:
Luận án trình bày những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành và nội dung
cơ bản của tư tưởng trị nước thời Lê Sơ, trên cơ sở đó chỉ ra những giá trị và bài
học lịch sử của tư tưởng đó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích nói trên, luận án cần giải quyết những nhiệm vụ
cơ bản sau đây:
Một là, trình bày một cách khái quát và có hệ thống các điều kiện, tiền
đề cho sự hình thành và thực hiện tư tưởng trị nước của thời Lê Sơ.
Hai là, làm rõ nội dung và thực chất của tư tưởng trị nước thời Lê Sơ,
sự cụ thể hóa tư tưởng đó trong đời sống hiện thực của xã hội, từ đó đánh giá
những mặt tích cực và hạn chế của nó.
Ba là, làm rõ vai trò và rút ra những bài học lịch sử của tư tưởng trị
nước thời Lê Sơ đối với việc lãnh đạo và quản lý đất nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
1 2
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
* Cơ sở lý luận:
Để xác định đúng những giá trị và hạn chế của tư tưởng trị nước trong
các triều đại phong kiến, đồng thời khẳng định những giá trị có thể kế thừa
vận dụng vào quản lý xã hội hiện đại, trong việc nghiên cứu tư tưởng trị
nước thời Lê Sơ, luận án xuất phát từ quan niệm duy vật về mối quan hệ
biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, về tính độc lập tương đối của
ý thức xã hội biểu hiện qua sự tác động tích cực của nó đối với tồn tại xã hội
và sự tương tác giữa các hình thái ý thức xã hội làm cơ sở lý luận chủ yếu.
Ngoài ra chúng tôi có dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để đánh giá về tính hạn
chế và tích cực của tư tưởng trị nước thời Lê Sơ làm cơ sở để rút ra ý nghĩa
và bài học lịch sử từ tư tưởng trị nước thời này.
* Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài chúng tôi sử dụng các phương pháp của lịch sử triết
học mácxít, chủ yếu là phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, thống nhất
giữa tính lịch sử cụ thể và lôgíc, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
* Đối tượng nghiên cứu:
Tư tưởng về đường lối trị nước của triều đại Lê Sơ (1428 - 1527) và ý nghĩa
lịch sử của tư tưởng đó đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận án khảo cứu tư tưởng trị nước trong lịch sử chế độ phong kiến Việt
Nam thông qua các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê, Lý - Trần; đồng thời đối
chiếu, so sánh tư tưởng trị nước của các triều đại đó với triều Lê Sơ. Trên cơ sở đó,
bước đầu đưa ra những đánh giá khái quát những mặt tích cực và hạn chế của tư
tưởng trị nước thời Lê Sơ, chỉ ra những bài học lịch sử hữu ích có thể kế thừa,
vận dụng trong công tác quản lý xã hội, quản lý đất nước ta giai đoạn hiện nay.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu khoa học cơ bản, trình bày một cách
hệ thống và phân tích chuyên sâu tư tưởng trị nước của triều đại Lê Sơ dưới
góc độ lịch sử tư tưởng triết học. Cụ thể luận án có những điểm mới sau:
- Luận án khẳng định những tư tưởng, quan điểm và cách lựa chọn
đường lối trị nước của triều đại Lê Sơ (1428 - 1527) là sản phẩm nảy sinh từ
tồn tại xã hội hiện thực của thế kỷ XV - XVI, trên cơ sở có sự kế thừa những
học thuyết, quan điểm trị nước của Trung Hoa và các triều đại phong kiến
Việt Nam trước đó.
- Luận án hệ thống hóa và phân tích những quan điểm trị nước cũng như
cách thức trị nước của triều đại Lê Sơ để khẳng định tính qui định của tồn tại
xã hội đối với ý thức xã hội, cụ thể là tất yếu của đường lối cai trị dựa trên
sự kết hợp đức trị với pháp trị đương thời.
- Luận án chỉ ra những giá trị tích cực và hạn chế trong tư tưởng trị
nước của triều đại Lê Sơ, đồng thời rút ra những bài học lịch sử về chính
sách an dân bằng đề cao nhân nghĩa, trọng dân; trị nước bằng sự kết hợp đức
trị với pháp trị nhưng không kém phần nhân bản, nhân văn; bài học về xây
dựng đội ngũ cán bộ.v.v đối với việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
* Về mặt lý luận:
Luận án là công trình có ý nghĩa trong việc hệ thống hóa các quan điểm
trị nước của các học thuyết trong lịch sử phong kiến Trung Hoa và Việt
Nam; làm rõ sự phát triển của tư tưởng trị nước trong chế độ phong kiến
Việt Nam nói chung và của triều đại Lê Sơ nói riêng; bước đầu đánh giá
những mặt hạn chế và tích cực của tư tưởng trị nước trong giai đoạn này. Kết
quả nghiên cứu của luận án là sự đóng góp cho kiến thức lý luận về lịch sử,
lịch sử tư tưởng, tư tưởng chính trị và quản lý xã hội, góp thêm luận cứ khoa
học cho thực tiễn quản lý xã hội ở nước ta hiện nay cũng như cho sự phát
triển của khoa học lịch sử tư tưởng ở Việt Nam.
* Về mặt thực tiễn:
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác giảng dạy
và học tập chuyên ngành Lịch sử tư tưởng phương Đông và Việt Nam cũng
như cho các đối tượng làm công tác quản lý xã hội muốn tìm hiểu kinh
nghiệm trị nước trong lịch sử.
1 2
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận án gồm 4 chương, 13 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Những công trình nghiên cứu về thời Lê Sơ có đề cập đến các
khía cạnh của tư tưởng trị nước
Những công trình nghiên cứu dưới góc độ lịch sử về thời Lê Sơ: Ở
loại hình nghiên cứu này, ngoài những bộ sử lớn như Đại Việt sử ký toàn
thư, Lịch triều hiến chương loại chí,Khâm định Việt sử thông giám cương
mục…, còn có một số công trình tiêu biểu khác, cụ thể:
+ Việt Nam sử lược, của Trần Trọng Kim.
+ Việt Nam lịch sử giáo trình, của Đào Duy Anh.
+ Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, của Đào Duy Anh.
+ Việt sử tân biên - Trần Lê Thời đại, của Phạm Văn Sơn.
+ Bản dịch lời tựa Hồng Đức thiện chính thư, của Vũ Văn Mẫu.
+ Đại cương lịch sử Việt Nam, của Phan Huy Lê.
+ Cuốn Lịch sử Việt Nam, (tập 1), của Ủy ban Khoa học Xã hội.
+ Bài viết Thử căn cứ vào bộ luật Hồng Đức để tìm hiểu xã hội Việt Nam
thời Lê Sơ, của Văn Tân, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 46, 1963.
Những công trình nghiên cứu về nhà nước, luật pháp và bộ máy cai
trị thời Lê Sơ: Ở loại hình này đáng chú ý là các bài viết trong hội thảo Lê
Thánh Tông (1442-1497) con người và sự nghiệp, cụ thể:
+ Bài viết Suy nghĩ về cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông,
của Trương Hữu Quýnh.
+ Bài viết Cải cách quan lại địa phương dưới thời Lê Thánh Tông, của
Nguyễn Hoàng Anh.
+ Vài nét về sự thay đổi hành chính và tổ chức chính quyền địa phương
dưới triều Lê Thánh Tông (1460 - 1497), của Nguyễn Đức Nhuệ.
Nghiên cứu về pháp luật thời Lê Sơ đáng chú ý là các công trình:
- "Quốc triều hình luật: lịch sử hình thành, nội dung và giá trị" do Lê
Thị Sơn làm chủ biên. Trong đó có thể kể đến những bài viết sau:
+ "Nước Đại Việt thời Lê Sơ - một vài đặc điểm căn bản của nền tảng
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội", của Nguyễn Hải Kế.
+ Tư tưởng đức trị và pháp trị trong Quốc triều hình luật, của Vũ Thị Nga.
- Quốc triều hình luật những giá trị lịch sử và đương đại góp phần xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam của Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư
pháp biên soạn.Trong đó đáng chú ý là các bài viết:
+ Kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong đạo trị quốc an dân của Lê
Thánh Tông, của Uông Chu Lưu.
+ Cải cách bộ máy nhà nước dưới triều Lê Thánh Tông và những giá
trị đương đại, của Bùi Xuân Đức
Các công trình nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục và đào tạo: Đáng chú
ý là luận án tiến sĩ khoa học lịch sử Chế độ đào tạo và tuyển dụng quan chức
thời Lê Sơ (1428 - 1525), của Đặng Kim Ngọc, bảo vệ năm 1997.
Những công trình nghiên cứu về lĩnh vực kinh tế: Ở lĩnh vực này
đáng chú ý là công trình nghiên cứu:
+ Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê Sơ, của Phan Huy Lê.
+ Tư tưởng kinh tế thời Lê Thánh Tông, đăng trong hội thảo Lê Thánh
Tông (1442 -1497) con người và sự nghiệp, của Đỗ Đức Hùng.
Những công trình nghiên cứu về lĩnh vực quân sự:
+ Chính sách ngụ binh ư nông các thời Lý - Trần - Lê Sơ (thế kỷ XI -
thế kỷ XV), của Nguyễn Anh Dũng
+ Những cải cách trên lĩnh vực quân sự, của Nguyễn Đình Sĩ, đăng trong
hội thảo Lê Thánh Tông (1442 - 1497) con người và sự nghiệp.
1.2. Những công trình nghiên cứu về tư tưởng và ý nghĩa của tư
tưởng trị nước thời Lê Sơ
Những công trình nghiên cứu về lịch sử tư tưởng và ý nghĩa tư tưởng trị
nước của thời Lê Sơ có thể kể đến dưới đây:
- Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I, do Nguyễn Tài Thư làm chủ biên.
- Đức trị và pháp trị trong Nho giáo, của tác giả Vũ Khiêu
- Bài viết Hệ tư tưởng Lê của tác giả Nguyễn Duy Hinh.
1 2
- Cuốn Lê Thánh Tông (1442 - 1497) con người và sự nghiệp. Với một
số bài viết sau:
+ Về đường lối trị nước của Lê Thánh Tông, của Nguyễn Thừa Hỷ.
+ Lê Thánh Tông và Nho học - Nho giáo, của Phan Đại Doãn.
+ Lê Thánh Tông, của Phan Huy Lê.
Ngoài ra, trong các nghiên cứu về tư tưởng của thời Lê Sơ còn có một
số luận văn, luận án có đề cập đến một vài nhà vua tiêu biểu của giai đoạn này:
+ "Các chính sách về xã hội của nhà nước Lê Sơ (1428 - 1527)", Luận
án tiến sĩ Sử học, của Lê Ngọc Tạo, bảo vệ năm 2001.
+ "Tìm hiểu tư tưởng chính trị nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh Tông
đến Minh Mệnh", Luận án tiến sĩ Triết học, của Nguyễn Hoài Văn, bảo vệ năm
2001.
+ "Học thuyết pháp trị Trung Hoa thời cổ đại giá trị và sự kế thừa
trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật học của Đỗ Đức
Minh.
+ "Vấn đề đức trị và pháp trị trong lịch sử tư tưởng Việt Nam",Luận án
tiến sĩ Triết học, của Phan Quốc Khánh, bảo vệ năm 2004.
+ "Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở
Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX)", Luận án tiến sĩ Triết học,
của Nguyễn Thanh Bình, bảo vệ năm 2005.
Khảo sát các công trình nghiên cứu về thời Lê Sơ, chúng tôi đi đến nhận
định: cho đến nay chưa có công trình mang tính chuyên khảo nào về tư tưởng trị
nước mang tính hệ thống về thời Lê Sơ và rút ra những bài học lịch sử cho
công tác quản lý xã hội hiện nay từ tư tưởng trị nước của triều đại này.
Chương 2
NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CƠ BẢN
CHO SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC CỦA THỜI LÊ SƠ
2.1. Lý luận chung về tư tưởng trị nước và tư tưởng trị nước thời
Lê Sơ
2.1.1. Khái niệm tư tưởng trị nước
Khái niệm tư tưởng trị nước dưới góc độ triết học được hiểu là hệ thống
các quan niệm, quan điểm về quốc gia xã tắc để từ đó hình thành nên chủ
trương, chính sách, biện pháp mà chủ thể cai trị đưa ra để thiết lập trật tự, ổn
định xã hội, đồng thời đảm bảo quyền thống trị của mình trong một giai đoạn lịch
sử nhất định.
2.1.2. Tư tưởng trị nước thời Lê Sơ là một hình thái ý thức xã hội thể
hiện chủ trương cai trị của triều đình Lê Sơ
Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội thời Lê Sơ là mối quan
hệ biện chứng trong đó ý tức xã hội chính là sự phản tư của tồn tại xã hội
của giai đoạn này.
Trong trường hợp triều đại phong kiến Lê Sơ, chức năng phản tư của tư
tưởng trị nước với tư cách là một hình thái ý thức xã hội đã góp phần hình
thành nên đường lối trị nước đức trị kết hợp với pháp trị. Đường lối trị nước
ấy có sự kế thừa kinh nghiệm về đường lối trị nước của các triều đại phong
kiến Việt Nam trước đó cũng như lý luận về đường lối trị nước của phương
Đông trong lịch sử cũng như đương thời và biến đổi cho phù hợp với thời đại.
2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội và chính trị cho sự hình thành tư
tưởng trị nước của thời Lê Sơ
2.2.1. Điều kiện kinh tế thời Lê Sơ
Cơ sở kinh tế của Đại Việt thời Lê Sơ là nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu nằm trong phương thức sản xuất phong kiến bị tàn phá bởi ách đô hộ
hơn 20 năm của nhà Minh. Nhà Lê Sơ từng bước phát triển nền kinh tế nông
nghiệp đó theo hướng kinh tế địa chủ được xây dựng dựa trên quan hệ sở
hữu ruộng đất với ba hình thức: Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước; ruộng đất
công làng xã; ruộng đất tư hữu.
Để phát triển kinh tế nhà Lê Sơ đã thực hiện một loạt các biện pháp để
khắc phục như: chia ruộng đất cho dân, hạn chế số lượng tăng ni, chia quân
về làm ruộng, khuyến khích sinh đẻ để tăng dân số, nghiêm cấm việc hoạn
thiến trong dân, đề cao vai trò và vị trí người phụ nữ coi họ như một lực lượng
lao động chính ở địa phương, xóa bỏ chế độ điền trang thái ấp, đưa nền kinh
tế nông nghiệp phát triển chủ yếu theo khuynh hướng kinh tế địa chủ.
2.2.2. Cơ cấu xã hội và cơ cấu giai tầng xã hội thời Lê Sơ
1 2
Trong công trình của chúng tôi, đối tượng nghiên cứu là xã hội phong
kiến đang ở giai đoạn phát triển theo hướng trung ương tập quyền. Chính vì
vậy nghiên cứu cơ cấu xã hội ở giai đoạn này chúng tôi coi cơ cấu xã hội là
một tổng hòa toàn bộ các cộng đồng hoạt động của xã hội bao gồm trong nó
cả các giai cấp và những tầng lớp nhân dân mà sự phân chia nó dựa vào
các tiêu chí khác với tiêu chí phân chia giai cấp.
Cơ cấu xã hội thời Lê Sơ bao gồm hai tầng lớp chủ yếu, đó là tầng lớp
thống trị và tầng lớp bị trị.
Tầng lớp thống trị dưới thời Lê Sơ là vua và các bậc quan lại. Tầng lớp
bị trị là tứ dân, bao gồm sĩ, nông, công, thương.
Theo chúng tôi, tầng lớp xã hội trong xã hội thời Lê Sơ là những nhóm
xã hội có quyền và nghĩa vụ được thiết định trong tập quán hoặc luật lệ và
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các tầng lớp đó được phân
định trên cơ sở giai cấp và thể hiện những đặc quyền, đặc ân khác nhau (đối
với tầng lớp phong kiến thống trị) và nghĩa vụ tuân thủ, phục tùng (đối với
tầng lớp bị trị).
2.2.3. Về giáo dục - đào tạo
Ngoài cơ cấu giai tầng nói trên, việc phân chia dân cư trong cộng đồng
thành các tầng lớp xã hội còn căn cứ vào nghề nghiệp của cá nhân trong
cộng đồng trong đó giáo dục - đào tạo là cơ sở. Vì vậy tồn tại xã hội còn
được thể hiện ở cơ cấu tổ chức của nền giáo dục - đào tạo.
Trong xã hội thời Lê Sơ, nền giáo dục nghề nghiệp rất hạn chế bởi triều
đình chủ trương độc tôn Nho giáo trên lĩnh vực chính trị. Nền giáo dục này
chủ yếu là đào tạo đội ngũ quan lại còn đào tạo nghề nghiệp mang tính chất
sinh kế thường diễn ra một cách tự phát trong điều kiện hạn hẹp của gia
đình, làng xã, ngành nghề mà cộng đồng đó đã làm. Điều này cũng đưa đến
một giai tầng phức tạp cho xã hội thời Lê Sơ.
2.2.4. Điều kiện chính trị thời Lê Sơ
2.2.4.1. Sự hình thành nhà nước Lê Sơ
Sau thời kỳ khủng hoảng của nhà Trần vào cuối thế kỷ XIV, sự đảo
chính của nhà Hồ và sự xâm lược của nhà Minh, Lê Lợi - một hào trưởng ở
sách Khả Lam (Thọ Xuân) - đã chiêu tập binh sĩ, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa
chống lại quân xâm lược Minh, đó chính là nghĩa quân Lam Sơn. Năm 1428,
sau cuộc kháng chiến chống Minh thắng lợi hoàn toàn, ngày 15 tháng 4,
Lê Lợi chính thức lên ngôi hoàng đế, lập lên nhà Lê Sơ.
2.2.4.2. Quá trình xây dựng và phát triển của nhà nước Lê Sơ
Sau thắng lợi trước quân Minh nhà Lê Sơ được thành lập đã bắt tay
vào xây dựng và phát triển Đại Việt. Nhà Lê Sơ đã tiến hành xây dựng
đất nước trên nhiều mặt mang tính toàn diện.
Về phương diện xã hội, triều đình Lê Sơ đã ra sức thi hành nhiều
biện pháp tích cực nhằm phục hồi cuộc sống của nhân dân mà trước hết
là việc nội trị và phát triển kinh tế.
Về tổ chức bộ máy nhà nước, nhà Lê Sơ đã từng bước hoàn thiện tổ
chức bộ máy nhà nước trải qua các vương triều Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông,
Lê Nhân Tông, cho đến thời Lê Thánh Tông, chính quyền Lê Sơ đã đạt đến
sự phát triển hoàn thiện.
2.3. Tiền đề văn hóa - tư tưởng và cách thức trị nước của các triều
đại trước cho sự hình thành tư tưởng trị nước thời Lê Sơ
2.3.1. Quan điểm trị nước ở một số trường phái triết học chính trị -
xã hội Trung Hoa cổ đại
2.3.1.1. Quan điểm trị nước của Nho giáo
Quan điểm trị nước của Nho giáo có thể tóm tắt ở những nội dung sau:
Thứ nhất, đó là quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng. Nho giáo
quan niệm, xã hội lý tưởng là xã hội ổn định, thái bình và mang tính đại
đồng. Xã hội lý tưởng đó bao gồm những đặc trưng cơ bản: Một là, xã hội
thái bình, ổn định, có trật tự kỷ cương, lễ giáo, mọi người trong xã hội đều
có quyền lợi, sống bình đẳng hòa mục và được chăm sóc; hai là, xã hội có
đạo đức, trong xã hội đó có vua thánh, tôi hiền và con người có đời sống vật
chất tương đối đầy đủ, trên cơ sở đó, kỷ cương và trật tự xã hội được thiết
lập; ba là, xã hội có giáo dục, mọi người trong xã hội đó phải được giáo hóa
về nhân, nghĩa, trí, tín.
Thứ hai, về đường lối trị nước, Nho giáo chủ trương sử dụng đường lối
Đức trị trong trị nước, an dân. Để thực hiện đường lối Đức trị, theo Nho giáo,
cần phải thực hiện những yêu cầu sau: Một là, người cai trị phải có đức và
1 2
phải "thân giáo"; hai là, trị nước phải trọng dụng người hiền tài; ba là, người
cầm quyền phải quan tâm đến dân và giáo hóa dân; bốn là, dùng hình pháp
chỉ là điều bất đắc dĩ; năm là, cai trị phải thực thi nhân, lễ và chính danh.
2.3.1.2. Quan điểm về trị nước của Pháp gia
Nội dung của tư tưởng pháp trị của Pháp gia gồm:
Thứ nhất, học thuyết pháp trị chủ trương dùng luật pháp làm công cụ trị nước
Thứ hai, bậc làm vua phải củng cố và đề cao uy quyền, phải thâu tóm
toàn bộ quyền lực nhà nước để đảm bảo cho pháp luật được thi hành.
Thứ ba, bậc làm vua phải có thuật cai trị như thuật dùng người, thuật
kiểm tra giám sát, thuật thưởng phạt hoàn bị, thống nhất.
2.3.2. Vai trò của đường lối trị nước dựa trên sự kết hợp "đức trị" với
"pháp trị" của các triều đại trước đến sự hình thành tư tưởng trị nước
thời Lê Sơ
2.3.2.1. Vài nét khái quát bối cảnh lịch sử Đại Việt dưới ba triều đại
phong kiến Lý - Trần và Hồ
Từ thế kỷ thứ X trở đi, nước ta bước vào giai đoạn củng cố và phát triển
nhà nước phong kiến. Kế thừa sự nghiệp của các triều đại Ngô - Đinh - Tiền
Lê, các triều đại Lý - Trần - Hồ đã tập trung vào xây dựng và củng cố về mặt
quyền lực, ổn định xã hội và dân chúng, phát triển kinh tế, văn hóa.
Sau khi Hồ Quý Ly phế truất vua Trần để lên ngôi, lấy cớ chinh phạt
nhà Hồ, quân Minh đã tiến hành xâm lược nước ta. Tháng 10 năm 1406,
thành Thăng Long thất thủ, toàn bộ vua quan nhà Hồ đã bị bắt, nước ta bị rơi
vào tình trạng đô hộ của nhà Minh.
2.3.2.2. Đường lối trị nước của các triều đại phong kiến trước thời Lê Sơ
Đường lối trị nước của bất kỳ triều đại phong kiến nào cũng thể hiện ở
việc xác định mô hình xã hội lý tưởng và cách thức thiết lập mô hình xã hội
đó thông qua nội dung, đặc điểm về đường lối trị nước.
Thứ nhất, về mô hình xã hội lý tưởng: xã hội lý tưởng được đặt ra dưới thời
Lý, đó là xã hội mà "trên thuận theo ý trời, dưới theo ý dân". Sang thời Trần,
quan niệm về xã hội lý như trên được các nho sĩ bổ sung thêm những đặc trưng
mới cho phù hợp với thời cuộc kháng chiến. Trong thời nhà Hồ, Hồ Quý Ly
quan niệm về xã hội lý tưởng là xã hội có mô hình nhà nước mạnh, có nền văn
hóa phát triển và đặc biệt ở đó chú trọng đến vấn đề phát triển các giá trị dân tộc.
Thứ hai, về cách thức trị nước. Các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê trong
thế kỷ X trên thực tế đang ở trong giai đoạn tìm tòi cách thức cai trị mà
tương ứng với nó là sự xác định hệ tư tưởng của triều đại mình. Cả ba triều
đại này đều có điểm chung là không chú trọng đến sự vận dụng và phát triển
Nho học vào đường lối trị nước.
Sang thời Lý - Trần và Hồ thì sự kết hợp tư tưởng đức trị với pháp trị đã
bộc lộ ra rõ ràng ở các mức độ khác nhau. Đối với nhà Lý - Trần đó là
đường lối kết hợp đức trị với pháp trị vào đường lối trị nước theo tinh thần
"đức chủ, pháp bổ" một cách có qui củ.
2.3.3. Ảnh hưởng của đường lối trị nước dựa trên sự kết hợp "đức trị"
và "pháp trị" trong lịch sử đối với sự lựa chọn đường lối trị nước thời Lê Sơ
Đường lối trị nước của nhà Lê Sơ là đường lối đức trị kết hợp với pháp
trị, đường lối đó có sự ảnh hưởng và kế thừa đường lối trị nước của các triều
đại phong kiến Việt Nam và Trung Hoa trước đó. Trong lịch sử Trung Hoa,
sự tồn tại lâu dài của chế độ phong kiến Trung Hoa từ thời Hán đến cách
mạng Tân Hợi (1911), có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, đó là nhờ
sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị dưới vỏ bọc của tư tưởng thần quyền.
Ở Việt Nam, thời Lý - Trần đã có sự kết hợp đức trị với pháp trị như
chúng tôi đã phân tích ở trên. Mặt khác, ở các triều đại này tư tưởng nho
giáo đã từng bước được chú trọng và sử dụng trong cả quá trình cai trị lẫn
chủ trương phát triển giáo dục và phát triển văn hóa.
Chương 3
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
TRONG TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC CỦA THỜI LÊ SƠ
3.1. Chính sách đối đãi với các tầng lớp nhân dân và chủ trương đối
ngoại để thiết lập sự ổn định xã hội và bảo vệ nền độc lập dân tộc của
nhà nước Lê Sơ
3.1.1. Chính sách đối đãi và thái độ của nhà nước Lê Sơ với tầng lớp
quan lại và binh lính
3.1.1.1. Chính sách đối đãi với quan lại
1 2
Trong quan hệ đối với tầng lớp quan lại nhà nước Lê Sơ đã giành cho
họ sự quan tâm ưu đãi đặc biệt trên cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần, đáp lại
là những đóng góp quan trọng mang tính quyết định trong việc đấu tranh
giành độc lập và bảo vệ vương triều này từ phía quan lại.
Về mặt vật chất: Trong thời Lê Sơ, quan lại được nhà nước quan tâm
ban cấp cho một số lượng ruộng đất lớn. Ngoài ruộng đất, nhà nước này cũng
còn có chính sách ưu đãi cho các quan lại nói chung bằng lộc điền, bổng lộc.
Về mặt tinh thần nhà Lê Sơ tiến hành phong tước và tập ấm cho quan
lại và con cháu họ. Ngoài ra quan lại và con cháu của họ còn được nhà nước
miễn thuế khóa, miễn phu dịch.
3.1.1.2. Chính sách đối đãi của nhà nước với binh lính
Sau chiến tranh nhà Lê Sơ đã có những chính sách cụ thể phù hợp với
thực tế đáp ứng được nhu cầu về nhân lực cho sản xuất và nguồn ngân sách
dành cho quân đội. Nhà nước Lê Sơ đã giành cho binh lính những ưu đãi cả
về kinh tế lẫn chính trị.
Về mặt vật chất và quyền lợi chính trị, nhà Lê Sơ ban cấp ruộng đất cho
binh lính, chủ trương miễn mọi thuế khóa, lao dịch 3 năm cho những gia đình có
người tòng quân, chia quân về làm ruộng. Ngược lại binh lính đáp lại cho nhà
Lê Sơ là sự phục vụ tận tụy và sự hy sinh để bảo vệ triều đại này và đất nước.
3.1.2. Chính sách đối đãi và thái độ của nhà nước Lê Sơ với các tầng
lớp nhân dân ngoài bộ máy nhà nước
3.1.2.1. Chính sách đối đãi với tầng lớp nông dân
Nông dân là lực lượng đông đảo trong thời Lê Sơ. Mối quan hệ giữa
nhà nước với nông dân được thể hiện tập trung trong chính sách quan tâm
đến nông dân trên các mặt sau:
Thứ nhất, ổn định đời sống nhân dân sau chiến tranh, giải quyết tình
trạng dân lưu tán. Thứ hai, để ổn định nông dân nhà Lê Sơ chủ trương nới nhẹ tô
thuế, cứu tế dân nghèo khi gặp khó khăn và chính sách quân điền cấp ruộng cho
dân. Thứ ba, xây dựng đê điều và công trình thủy lợi phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp, cùng với nó là tinh thần "bất vi nông thời" và cắt đặt quan chức chăm
lo nông nghiệp của nhà Lê Sơ.
3.1.2.2. Chính sách đối đãi với tầng lớp nho sĩ trí thức
Về mặt vật chất, phép quân điền dưới thời Lê Thánh Tông đã giành cho
tầng lớp học sinh, kẻ sĩ những ưu ái đặc biệt về khẩu phần ruộng đất, ở
những thời điểm nhất định họ còn được ban cấp lương bổng.
Về mặt tinh thần, nho sĩ ngoài việc được miễn lính, miễn lao dịch… họ
còn được nhà nước ban cho nhiều ân điển, tôn vinh, ghi danh, được dựng bia
ở nhà Thái học để lưu danh.
3.1.2.3.Thái độ của triều đình Lê Sơ đối với thương nhân
Trong quan hệ với nhà nước, nhìn chung tầng lớp thương nhân, buôn
bán dưới thời Lê Sơ không được nhà nước coi trọng và không được hưởng
nhiều ưu đãi từ phía nhà nước, thậm chí ở những giai đoạn cụ thể họ còn bị
cấm đoán. Dưới con mắt của triều đình họ là những người bị khinh miệt.
3.1.2.4. Chính sách đối đãi đối với thợ thủ công
Trong giai đoạn này nhà nước cũng có những chính sách ưu đãi nhất định
cho thợ thủ công về ruộng đất, lương bổng. Tuy nhiên, pháp luật không quy
định chặt chẽ và cụ thể cho tầng lớp này. So với các tầng lớp nhân dân khác như
nho sĩ, binh lính hay nông dân thì thợ thủ công không được quan tâm nhiều.
3.1.3. Chính sách đối ngoại của nhà nước Lê Sơ
Chính sách đối ngoại của nhà Lê Sơ thể hiện tập trung theo các hướng:
Thứ nhất, để đất nước được trị, triều đại cũng có khi cần đến quyền
mưu để trừ gian (cả thù trong lẫn giặc ngoài).
Thứ hai, với tinh thần "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân" (Nguyễn Trãi),
triều đại Lê Sơ sau khi đánh tan quân xâm lược nhà Minh (1427), Lê Lợi theo
lời khuyên của Nguyễn Trãi đã nâng tư tưởng nhân nghĩa lên thành tư tưởng
nhân văn, đã thể hiện tinh thần khoan dung trong việc tha giết tù hàng binh.
Thứ ba, nhà Lê Sơ thực hiện chính sách ngoại giao với phương Bắc trên
tinh thần độc lập dân tộc gắn liền với bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
3.2. Một số biện pháp cụ thể nhằm thực hiện chính sách an dân
trong chủ trương cai trị của thời Lê Sơ
Những biện pháp cụ thể mà nhà Lê Sơ tiến hành để an dân bao gồm:
Thứ nhất, phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng "nông tang" để có
đủ cơm áo.
Thứ hai,chấn chỉnh quan lại để thực hiện nhiệm vụ "thế thiên hành hóa”
1 2
Thứ ba, xây dựng và sử dụng pháp luật để khuyến thiện, trừ ác cho dân
được yên.
Thứ tư, thúc đẩy sự phát triển văn hóa với phương châm sử dụng lễ
nghĩa để sửa tốt lòng dân .
Thứ năm, chủ trương văn trị kết hợp với võ bị để bảo vệ chủ quyền
quốc gia.
3.3. Xây dựng bộ máy quan chức trong thời Lê Sơ
3.3.1. Hệ thống giáo dục đào tạo trong thời Lê Sơ
Nền giáo dục đào tạo dưới thời Lê Sơ là một nền giáo dục khá phát triển
hai hình thức là trường học công và trường học tư.
Giáo dục đào tạo thời Lê Sơ hướng tới mục đích cao nhất là thi cử để
tham gia vào chốn quan trường, còn mục đích của người dạy là tạo ra tầng
lớp quan liêu để cai trị và quản lý xã hội.
Phương pháp học dưới thời phong kiến nói chung và thời Lê Sơ nói riêng
chủ yếu là học thuộc lòng nhiều kinh điển của Nho giáo như Tứ thư, Ngũ kinh…
Nội dung và môn thi gồm có: Kinh nghĩa; văn sách, thi, phú, chiếu, chế, biểu
cũng có khi còn có những môn khác như ám tả, tập viết, luật pháp, thuật toán…
Về tổ chức thi: Để trở thành một viên quan chức người học phải trải qua
khá nhiều kỳ thi bao gồm một kỳ thi khảo hạch và hai cấp thi chính thức ở
cấp lộ là thi Hương và ở cấp trung ương là thi Hội.
3.3.2. Vấn đề tuyển dụng quan chức để xây dựng bộ máy chính quyền
của thời Lê Sơ
Thứ nhất, đối tượng được tuyển dụng vào bộ máy quan chức thời Lê Sơ
gồm hai đối tượng chính: Một là, những người chưa từng được làm quan
dưới triều Lê Sơ; hai là, những người đã hoặc đang làm quan dưới triều Lê
Sơ nhưng cần thăng giáng, thuyên chuyển hay đào tạo lại.
Thứ hai, về tiêu chuẩn tuyển chọn quan chức của nhà Lê Sơ. Ở giai đoạn
đầu của nhà Lê Sơ bộ máy quan chức được xây dựng trên nguyên tắc "thân huân"
là chủ yếu, ở giai đoạn sau là tiêu chuẩn hiền tài thay cho nguyên tắc thân huân.
Thứ ba, về cách thức tuyển dụng quan chức trong thời Lê Sơ. Thời Lê
Sơ có bốn cách chính: Một là, tuyển dụng quan chức thông qua con đường
binh nghiệp dựa vào "công lao hãn mã"; hai là, tuyển dụng quan lại thông
qua con đường "nhiệm tử"; ba là, tuyển dụng quan chức bằng "bảo cử, tiến
cử"; bốn là, tuyển dụng quan chức bằng thi cử.
Thứ tư, về cách thức quản lý quan chức của nhà Lê Sơ sau khi đỗ đạt. Nhà
Lê Sơ quản lý quan lại của mình thông qua thử thách, người được bổ dụng làm
quan buộc phải vượt những thử thách mà sách sử gọi là phép "khảo khóa".
3.4. Thực chất tư tưởng trị nước của thời Lê Sơ
3.4.1. Nền tảng tư tưởng "đức trị" của Nho giáo đã được Việt hóa
Nhà Lê Sơ độc tôn Nho giáo, lấy tư tưởng đức trị Nho giáo kết hợp với
pháp trị của Pháp gia làm cơ sở trị nước an dân, nhưng những tư tưởng đó đã
thoát ra ngoài tính kinh viện của các học thuyết này và được Việt hóa cho
phù hợp với thực tiễn khi đó.
Đường lối trị nước của nhà Lê Sơ được định hình bằng tư tưởng chính
trị Nho giáo của Nguyễn Trãi, với nội dung bao trùm là tư tưởng nhân
nghĩa. Tư tưởng đó, đã được hầu hết các nhà vua của triều Lê Sơ kế thừa
và phát triển cho phù hợp với thực tiễn cai trị. Những tư tưởng đó kết hợp
với việc đề cao pháp luật trong cai trị và xây dựng bộ luật riêng của người
Việt là đường lối trị nước mang những nét đặc trưng riêng của triều đại
phong kiến này.
3.4.2. Nội dung "đức trị" đã được qui chế hóa bằng luật pháp
Nhà Lê Sơ mặc dù sử dụng đức trị trên nền tảng hệ tư tưởng Nho giáo
nhưng triều đại này đã từng bước qui chế hóa, pháp luật hóa những nội dung
của đức trị. Quá trình này diễn ra từ Lê Lợi khi cuộc khởi nghĩa chưa thành
công đến thời Lê Thánh Tông với một bộ luật hoàn chỉnh với những quy
định tỉ mỉ từ hôn thú, tang ma, mũ áo, xưng hô, đi đứng, tâu bày cho đến
chắp tay quỳ lạy kèm theo những biện pháp trừng phạt nghiêm khắc mọi
hành động không thực hiện đúng các quy phạm đó.
Chương 4
Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC THỜI LÊ SƠ
ĐỐI VỚI CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN VIỆT NAM VỀ SAU
1 2
VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA NÓ CHO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG
VÀ BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC TA HIỆN NAY
4.1. Ý nghĩa của tư tưởng trị nước thời Lê Sơ
đối với các triều đại phong kiến Việt Nam về sau
Việc kết hợp đức trị với pháp trị dưới thời Lê Sơ được xem là hợp lý
trong đường lối trị nước trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Đường lối đó
được triển khai một cách có hiệu quả từ thời Lê Thái Tổ cho đến Lê Thánh
Tông, kết quả là đưa đất nước và vương triều Lê Sơ đạt đến đỉnh cao của sự
thịnh trị
Rút ra bài học từ đường lối trị nước thời thịnh trị của nhà Lê Sơ, triều
Mạc đã thực hiện nhiều chủ trương thiết thực nhằm ổn định cuộc sống của
nhân dân. Khi nhà Tây Sơn giành địa vị thống trị, triều đại Quang Trung đã
chú trọng nhiều đến việc thiết lập bộ máy nhà nước mà trước hết, là lực
lượng trí thức. Vua Quang Trung đã khẩn thiết cầu hiền nhằm xây dựng một
nhà nước mạnh giống như thời Lê Sơ. Sự kế thừa đường lối trị nước của nhà
Lê Sơ được thể hiện rõ nét nhất vào thời Nguyễn (1802-1945) ở chỗ vừa đề
cao vai trò đức trị của Nho giáo với pháp trị của Pháp gia.
4.2. Bài học lịch sử từ chính sách an dân của thời Lê Sơ đối với việc
xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân trong giai đoạn hiện nay
4.2.1. Tác dụng tích cực trong chính sách đối đãi với các tầng lớp
nhân dân và biện pháp an dân của thời Lê Sơ
Đây là nhà nước trung đại đầu tiên trong lịch sử phong kiến Việt Nam
với người đứng đầu là vua thấm nhuần tư tưởng "thế thiên hành hóa" của
Nho giáo. Nhà vua và các quan chức đều là bậc "cha mẹ của dân", do đó
quan điểm thứ phú giáo của Nho giáo luôn được đề cập và coi trọng.
Nhà nước Lê Sơ đã có những chính sách quan tâm đãi ngộ đối với các tầng
lớp nhân dân, chính sách đó xét đến cùng là hướng tới việc giải quyết những vấn
đề đặt ra cho xã hội lúc bấy giờ, nó tiến bộ hơn các triều đại trước.
Ngoài ra, nhà Lê Sơ luôn có ý thức về việc theo dõi giám sát việc thực
hiện công việc "chăn dân" của các cấp hành chính. Rõ ràng là nhà Lê Sơ
muốn xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền nhưng không có
tham vọng xây dựng thể chế cực quyền.
4.2.2. Những hạn chế trong việc thực hiện chính sách an dân của
thời Lê Sơ
Nhà nước Lê Sơ, một nhà nước phục vụ cho lợi ích của giai cấp phong
kiến quan liêu, tính giai cấp của nó thể hiện rõ nét ngay ở chính sách ưu đãi,
quan tâm khác nhau đối với các tầng lớp nhân dân.
Trong biện pháp an dân, nhà Lê Sơ khuyến khích phát triển kinh tế
nông nghiệp theo tinh thần "dĩ nông vi bản", nhưng sự phân chia ruộng đất
cho các tầng lớp nhân dân lại chứa đựng yếu tố bất hợp lý.
Xây dựng đội ngũ quan lại tăng lên cũng đồng nghĩa với việc các khoản
đóng góp của người dân càng tăng. Người dân phải gánh trên mảnh đất của
mình nhiều loại thuế khóa, cho nên càng về sau người nông dân càng khó
sống trên mảnh ruộng của mình, buộc họ phải xiêu tán ngày càng nhiều và
đó cũng chính là nguyên nhân gây bất ổn xã hội.
4.2.3. Những bài học và kinh nghiệm lịch sử từ chính sách an dân
của thời Lê Sơ đối với chúng ta hiện nay
Qua nghiên cứu chúng tôi xin rút ra một số bài học cho công tác quản lý
xã hội giai đoạn hiện nay như sau:
Thứ nhất, bài học lấy dân làm gốc - bài học luôn luôn đúng cho mọi
thời đại.
Thứ hai, bài học về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong công tác
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, bài học về gắn liền việc phát triển, tiến bộ xã hội với công bằng
xã hội về mặt tư liệu sản xuất.
4.3. Bài học từ sự kết hợp đức trị với pháp trị trong
thời Lê Sơ cho việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của chúng ta hiện nay
4.3.1. Những giá trị của sự kết hợp đức trị với pháp trị trong lĩnh vực
trị nước an dân
Giá trị nổi bật trong cách cai trị của thời Lê Sơ là ở chỗ sử dụng đức trị
trong việc tu dưỡng đạo đức của người cầm quyền, chú trọng khoan thư sức
1 2
dân, tu thân quả dục nhằm mục đích làm gương cho thiên hạ tin cẩn và kính
trọng, đồng thời sử dụng pháp luật để đưa xã hội vào ổn định chính là cách
cai trị hợp lý nhất trong việc bảo vệ các qui định của nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực tạo nên những giá trị nhất định
về đường lối cai trị của mình, trong đường lối cai trị của thời Lê Sơ vẫn
không thể tránh được những hạn chế. Đó là dù sử dụng pháp luật để trị nước,
song sự thượng tôn pháp luật, đề cao sự bình đẳng của mọi người trước pháp
luật thời phong kiến rõ ràng là chưa có.
4.3.2. Bài học lịch sử về quản lý xã hội trên tinh thần thượng tôn
pháp luật và đề cao đạo đức của thời Lê Sơ đối với nước ta hiện nay
Từ việc nghiên cứu cách thức trị nước bằng sự kết hợp đức trị với pháp trị
của thời Lê Sơ, chúng tôi rút ra một số bài học đối với công tác quản lý xã hội
của chúng ta hiện nay như sau:
Bài học thứ nhất, phải đề cao vai trò của pháp luật trong trị nước an
dân. Việc vận dụng bài học đề cao pháp luật trong quản lý xã hội hiện nay
phải thực hiện các yêu cầu cơ bản sau: một là, phải hoàn thiện hệ thống pháp
luật, định hướng xây dựng các chuẩn mực đạo đức và pháp luật trên nguyên
tắc giữ gìn những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc nhưng đồng thời
phải phù hợp với nhu cầu của thực tiễn đổi mới; hai là, pháp luật phải công
bằng, thưởng phạt phải nghiêm minh; ba là, phải giáo dục pháp luật, giáo
dục ý thức pháp luật cho người dân.
Bài học thứ hai, lãnh đạo đất nước, quản lý xã hội tức là phải lo "lễ
nghĩa để sửa tốt lòng dân, nông tang để có đủ cơm áo" như Lê Thánh Tông
đã khẳng định.
Bài học thứ ba, người lãnh đạo quản lý đất nước phải nêu gương sáng
cho người dân, đồng thời phải quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của
các cấp trong việc xử lý vi phạm của các chủ thể quản lý xã hội.
4.4. Bài học về giáo dục, đào tạo và tuyển dụng quan chức của thời
Lê Sơ đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ nước ta hiện nay
4.4.1. Tính tích cực và những đóng góp về giáo dục đào tạo và tuyển
dụng quan chức của thời Lê Sơ
Thứ nhất, cũng như các triều đại quân chủ phong kiến mang tính chuyên
chế ở Việt Nam, nhà Lê Sơ luôn đề cao vấn đề đào tạo và sử dụng nhân tài.
Thứ hai, chủ trương phát triển một nền giáo dục mở rộng cùng với
những thể lệ quy định về giáo dục thi cử và đặc biệt quá trình tuyển dụng
chặt chẽ thông qua các kỳ thi mang tính khốc liệt của nhà Lê Sơ đã cung cấp
cho bộ máy nhà nước một đội ngũ quan chức uyên thâm về nho học, có năng
lực, kiến thức và tham gia tích cực vào bộ máy nhà nước góp phần quan
trọng trong việc trị nước, an dân và quản lý xã hội.
Thứ ba, trong chính sách giáo dục của mình, nhà Lê Sơ đã động viên
khen thưởng cùng với việc chi cấp lương bổng cho người học tập đỗ đạt và
sau đó gánh vác công việc nhà nước cho thấy chủ trương khuyến học của
triều đại này khá tiến bộ.
Thứ tư, xét về cách thức tuyển dụng quan chức, nhà Lê Sơ chuyển dần
từ sử dụng những người có công lao chiến trận sang dùng những người được
đào tạo có tri thức, vừa đáp ứng được nhu cầu đền ơn đáp nghĩa công lao
vừa thể hiện sự thức thời trước những nhu cầu của thời đại.
4.4.2. Một số hạn chế trong giáo dục đào tạo và tuyển dụng quan
chức của thời Lê Sơ
Thứ nhất, tầng lớp trí thức do nhà Lê Sơ tạo ra bởi lối học từ chương
mang tính thuần nhất về mặt ý thức hệ Nho giáo, do đó họ không có vai trò
và tác dụng tích cực trong phát triển kinh tế, là gánh nặng cho kinh tế, gánh
nặng cho người dân.
Thứ hai, nhà Lê Sơ mở rộng giáo dục, thu nạp mọi tầng lớp nhân dân đi
học, nhưng con đường đi học của người dân thời Lê Sơ lại "độc đạo" và quá
chật hẹp với tỉ lệ những người đỗ đạt quá thấp so với người đi học và đi thi
gây ra sự thiệt thòi cho người đi học nhưng không đỗ đạt, họ tất yếu là gánh
nặng cho gia đình và xã hội.
Thứ ba, xuất phát từ mục đích của nhà nước là đào tạo người để làm quan
và mục đích của người học là học để làm quan cùng với cách tổ chức bộ máy
nhà nước cồng kềnh, quan tâm đến số lượng cũng đem đến cho xã hội một
hệ quả tiêu cực nữa, đó là sự phình ra của bộ máy nhà nước tất yếu đưa đến
việc không đủ lương bổng cấp và phải chăng đó cũng là một trong những
nguyên nhân gây ra tình trạng tham nhũng và sách nhiễu dân của quan chức.
Thứ tư, xét về cách tuyển dụng quan chức của nhà Lê Sơ cũng chứa đựng
1 2
những cách tuyển dụng không lấy gì làm vẻ vang như cách tuyển bổ quan
chức bằng cách cho nộp thóc hoặc tiền rồi ban cho một chức quan, hay cách
tuyển dụng quan chức theo con đường nhiệm tử mà chúng tôi đã phân tích.
4.4.3. Một số kiến nghị về công tác giáo dục - đào tạo và xây dựng đội
ngũ cán bộ hiện nay từ bài học về giáo dục và sử dụng nhân tài của thời
Lê Sơ
Từ nghiên cứu về thời Lê Sơ, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị
mang tính giải pháp cho công tác xây dựng đội ngũ cán bộ hiện nay như sau:
Thứ nhất, để phát triển đất nước phải coi trọng nhân tài, coi "nhân tài là
nguyên khí của quốc gia", không khác được.
Để giáo dục và đào tạo ra những người cán bộ tốt chúng ta phải tiến
hành nhiều giải pháp: Một là, phải chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu
của xã hội; hai là, phải tăng cường giáo dục đạo đức, phẩm chất cách mạng,
lối sống lành mạnh và chống chủ nghĩa cá nhân; ba là, có chính sách động
viên khen thưởng cho người học.
Thứ hai, chúng ta phải thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong lựa
chọn, quy hoạch và tuyển dụng cán bộ công chức, cán bộ quản lý, loại bỏ
những cách tuyển dụng không hợp lý dựa trên quan hệ thân quen, nhằm tìm
được những người có năng lực thực sự.
Thứ ba, trong công tác quản lý cán bộ cần phải quy định rõ trách nhiệm
cán bộ, gắn trách nhiệm cá nhân người đứng đầu với những yếu kém của
đơn vị mình.
KẾT LUẬN
Quản lý xã hội luôn là công việc khó khăn, phức tạp của cả hiện đại và
quá khứ. Để duy trì vai trò lãnh đạo của giai cấp cầm quyền và thúc đẩy xã
hội phát triển thì những chính sách, chủ trương đưa ra không chỉ căn cứ
vào hiện thực của xã hội mà còn đòi hỏi sự vận dụng kế thừa và loại bỏ
hạn chế những khuyết điểm trước đó. Do vậy những kinh nghiệm và bài
học về trị nước trong lịch sử luôn thể hiện được giá trị của nó. Chúng tôi
nghiên cứu tư tưởng trị nước của thời Lê Sơ trong mối quan hệ với tồn tại
xã hội của Đại Việt thế kỷ XV - XVI để thấy được tính quy định của tồn
tại xã hội đối với ý thức xã hội. Để kết thúc luận án, chúng tôi rút ra một số
kết luận sau:
1. Tư tưởng trị nước của triều đại Lê Sơ là một hình thái ý thức xã hội
nảy sinh từ tồn tại xã hội Đại Việt thế kỷ XV có sự kế thừa, phát triển của
các học thuyết trị nước của Trung Hoa và cách cai trị của các triều đại phong
kiến Việt Nam trước đó. Tồn tại xã hội để tư tưởng trị nước thời Lê Sơ có
thể ra đời và thực hiện được bao gồm:
Tồn tại kinh tế của xã hội Lê Sơ, cơ sở kinh tế để nhà Lê Sơ xây dựng
và thực hiện được đường lối cai trị của mình là nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, bị tàn phá bởi chiến tranh và sự tiếu hụt về lực lượng lao động sản xuất.
Ngay khi triều đại ra đời cho đến khi đạt đến thịnh trị, nhà Lê Sơ đã cố gắng
khôi phục và phát triển nền kinh tế nông nghiệp với nhiều biện pháp theo
hướng kinh tế địa chủ dựa trên quan hệ sở hữu ruộng đất với ba hình thức:
ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước; ruộng đất công làng xã; ruộng đất tư hữu.
Về mặt tồn tại xã hội, Đại Việt đầu thế kỷ XV là xã hội loạn lạc, hoang
tàn bởi chiến tranh với sự bần cùng hóa của người dân, sự thiếu trầm trọng
lực lượng sản xuất và tình trạng mất ổn định xã hội cùng với một cơ cấu giai
tầng phức tạp. Trong suốt quá trình tồn tại nhà Lê Sơ đã cố gắng thiết lập lại
ổn định xã hội chủ trương gắn chặt người nông dân với làng xã, đồng ruộng,
hạn chế tình trạng xiêu tán sau chiến tranh và kết hợp với sử dụng pháp luật
để quản lý xã hội.
Tồn tại chính trị: Nhà nước Lê Sơ đứng đầu là các vua Lê là chủ thể của
đường lối trị nước giai đoạn này. Sự ra đời của nhà nước Lê Sơ là kết quả
của cuộc kháng chiến chống Minh mang tính toàn dân, toàn diện, lâu dài
gian khổ dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi mang tính vẻ vang, chính danh hơn
các triều đại Lý - Trần vì nó không phải ra đời từ những cuộc chính biến
cung đình mà ra đời từ kết quả đấu tranh giành lại đất nước từ tay quân xâm
lược Minh.
Trong quá trình tồn tại, nhà nước này từng bước được củng cố phát triển
thành một nhà nước quân chủ tập quyền cao độ. Tuy nhiên, nhà nước này
1 2
cũng chỉ thực sự phát triển thịnh trị được từ khi ra đời đến hết thế kỷ XV gắn
liền với các vị vua như Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông, nó đi vào suy yếu và
sụp đổ vào đầu thế kỷ XVI khi mà những vị vua giai đoạn này không đủ sức
gánh vác nhiệm vụ mà lịch sử giao cho và sự mục nát của bộ máy chính
quyền và những biến đổi của kinh tế - xã hội.
2. Tư tưởng trị nước thời Lê Sơ biểu hiện trong cả chính sách đối nội và
đối ngoại. Trong đối nội, nhà Lê Sơ đã thực hiện được nhiệm vụ "thế thiên
hành hóa" đối với nhân dân khi mà nhà nước đã thể hiện được sự quan tâm
đến các tầng lớp nhân dân ở các mức độ khác nhau. Cũng trong đường lối
cai trị của nhà Lê Sơ, nhà nước đã tiến hành những biện pháp để thực hiện
chính sách an dân như thúc đẩy sự phát triển kinh tế nâng cao đời sống vật
chất cho dân; chấn chỉnh quan lại chống tham nhũng và sách nhiễu dân;
xây dựng pháp luật và sử dụng pháp luật trong cai trị để tạo sức răn đe dân
chúng và quan lại; phát triển văn hóa giáo dục và thiết lập kỷ cương xã hội
bằng pháp luật; bảo vệ an ninh quốc phòng bằng võ bị. Bên cạnh đó nhà Lê
Sơ thực hiện chính sách đối ngoại hợp lý mềm dẻo với phương Bắc đã giúp
nhà Lê Sơ sớm ổn định được xã hội và phát triển thịnh trị trong một thời
gian dài.
Trong việc xây dựng bộ máy chính quyền và tuyển dụng quan lại cho
bộ máy nhà nước, nhà Lê Sơ đã từng bước xây dựng và hoàn thiện bộ máy
chính quyền từ trung ương đến địa phương theo hướng tập quyền. Nhà Lê
Sơ đã chủ trương phát triển giáo dục làm cơ sở để đào tạo bổ sung người
hiền tài cho bộ máy cai trị của mình. Quan chức trong bộ máy chính quyền
của nhà Lê Sơ giai đoạn đầu chủ yếu được lấy từ những người có công
lao trong chiến trận nhưng ở giai đoạn sau những quan chức được bổ sung
cho bộ máy nhà nước chủ yếu là những người hiền tài được lấy từ tiến cử
và khoa cử. Nhà Lê Sơ có những quy định chặt chẽ về đối tượng tuyển
dụng; tiêu chuẩn tuyển dụng; cách thức tuyển dụng và quản lý quan lại sau
khi tuyển dụng bằng khảo khóa để thăng trật, thuyên chuyển hay bãi miễn
quan lại.
3. Về chủ trương cai trị, nhà Lê Sơ chủ trương sử dụng kết hợp giữa đức
trị Nho giáo với pháp trị của Pháp gia để thiết lập và duy trì trật tự xã hội
trên nền tảng hệ tư tưởng Nho giáo. Đường lối trị nước của nhà Lê Sơ là sử
dụng đức trị của Nho giáo thông qua việc chăm lo giáo hóa cho dân, người
cầm quyền đề cao việc tu thân sửa đức và làm gương cho dân chúng, đồng
thời trong quá trình cai trị nhà Lê Sơ ngày càng chú ý đến vai trò của pháp
luật coi pháp luật là công cụ quan trọng để trị nước an dân. Thực chất của tư
tưởng trị nước thời Lê Sơ là sử dụng nền tảng tư tưởng đức trị của Nho giáo
đã được Việt hóa và từng bước quy chế hóa tư tưởng đức trị bằng pháp luật.
Bộ Quốc triều hình luật nổi tiếng ra đời, trở thành công cụ hữu ích trong cai
trị của triều đại này.
4. Tư tưởng, quan điểm và cách thức trị nước của nhà Lê Sơ cũng để
lại những bài học hữu ích cho công tác quản lý xã hội và sự nghiệp xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân giai đoạn hiện nay. Đó là bài học về xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân trong chiến tranh và đoàn kết nhân dân trong hòa bình; bài
học về lấy dân làm gốc, chăm lo cho dân và tôn trọng nhân dân; bài học về
xây dựng, quản lý quan lại trong bộ máy chính quyền đối với công tác xây
dựng và hoàn thiện đội ngũ cán bộ hiện nay; bài học về tinh thần thượng tôn
pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức trong quản lý xã hội; bài học về cách
thức quản lý xã hội bằng đề cao pháp luật, chăm lo lễ nghĩa và nêu gương
cho dân.
Tuy nhiên, với cách thức kết hợp đức trị và pháp trị trong đường lối trị
nước của giai cấp phong kiến, dù có những mặt tích cực không thể phủ nhận
đối với sự nghiệp xây dựng một nhà nước mạnh đương thời, ở cách thức đó
vẫn có những hạn chế nhất định mà chúng tôi đã sơ bộ đánh giá ở chương 4
về một loạt các lĩnh vực đời sống chính trị - xã hội của đất nước. Những hạn
chế đó, theo chúng tôi, cũng chính là những bài học bổ ích để chúng ta khắc
phục, bởi lẽ Nho giáo hiện nay tuy không còn đóng vai trò quyết định trong
hệ tư tưởng của đất nước, song những ảnh hưởng trong đời sống tinh thần,
đạo đức của xã hội ta vẫn còn sâu đậm, ít nhiều cản trở đến việc xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thực thi chủ trương
đường lối của Đảng và Nhà nước về xây dựng một xã hội "Dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh".
1 2