MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng về đường lối trị nước, hay còn gọi là tư tưởng trị nước là một hình
thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Mặt
khác, nó đóng vai trò chỉ đạo thực hiện các chủ trương quản lý xã hội, quản lý nhà
nước về mọi mặt đời sống xã hội của một thể chế chính trị nhất định. Nghiên cứu tư
tưởng trị nước, theo chúng tôi, xuất phát từ hai yêu cầu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, yêu cầu về mặt lý luận, coi tư tưởng trị nước là sự phản ánh ý chí,
chủ trương của các triều đại phong kiến trong lịch sử, đồng thời quyết định sự tồn
vong của mỗi triều đại. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, tư tưởng trị nước được
hình thành và phát triển cùng với sự thiết lập và hoàn thiện của bộ máy nhà nước
phong kiến. Ngoài sự phái sinh từ tồn tại xã hội, sự phản tư triết học với tư cách ý
thức xã hội bao giờ cũng có tính độc lập tương đối, tính vượt trước, nhờ đó mà thể
chế chính trị xác định đường lối phát triển đất nước trong các thời đoạn tiếp theo.
Mặt khác, tư tưởng trị nước cũng có thể được kế thừa biện chứng từ các học thuyết
chính trị - xã hội vốn có từ trước trong lịch sử, từng là công cụ hệ tư tưởng của
nhiều triều đại phong kiến. Chính vì vậy nghiên cứu tư tưởng trị nước trong một
giai đoạn cụ thể không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về giai đoạn lịch sử hào hùng
đó của dân tộc mà còn thấy được ở đó tư tưởng của các giai đoạn trước đó.
Nhờ có sự kế thừa những hạt nhân hợp lý, đồng thời tích hợp các hạt nhân
đó từ một số học thuyết mà nhà Lê Sơ đã hình thành nên đường lối trị nước khá phù
hợp với hoàn cảnh cụ thể của một đất nước vừa mới được giải phóng khỏi sự chiếm
đóng của nhà Minh suốt hơn 20 năm, với những nhiệm vụ vô cùng cấp bách trong
việc xây dựng vương triều cũng như khôi phục và phát triển đất nước. Những thành
tựu mà nhà Lê Sơ đã đạt được về các mặt chính trị, văn hóa, giáo dục và kinh tế là
nhờ đường lối trị nước dựa trên sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị. Đường lối trị
nước đó chính là kho tàng lý luận vô cùng quý báu của dân tộc ta, nhưng cho đến nay
nó vẫn chưa được khai thác triệt để. Mặt khác những kết quả nghiên cứu sẽ là luận cứ
khoa học đóng góp vào lĩnh vực khoa học xã hội nói chung và lĩnh vực lịch sử tư
tưởng nói riêng.
1
Thứ hai, yêu cầu về mặt thực tiễn từ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước ta hiện nay. Đó là làm thế nào để xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng và văn minh". Nghiên cứu tư tưởng về đường lối trị nước
trong lịch sử theo tinh thần "ôn cố nhi tri tân" để rút ra những bài học cụ thể cho sự
nghiệp to lớn đó của đất nước, tức là làm rõ không chỉ những giá trị mang tính
trường tồn và phổ biến từ các học thuyết chính trị - xã hội, mà cả những hạn chế cần
phải khắc phục, theo chúng tôi, rõ ràng là có ý nghĩa cấp thiết.
Chúng ta đang xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa vốn chưa có tiền lệ trong lịch sử, thì việc đánh giá lại những kinh nghiệm trị
nước, cách thức tổ chức và quản lý xã hội để khắc phục những hạn chế và tiếp thu
những kinh nghiệm tiến bộ của cha ông là việc làm cần thiết. Việc làm sao để hiện
thực hóa được mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn
minh" tránh được các nguy cơ ảnh hưởng đến sự phát triển đất nước luôn là vấn đề
quan tâm không chỉ của Đảng, Nhà nước mà là của tất cả những ai có ý thức trách
nhiệm đối với quốc gia, dân tộc. Ở Trung Quốc cũng có những vấn đề tương tự
được đề cập trong tài liệu "25 vấn đề lý luận cán bộ và quần chúng quan tâm" do
Cục Lý luận Ban Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc xuất bản gần đây có
hai vấn đề liên quan trực tiếp đến biện pháp lãnh đạo và quản lý xã hội là: "Trị quốc
theo pháp luật, xây dựng nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa" (vấn đề thứ 12) và
"kết hợp trị quốc theo pháp luật với trị quốc bằng đạo đức" (vấn đề thứ 13). Trong
đó các nhà nghiên cứu không quên nhắc lại tư tưởng của các triết gia Trung Quốc
như Khổng Tử, Quản Trọng, Hàn Phi về tư tưởng trị nước, trong đó "chủ trương
của Khổng Tử đã gợi mở cho chúng ta rằng tự giác đạo đức và ràng buộc pháp luật
liên hệ với nhau, là điều không thể thiếu trong quá trình trị quốc" [xem:15, tr. 148].
Về vấn đề này Văn kiện Hội nghị lần thứ Chín khóa IX của Đảng ta cũng đã chỉ ra:
Điều làm cho nhân dân còn bất bình và lo lắng nhiều là tình trạng
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu dân, suy thoái về tư tưởng
chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của một số cán bộ đảng viên vẫn
còn nghiêm trọng và khá phổ biến. Thực trạng trên đây cùng với tình trạng
2
buông lỏng kiểm tra đánh giá là điều bức xúc nhất hiện nay và đang hạn
chế việc phát huy những thắng lợi mà chúng ta đã đạt được [31, tr. 72].
Có thể nói, đó là những vấn đề muôn thuở của chính trị học mà việc giải
quyết nó không thể thiếu kinh nghiệm lịch sử mà thời Lê Sơ đã để lại cho chúng ta
ngày nay. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi lựa
chọn đề tài "Tư tưởng trị nước thời Lê Sơ và ý nghĩa lịch sử của nó" với hy vọng
góp phần nhỏ bé của mình vào lĩnh vực nghiên cứu cơ bản về lịch sử tư tưởng triết
học Việt Nam cũng như sự nghiệp đổi mới về mọi mặt đời sống chính trị - xã hội của
đất nước ta hiện nay do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích:
Luận án trình bày những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành và nội dung cơ
bản của tư tưởng trị nước thời Lê Sơ, trên cơ sở đó chỉ ra những giá trị và bài học lịch
sử của tư tưởng đó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích nói trên, luận án cần giải quyết những nhiệm vụ cơ
bản sau đây:
Một là, trình bày một cách khái quát và có hệ thống các điều kiện, tiền đề
cho sự hình thành và thực hiện tư tưởng trị nước của thời Lê Sơ.
Hai là, làm rõ nội dung và thực chất của tư tưởng trị nước thời Lê Sơ, sự cụ
thể hóa tư tưởng đó trong đời sống hiện thực của xã hội, từ đó đánh giá những mặt
tích cực và hạn chế của nó.
Ba là, làm rõ vai trò và rút ra những bài học lịch sử của tư tưởng trị nước
thời Lê Sơ đối với việc lãnh đạo và quản lý đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
* Cơ sở lý luận:
Để xác định đúng những giá trị và hạn chế của tư tưởng trị nước trong các
triều đại phong kiến, đồng thời khẳng định những giá trị có thể kế thừa vận dụng
vào quản lý xã hội hiện đại, trong việc nghiên cứu tư tưởng trị nước thời Lê Sơ,
luận án xuất phát từ quan niệm duy vật về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã
3
hội và ý thức xã hội, về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội biểu hiện qua sự
tác động tích cực của nó đối với tồn tại xã hội và sự tương tác giữa các hình thái ý
thức xã hội làm cơ sở lý luận chủ yếu. Ngoài ra, chúng tôi có dựa trên tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
để đánh giá về tính hạn chế và tích cực của tư tưởng trị nước thời Lê Sơ làm cơ sở
để rút ra ý nghĩa và bài học lịch sử từ tư tưởng trị nước thời này.
* Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài chúng tôi sử dụng các phương pháp của lịch sử triết học
mácxít, chủ yếu là phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, thống nhất giữa tính
lịch sử cụ thể và lôgíc, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
* Đối tượng nghiên cứu:
Tư tưởng về đường lối trị nước của triều đại Lê Sơ (1428 - 1527) và ý nghĩa
lịch sử của tư tưởng đó đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận án khảo cứu tư tưởng trị nước trong lịch sử chế độ phong kiến Việt
Nam thông qua các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê, Lý - Trần; đồng thời đối chiếu,
so sánh tư tưởng trị nước của các triều đại đó với triều đại Lê Sơ. Trên cơ sở đó,
bước đầu đưa ra những đánh giá khái quát những mặt tích cực và hạn chế của tư
tưởng trị nước thời Lê Sơ, chỉ ra những bài học lịch sử hữu ích có thể kế thừa, vận
dụng trong công tác quản lý xã hội, quản lý đất nước ta giai đoạn hiện nay.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu khoa học cơ bản, trình bày một cách hệ
thống và phân tích chuyên sâu tư tưởng trị nước của triều đại Lê Sơ dưới góc độ
lịch sử tư tưởng triết học. Cụ thể luận án có những điểm mới sau:
- Luận án khẳng định những tư tưởng, quan điểm và cách lựa chọn đường
lối trị nước của triều đại Lê Sơ (1428 - 1527) là sản phẩm nảy sinh từ tồn tại xã hội
hiện thực của thế kỷ XV - XVI, trên cơ sở có sự kế thừa những học thuyết, quan
điểm trị nước của Trung Hoa và các triều đại phong kiến Việt Nam trước đó.
- Luận án hệ thống hóa và phân tích những quan điểm trị nước cũng như
cách thức trị nước của triều đại Lê Sơ để khẳng định tính qui định của tồn tại xã hội
4
đối với ý thức xã hội, cụ thể là tính tất yếu của đường lối cai trị dựa trên sự kết hợp
đức trị với pháp trị đương thời.
- Luận án chỉ ra những giá trị tích cực và hạn chế trong tư tưởng trị nước
của triều đại Lê Sơ, đồng thời rút ra những bài học lịch sử về chính sách an dân bằng
đề cao nhân nghĩa, trọng dân; trị nước bằng sự kết hợp đức trị với pháp trị nhưng
không kém phần nhân bản, nhân văn; bài học về xây dựng đội ngũ cán bộ v.v đối
với việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
* Về mặt lý luận:
Luận án là công trình có ý nghĩa trong việc hệ thống hóa các quan điểm trị
nước của các học thuyết trong lịch sử phong kiến Trung Hoa và Việt Nam; làm rõ
sự phát triển của tư tưởng trị nước trong chế độ phong kiến Việt Nam nói chung và
của triều đại Lê Sơ nói riêng; bước đầu đánh giá những mặt hạn chế và tích cực của
tư tưởng trị nước trong giai đoạn này. Kết quả nghiên cứu của luận án là sự đóng
góp cho kiến thức lý luận về lịch sử, lịch sử tư tưởng, tư tưởng chính trị và quản lý
xã hội, góp thêm luận cứ khoa học cho thực tiễn quản lý xã hội ở nước ta hiện nay
cũng như cho sự phát triển của khoa học lịch sử tư tưởng ở Việt Nam.
* Về mặt thực tiễn:
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác giảng dạy và
học tập chuyên ngành Lịch sử tư tưởng phương Đông và Việt Nam cũng như cho
các đối tượng làm công tác quản lý xã hội muốn tìm hiểu kinh nghiệm trị nước
trong lịch sử.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận án gồm 4 chương, 13 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Ở Việt Nam cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về thời Lê Sơ.
Tuy nhiên, các công trình đó thường chỉ tập trung vào một lĩnh vực nhất định, thậm
chí một khía cạnh nổi bật nào đó của triều đại này, hoặc về cá nhân một vị hoàng đế
cụ thể mà chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu về tư tưởng trị nước
của cả thời kỳ như một chỉnh thể. Dù thế nào đi nữa, những công trình nghiên cứu
đi trước về thời Lê Sơ đều là cơ sở và nguồn tài liệu quan trọng giúp chúng tôi hoàn
thành được luận án của mình. Do đây là một giai đoạn thịnh trị, mang tính khuôn
mẫu và điển hình trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, cho nên số lượng các
công trình nghiên cứu về nó khá lớn. Nghiên cứu về giai đoạn này, ngoài những bộ
sử đương thời còn có một số công trình nghiên cứu mang tính tập trung được các
nhà nghiên cứu tiến hành từ cuối thế kỷ XIX đến nay. Từ tình hình nghiên cứu như
vậy, chúng tôi phân định một cách sơ bộ các công trình nghiên cứu về thời Lê Sơ
theo các lĩnh vực sau đây.
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỜI LÊ SƠ CÓ ĐỀ CẬP
ĐẾN CÁC KHÍA CẠNH CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC
Những công trình nghiên cứu dưới góc độ lịch sử về thời Lê Sơ:
Đặc điểm của các công trình nghiên cứu này được thể hiện ở chỗ, các tác
giả hệ thống hóa các sự kiện diễn ra trong thời đại Lê Sơ theo trình tự thời gian và
đặt nó trong toàn bộ tiến trình lịch sử. Ở lĩnh vực này ngoài những bộ sử lớn như
Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Khâm định Việt sử thông
giám cương mục… còn có một số công trình tiêu biểu khác, cụ thể:
Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim xuất bản lần đầu vào năm 1919.
Trong công trình này, khi đề cập đến thời Lê Sơ, đặc biệt giai đoạn Lê Thánh Tông,
tác giả Trần Trọng Kim đã đưa ra nhận xét, cho rằng: "Xem những công việc của vua
Thánh Tông thì ngài thật là một đấng anh quân. Những sự văn trị và sự võ công ở nước
Nam ta không có đời nào thịnh hơn đời Hồng Đức" [51, tr. 267]. Về cách thức cai trị
bằng sự kết hợp "võ công với văn trị" như một tất yếu lịch sử dưới thời Lê Sơ, ông
nhận xét: "Trong nước bấy giờ có nhiều người du đãng cứ rượu chè cờ bạc, không
6
chịu làm ăn tử tế, vậy nên đặt ra phép nghiêm để trừng trị (…) sự nghiêm phạt như
thế, thì có thái quá thật, nhưng mà cũng có công hiệu, khiến cho trong nước bớt có
thứ người cả đời không chịu làm gì, chỉ đi đánh lừa người mà kiếm ăn" [51, tr. 253].
Trần Trọng Kim cũng đánh giá cao những đóng góp của các vị vua đầu
triều đại này, đặc biệt là Lê Thái Tổ và Lê Thánh Tông về các phương diện kinh tế,
văn hóa, giáo dục và tình hình lập pháp. Đó là việc "Vua Thái Tổ định ra phép quân
điền, để lấy công điền, công thổ mà chia cho mọi người, từ quan đại thần cho đến
những người già yếu cô quả, ai cũng có một phần ruộng khiến cho sự giàu nghèo
trong nước khỏi chênh lệch lắm" [51, tr. 253]; vua Lê Thánh Tông "nối nghiệp lớn
không ngừng mở mang bờ cõi (…) mở nhà tế bần để nuôi dưỡng người đau yếu, sai
quan đem thuốc đi chữa bệnh cho người đau yếu… Ngài lại đặt ra 24 điều, sức
giảng cho dân xã để giữ lấy thói tốt" [51, tr. 260].
Tuy nhiên, công trình Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chủ yếu tập
trung vào hai vị vua tiêu biểu của thời Lê Sơ là Lê Thái Tổ và Lê Thánh Tông mà
chưa phản ánh được tư tưởng trị nước của cả triều đại này với tư cách là một hệ
thống, nghĩa là chưa làm rõ cơ sở hình thành cũng như nguyên nhân sâu xa của sự
suy vong của triều đại này từ Lê Uy Mục về sau, cho nên những hạn chế trong tư
tưởng trị nước thời kỳ này không được tác giả đề cập đến một cách cụ thể.
Trong cuốn Việt Nam lịch sử giáo trình của tác giả Đào Duy Anh, xuất bản
năm 1951 cũng đề cập đến triều đại Lê Sơ nhưng không đi sâu vào phân tích về mặt
tư tưởng trị nước mà chỉ đưa ra những nhận xét khá chung về cả triều đại này, cho
rằng "thời Lê Sơ là đỉnh cao nhất của chế độ phong kiến Việt Nam" [1, tr. 42].
Một công trình khác của Đào Duy Anh là cuốn Lịch sử Việt Nam từ nguồn
gốc đến thế kỷ XIX, xuất bản lần đầu năm 1956, đã dành một dung lượng lớn để đánh
giá bước phát triển của nhà nước phong kiến tập quyền thời Lê Sơ. Nhận xét về
những điều kiện thành công của Lê Lợi trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh, tác
giả viết:
Một trong những yếu tố quan trọng của cuộc thành công là sự
ủng hộ của nhân dân. Quân đội thì kỷ luật rất nghiêm, không giết càn,
không xâm phạm đến mảy may của dân cho nên đến đâu là nhân dân nô
nức hoan nghênh và ủng hộ. Đối với nhân dân thì Lê Lợi chăm chú vỗ
7
về, và rất lưu ý gây tình đoàn kết giữa quan và dân [2, tr. 323].
Trong công trình này Đào Duy Anh đã chú trọng việc trình bày cách thức tổ
chức và điều hành của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền cao độ của triều
đại Lê Sơ, tuy nhiên, theo tác giả, "chế độ quan liêu do Lê Lợi đặt còn sơ sài. Trải
qua các đời Nguyên Long và Bang Cơ có thay đổi ít nhiều. Nhưng đến Tư Thành
thì các chế độ đều được chỉnh đốn lại rất chu đáo thành một hệ thống phiền phức và
chặt chẽ" [2, tr. 328]. Tính chặt chẽ của chế độ đó thể hiện ở sự thiết lập và vận
hành hệ thống luật pháp để thực hiện mục đích tối thượng là "bảo vệ đặc quyền của
giai cấp quý tộc quan liêu, tức là giai cấp thống trị phong kiến" [2, tr. 331].
Nhìn chung, công trình nghiên cứu của Đào Duy Anh đã phác họa được khá
nhiều khía cạnh trong đường lối cai trị, nhưng với công trình nghiên cứu dưới góc
độ sử học thì tác giả mới chỉ dừng lại ở sự liệt kê các sự kiện mà chưa đi vào phân
tích cụ thể những nội dung trong các khía cạnh đó. Tác giả cũng không đề cập đến
những điều kiện và tiền đề cho việc ra đời, sử dụng đường lối cai trị của thời Lê Sơ.
Một học giả sống dưới chế độ cũ trước năm 1975 là Phạm Văn Sơn trong cuốn
Việt sử tân biên - Trần Lê thời đại, xuất bản năm 1958 cũng có những nhận xét khá
tinh tế về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa…đặc biệt là thời vua Lê Thái Tổ và
Lê Thánh Tông. Khi đề cập đến Quốc triều hình luật, bộ luật dưới thời Lê Thánh
Tông, tác giả chú trọng đến việc trình bày các quy định của bộ luật này về các quyền
lợi của quan lại và người dân, khẳng định "một xã hội có trật tự là xã hội <mà ở đó>…
luật pháp phải giới hạn quyền lợi cá nhân và điều hòa quyền lợi cá nhân với quyền
lợi công cộng" [99, tr. 554]. Từ đó tác giả khẳng định vai trò của Quốc triều hình
luật là nhằm đề phòng sự nhũng nhiễu dân chúng của quan lại cũng như giới hạn hành
vi của dân chúng.
Trong một số công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam xuất bản trước
năm 1975, khi đề cập đến thời Lê Sơ các học giả cũng đưa ra những nhận xét ít
nhiều liên quan đến tư tưởng trị nước hoặc các lĩnh vực nhất định của thời kỳ này.
Chẳng hạn, trong lời tựa của bản dịch Hồng Đức thiện chính thư, do Trường Luật
khoa Sài Gòn dịch và xuất bản năm 1959, tác giả Vũ Văn Mẫu viết:
Song song với những chiến công oanh liệt (…), các vua nhà Lê,
nhất là trong thế kỷ XV còn hướng mọi sự cố gắng vào việc trị nước an
8
dân, ban hành một nền pháp chế có một tinh thần đặc sắc Việt Nam, vừa
phù hợp với nhu cầu của quốc gia, vừa thỏa mãn các nguyện vọng chân
chính của quốc dân [116, tr. 29].
Tác giả Phan Huy Lê trong cuốn Đại cương lịch sử Việt Nam, xuất bản năm
1959, thì đưa ra nhận xét:
Các vua thời Lê Sơ, đặc biệt là Lê Lợi có chăm lo đến đời sống
nhân dân và đề ra được một số chính sách biện pháp cứu tế xã hội ít nhiều
có tác dụng thực tế <…> các đời vua sau cũng có tiếp tục chính sách
"khinh hình bạc liễm" <…> Trong một xã hội phong kiến tất nhiên
những chính sách tốt đẹp ấy không thể thực hiện được đầy đủ nhưng ít
nhất cũng phản ánh một thái độ quan tâm của nhà nước đối với đời sống
nhân dân [55, tr. 38].
Cuốn Lịch sử Việt Nam, (tập 1) do Ủy ban Khoa học xã hội xuất bản năm
1971, nhận xét về thời Lê Sơ cũng có đánh giá về tính tích cực trong đường lối cai
trị của triều đại này đối với nhân dân như sau: "Trong thế kỷ XV, khi nền sản xuất
đang phát triển, chính quyền còn chăm lo đến kinh tế thì đời sống của nông dân và
nhân dân lao động nói chung còn tương đối ổn định" [118, tr. 274].
Trong bài viết Thử căn cứ vào Bộ luật Hồng Đức để tìm hiểu xã hội Việt
Nam thời Lê Sơ của tác giả Văn Tân, đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 46 -
1963, tác giả đã xuất phát từ những điều luật trong Quốc triều hình luật để phân
tích xã hội thời Lê Sơ trên các phương diện như chế độ sở hữu ruộng đất, sự phát
triển của giai cấp địa chủ, hạn chế sự bành trướng của Phật giáo và trọng Nho,
chống tham ô, nhũng nhiễu dân của quan lại, trách nhiệm của quan lại đối với dân,
bảo vệ quyền con người… Khi phân tích về việc nhà Lê hạn chế Phật giáo và Đạo
giáo, tác giả viết:
Yêu cầu phát triển của xã hội Việt Nam hồi thế kỷ XV là phải
hạn chế sự bành trướng của Phật giáo… Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế.
So với đời Trần số chùa cũng ít đi, số tăng nhân lại càng ít nữa. Nhà nước
phong kiến chú ý kiểm soát sự đi lại của tăng nhân và đạo sĩ, có lẽ vì những
người này không thỏa mãn với chế độ mới của nhà Lê [105, tr. 29].
Trong bài viết của tác giả Văn Tân, đáng lưu ý nhất là phần đánh giá sự
9
phát triển về quyền con người trong pháp luật nhà Lê. Về điều này tác giả viết:
Trong xã hội phong kiến ở phương Đông, con người bị trói chặt
vào các quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng (tam cương); bầy tôi phải
phục tùng vua, con phải phục tùng cha, vợ phải phục tùng chồng, kẻ dưới
phải theo kẻ trên, quyền lợi của kẻ dưới không được coi trọng. Quyền lợi
cá nhân trong xã hội phong kiến, vì vậy, ít được xem trọng. Nhưng xét
pháp luật thời Lê Sơ, chúng ta đã thấy lấp ló những quyền lợi của cá
nhân, con người, cụ thể là con người bị áp bức đã được coi trọng một
phần nào [105, tr. 28].
Đồng thời, trong bài viết này, tác giả đã căn cứ vào những điều khoản của
Quốc triều hình luật để đánh giá xã hội Lê Sơ. Tuy nhiên, những đánh giá này chỉ
căn cứ vào bộ luật mà bộ luật đó lại do giai cấp thống trị thời đó ban hành thì tất
yếu không tránh được sự phiến diện.
Tóm lại, những công trình nghiên cứu lịch sử khi đề cập đến thời Lê Sơ dù
ít nhiều có đưa ra những nhận xét về tư tưởng trị nước của triều đại này, nhưng
những nhận xét đó thường gắn với một số vị vua tiêu biểu và còn mang tính rời rạc,
chủ quan, chưa thành hệ thống cũng như chưa chỉ ra được cơ sở cho việc hình thành
đường lối cai trị của triều đại này.
Những công trình nghiên cứu về nhà nước, luật pháp và bộ máy cai trị
thời Lê Sơ:
Đặc điểm của loại hình này là các nhà nghiên cứu chỉ tập trung vào nghiên cứu
về khía cạnh thay đổi của bộ máy hành chính và bộ luật hình ra đời trong thời Lê Sơ
mà hầu như không đề cập đến các khía cạnh khác của xã hội thời Lê Sơ. Ở loại hình
này có thể kể đến các công trình như:
Bài viết Suy nghĩ về cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông, của tác
giả Trương Hữu Quýnh cho Hội thảo Lê Thánh Tông (1442 - 1497) con người và sự
nghiệp đã lý giải nguyên nhân dẫn đến cuộc cải cách bộ máy hành chính của vua Lê
Thánh Tông. Theo tác giả, nguyên nhân cải cách của Lê Thánh Tông vừa là yêu cầu
của thực tiễn, vừa thể hiện ý chí chủ quan của vị vua này. Lê Thánh Tông đã tiến
hành cải cách bộ máy hành chính trên năm nội dung: Một là, bỏ hết các quan chức
và cơ quan trung gian giữa vua và bộ phận thừa hành; hai là, tách sáu bộ Lại, Lễ,
10
Binh, Hình, Hộ, Công khỏi Thượng thư sảnh theo mô hình như nhà Minh đã làm;
ba là, Lê Thánh Tông đề cao công tác thanh tra, giám sát bằng cách đặt sáu khoa
chuyên theo dõi, giám sát hành động của các cơ quan sáu bộ; bốn là, đặt sáu tự để
phụ trách các công việc phụ; năm là, bỏ chế độ bổ dụng các vương hầu, quý tộc vào
các trọng chức của triều đình, lấy những người đỗ đạt qua khoa cử không phân biệt
thành phần xuất thân. Tuy nhiên, cuộc cải cách này cũng chứa đựng nhiều những
hạn chế của nó và ít nhiều không phù hợp với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ [xem: 21].
Bài viết của Trương Hữu Quýnh, đúng như tên gọi của bài viết này, chỉ
dừng lại ở việc tìm hiểu cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông mà không đề
cập đến các lĩnh vực khác như: kinh tế, văn hóa cũng như luật pháp của thời Lê Sơ vì
vậy công trình này chưa thể thể hiện được toàn bộ nội dung tư tưởng trị nước của
thời Lê Sơ.
Bài viết Cải cách quan lại địa phương dưới thời Lê Thánh Tông của tác giả
Nguyễn Hoàng Anh trong hội thảo khoa học Lê Thánh Tông (1442-1497) con
người và sự nghiệp, tác giả Nguyễn Hoàng Anh đã tập trung phân tích công cuộc
cải cách quan lại của Lê Thánh Tông, chủ yếu trên phương diện tuyển dụng, quản
lý, sử dụng quan lại địa phương và phân định chức năng, quyền hạn và chế độ đãi
ngộ đối với quan lại của triều đại Lê Thánh Tông.
Về vấn đề tuyển dụng quan lại địa phương, tác giả nhận xét rằng, thời Lê
Thánh Tông quan lại địa phương chủ yếu được lựa chọn thông qua con đường khoa
cử. Ngoài ra, việc lựa chọn quan lại còn thông qua con đường khác như tiến cử, bảo
cử và nộp thóc. Đánh giá chung về cách tuyển dụng quan chức thời Lê Thánh Tông,
tác giả viết: "Quy chế tuyển chọn, bổ dụng quan lại của Lê Thánh Tông đã thấm
nhuần tư tưởng: một mặt nâng cao chất lượng quan lại, mặt khác tích cực ngăn ngừa
nạn cát cứ bè cánh địa phương nhằm tạo lập đội ngũ quan lại địa phương mạnh và
tuân phục triều đình" [3, tr. 176].
Việc phân định chức năng, quyền hạn và nghĩa vụ của quan lại địa phương
cũng được các vua Lê, đặc biệt là Lê Thánh Tông phân định khá cụ thể và rạch ròi.
Đi kèm với nó là chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho quan lại, đồng thời đem lại nhiều giá
trị tích cực cho xã hội. Tuy nhiên, bộ máy quan lại dưới thời Lê Thánh Tông, theo
tác giả, "vẫn chỉ là bộ máy mang tính cai trị thuần túy, ít mang tính tổ chức - xây
11
dựng đời sống xã hội đương thời" [3, tr. 177].
Mặc dù Nguyễn Hoàng Anh tập trung nghiên cứu chuyên sâu về bộ máy
quan lại và vấn đề cải cách bộ máy này, song công trình này chỉ dừng lại ở việc xem
xét việc cải cách quan lại địa phương, do đó vấn đề qui định chính sách tuyển dụng
và sự cụ thể hóa nó dựa trên những điều khoản luật pháp mà nhà Lê sử dụng để
trừng trị quan lại khi vi phạm chưa được làm rõ.
Bài viết "Vài nét về sự thay đổi hành chính và tổ chức chính quyền địa
phương dưới triều Lê Thánh Tông (1460 - 1497)" của tác giả Nguyễn Đức Nhuệ in
trong cuốn Lê Thánh Tông (1442-1497) con người và sự nghiệp. Trong bài viết này,
tác giả đã nghiên cứu cách thức chia cắt địa phận hành chính trên phạm vi cả nước
dưới thời Lê Thánh Tông. Nguyên do chủ yếu của việc làm này theo tác giả là vì thời
đó lãnh thổ luôn được mở mang thêm, buộc triều đình phải phân định lại địa giới
hành chính. Theo đó, chia đất nước thành 13 đạo thừa tuyên, so với thời Lê Thái Tổ
chỉ có 5 đạo. Tuy nhiên, bài viết này chủ yếu mô tả về cách chia định địa giới hành
chính mà không bàn về những biến đổi về cách thức cai trị tương ứng của nhà Lê.
Nghiên cứu về cải cách hành chính của nhà Lê Sơ, còn có cuốn "Mười cuộc
cải cách, đổi mới lớn trong lịch sử Việt Nam" của tác giả Văn Tạo, Nhà xuất bản
Đại học Sư Phạm Hà Nội ấn hành năm 2006. Trong cuốn sách này Văn Tạo xếp cải
cách hành chính của Lê Thánh Tông vào mười cuộc cải cách lớn của lịch sử Việt
Nam, bên cạnh các cuộc cải cách của họ Khúc, của Hồ Quý Ly, của Minh Mệnh…
Theo tác giả, thời Lê Sơ giai đoạn trước Lê Thánh Tông triều đình rơi vào khủng
hoảng sau sự kiện Lê Nghi Dân cướp ngôi và sự lộng hành của triều thần. Sau khi
lên ngôi, Lê Thánh Tông thực hiện việc cải cách gồm năm khâu: đẩy mạnh pháp trị
Khổng giáo; đặt ra Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng; xóa bỏ cơ chế hành chính nhiều tầng
nhiều cấp với các lộ, trấn, phủ, châu;… thống nhất chia đất nước thành 13 xứ thừa
tuyên; cải cách chế độ quan lại, tuyển dụng quan nha qua khoa cử và tiến cử; phát
triển văn hóa, xã hội, phát huy tác dụng của Quốc Tử Giám, lập hội Tao Đàn, sử dụng
chữ Nôm, phát triển thơ văn yêu nước [103, tr. 116-145]. Theo tác giả cải cách hành
chính của Lê Thánh Tông là cuộc cải cách thành công sau cải cách hành chính của
họ Khúc, đưa xã hội Đại Việt thịnh trị vào bậc nhất trong lịch sử chế độ phong kiến.
Vấn đề pháp luật thời Lê Sơ, cũng có khá nhiều các nhà nghiên cứu quan tâm.
12
Những công trình nghiên cứu về pháp luật giai đoạn này chủ yếu tập trung vào bộ
Quốc triều hình luật của nhà Lê theo những khía cạnh khác nhau trong vấn đề lập
pháp, sử dụng pháp luật và giá trị của bộ luật này. Trong số đó đáng chú ý là các cuốn
sách "Quốc triều hình luật: lịch sử hình thành, nội dung và giá trị" do tác giả Lê Thị
Sơn làm chủ biên; Quốc triều hình luật những giá trị lịch sử và đương đại góp phần
xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp
kết hợp với trường Đại học Hồng Đức biên soạn. Trong các công trình này, nhiều tác giả
đã cố gắng lý giải, làm rõ thêm vấn đề về sự hình thành nhà nước, cách cai trị, kinh tế -
xã hội, v.v Trong đó đáng chú ý đến những bài viết đề cập đến tư tưởng trị nước
như:
"Nước Đại Việt thời Lê Sơ - một vài đặc điểm căn bản của nền tảng chính
trị, kinh tế, văn hóa - xã hội" của tác giả Nguyễn Hải Kế. Khi nghiên cứu về thời Lê
Sơ, Nguyễn Hải Kế đã đi tìm hiểu triều đại này từ bối cảnh chung đến những đặc
điểm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Tác giả đã chia triều đại Lê Sơ thành ba
giai đoạn cơ bản: giai đoạn thứ nhất từ năm 1428 đến 1459, tức là từ khi Lê Thái Tổ
lên ngôi đến hết thời Nghi Dân. Đây là giai đoạn hình thành và phát triển của triều
đại, ở đó đã xuất hiện những khủng hoảng chính trị như việc giết hại các công thần
và binh biến cung đình; giai đoạn thứ hai tính từ khi vua Lê Thánh Tông lên ngôi
đến hết thời vua Lê Hiến Tông (năm 1504). Đây là giai đoạn thịnh trị của triều đại
Lê Sơ; giai đoạn thứ ba từ 1504 đến 1527 là giai đoạn suy thoái của triều đại này
với những vua quỷ, vua lợn để đưa đến sự chấm dứt của triều đại.
Có thể nói, đây là bài viết trình bày tổng quan khá đầy đủ về triều đại Lê
Sơ, nhưng đó mới chỉ là những gợi mở về tiến trình lịch sử từ khi triều đại này hình
thành đến khi kết thúc. Thực tế, tác giả không đi sâu vào phân tích những chính
sách cụ thể nên chưa thể đưa đến một cách nhìn toàn diện về xã hội ở giai đoạn này.
Tiếp đến là bài viết "Tư tưởng đức trị và pháp trị trong Quốc triều hình
luật" của Vũ Thị Nga trong cuốn sách nói trên lại có cách tiếp cận khác khi nghiên
cứu về thời Lê Sơ. Trong bài viết này, tác giả đã chú trọng phân tích tư tưởng đức
trị của Nho gia được thể hiện trong bộ luật. Theo tác giả, Quốc triều hình luật đã thể
chế tư tưởng kính thiên, ái dân của Nho gia; quy định trách nhiệm cụ thể của từng
quan lại đối với vua, với đồng liêu và với dân; thể chế hóa lễ để cai trị, giáo hóa dân
13
chúng và trừng phạt nặng các hành vi xâm hại lễ nghi; đề ra những biện pháp trừng
phạt nặng để uốn nắn quan lại và dân chúng tuân thủ pháp luật [xem: 79].
Bài viết cải cách bộ máy nhà nước dưới triều Lê Thánh Tông và những giá
trị đương đại của tác giả Bùi Xuân Đức trong cuốn Quốc triều hình luật những giá
trị lịch sử và đương đại góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Trong bài viết này tác giả đi vào tìm hiểu: bối cảnh cải cách bộ máy nhà nước;
những cải cách bộ máy nhà nước; từ đó rút ra những bài học và giá trị đương đại về
những cải cách bộ máy nhà nước của Lê Thánh Tông trên các phương diện: tư
tưởng cải cách đổi mới, tổ chức hợp lý bộ máy nhà nước, kiểm soát bộ máy quan
lại, chống tham nhũng. Tác giả đã đi đến kết luận: "Lê Thánh Tông đã có những cải
cách táo bạo, sửa lại những phép cũ của tổ tiên để phù hợp với điều kiện mới…hy
vọng lớp con cháu chúng ta sẽ noi gương nhà vua Lê Thánh Tông kiên quyết và
khôn khéo để đẩy mạnh công cuộc cải cách bộ máy nhà nước cho phù hợp với điều
kiện xứ ta" [125, tr. 71-73].
Bài viết của tác giả Uông Chu Lưu: Kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong
đạo trị quốc an dân của Lê Thánh Tông trong cuốn Quốc triều hình luật - những
giá trị lịch sử và đương đại góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam,
sau phần giới thiệu về vua Lê Thánh Tông, khi bàn về tư tưởng trị nước tác giả viết:
Những gì Lê Thánh Tông để lại qua lịch sử cho thấy, trong rất
nhiều cách trị quốc, ông đã lựa chọn những phương cách phù hợp với
thời đại mà các thế hệ trước để lại, phát triển lên ở mức cao hơn và làm
thành cách riêng của mình, tạo nên một sự đặc sắc trong giai đoạn lịch sử
của vương triều Lê Sơ. Sử dụng hài hòa mối quan hệ giữa pháp trị và đức
trị là vấn đề nổi lên trong phép cai trị của ông [125, tr. 44].
Từ việc khẳng định phương cách trị nước của Lê Thánh Tông là pháp trị kết
hợp với đức trị, tác giả đã chỉ ra nét đặc sắc trong phương cách trị nước của vị vua
này trên bốn phương diện: xây dựng chế độ chuyên chế tập quyền mạnh lấy pháp
luật làm trọng; chủ trương kính thiên ái dân; coi lễ là biện pháp chủ yếu để cai trị
giáo hóa dân chúng thông qua quy tắc, chuẩn mực hóa; Quốc triều hình luật giải
quyết vấn đề "phép vua" thua "lệ làng" [125, tr. 47-51]. Tuy nhiên, do giới hạn
nghiên cứu của tác giả chỉ là Quốc triều hình luật mà bộ luật này ra đời dưới thời
14
Lê Thánh Tông nên những tư tưởng và vấn đề khác của thời Lê Sơ trước đó không
được tác giả đề cập đến.
Các công trình nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục và đào tạo:
Thời Lê Sơ được coi là giai đoạn phát triển rực rỡ của giáo dục, đào tạo
theo mô hình Nho giáo trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Chính vì vậy,
nghiên cứu về giáo dục và đào tạo được khá nhiều nhà nghiên cứu tiến hành, đáng
chú ý về lĩnh vực này là luận án tiến sĩ sử học của tác giả Đặng Kim Ngọc với đề tài
"Chế độ đào tạo và tuyển dụng quan chức thời Lê Sơ (1428 - 1527)" bảo vệ năm
1997. Trong luận án này, tác giả đã tiến hành nghiên cứu về nền giáo dục, đào tạo
và tuyển dụng quan chức cho bộ máy chính quyền của nhà Lê Sơ trên các khía cạnh
như hình thức, nội dung đào tạo và thi cử; tiêu chuẩn cách thức tuyển dụng quan
chức. Với bốn chương của luận án, tác giả Đặng Kim Ngọc đã khái quát được
những nét cơ bản của nền giáo dục giai đoạn này cũng như chỉ ra được những ảnh
hưởng của nó đến đội ngũ quan lại trong bộ máy nhà nước.
Thứ nhất, luận án làm rõ sự ra đời của nhà nước Lê Sơ với tư cách là chủ
thể của nền giáo dục giai đoạn này, đồng thời chỉ ra rằng, nền giáo dục của thời Lê
Sơ đã kế thừa, phát triển nền giáo dục của các triều đại trước đó trên cơ sở hệ tư
tưởng Nho giáo. Đó là nền giáo dục khoa cử với các hình thức tiến cử, bảo cử. Thứ hai,
đánh giá về nền giáo dục trong giai đoạn này, tác giả cho rằng, việc "thường xuyên
tổ chức các kỳ thi tuyển nhân tài, cung cấp cho bộ máy quan chức, đáp ứng được nhu
cầu, đòi hỏi lúc đó của triều đình và xã hội… Hầu hết số này đã tham gia vào bộ máy
quan chức của triều đình, điều này nói lên sự thịnh trị của giáo dục khoa cử cũng
như vai trò của nó trong đời sống xã hội thời đó" [83, tr. 91]. Thứ ba, tác giả trình
bày quá trình nhà Lê Sơ tuyển dụng và bổ nhiệm quan chức cho bộ máy chính quyền.
Theo đó, từ chỗ nhà Lê Sơ sử dụng quan lại chủ yếu thông qua công lao chiến trận
của các cá nhân trong cuộc kháng chiến chống Minh, đến chỗ tuyển dụng và bổ nhiệm
chủ yếu thông qua con đường khoa cử Nho học. Thứ tư, tác giả phân tích những hạn
chế trong nền giáo dục và cách thức tuyển dụng quan chức của nhà Lê Sơ, cho rằng:
Chế độ đào tạo và tuyển dụng quan chức thời Lê Sơ đã đẻ ra
tầng lớp trí thức Nho giáo, hình thành đội ngũ quan chức quan liêu. Lấy
khoa cử làm hình thức đào tạo và tuyển dụng quan chức chủ yếu của nhà
15
nước. Đó là một chủ trương, chính sách hết sức đúng đắn của các vị vua
thời Lê Sơ. Tuy nhiên khoa cử không phải là sản phẩm của thời Lê Sơ
mà nó là sự kế thừa lịch sử phát triển có tính truyền thống của dân tộc ta
ở các thời đại trước [83, tr. 163].
Nhìn chung, luận án của tác giả Đặng Kim Ngọc là công trình nghiên cứu
công phu về nền giáo dục và cách tuyển dụng quan chức của thời Lê Sơ. Tuy nhiên,
do đây là công trình chuyên khảo về lịch sử, nên tác giả chỉ tập trung vào vấn đề
giáo dục và tuyển dụng quan chức mà không bàn đến vấn đề về chủ trương cai trị
cũng như chính sách thúc đẩy phát triển xã hội và nền giáo dục khoa cử đó. Mặc dù
vậy, đây cũng là tài liệu tham khảo bổ ích cho chúng tôi. Những số liệu, đánh giá
được tác giả rút ra là tài liệu hữu ích để chúng tôi tham khảo, kế thừa khi tìm hiểu
về nền giáo dục và quá trình tuyển dụng quan chức giai đoạn này để rút ra những
bài học cho việc phát triển nền giáo duc, quản lý đội ngũ cán bộ giai đoạn hiện nay.
Những công trình nghiên cứu về lĩnh vực kinh tế:
Ở loại hình này, nhiều nhà nghiên cứu tập trung vào tìm hiểu về chế độ sở
hữu ruộng đất, chính sách phân chia ruộng đất của nhà nước cho nhân dân, các
chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp của nhà nước Lê Sơ. Đáng chú ý là công
trình nghiên cứu của tác giả Phan Huy Lê về Chế độ ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp thời Lê Sơ. Trong công trình này tác giả đã làm rõ một số phương diện của
kinh tế nông nghiệp như chế độ chiếm hữu ruộng đất của nhà nước và tư nhân; quá
trình bóc lột địa tô của nhà nước và những người có đất đối với nông dân; sự phát
triển của sức sản xuất trong thời Lê Sơ và từ đó tác giả đi đến những kết luận về đặc
điểm của chế độ phong kiến Việt Nam nói chung và thời Lê Sơ nói riêng. Theo tác
giả, nhà Lê Sơ chú trọng đến phát triển nông nghiệp nhưng lại hạn chế sự phát triển
của kinh tế hàng hóa, đặc biệt là kinh tế ngoại thương vì lý do an ninh, từ đó dẫn đến
việc thực hiện chính sách "bế quan tỏa cảng". Điều đáng chú ý là nhận xét của tác giả
cho rằng: "Về mặt chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp, đó là thời kỳ kết thúc sự
phát triển của kinh tế đại điền trang với chế độ nông nô, nô tì, mở đầu thời kỳ thống
trị của kinh tế địa chủ" [59, tr. 179].
Bài viết của tác giả Đỗ Đức Hùng Tư tưởng kinh tế thời Lê Thánh Tông, đăng
trong kỷ yếu hội thảo Lê Thánh Tông (1442 -1497) con người và sự nghiệp. Trong
16
bài viết này, tác giả khẳng định Lê Thánh Tông đã tiếp tục tư tưởng trọng nông của các
vị vua trước ông và không ngừng tăng cường vai trò, chức năng kinh tế của nhà
nước. "Các vua Lê nhiều lần ban hành chiếu khuyến nông nhằm khôi phục đồng
ruộng bị bỏ hoang sau chiến tranh, khôi phục lễ cầy tịch điền, mở rộng và củng cố hệ
thống đê ngăn lũ và đắp đê ngăn mặn mở rộng diện tích đất trồng ở vùng ven biển…
chính sách lập đồn điền, thực hiện chính sách ngụ binh ư nông" [43, tr. 212]. Không
chỉ bàn về lĩnh vực kinh tế, Đỗ Đức Hùng còn đề cập đến tư tưởng trị nước của Lê
Thánh Tông, cho rằng, trị nước theo tinh thần Nho giáo, dùng lễ nghĩa để giáo hóa
dân, tìm kế sách để dưỡng dân vì mục tiêu tiến tới một xã hội ổn định thuần phác,
không có sự đua chen gian dối. Tuy nhiên, "để đạt được mục tiêu đó trong thực tế
Lê Thánh Tông đã chấp nhận và áp dụng tư tưởng và biện pháp của Pháp gia. Hay
có thể nói, đó là sử dụng theo công thức "ngoại Nho, nội Pháp" [43, tr. 220].
Những công trình nghiên cứu về lĩnh vực quân sự:
Công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Anh Dũng Chính sách ngụ binh
ư nông các thời Lý - Trần - Lê Sơ (thế kỷ XI - thế kỷ XV) đề cập đến lĩnh vực quân
sự, quốc phòng. Tác giả đã tìm hiểu và phân tích chính sách quân sự của các triều đại
từ thời Lý đến thời Lê Sơ trên các phương diện như: nội dung chính sách ngụ binh ư
nông; điều kiện, cơ sở của chính sách ngụ binh ư nông và tác dụng của chính sách
này đối với Việt Nam từ thời Lý - Trần đến thời Lê Sơ. Theo tác giả, chính sách
ngụ binh ư nông mà nhà Lê Sơ sử dụng trong kháng chiến và thời bình là sự kế thừa từ
các triều đại trước đó. Chính sách này được xây dựng trên cơ sở là do chúng ta luôn
phải chống lại các thế lực xâm lược hùng mạnh với quân số đông hơn nhiều so với
chúng ta và do nhu cầu về sản xuất nông nghiệp cần nhiều sức lao động cũng như do
chính sách đảm bảo lương thực cho binh lính. Tuy nhiên, tác giả hầu như không làm
rõ vai trò của chính sách đó với tư cách là bộ phận cấu thành tư tưởng trị nước của
thời Lê Sơ.
Bài viết của tác giả Nguyễn Đình Sĩ, Những cải cách trên lĩnh vực quân sự
đăng trong cuốn Lê Thánh Tông (1442 - 1497) con người và sự nghiệp đã tập trung
làm rõ những điều chỉnh về mặt quân sự của vua Lê Thánh Tông cũng như việc ban
hành những quy định và luật pháp về quân sự của Lê Thánh Tông. Theo tác giả,
"để xây dựng nền quốc phòng vững mạnh, biện pháp quan trọng nhất mà Lê Thánh
17
Tông đã thực hiện là cải cách toàn diện nền binh bị nhà nước, làm cho quân đội gọn
nhẹ nhưng tinh nhuệ, có quân thường trực tại ngũ mạnh và có lực lượng dự bị đông
đảo khi cần thiết" [100, tr. 244].
Tóm lại, thời Lê Sơ là một giai đoạn thịnh trị của chế độ phong kiến Việt
Nam. Vì vậy các công trình nghiên cứu về nhiều mặt của xã hội thời Lê Sơ khá
nhiều, tuy nhiên do giới hạn nghiên cứu của tác giả mà những công trình đó mới chỉ
đề cập đến một số mặt khác nhau của giai đoạn này mà chưa có công trình nào
nghiên cứu trực tiếp về tư tưởng trị nước.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TƯ TƯỞNG VÀ Ý NGHĨA
CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC THỜI LÊ SƠ
Mặc dù chuyên ngành nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam đã được
tiến hành mấy chục năm nay, nhưng mảng vấn đề về tư tưởng trị nước trong lịch sử Việt
Nam còn ít được quan tâm nghiên cứu. Hầu hết các công trình nghiên cứu chỉ tập trung
vào một vài cá nhân trong lịch sử Việt Nam mà chưa nghiên cứu một cách có hệ thống
và chưa có những kiến giải thực sự sâu sắc. Những công trình nghiên cứu về lịch sử tư
tưởng và tư tưởng trị nước của thời Lê Sơ được xuất bản có thể kể đến dưới đây:
Cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I, do Nguyễn Tài Thư làm chủ biên,
xuất bản năm 1993. Trong công trình này, các tác giả đã dành riêng chương XIV để
bàn về thế giới quan và tư tưởng chính trị xã hội của Lê Thánh Tông, khẳng định:
Thời Lê Thánh Tông là lúc triều đại nhà Lê đã trưởng thành, lúc
ấy chế độ phong kiến trung ương tập quyền đã được củng cố. Lê Thánh
Tông mở rộng đất đai khai hoang, lập đồn điền, khuyến khích nông
nghiệp. Việc làm của Lê Thánh Tông và của triều đình nhà Lê lúc bấy
giờ đã đưa chế độ nhà Lê đến chỗ cực thịnh. Trong nước luôn được mùa,
nhân dân no đủ, không có trộm cướp, không có chiến tranh. Bên ngoài
thì được các nước láng giềng kính nể [110, tr. 300].
Khi nhận xét về tư tưởng trị nước của Lê Thánh Tông, các tác giả cho rằng:
Đóng góp quan trọng của Lê Thánh Tông là xây dựng được một
đường lối trị nước có thể đáp ứng được sự phát triển xã hội lúc bấy giờ.
Đó là đường lối trị nước kiểu "văn trị" hay nói cách khác là "lễ trị" hay
18
"đức trị" <…> Ở Lê Thánh Tông chủ trương giáo dục con người theo
những nguyên tắc của Nho giáo, chủ trương dùng lễ nghĩa để ràng buộc
con người vào triều đình, vào chế độ, coi trọng và sử dụng những người
xuất thân từ Nho gia <…>, song ở ông lễ nghĩa đó phải được xây dựng
trên cơ sở đời sống ấm no của dân [110, tr. 303-304].
Như vậy, ở công trình nghiên cứu này các tác giả đã chú trọng nghiên cứu
thời trị vì của vua Lê Thánh Tông và đưa ra những nhận xét khá chính xác về tư
tưởng chính trị - xã hội của ông vua này. Tuy nhiên, do mục đích và giới hạn nghiên
cứu mà các tác giả chỉ tập trung vào phân tích một triều đại Lê Thánh Tông mà
không nghiên cứu các triều đại trước và sau đó, do đó sẽ không phác họa được bức
tranh tư tưởng tổng thể về thời Lê Sơ. Mặt khác, mặc dù tập trung nghiên cứu về Lê
Thánh Tông nhưng sự phân tích cũng chỉ mang tính khái quát những nội dung tư
tưởng cơ bản cũng như những thành tựu thời Lê Thánh Tông đạt được.
Trong cuốn Đức trị và pháp trị trong Nho giáo, Vũ Khiêu đã tập trung vào
lý giải các quan điểm của Nho gia và Pháp gia về đức trị và pháp trị cũng như việc
sử dụng chúng trong quá trình cai trị. Theo ông, "Ở phương Đông chủ yếu là các
nước Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, những quan điểm đức trị và
pháp trị đã từng chống đối nhau và có khi đã kết hợp với nhau trong việc quản lý
đất nước và cai trị nhân dân" [48, tr. 9]. Khi lý giải về thời Lê, tác giả cho rằng, Nho
giáo đi dần vào giai đoạn cực thịnh của nó. Về tư tưởng trị nước, ông tập trung vào
hai nhà tư tưởng lớn của nhà Lê là Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông. Đối với Nguyễn
Trãi, tác giả Vũ Khiêu nhận xét: "Xuất phát từ lợi ích của nhân dân, Nguyễn Trãi đã
có những suy nghĩ sâu sắc về đức trị và pháp trị. Theo ông, một xã hội được duy trì và
phát triển không thể không có pháp luật và đạo đức. Nhưng pháp luật và đạo đức phải
được xây dựng trên cơ sở của một nền văn hiến ngày một cao của dân tộc" [48, tr. 31].
Khi đề cập đến tư tưởng cai trị của Lê Thánh Tông, tác giả Vũ Khiêu cho rằng:
"Về mặt pháp trị, Lê Thánh Tông đã ban hành một bộ luật nổi tiếng của Việt Nam, đó là
Bộ luật Hồng Đức… Về mặt đức trị, ông luôn luôn viết những lời răn dạy các quan và
nhân dân. Ông đặt một nền tảng văn hóa cho cả đức trị và pháp trị" [48, tr. 32-33].
Tuy nhiên, theo tác giả:
19
Cả đức trị và pháp trị đều bộc lộ những mặt tiêu cực. Pháp luật
không còn nghiêm minh như trước, đạo đức suy thoái nhất là ở giới cầm
quyền. Đối với họ đạo đức trở thành giả dối, là cái mặt nạ để che đậy
những tội lỗi xấu xa. Pháp luật là vũ khí của giới cầm quyền để đổi trắng
thay đen, yếu thua mạnh được. Người ta nói nhiều đến đức trị và nhân
danh đạo đức để can thiệp vào pháp luật và để xử lý mọi việc theo sự tùy
tiện của giới nho sĩ cầm quyền [48, tr. 33].
Mặc dù có đề cập đến vấn đề cai trị của thời Lê Sơ, nhưng công trình của
Vũ Khiêu dường như không đề cập đến cơ sở xã hội và các yếu tố ảnh hưởng đến
đức trị và pháp trị, cho nên ở đó tác giả mới chỉ tập trung vào làm rõ biểu hiện của
tư tưởng đức trị và pháp trị trong đường lối cai trị của các triều đại phong kiến Việt
Nam. Vì vậy, theo chúng tôi, cần có cách tiếp cận lịch sử triết học để làm rõ thêm
tồn tại xã hội Đại Việt đương thời và nhu cầu về sự kết hợp hai yếu tố cơ bản của
đường lối trị nước là đức trị và pháp trị, đặc biệt là sự kết hợp này trong thời Lê Sơ.
- Bài viết Hệ tư tưởng Lê của tác giả Nguyễn Duy Hinh, đây là một trong số
những bài viết nằm trong chuỗi các công trình nghiên cứu liền mạch về hệ tư tưởng
các triều đại phong kiến Lý, Trần, Lê, đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 6
năm 1986. Trong bài Hệ tư tưởng Lê, tác giả không tách riêng nghiên cứu về thời
Lê Sơ mà đặt nó trong tiến trình của cả thời Lê bao gồm cả giai đoạn Lê Sơ và giai
đoạn Lê trung hưng, ông chia triều đại này thành giai đoạn hợp - phân (trong đó giai
đoạn Lê Sơ tác giả gọi nó là giai đoạn hợp). Tác giả viết:
Đặc trưng của giai đoạn hợp là sự thống nhất của chính quyền
tương đối ổn định với hai nhà vua nổi bật - Lê Thái Tổ và Lê Thánh
Tông. Hai vị vua này ở ngôi trong thời điểm đã trưởng thành, trên tuổi
thành niên, có đủ trí lực và thể lực cần thiết để điều hành và tổ chức
chính quyền một cách chững chạc. Chính nền tảng nhà Lê Sơ nói riêng
và nhà Lê nói chung do hai nhà vua này quyết định [42, tr. 42].
Đánh giá chung về tư tưởng của thời Lê, tác giả khẳng định: "Đặc điểm
quán xuyến về hệ tư tưởng trong thời Lê là sự thống trị của tư tưởng cá nhân vượt
lên trên sự thống trị của tông tộc" [42, tr. 44].
Khi phân tích về hệ tư tưởng của thời Lê, tác giả Nguyễn Duy Hinh đi vào
20
phân tích quá trình nhà Lê sử dụng Nho giáo, hạn chế Phật giáo và đem đối chiếu
với các triều đại Lý - Trần trước đó. Mặc dù không khẳng định thời Lê Sơ độc tôn
Nho giáo như nhiều tác giả khác, Nguyễn Duy Hinh đưa ra nhận định, đặc điểm hệ
tư tưởng Nho giáo thời Lê là Nho giáo hàm chứa những yếu tố tư tưởng của Nho
giáo Mạnh Tử với những lý luận về Nhân Nghĩa, Pháp và Dân chứ không phải là
Nho giáo Khổng Tử với Lễ, Nhạc và Chính danh. Vì vậy, theo ông, Nho giáo được
lấy làm hệ tư tưởng của thời Lê là Nho giáo mang tư tưởng cá nhân với các nho gia
đã thoát khỏi tư tưởng tông pháp rất chặt chẽ của Khổng giáo.
Khi nhận xét về chủ trương cai trị của thời Lê, Nguyễn Duy Hinh cho rằng:
Lê Lợi cùng các vua Lê khác thường khuyên răn quan lại không
nên cướp bóc nhân dân, không quấy nhiễu nhân dân, nên chăm lo nông
tang, cầu đảo khi hạn, đắp đê cứu khi lụt, chủ trương trị dân bằng pháp
luật một cách công minh… những tư tưởng và hành động đó gần với tư
tưởng nhân chính và nhân nghĩa của Mạnh Tử hơn là tư tưởng lễ, nhân của
Khổng Tử [42, tr. 45].
Tóm lại, đây là bài viết ở mức độ nhất định mang tính nghiên cứu chuyên
sâu về tư tưởng, nhưng ở đó vẫn có những giới hạn khi tác giả không đề cập đến
những tư tưởng của các nhà nho tiêu biểu như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và các
nhà nho khác của thời Lê. Chúng tôi cho rằng, đây là một hạn chế đáng tiếc, bởi lẽ
nghiên cứu về tư tưởng thời Lê, đặc biệt giai đoạn đầu mà không đề cập đến
Nguyễn Trãi hay Lê Thánh Tông sẽ không thể trình diện bức tranh tư tưởng của
triều đại mà hai nhà nho ấy chính là những "họa sĩ" chính và tiêu biểu được công
nhận phổ biến. Mặt khác, mặc dù đề cập đến hệ tư tưởng của triều đại, song những
yếu tố pháp luật, văn hóa của giai đoạn này lại không được tác giả làm rõ.
Một công trình nghiên cứu mang tính hệ thống về thời Lê Sơ đáng quan tâm
là cuốn Lê Thánh Tông (1442 - 1497) con người và sự nghiệp. Đây là công trình
bao gồm nhiều bài viết tham gia hội thảo về Lê Thánh Tông tại Đại học Quốc gia
Hà Nội nhân kỷ niệm 500 năm ngày mất của Lê Thánh Tông. Trong công trình này,
các tác giả tập trung vào nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp cũng như tư tưởng của
riêng nhà vua Lê Thánh Tông về tư tưởng trị nước với các bài viết sau đây:
Nguyễn Thừa Hỷ trong bài Về đường lối trị nước của Lê Thánh Tông đã lý
21
giải chủ trương cai trị, biện pháp cai trị cũng như làm rõ được cơ sở của việc lựa chọn
đường lối trị nước của Lê Thánh Tông. Đó là đường lối kết hợp giữa pháp trị với lễ
trị, nhưng do triều đại này tôn sùng Nho giáo nên đường lối trị nước đó vẫn là đường
lối nằm trong khuôn khổ lễ trị chứ không hẳn nghiêng về pháp trị [xem: 45, tr. 77].
Có thể nói, đây là bài viết mang tính nghiên cứu chuyên sâu về đường lối cai trị của
vua Lê Thánh Tông, vạch ra những nét cơ bản trong đường lối cai trị của vị vua này
nhưng lại chưa đi vào phân tích các mặt cụ thể của đường lối đó.
Bài viết Lê Thánh Tông và Nho học - Nho giáo của Phan Đại Doãn đã nêu
ảnh hưởng của Nho giáo tới các lĩnh vực đời sống xã hội thời Lê Thánh Tông. Theo
tác giả, vào những năm 30-40 của thế kỷ XV, sự ảnh hưởng của Nho giáo trong
tầng lớp cầm quyền ở triều đình Thăng Long chưa thật sự sâu sắc, chỉ đến Lê Thánh
Tông, Nho giáo mới thực sự được đề cao. Tác giả khẳng định, "vua quan thời Lê
Thánh Tông đã sử dụng Nho học trên tinh thần thiết thực, có học tập kinh sử nhưng
không hoàn toàn gò bó theo một khuôn mẫu cứng nhắc" [16, tr. 304]. Phan Đại
Doãn còn cho rằng, Lê Thánh Tông tiếp nhận Nho giáo chủ yếu ở phương diện lễ
trị, điều này được thể hiện trong 24 điều giáo huấn mà Lê Thánh Tông ban ra vào
năm 1470, đồng thời khẳng định đường lối cai trị của ông vua này là sự kết hợp lễ
trị với pháp trị, nhờ đó mà hiệu quả cho việc cai trị của Lê Thánh Tông khá cao.
Đây là bài viết mang tính chất nghiên cứu về mặt hệ tư tưởng thời vua Lê
Thánh Tông khá sâu của tác giả Phan Đại Doãn. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu những ảnh hưởng của Nho giáo mà chưa đề cập đến các khía cạnh
khác trong đường lối cai trị của thời Lê Sơ nói chung và Lê Thánh Tông nói riêng.
Cũng trong hội thảo khoa học Lê Thánh Tông (1442 - 1497) con người và
sự nghiệp này, tác giả Phan Huy Lê trong bài viết Lê Thánh Tông, cũng đưa ra nhận
định về đường lối trị nước mà Lê Thánh Tông xây dựng, cho rằng:
Lê Thánh Tông xây dựng một thiết chế quân chủ tập quyền cao
độ nhằm tập trung quyền lực vào tay hoàng đế, hạn chế sự tham chính
của tầng lớp quý tộc và hoàng tộc, loại trừ khả năng lộng quyền của các
triều thần ở trung ương và tệ nạn tập trung quyền hành của các quan lại
địa phương. Hệ thống giám sát tại triều đình cũng như hệ thống chính
quyền địa phương được coi trọng <… > Chế độ mà Lê Thánh Tông xây
22
dựng rõ ràng là chế độ tập quyền quan liêu theo mô hình Nho giáo, lấy
Nho giáo làm hệ tư tưởng chủ đạo [61, tr. 15].
Trước ý kiến của một số học giả cho rằng thời Lê, đặc biệt là Lê Thánh
Tông nhận sự thất bại về mặt hệ tư tưởng ngay sau khi Lê Thánh Tông mất, là do
triều đại này quá tôn sùng Nho giáo và mô phỏng quan chế nhà Minh, Phan Huy
Lê khẳng định:
Những biến chuyển về kinh tế, sự tan rã của kinh tế điền trang và
sự chuyển biến của chế độ từ quân chủ quý tộc sang quân chủ quan liêu theo
mô hình Nho giáo là điều tất nhiên và cần được đánh giá là một bước
phát triển <…> Lê Thánh Tông tôn sùng Nho giáo, một nhà Lý học theo
phái Tống Nho, nhưng ông biết kết hợp tư tưởng Nho giáo, tư tưởng đức trị,
lễ trị và pháp trị trên một tinh thần và ý thức dân tộc sâu sắc [61, tr. 17-18].
Có thể nói, đây là công trình mang tính khái quát cao về giai đoạn Lê
Thánh Tông, nhưng tư tưởng chủ đạo vẫn là mô phỏng ca ngợi về nhà vua Lê
Thánh Tông mà chưa có sự đánh giá đầy đủ về cả giai đoạn Lê Sơ. Mặt khác, tác
giả cũng chưa phân tích những tiền đề, điều kiện để Lê Thánh Tông thực hiện
đường lối cai trị của mình cũng như chưa đánh giá về những giá trị của giai đoạn
này đến các giai đoạn sau. Theo chúng tôi, đây chính là khoảng trống mà chúng tôi
tiếp tục nghiên cứu để bổ sung cho sự thiếu hụt đó.
Ngoài ra, trong các nghiên cứu về tư tưởng của thời Lê Sơ còn có một số
luận văn, luận án có đề cập đến một số lĩnh vực của tư tưởng trị nước hoặc một số
nhà vua tiêu biểu của giai đoạn này, có thể kể đến:
Luận án tiến sĩ về sử học của tác giả Lê Ngọc Tạo: "Các chính sách về xã
hội của nhà nước Lê Sơ (1428 - 1527)", bảo vệ năm 2001. Luận án bao gồm ba
chương, trong đó tác giả đã chỉ ra các chính sách xã hội và vai trò, tác dụng của nó
trong quản lý xây dựng đất nước giai đoạn Lê Sơ. Nhận xét về nhà nước và xã hội
thời Lê Sơ, tác giả viết: "Xã hội Việt Nam thời Lê Sơ từ một xã hội truyền thống
được đưa vào khuôn mẫu giáo điều của Nho giáo, trật tự xã hội được vận hành và
tồn tại theo nguyên lý của đạo Nho. Kết cấu xã hội được nhìn nhận theo quan điểm
của Nho giáo" [102, tr. 63]. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu và khá công
phu về chính sách xã hội của nhà nước Lê Sơ. Tuy nhiên, chính sách xã hội chỉ là
23
một mặt, một khía cạnh trong nội dung trị nước của thời Lê Sơ, và để hiểu rõ hơn
thời đại Lê Sơ, theo chúng tôi, cần phải tiếp tục nghiên cứu các mặt khác của giai
đoạn lịch sử này. Mặc dù vậy, công trình nghiên cứu của tác giả Lê Ngọc Tạo cũng
là một tài liệu bổ ích để chúng tôi tham khảo về nhà nước và chính sách đối nội của
giai đoạn này. Trong quá trình làm luận án, chúng tôi cũng kế thừa những kiến thức
về lịch sử từ công trình nghiên cứu của tác giả, đặc biệt là những chính sách xã hội
đã được tác giả khảo cứu và quan niệm về sự phân chia giai tầng để tìm hiểu về giai
tầng xã hội Lê Sơ và đưa ra những đánh giá về mối quan hệ giữa các tầng lớp nhân
dân dưới thời này. Từ đó chúng tôi rút ra những bài học về chính sách an dân đối
với sự nghiệp xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân giai đoạn hiện nay.
Luận án tiến sĩ triết học của tác giả Nguyễn Hoài Văn với đề tài "Tìm hiểu
tư tưởng chính trị nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh", bảo vệ
năm 2001. Trong luận án này, tác giả không đi sâu vào nghiên cứu toàn bộ tư tưởng
chính trị của thời Lê Sơ mà chỉ tập trung vào nghiên cứu tư tưởng chính trị Nho
giáo của Lê Thánh Tông trên các khía cạnh như bối cảnh lịch sử và cơ sở kinh tế -
xã hội của tư tưởng chính trị Nho giáo thời Lê Thánh Tông và những biểu hiện về
chính trị theo tinh thần Nho giáo của vị vua này.
Nhận xét tổng thể về đường lối cai trị của Lê Thánh Tông, Nguyễn Hoài
Văn cho rằng:
Thể chế chính trị thời Lê Thánh Tông được xác lập với sự thống
trị tuyệt đối của hệ tư tưởng Nho giáo trong đời sống xã hội; ở sự tôn
vinh giáo dục khoa cử Nho học, thông qua đó mà tuyển chọn và đào tạo
đội ngũ quan lại các cấp, thực hiện chuyển giao quyền lực từ quý tộc
sang quan liêu nho sĩ; ở sự tăng cường và hữu hiệu hóa quyền lực của bộ
máy nhà nước; ở hệ thống pháp luật được ban bố,…ở việc "nho giáo
hóa" và "luật hóa" hầu hết các quan hệ xã hội [121, tr. 106].
Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Đỗ Đức Minh: "Học thuyết pháp trị
Trung Hoa thời cổ đại, giá trị và sự kế thừa trong quản lý xã hội ở nước ta hiện
nay" cũng bàn đến thời Lê Sơ ở khía cạnh kế thừa học thuyết pháp trị Trung Hoa.
Khi bàn đến thời Lê Sơ, tác giả tập trung vào hai vị vua có ảnh hưởng lớn nhất của
triều đại này là Lê Thái Tổ và Lê Thánh Tông. Tác giả viết:
24
Do đáp ứng được nhu cầu xây dựng, củng cố nhà nước phong
kiến trung ương tập quyền và do nhu cầu phát triển văn hóa, giáo dục ở
nước ta thời đó nên Nho giáo thời Lý - Trần được coi trọng và giành vị
trí độc tôn vào thời Lê Sơ <…> Lê Thánh Tông đã lấy những quan điểm
của Nho giáo làm hệ tư tưởng, chỉ đạo việc biên soạn, ban hành luật
pháp, nhằm thể chế hóa nhà nước phong kiến Đại Việt với truyền thống
nhân nghĩa và lấy dân làm gốc [76, tr. 91].
Tóm lại, tuy là công trình nghiên cứu về tư tưởng, nhưng do giới hạn của
luận án nên trong thời Lê Sơ tác giả chỉ tập trung vào nhà vua Lê Thánh Tông. Luận án
cũng không đề cập đến các khía cạnh khác về tư tưởng trị nước của thời Lê Sơ mà
chỉ tập trung vào tìm hiểu tư tưởng Nho giáo với tư cách là hệ tư tưởng của thời đại.
Trong lĩnh vực tư tưởng còn phải kể đến luận án tiến sĩ triết học của tác giả
Phan Quốc Khánh "Vấn đề đức trị và pháp trị trong lịch sử tư tưởng Việt Nam" bảo
vệ năm 2004. Trong luận án này, tác giả đã khảo sát, tìm hiểu về sự biểu hiện và
tiếp biến của tư tưởng đức trị và pháp trị Trung Hoa ở các triều đại phong kiến Việt
Nam thông qua tư tưởng của các nhà nho và các nhà lãnh đạo xã hội. Khi bàn về thời
Lê Sơ, tác giả chú ý đến hai nhà nho tiêu biểu là Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông, cho
rằng Nguyễn Trãi chủ trương nhất quán con đường quản lý, cai trị xã hội bằng nhân
nghĩa, lấy nhân nghĩa là cơ sở để bình định và thiết lập ổn định xã hội, còn "Lê Thánh
Tông vẫn theo tư tưởng Nho giáo, tức là đề cao đức trị, mặt khác ông đã bổ sung
những yếu tố có tính pháp trị vào việc trị nước" [47, tr. 53]. Phan Quốc Khánh còn
đưa ra nhận xét cho rằng, "tư tưởng trị nước của Lê Thánh Tông không phải là phép
cộng đơn giản đức trị với pháp trị mà là trên nền đức trị, ông đã vận dụng bổ sung
những cái hay, cái đúng của tư tưởng pháp trị, <trong đó> … giáo dục phải đi trước,
chỉ khi không thể giáo dục được nữa mới dùng đến hình phạt nặng" [47, tr. 59].
Trong luận án của Phan Quốc Khánh, mặc dù có đề cập đến tư tưởng trị
nước của Lê Thánh Tông, nhưng tác giả cũng không đi sâu vào nghiên cứu những nội
dung của việc kết hợp đức trị với pháp trị của Lê Thánh Tông. Do vậy, luận án mới
chỉ dừng lại ở việc liệt kê những người có sử dụng và chịu ảnh hưởng của tư tưởng
đức trị, pháp trị. Mặt khác, ngoài hai nhà tư tưởng Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông,
các cá nhân khác trong giai đoạn này không được tác giả đề cập đến. Vì vậy, luận án
25