Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Tư tưởng cải cách hồ quý ly và ý nghĩa lịch sử của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.35 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ TRANG

TƢ TƢỞNG CẢI CÁCH HỒ QUÝ LY VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ
CỦA NÓ

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Hà Nội – 2015
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ TRANG

TƢ TƢỞNG CẢI CÁCH HỒ QUÝ LY VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ
CỦA NÓ

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Bình Yên

Hà Nội – 2015
2




MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh giành, giữ, xây dựng và bảo vệ độc
lập dân tộc. Tư tưởng chủ đạo của dân tộc Việt Nam là tư tưởng yêu nước. Sự
hình thành và phát triển của tư tưởng yêu nước Việt Nam đi đôi với sự hình thành
và phát triển của quốc gia dân tộc. Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, dân tộc
Việt Nam đã chứng minh rằng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không chỉ là tình
cảm đơn thuần đối với non sông, đất nước mà còn là hệ thống tiêu chuẩn để nhận
định đúng - sai, tốt - xấu; là kim chỉ nam cho hành động của mọi thành viên, gia
đình, dòng tộc và dân tộc trong mọi giai đoạn lịch sử. Lòng yêu nước của dân tộc
Việt Nam bao giờ cũng gắn với hành động vì đất nước, vì sự phát triển và phồn
vinh của dân tộc; không chỉ thể hiện trong các cuộc chống quân xâm lược, mà còn
thể hiện trong lao động sản xuất xây dựng quê hương; trong việc tìm ra những
phương hướng, những bước đi mới làm cho đất nước phát triển mà đỉnh cao là
những tư tưởng, hành động canh tân, cải cách.
Tư tưởng canh tân, cải cách tìm đường phát triển đất nước có một vị trí hết
sức đặc biệt và đó cũng là một biểu hiện đặc biệt của tinh thần yêu nước Việt
Nam. Trên đường phát triển của dân tộc, mỗi thời kỳ lịch sử đều có những tư
tưởng, những cuộc cải cách do Nhà nước chủ trương hoặc cá nhân đề xướng như
cải cách của Khúc Hạo ở thế kỷ thứ X, của Hồ Quý Ly cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ
XV, của Lê Thánh Tông vào nửa cuối thế kỷ XV, của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn
Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ… cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đặc biệt là công cuộc
đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo diễn ra từ những
năm 80 của thế kỷ XX cho đến nay đã tạo ra bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện
chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Trong số những tư tưởng cải cách trước đây, tư
tưởng cải cách của Hồ Quý Ly có vị trí đặc biệt trong lịch sử Việt Nam thời kỳ
3



trung đại, mở đầu cho bước phát triển mới của Nhà nước trung ương tập quyền và
sau đó được hoàn thiện dưới triều Lê Thánh Tông.
Tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly xuất hiện vào cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ
XV, đúng vào lúc lịch sử nước ta đứng trước ba đòi hỏi lớn: Một là phải loại bỏ
vai trò của quý tộc Trần đã suy thoái trên vũ đài chính trị và tư tưởng; hai là, mở
đường cho đất nước tiến lên theo một hướng mới hơn, tiến bộ hơn; ba là, xây dựng
lực lượng chống lại âm mưu xâm lược của nhà Minh.
Tư tưởng và công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly đã tấn công mạnh mẽ vào
toàn bộ cở sở chính trị, kinh tế, xã hội đang trong khủng hoảng của nhà Trần.
Song, chừng ấy là chưa đủ đáp ứng yêu cầu của lịch sử, cải cách thất bại. Nguyên
nhân là ở chỗ: Tư tưởng, cách thức tiến hành cải cách của Hồ Quý Ly có những
điểm chưa hợp lý; công cuộc cải cách mới diễn ra trong một khoảng thời gian
ngắn thì đất nước phải chịu cuộc chiến tranh xâm lược do nhà Minh phát động nên
chưa có được những thành tựu cần thiết minh chứng cho sự tiến bộ của mình;
những hạn chế của cải cách là một trong những nguyên nhân dẫn tới việc triều Hồ
đã không thể tập hợp, huy động được sức mạnh, trí tuệ của toàn dân vào sự nghiệp
chống giặc Minh xâm lược.
Mặc dù tư tưởng cải cách của ông có những hạn chế, sai lầm, công cuộc cải
cách do ông lãnh đạo không thành công nhưng chúng có vai trò đặc biệt, mở đầu
cho một giai đoạn mới trong đó dân tộc ta không ngừng tìm tòi đổi mới để phát
triển. Nhiều tư tưởng cải cách do Hồ Quý Ly nêu ra nhưng chưa được thực hiện
trong thời đại của mình thì đã được nhà Lê sơ cơ bản hoàn thành trong thời gian
sau đó không lâu. Những bài học lịch sử quý báu đúc kết từ chính sự thành bại
trong cải cách của Hồ Quý Ly ít nhiều còn giúp cho các thế hệ người Việt Nam
hiện nay có thêm những điều kiện để nhận thức, đẩy nhanh công cuộc đổi mới đất
nước đồng thời tránh được những vấp váp, sai lầm mà tiền nhân mắc phải. Do vậy,
4



việc quay lại nghiên cứu tư tưởng Hồ Quý Ly có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc, không chỉ nâng cao hiểu biết về tư tưởng cải cách Hồ Quý Ly cùng như lịch
sử tư tưởng Việt Nam mà còn góp phần nâng cao nhận thức về đường lối đổi mới
đất nước của Đảng ta hiện nay, gợi mở cho chúng ta con đường phát triển để đưa
đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu. Từ những lý do đó, tôi chọn đề
tài “Tƣ tƣởng cải cách của Hồ Quý Ly và ý nghĩa lịch sử của nó” làm đề tài
luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly cùng thân thế, sự nghiệp của ông đã và
đang là đề tài được nhiều người quan tâm nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau;
vấn đề này được chú trọng hơn trong quá trình đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng ta. Tính từ năm 1945 đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về đề
tài này, tiêu biểu là những công trình sau đây:
“Chính trị Hồ Quý Ly” của Chu Thiên, NXB Đại La, Hà Nội, 1945. Điểm
nổi bật của công trình này là sau khi phân tích tư tưởng và hoạt động chính trị của
Hồ Quý Ly, Chu Thiên đã đi đến kết luận rằng công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly
là không hiệu quả, không có ảnh hưởng trực tiếp và lớn lao gì trong quần chúng;
Hồ Quý Ly là nhà cải cách chính trị không tròn phận sự.
Trong chuyên khảo “Hồ Quý Ly – Mạc Đăng Dung” của Lê Văn Hòe, do
Quốc học thư xã Hà Nội xuất bản vào năm 1952, đã khảo cứu những nguyên nhân
đi đến thất bại của Hồ Quý Ly trong cải cách và trong kháng chiến chống quân
xâm lược Minh. Tác giả nhận định: “Hồ Quý Ly là một nhà chính trị quá ư cấp
tiến, nên hóa vô chính trị. Thật vậy, bắt dân phải nộp vàng, bạc thật vào kho nhà
vua, phát hành giấy bạc buộc dân tiêu, buộc dân khai tên vào sổ hộ tịch, buộc dân
nêu tên họ và diện tích từng thửa ruộng, những việc đó đều là những việc mới mẻ,

5


văn minh thật đấy, nhưng xét theo tình trạng nước nhà thời bấy giờ thì những việc

đó sao khỏi quá trớn, không sát với tình trạng xã hội” [12, tr.135].
Trong cuốn “Việt Nam sử lược”, Quyển 1, Bộ Giáo dục xuất bản, Sài Gòn,
1971, ở chương XI: Nhà Hồ, tác giả Trần Trọng Kim cho rằng: “Công việc của Hồ
Quý Ly làm thì không phải một người tầm thường, nhưng tiếc thay một người có
tài kinh tế như thế, mà giả sử cứ giúp cho nhà Trần cho có thủy có chung thì dẫu
giặc Minh có thế mạnh đến đâu đi nữa, cũng chưa hầu dễ cướp được nước Nam,
mà mình lại được tiếng thơm đề lại nghìn thu. Nhưng vì cái lòng tham xui khiến
hễ đã có thế lực là sinh ra bụng muốn tranh quyền cướp nước. Bởi thế làm sự
thoán đoạt và nhà Minh mới có cớ sang đánh lấy nước An Nam, cái tội làm mất
nước ai gánh vác cho Quý Ly” [14, tr.197].
Nhìn chung, các công trình trên do hạn chế lịch sử và lập trường giai cấp
nên cách nhìn nhận, đánh giá Hồ Quý Ly còn phiến diện, không thấy được hoặc
không đánh giá được một cách đầy đủ giá trị tư tưởng cải cách cũng như vai trò
tích cực của ông đối với đất nước trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động.
Khác với các công trình đã nêu trên, tác giả Quốc Ấn (1974) trong cuốn
“Hồ Quý Ly, nhân vật lỗi lạc nhất thời đại từ Đông sang Tây, tác giả xuất bản, in
tại Tân Sanh ấn quán, Sài Gòn đã có cách tiếp cận khác: Tác giả đánh giá rất cao
những tư tưởng và nội dung cải cách của Hồ Quý Ly; xem ông là một nhà chính trị
có tư tưởng cải cách tiến bộ, táo bạo; đặc biệt tác giả đánh giá Hồ Quý Ly là nhân
vật lỗi lạc nhất thời đại.
Sang thập niên 90 của thế kỷ XX xuất hiện thêm một số sách chuyên khảo
về Hồ Quý Ly như: “Cải cách Hồ Quý Ly” của Phan Đăng Thanh, Trương Thị
Hoà (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996). Các tác giả đã chỉ ra vị trí nổi bật
của nhà Hồ trong dòng lịch sử văn học Việt Nam “Nhà Hồ chỉ tồn tại được có hơn
7 năm nhưng đã tích tụ và hình thành được bao nhiêu kinh nghiệm trị nước trọng
6


đại, cải cách Hồ Quý Ly đã mở ra một bước phát triển mới trong lịch sử chính trị
Việt Nam, có thề đó là tiền đề của công cuộc kháng chiến và cải cách thành công

của Bình Định vương Lê Lợi và nhà Lê cuối thế kỷ XV” [35, tr.214].
“Hồ Quý Ly” của Nguyễn Danh Phiệt (1997) (Viện sử học và Nxb. Văn
hoá Thông tin, Hà Nội) đã đánh giá rằng, bên cạnh những mặt hạn chế của con
người Hồ Quý Ly, thì ông là “một nhân vật lịch sử có tầm cỡ”, “một nhân cách
đặc biệt”, “một gương mặt cải cách lớn” song cũng là một chiếc “âu vàng bị
khuyết mẻ”.
Các công trình nêu trên đã đề cao nội dung tư tưởng cải cách của Hồ
Quý Ly, khẳng định mặt tích cực, tiến bộ trong những cải cách đồng thời cũng nêu
lên những hạn chế của nó. Đáng chú là: Mối quan hệ giữa công cuộc cải cách
nhằm giải quyết những yêu cầu phát triển của xã hội và cuộc kháng chiến chống
quân Minh xâm lược, bảo vệ đất nước được các tác giả quan tâm nhiều hơn. Với
tinh thần khách quan, khoa học, các tác giả trên đã cho rằng, không thể đơn thuần
quy nguyên nhân thất bại của cuộc kháng chiến chống quân Minh do Hồ Quý Ly
lãnh đạo vào những sai lầm trong cải cách của ông để rồi từ đó phủ nhận mặt tích
cực, tiến bộ của cải cách.
Bên cạnh những sách chuyên khảo, những bài viết vừa kể trên, trong các
bộ giáo khoa, giáo trình lịch sử đã có những chương bàn về vấn đề Hồ Quý Ly:
Năm 1976, cuốn “Lịch sử Việt Nam” quyển 1, tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, của
Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Đức Nghinh [30, tr.337] đã có một chương nói về
chính sách cải cách, hạn điền, hạn nô của Hồ Quý Ly. Các cuốn: “Lịch sử Việt
Nam” của Đào Duy Anh (1958), (NXB Văn Hoá, Hà Nội), [1]; các giáo trình về
lịch sử Việt Nam thời phong kiến được viết bởi các nhà sử học như: Phan Huy Lê
và Phan Đại Doãn (1997) với cuốn “Khởi nghĩa Lam Sơn”, (Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội); Trương Hữu Quýnh (1982) với cuốn “Chế độ sở hữu ruộng đất ở
7


Việt Nam thế kỷ XI – XVIII”, tập 1, (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội); Hà Văn Tấn
và Trần Quốc Vượng (1968) với “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam”, tập 1
(Nxb. Giáo dục, Hà Nội); Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn (1993) với cuốn

“Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến 1858”, tập 1 (Trường Đại học sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh), trong chương III có đánh giá về Hồ Quý Ly và công cuộc cải
cách của ông: “Hồ Quý Ly là một nhân vật đặc biệt trong lịch sử, với nhiều tài trí
và có khả năng làm những việc táo bạo. Một số chính sách cải cách cũng như thái
độ chống giặc đến cùng chứng tỏ Hồ Quý Ly có tinh thần thực tiễn và có ý thức
dân tộc. Tuy nhiên, trước sau Quý Ly vẫn là người của tầng lớp quý tộc và đã thực
hiện những chính sách mà mục tiêu của chúng trước hết vì quyền lợi của tầng lớp
này. Do đó nếu như một số chủ trương cải cách về văn hóa, giáo dục của Hồ Quý
Ly có những yếu tố tích cực, thì một số chính sách kinh tế lại chủ yếu quyết định
quyền lợi kinh tế của một tầng lớp này hay tầng lớp khác… Quý Ly chưa đáp ứng
được yêu cầu xã hội lúc bấy giờ. Dẫu có nhiều mưu trí và mạnh bạo trong cải
cách, kiên quyết chống giặc ngoại xâm, Hồ Quý Ly vẫn bị cô lập trước nhân dân,
cuối cùng thất bại thảm hại trong cuộc kháng chiến chống quân Minh” [25,
tr.152].
Hồ Quý Ly và tư tưởng cải cách của ông cũng đã được một số học giả
nước ngoài quan tâm nghiên cứu: John K.Whitmore (1985) với “Viet Nam, Ho
Quy Ly and the Ming (1371–1421)”, (Yale Southeast Asia Studies) đã đề cập đến
tư tưởng cải cách của ông. Nhà sử học Nga A, B. Pôliacốp với “Sự phục hưng của
nước Đại Việt thế kỷ X đến thế kỷ XIV”, đã nhận xét rằng: “Mặc dù về nguyên
tắc, sự phát triển của tư hữu ruộng đất mà Hồ Quý Ly đã chống lại là một biểu
hiện tiến bộ, kích thích các quan hệ hàng hóa, tiền tệ mở rộng, nhưng ở giai đoạn
đầu điều đó có thể dẫn đến tình trạng cát cứ phong kiến trên lãnh thổ quốc gia nhỏ
bé này. Trong điều kiện phải tồn tại bên cạnh một đế quốc hùng mạnh ở phía Bắc
8


và các quốc gia láng giềng hiếu chiến (Chămpa, Ăngkor…), tình trạnh cát cứ
phong kiến có thể là nguyên nhân đưa đất nước này vào ách nô dịch mới, trong
một thời gian dài” [3, tr.279]. Tuy cách tiếp cận khác nhau, nhưng cả 3 tác giả trên
đều muốn vạch ra mối quan hệ giữa cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối triều

Trần với những cố gắng giải quyết bằng những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly
và khuynh hướng phát triển của triều Lê sau đó.
Tóm lại, về Hồ Quý Ly và tư tưởng cải cách của ông đã và đang được nhiều
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, song chủ yếu là bình diện sử học, luật học,
văn học, chính trị học; chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào được thực
hiện dưới góc độ triết học. Các công trình trên đã đưa lại không chỉ nhiều tri thức
quý báu mà còn cả phương pháp tiếp cận về Hồ Quý Ly đồng thời tiếp tục gợi mở
những suy nghĩ, hướng tiếp cận mới về vấn đề phức tạp này. Do vậy, có thể khẳng
định rằng, việc nghiên cứu để làm rõ thêm về tư tưởng và hoạt động cải cách của
Hồ Quý Ly để từ đó rút ra những giá trị lịch sử, những bài học kinh nghiệm cần
thiết cho ngày nay trên bình diện triết học vẫn là nhiệm vụ khoa học có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục tiêu
Làm rõ những nội dung tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly; xác định những
giá trị, ý nghĩa lịch sử, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm có thể tham khảo
trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm rõ những điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề tư tưởng của tư
tưởng cải cách Hồ Quý Ly.
Thứ hai, làm rõ nội dung tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly.
9


Thứ ba, đánh giá ý nghĩa lịch sử của cải cách Hồ Quý Ly và rút ra những
bài học kinh nghiệm cần thiết.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly
trong khoảng từ cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, khi mà xã hội lúc bấy giờ Nhà

Trần lâm vào khủng hoảng cả về kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng một cách sâu
sắc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên bình diện triết học, luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng cải cách
của Hồ Quý Ly trong 30 năm tham chính của ông, bắt đầu từ năm 1370 -1400.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam về nghiên
cứu lịch sử, tư tưởng, văn hóa đồng thời kế thừa những kết quả đã đạt được của
các công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan đến đề tài này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; vận dụng tổng hợp các nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn, khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể…
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nhận thức như: lịch sử và
logic, phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh…

10


6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ nội dung, giá trị và hạn chế trong tư tưởng
cải cách của Hồ Quý Ly, ý nghĩa lịch sử của các tư tưởng đó.
- Luận văn góp phần làm phong phú thêm những tư liệu có ích phục vụ cho
công tác nghiên cứu về tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly, đồng thời trên cơ sở rút
ra những bài học kinh nghiệm cần thiết.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Trên bình diện triết học, luận văn góp phần hệ thống hóa, làm sáng tỏ nội
dung, giá trị lịch sử của tư tưởng cải cách Hồ Quý Ly, rút ra những bài học kinh

nghiệm và ý nghĩa của chúng đối với công cuộc đổi mới của chúng ta hiện nay.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu,
giảng dạy, học tập một số chuyên đề về lịch sử tư tưởng Việt Nam, lịch sử Việt
Nam, về Hồ Quý Ly...
- Luận văn còn đi đến khẳng định: để đất nước phát triển, trở nên cường
thịnh thì vấn đề cải cách, đổi mới luôn là yêu cầu khách quan, nhiều khi có tính
chất sống còn của mỗi quốc gia, dân tộc hay rộng hơn là mỗi thời đại. Mỗi thời kỳ
do điều kiện lịch sử khác nhau mà nội dung, phương pháp, tính chất và yêu cầu cải
cách khác nhau. Song sự thắng lợi của cách mạng hôm nay bao giờ cũng là kết quả
của quá trình đúc kết kinh nghiệm và phát huy, phát triển những giá trị lịch sử
trước đó. Nghiên cứu tư tưởng cải cách Hồ Quý Ly tạo cơ sở khoa học cho việc
“gạn đục khơi trong” những mặt tích cực và hạn chế của nó sẽ ít nhiều góp thêm
nguồn tư liệu để đánh giá đúng được vị trí, giá trị của tư tưởng này đồng thời cũng
là cơ sở cho việc tổng kết thực tiễn để tiến hành đưa công cuộc đổi mới ở nước ta
đi vào chiều sâu.

11


8. Kết cấu của luận văn
Phù hợp với mục đích và nhiệm vụ đã nêu, luận văn được kết cấu gồm:
Phần mở đầu, 2 chương, 5 tiết, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.

12


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN XUẤT HIỆN VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN
TRONG TƢ TƢỞNG CẢI CÁCH CỦA HỒ QUÝ LY
1.1. Điều kiện xuất hiện tƣ tƣởng cải cách của Hồ Quý Ly

1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa – tư tưởng cho sự xuất hiện tư tưởng
cải cách của Hồ Quý Ly
Về kinh tế
Sau kháng chiến chống Nguyên, quý tộc địa chủ triều Trần đã chiếm lại
ruộng đất, đẩy nông dân gia nô vào chỗ phụ thuộc và bị bóc lột nặng nề. Dân
nghèo phải bán ruộng, bán con làm nô tỳ. Nạn cướp ruộng đất phát triển. Kiện
tụng về ruộng đất ngày càng nhiều. Số địa chủ tăng lên trong lúc nông dân nghèo
đói lang thang khắp nơi. Đời sống sa đọa của giai cấp thống trị mà đại biểu là tập
đoàn quý tộc Trần làm cho tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội cuối thế kỷ XIV
thêm sâu sắc.
Trong các làng xã, số địa chủ tư hữu ngày càng tăng do việc mua, cướp
ruộng của dân, trở thành một lực lượng có thế lực kinh tế trong xã hội. Ruộng đất
tập trung vào tay quý tộc, địa chủ làm cho sản xuất của nông dân tự do bị đe dọa,
một số lớn nông dân bị nô lệ hóa, một số khác bị đẩy ra khỏi quê hương, sống
cuộc đời lưu vong.
Do bị áp bức bóc lột, sản xuất nông nghiệp bị đình đốn lại bị hạn hán nên
nạn mất mùa đói kém gần như xảy ra thường xuyên trong suốt thế kỷ XIV, nhất là
những năm 1290, 1321, 1344, 1357, 1392.
Vào thời điểm này ngoại thương cũng phát triển một bước: thông qua
đường biển, thương nhân nước ngoài vào nước ta mua chủ yếu sản vật là ngọc trai.
Điều này càng bộc lộ rõ mâu thuẫn giữa một bên là nhu cầu phát triển của kinh tế
13


hàng hóa đang diễn ra theo quy luật của nó với một bên phong kiến nhà Trần quan
liêu, trì trệ, ăn chơi sa đọa.
Kinh tế luôn là nền móng cho sự tồn tại, phát triển của xã hội vì vậy khi nền
kinh tế bị khủng hoảng, khi mâu thuẫn trong kinh tế gay gắt thì tất yếu dẫn đến
những khủng hoảng, mâu thuẫn trong đời sống chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng.
Cơ cấu kinh tế - xã hội phong kiến Việt Nam được xây dựng và củng cố từ

Lý sang Trần nhưng đến cuối Trần đã bộc lộ những mâu thuẫn nội tại đòi hỏi phải
nhận thức và giải quyết. Đó là:
- Bao trùm là mâu thuẫn giữa kinh tế hàng hóa – tiền tệ đã phát triển đến
chừng mực nhất định trong thời “thịnh Trần” với tình trạng nền kinh tế còn bảo
lưu phương thức sản xuất châu Á có tính đặc thù Việt Nam là chế độ nô lệ gia
đình (gia nô, nô tì), chế độ điền trang thái ấp của quý tộc và bảo tồn ruộng đất
công hữu.
- Mâu thuẫn giữa yêu cầu tư hữu hóa ruộng đất đã được Nhà nước triều
Trần thừa nhận từ đầu thế kỷ XIII (khi nhà Trần cho phép bán ruộng công thành
ruộng tư) với chế độ công hữu về đất đai vẫn được bảo tồn nghiêm ngặt.
- Mâu thuẫn giữa sự chiếm hữu lớn về đất đai và sức lao động nô lệ gia
đình (gia nô, nô tì của phong kiến quý tộc nhà Trần) với sở hữu vừa và nhỏ của địa
chủ bình dân và địa chủ quan liêu mới phát triển.
Các mâu thuẫn nói trên bộc lộ qua nhiều hình thức, phương diện của đời
sống xã hội cụ thể. Để có thể nhận thức được các mâu thuẫn đó một cách đầy đủ
cần có sự phân tích toàn diện các mặt khác của đời sống xã hội lúc bấy giờ.
Về chính trị - xã hội
Sự phát triển của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất tất yếu dẫn đến những
biến động về kết cấu giai cấp trong xã hội. Trước hết trong nội bộ của giai cấp
14


thống trị đã phân hóa thành hai tầng lớp. Tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần và
tầng lớp địa chủ quan liêu. Hai tầng lớp này có sự khác nhau về kinh tế và địa vị
xã hội. Nếu như trước đây, giai cấp thống trị quản lý Nhà nước bao gồm các tầng
lớp quý tộc, công thần, quan liêu, cao tăng và giữa các tầng lớp này chưa có sự
phân biệt rõ ràng, những chức vụ cao trong bộ máy Nhà nước không chỉ có quý
tộc, công thần nắm giữ, mà nhiều trọng trách khác còn do cao tăng đảm nhiệm. Sử
cũ cho biết, năm 971 “Mới định ra giai phẩm cho các quan văn võ và tăng đạo cho
Nguyễn Bặc làm Định quốc công, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư, Lê Hoàn làm

Thập đạo tướng quân, cho tăng thống Ngô Chân Lưu làm Khuông Việt Đại Sư,
cho Trương Ma Ni làm Tăng lục Đạo sĩ, Đặng Quyền Quang làm Sùng chân uy
nghi” [9, tr.155]. Song, sang cuối thế kỷ XIII, kết cấu nội bộ giai cấp thống trị đã
có sự phân chia rõ ràng. Tầng lớp quý tộc tôn thất nắm giữ chức vụ cao nhất trong
triều đình, có ruộng, có điền trang, có số nô tỳ lên tới hàng nghìn người. Trong khi
đó tầng lớp địa chủ quan liêu đóng vai trò thừa hành trong bộ máy quản lý Nhà
nước, tầng lớp này bao gồm các nho sĩ và quan lại không thuộc dòng họ nhà Trần,
họ không được phong cấp đất đai, không có nô tỳ. Do vậy, trong xã hội lúc này
xuất hiện những mâu thuẫn cơ bản:
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần có đặc quyền
đặc lợi, chủ nhân của các đại điền trang và tầng lớp địa chủ quan liêu nắm công
việc quản lý hành chính Nhà nước, nhưng không có điền trang, nô tỳ.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa giai cấp quý tộc địa chủ với giai cấp nông dân, nô
tỳ.
Trong hai mâu thuẫn trên, thì mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn chủ yếu. Vào
nửa cuối đời nhà Trần, mâu thuẫn này càng trở nên gay gắt hơn khi bọn vương
hầu, quý tộc tìm đủ mánh khóe để áp bức, bóc lột nhân dân. Trong nội bộ triều

15


đình nhà Trần lúc bấy giờ, các vua Trần bắt đầu chỉ lo sống xa hoa, hưởng lạc mà
ít quan tâm đến công tác đê điều, chống thiên tai, địch họa.
Đến đời Trần Dụ Tông, tính chất xa hoa, trụy lạc của giai cấp thống trị nhà
Trần đã đạt tới mức cao độ. Bọn quý tộc ăn chơi phóng đãng, ngày đêm yến tiệc,
ca xướng. Trong triều, bọn gian thần hoành hành. Chu Văn An, một nhà Nho
cương trực đã dâng sớ xin chém bảy tên gian thần mà đương thời gọi là thất trảm
sớ. Đề nghị của ông không được chấp thuận, ông liền từ quan về quê dạy học.
Bên cạnh đó tình trạng mất mùa, đói kém xảy ra liên miên do lụt lớn, vỡ đê,
hạn hán càng làm cho sản xuất bị đình trệ. Lại thêm ruộng đất ngày càng tập trung

vào tay vương hầu, quý tộc nhà Trần làm cho nông dân không còn đất sản xuất.
Cuộc sống của người nông dân bị đe dọa, tình trạng nông dân bị nông nô hóa ngày
càng mạnh, một số trở thành lưu vong chạy vào các điền trang “làm nô cho các thế
gia” khiến cho số lượng nông nô, nô tỳ vào cuối đời nhà Trần tăng lên đáng kể.
Để bảo vệ quyền sống của mình, quần chúng nhân dân với đông đảo nông
nô, nô tỳ đã đứng dậy chống lại giai cấp địa chủ quý tộc phong kiến. Hành động
đầu tiên là họ bỏ trốn khỏi điền trang thái ấp. Nhưng dù thoát khỏi điền trang thái
ấp, họ cũng không được giải phóng mà còn bị chính quyền lùng bắt và trừng phạt
nặng nề bằng hình thức thích chữ lên trán. Từ đó, họ tiến hành hình thức đấu tranh
cao hơn là bạo động. Những người nông dân, nông nô, nô tỳ nghèo khổ đã tự vũ
trang thành các đội quân khởi nghĩa. Từ giữa thế kỷ XIV, phong trào bạo động của
nô tỳ và nông dân bắt đầu bùng nổ khắp nơi, những cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ
(ở Kim Thành, Kinh Môn, Hải Dương ngày nay), của Tề (cháu ngoại của Hưng
Đạo Đại vương) ở vùng Lạng Giang, và Nam Sách (Hải Dương), của nhà sư Phạm
Sư Ôn… liên tục nổ ra vào các năm 1343, 1351, 1378, 1389, 1399…
Phong trào đấu tranh của nông dân, nông nô, nô tỳ cuối đời nhà Trần kéo
dài hơn nửa thế kỷ nhưng tất cả các cuộc khởi nghĩa đó đều thất bại. Những cuộc
16


nổi dậy này đều có tính chất tự phát, không đươc tổ chức một cách chặt chẽ. Tuy
vậy, những cuộc nổi dậy đó đã giáng những đòn chí mạng vào chế độ đại điền
trang thái ấp, chế độ nông nô, nô tỳ đồng thời là minh chứng cho tình trạng nguy
biến của Nhà nước và chế độ phong kiến nhà Trần.
Từ giữa thế kỷ XIV, nhà Trần đã lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện.
Chính quyền nhà Trần suy yếu trầm trọng, không còn khả năng kiểm soát đối với
đất nước. Đặc biệt là từ cuối thế kỷ XIV, nhà Minh sau khi giành được quyền,
thiết lập một nền độc lập và thống nhất trên toàn lãnh thổ Trung Hoa thì cũng bắt
đầu xúc tiến việc xâm lược Việt Nam.
Những thách thức cả bên trong lẫn bên ngoài đất nước càng tăng lên đối với

triều Trần và truyền thống chính trị của nó. Mô hình Nhà nước quân chủ quý tộc với hệ thống chính trị tương đối lỏng lẻo mà quyền lực thuộc về các thân vuơng
quý tộc, tôn thất dựa trên cơ sở kinh tế đại điền trang không còn phù hợp nữa, trái
lại đang là vật cản của sự phát triển xã hội.
Như vậy có thể thấy rằng, từ kinh tế cho đến chế độ chính trị, xã hội nhà
Trần lúc này đã lâm vào khủng hoảng hết sức gay gắt; lịch sử đòi hỏi phải nhận
thức và giải quyết thực trạng đó để đất nước có thể tiếp tục phát triển nhưng lịch
sử đồng thời cũng đã tạo ra những điều kiện khách quan để tầng lớp sỹ phu, quan
lại triều Trần, trong đó tiêu biểu là Hồ Quý Ly, có thể nhận thức, đưa ra đường
hướng cải biến, khắc phục tình trạng khủng hoảng nói trên.
Về văn hóa – tư tưởng
Bên cạnh những điều kiện về kinh tế - xã hội, tư tưởng cải cách của Hồ
Quý Ly còn chịu những ảnh hưởng nhất định từ hệ tư tưởng phong kiến và truyền
thống văn hóa vốn có của dân tộc. Tư tưởng phong kiến Việt Nam là kết quả của

17


sự kết hợp giữa tư tưởng truyền thống bản địa của người Việt với các hệ tư tưởng,
tôn giáo lớn từ bên ngoài vào mà chủ yếu là Nho, Phật, Lão [44, tr.34].
Phật giáo du nhập vào phía nam nước ta chủ yếu là đi theo các thương buôn
người Ấn Độ và du nhập vào phía bắc chủ yếu theo đội quân xâm lược, thống trị
phương Bắc. Trải qua hơn chục thế kỷ, Phật giáo đã có những đóng góp lớn vào
việc thống nhất nhân tâm, tạo điều kiện cho Nhà nước quân chủ phát triển, có ảnh
hưởng sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống dân tộc. Nhưng giáo lý Phật
giáo là duy tâm chủ quan, thần bí, không hướng con người vào việc nhận thức, đấu
tranh giải quyết những mâu thuẫn của cuộc sống hiện thực mà chủ yếu hướng con
người vào cuộc sống ở thế giới bên kia theo luân hồi, quả báo. Đến giữa thế kỷ
XIV trở đi Phật giáo càng trở nên kém hiệu quả trong việc giải quyết các vấn đề
chính trị, xã hội cuối thời Trần. Từ đây đạo Phật sa sút để nhường địa vị thống trị
ý thức hệ cho Nho giáo.

Nho giáo là một học thuyết triết học chính trị xã hội, xuất hiện vào thế kỷ
VI đến V trước công nguyên ở Trung Quốc. Trải qua những thăng trầm của lịch
sử, Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng của nhiều đại phong kiến Trung Quốc và
một số nước khác, trong đó có Việt Nam. Nho giáo vào nước ta theo dấu chân
quân xâm lược phương Bắc. Trong suốt hơn một ngàn năm Bắc thuộc và gần một
thế kỷ sau ngày nước ta giành được độc lập tự chủ, Nho giáo vẫn chưa có vai trò
gì đáng kể trong xã hội Việt Nam. Thời Lý - Trần, nhất cuối thời Trần, Nho giáo
phát triển mạnh mẽ và ngày càng có vị thế tốt hơn trong xã hội. Do nước Đại Nam
lúc này chế độ phong kiến phát triển đòi hỏi không ngừng củng cố chế độ quân
chủ tập quyền cho nên các triều đại đã có chủ trương đưa ra các chính sách cụ thể,
nhằm phát triển Nho giáo, đề cao Khổng Tử và tổ chức học tập, thi cử, tuyển dụng
nhân tài, quan lại từ tầng lớp nho sĩ. Lúc này trong xã hội đã tồn tại một bộ phận
quan lại có học vấn cao chủ yếu qua thi cử bằng Nho giáo. Lý Thánh Tông (1054 18


1072) cho thành lập Văn Miếu ở kinh đô Thăng Long vào năm 1070 để thờ Chu
Công - Khổng Tử và 72 người hiền.
Trong khi Nho giáo đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hệ tư
tưởng phong kiến Việt Nam thì Phật giáo lại luôn bị các nhà nho chỉ trích. Tầng
lớp địa chủ quan liêu – nho sĩ bắt đầu lên tiếng phê phán, bài bác một cách công
khai hệ tư tưởng của tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần - hệ tư tưởng Phật giáo.
Trong đó, Lê Văn Hưu, một sử gia đời Trần đã phê phán vua Thần Tông về việc
vào năm 1128, sau khi Lý Công Bình dẹp được quân Chân Lạp đến cướp phá châu
Nghệ An, nhà vua ngự đến các các chùa quán trong thành Thăng Long để tạ ơn
Phật đã giúp ngầm cho Công Bình đánh được người Chân Lạp. Lê Văn Hưu bàn
rằng: “Kể ra sự trù tính ở trong màn trướng, quyết định được sự thắng ở ngoài
nghìn dặm, đó là công của người tướng giỏi cầm quân chiến thắng. Thái phó Lý
Công Bình phá được quân Chân Lạp cướp châu Nghệ An, sai người báo tin thắng
trận, Thần Tông đáng lẽ phải cáo thắng trận ở Thái Miếu, bàn công ở triều đường
để thưởng cho bọn Công Bình về công đánh giặc mới là phải; nay lại quy công

cho đạo Phật, đến các chùa quán mà lễ tạ, như thế không phải là ủy lạo kẻ có công,
cổ lệ khí quân lính” [9, tr.262] .
Trương Hán Siêu, một học giả uyên thâm Nho giáo đời nhà Trần đã phê
phán gay gắt Phật giáo ngay cả khi viết văn bia cho chùa Khai Nghiêm ở Bắc
Giang như sau: “Chùa bỏ rồi lại dựng, đã chẳng phải ý muốn của ta. Dựng bia rồi
khắc chữ, ta biết nói gì? Hiện nay thánh triều muốn truyền phong hóa nhà vua, để
chữa phong tục đồi bại, dị đoan đáng truất bỏ, thánh đạo nên phục hưng. Làm kẻ sĩ
đại phu, không phải đạo Nghiêu Thuấn không bày tỏ, không phải đạo Khổng
Mạnh không trước thuật, thế mà cứ bo bo lải nhải chuyện Phật, ta định lừa ai?” [9,
tr.156].

19


Bên cạnh Lê Văn Hưu, Trương Hán Siêu, nho thần Lê Quát đã lên tiếng
công kích gay gắt: “Nhà Phật lấy họa phúc để cảm động lòng người, sao mà được
người tin theo sâu bền như thế! Trên từ Vương công, dưới đến dân thường, hễ bố
thí vào việc nhà Phật, dù đến hết tiền của cũng không xẻn tiếc. Ví ngày nay gửi
gắm vào tháp chùa thì trong lòng sung sướng như nắm được khoán ước để lấy sự
báo ứng ngày sau. Cho nên trong tự kinh thành, ngoài đến châu phủ, cho đến thôn
cùng ngõ hẻm, không phải ra lệnh mà tuân theo, không phải bắt thề mà giữ đúng.
Chỗ nào có người ở, tất có chùa Phật, bỏ đi rồi lại dựng lên, nát đi rồi sửa lại, lâu
đài chuông trống chiếm đến nửa phần so với dân cư. Đạo Phật thịnh rất dễ mà
được rất mực tôn sùng” [9, tr.178].
Sự bài bác, phê phán Phật giáo của các Nho thần không chỉ đơn thuần trên
phương diện tôn giáo mà sâu xa hơn là bác bỏ hệ tư tưởng và thể chế tổ chức xã
hội của tập đoàn quý tộc nhà Trần. Mục đích của phê phán này là đánh vào chỗ
dựa tư tưởng của tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần. Nhà Trần cũng đã phản ứng
quyết liệt trước sự lấn lướt của Nho giáo cùng đội ngũ nho sỹ lúc bấy giờ. Vua
Nghệ Tông từng nói: “Triều trước dựng nước có luật pháp, chế độ riêng, không

theo quy chế của nhà Tống, là vì Nam Bắc nước nào làm chủ nước đó, không phải
bắt chước nhau. Khoảng năm Đại Trị, bọn học trò mặt trắng được dùng, không
hiểu ý nghĩa sâu xa của việc lập pháp, đem phép cũ của tổ tông thay đổi theo tục
phương Bắc cả, như về y phục, âm nhạc thật không kể xiết” [9, tr.151].
Cuộc đấu tranh giữa quý tộc Trần và tầng lớp quan liêu - nho sĩ trong đường
lối trị nước đã diễn ra thành cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng bảo thủ vả cải
cách. Xu hướng cải cách muốn dựa vào mô hình Đường, Tống để thay đổi thể chế
chính trị Nhà nước Trần theo hướng quân chủ quan liêu nho giáo, điều mà các nho
sĩ tâm đắc qua kinh điển nho giáo. Còn xu hướng bảo thủ của tầng lớp quý tộc
Trần chống lại cải cách nhưng lại được ngụy trang bởi ý thức truyền thống và tinh
20


thần độc lập. Đây chính là sự khủng hoảng về tư tưởng dẫn chế độ nhà Trần đến
chỗ bế tắc, sụp đổ. Đúng thời điểm này thì Hồ Quý Ly được xem như là một người
“Trung hòa” trong mâu thuẫn giữa quý tộc nhà Trần và phong kiến quan liêu, bởi
vì ông vừa có vị trí cao trong hàng ngũ quý tộc lại vừa có vị trí cao trong hàng ngũ
phong kiến quan liêu.
Trong lúc đất nước đang cần người kiêm văn võ để trong thì được “bọn học
trò mặt trắng” kính nể, ngoài thì có khả năng khống chế nạn ngoại xâm thì chỉ có
Hồ Quý Ly là người duy nhất trong đám quần thần có thể đáp ứng được yêu cầu
đó. Yêu cầu lịch sử lúc này là cứu nước, cứu dân, chứ không phải là duy trì hay
khôi phục những dòng họ đã có công với nước. Nếu cứu nước phải chống ngoại
xâm, thì cứu dân phải giải quyết khủng hoảng xã hội mà Hồ Quý Ly đã thể
nghiệm bằng những cải cách bước đầu. Để rồi cho đến năm 1400 một cuộc cải
cách táo bạo và triệt để lật đổ nhà Trần thay thế bằng nhà Hồ với sự ra đời của
Nhà nước Đại Ngu được thực hiện, một cuộc cải cách toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa đã để lại ý nghĩa to lớn cho đến ngày nay.
1.1.2. Khái quát về thân thế và sự nghiệp của Hồ Quý Ly
Khái quát về thân thế của Hồ Quý Ly

Hồ Quý Ly (1336-1407) là cháu đời thứ 16 của Hồ Hưng Dật. Ông tổ bốn
đời của Hồ Quý Ly là Hồ Liêm. Hồ Liêm là con nuôi của Lê Huấn, Tuyên phủ sứ
Thanh Hoá nên đổi họ thành Lê Liêm; từ đó con cháu của ông đều mang họ Lê.
Sau này, khi đã thành đạt, hướng về tổ tông, Lê Quý Ly lấy lại họ Hồ là Hồ Quý
Ly.
Thế phổ nhà Trần cho thấy địa vị thích thuộc của Hồ Quý Ly với các vua
Trần hết sức gần gũi và đó là điều kiện hết sức thuận lợi để để ông phát huy tài
năng trên “quan trường hoạn lộ”. Quý Ly có hai bà cô đều được vua Trần Minh
21


Tông tuyển vào cung. Một người (bà Hoàng phi Minh Từ), lấy vua Trần Minh
Tông sinh ra vua Trần Nghệ Tông và một bà nữa (Hoàng phi Đôn Từ), cũng lấy
vua Trần Minh Tông, sinh ra vua Trần Duệ Tông [6, tr.155]. Nhờ có tài năng và
họ ngoại thân tín, Quý Ly được vua Nghệ Tông gả em gái là công chúa Huy Ninh
và cho giữ chức Tể tướng. Về sau, con gái trưởng của Quý Ly trở thành vợ vua
Trần Thuận Tông.
Khi người cô của Quý Ly (bà Minh Từ) sinh ra vua Nghệ Tông, cũng là mẹ
sinh của vua Hiến Tông [9, tr.117] thì quan hệ giữa vua và Quý Ly lúc này chưa
thân thiết lắm, Quý Ly cũng chưa nắm chức vụ của triều đình. Đến năm 1371,
cuộc đời, sự nghiệp của Quý Ly có sự thay đổi lớn: Đang giữ chức Khu mật viện
đại sứ trong triều ông được vua Nghệ Tông gả em gái là Huy Ninh công chúa cho.
Huy Ninh vốn là vợ của tôn thất Trần Nhân Vinh, lúc đó đang góa chồng. Quý Ly
từ vị trí người em bà con cô cậu của vua đã trở thành em rể của vua Nghệ Tông.
Sau đó, khi người em gái họ, con người chú của Quý Ly, trở thành vợ của
vua Duệ Tông, tức Gia Từ Hoàng Hậu thì Quý Ly vừa là em cô cậu, vừa là em rể
của vua Duệ Tông, vừa là anh họ của vợ vua Duệ Tông, tức là cậu họ của vua Phế
Đế sau đó (vua Phế Đế là con của vua Duệ Tông và Gia Từ Hoàng Hậu).
Đối với Thượng hoàng Trần Nghệ Tông, Quý Ly là em cô cậu, là em rể và
sau là sui gia. Sau khi vua Trần Phế Đế bị truất rồi, con của Thượng hoàng Nghệ

Tông là Trần Ngung được đưa lên làm vua (tức Trần Thuận Tông), thì Quý Ly
liền gả ngay con gái lớn của mình cho vua Thuận Tông, được Thuận Tông lập làm
Hoàng hậu. Sau đó Quý Ly là ông ngoại của vua Trần Thiếu Đế, vị ấu quân cuối
cùng của nhà Trần [8, tr.117].
Đối với hai vua cuối nhà Trần, với tư cách là Phụ chính, lại là cha vợ của
vua Thuận Tông và sau cùng là ông ngoại của vua Thiếu Đế, Quý Ly có điều kiện
thuận lợi để chuyên quyền và giành lấy ngôi vua khi nhà Trần suy yếu.
22


Con đường làm quan và hoạt động chủ yếu của Hồ Quý Ly
Hồ Quý Ly bắt đầu có mặt và hoạt động chính trị ở vương triều Trần từ năm
1370, đầu đời vua Trần Nghệ Tông, với cái tên Lê Quý Ly. Ông tham chính dưới
triều của năm đời vua cuối nhà Trần: Trần Nghệ Tông (1370 - 1372), Trần Duệ
Tông (1372 - 1377), Trần Phế Đế (1377 - 1388), Trần Thuận Tông ( 1388 - 1398)
và Trần Thiếu Đế (1398 - 1400).
Năm 1370, Quý Ly bước vào quan lộ với vai trò Chi hậu tứ cục Chánh
chưởng, một chức quan võ coi quân cận vệ mà thường chỉ có những người tôn thất
mới được giao giữ. Vì cô của Quý Ly (bà Minh Từ) là mẹ đẻ của vua Nghệ Tông,
nên ngay từ khi mới lên ngôi (tháng 11 năm Canh Tuất – 1370), vua Nghệ Tông
đã giành nhiều cảm tình và rất tín nhiệm Quý Ly.
Chưa đầy một năm sau, tháng 5 năm Tân Hợi (1371), Quý Ly được vua
Nghệ Tông thăng chức cho làm Khu mật viện Đại sứ. Tháng 8 năm ấy, Quý Ly
được cử đi vỗ yên dân miền biên giới Nghệ An và tháng 9 được gia phong Trung
tuyên quốc Thượng hầu.
Đến khi vua Nghệ Tông nhường ngôi cho người em khác mẹ là Thái tử
Trần Kính, tức vua Trần Duệ Tông (tháng 11 năm Nhâm Tý – 1372), thì Quý Ly
cũng được tiếp tục tin dùng. Vì vua Duệ Tông lại cũng là con đẻ của một bà cô
khác của Quý Ly (bà Đôn Từ).
Tháng Giêng năm Ất Mão (1375), Khu mật viện đại sứ Lê Quý Ly được

vua Duệ Tông cử kiêm chức tham mưu quân sự. Với vai trò này, Quý Ly có toàn
quyền định đoạt việc quân, sắp xếp các thứ vị võ quan và chỉ huy từ các tôn thất
trở xuống.
Bốn năm sau, tháng 2 năm Kỷ Mùi (1379), vào đời Đế Hiện – con vua Duệ
Tông (tức Trần Phế Đế), Quý Ly được thăng chức Tiểu tư không kiêm hành Khu
23


mật đại sứ. Trong trận chiến chống quân Chiêm do Chế Bồng Nga cầm đầu tấn
công vào Thanh Hóa, Lê Quý Ly được giao chỉ huy quân thủy. Nhờ Quý Ly quyết
giữ nghiêm quân kỷ chiến đấu, Chiêm vương Chế Bồng Nga phải thua chạy. Từ
trận này, Quý Ly được giao lãnh chức Nguyên Nhung hành Hải Tây đô thống chế.
Hải Tây là vùng đất chạy suốt từ Thanh Hóa trở vào đến Thuận Hóa.
Trong thực tế, suốt các đời vua Duệ Tông, Phế Đế đến đời vua Thuận Tông,
Thái thượng hoàng Trần Nghệ Tông vẫn nắm triều chính trong tay. Nhân vật Lê
Quý Ly được liên tục thăng quan tiến chức một cách nhanh chóng và bắt đầu nổi
bật như một ngôi sao trên chính trường nhà Trần kể từ khi ông được Thượng
hoàng Nghệ Tông ban cho chức Đồng bình chương sự, chức đại thần xếp vào hàng
tể tướng (tướng quốc) của triều đình (tháng 3 năm Đinh Mão - 1387). Cùng với
việc cho thăng chức Đồng bình chương sự, Thượng hoàng còn ban cho Quý Ly
một thanh gươm và một lá cờ đề 8 chữ “Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức” (văn
võ song toàn, vua tôi một dạ).
Trong lúc Quý Ly ngày càng được Thượng hoàng Nghệ Tông tin dùng, mọi
việc chính sự lại nằm trong tay của Thượng hoàng mà thực sự là theo sự sắp xếp,
bày vẽ của Lê Quý Ly, nên vua Đế Hiện bất mãn. Vua bàn cùng Thái úy Trang
Định vương Ngạc (con của Thượng hoàng Nghệ Tông) để tìm cách loại trừ Quý
Ly: “Thượng hoàng tin yêu ngoại thích là Hồ Quý Ly, cho hắn mặc sức làm gì thì
làm, nếu không lo trước đi sau sẽ rất khó chế ngự” [9, tr.173]. Biết được mưu của
Đế Hiện, Quý Ly bèn bàn kế với những người tâm phúc là Nguyễn Đa Phương và
Phạm Cự Luận, tâu với Nghệ Tông rằng: “Chưa có ai bán con để nuôi cháu, chỉ

thấy bán cháu để nuôi con” [9, tr.174], rồi Quý Ly bí mật tâu với Thượng hoàng
Nghệ Tông phế bỏ Đế Hiện, lập con của Thượng hoàng lên làm vua. Nghe theo lời
Quý Ly, ngày mồng 6 tháng Chạp năm Mậu Thìn (tức 3-1-1389), Thượng hoàng
cho gọi vua tới bàn việc, rồi sai bắt giam Đế Hiện với chiếu rằng: “Trước đây, Duệ
24


Tông đi tuần phương Nam không trở về, lấy con đích để nối ngôi, đó là đạo từ
xưa. Nhưng từ khi quan gia lên ngôi đến nay, lòng dạ trẻ con, giữ đức không
thường, gần gũi bọn tiểu nhân, nghe lời Lê Á Phu, Lê Dữ Nghị gièm pha vu hãm
công thần, làm lung lay xã tắc, phải giáng làm Linh Đức Đại vương. Song quốc
gia không thể không có chủ, ngôi báu không thể bỏ trống lâu, nên hãy đón Chiêu
Định vào nối đại thống. Bá cáo trong ngoài để mọi người đều biết” [9, tr.174-175].
Sau đó Thượng hoàng sai đưa vua Đế Hiện xuống phủ Thái Dương thắt cổ cho
chết.
Triệt hạ xong vua Đế Hiện cùng vây cánh của vua, nghe theo lời Quý Ly,
Thượng hoàng Nghệ Tông lập con út của mình là Chiêu Định vương Trần Ngung
lên làm vua, tức Trần Thuận Tông. Ngày 27 tháng Chạp năm Mậu Thìn (tức 24-11389), vua Thuận Tông lên ngôi. Việc nước vẫn ở trong tay Thượng hoàng Nghệ
Tông và quyền thần Lê Quý Ly, nằm trong sự sắp xếp của Quý Ly.
Tháng 10 năm Kỷ Tỵ (1390), giặc Chiêm cướp phá Thanh Hóa, Thượng
hoàng sai Quý Ly đem quân chống giữ. Trúng kế của giặc, quân Việt đại bại,
nhiều tướng bị bắt và chết trận. Quý Ly bỏ trốn về triều xin viện binh nhưng
Thượng hoàng không cho, từ đó Quý Ly “xin thôi cầm quân, không đi đánh nữa”
[9, 178].
Bấy giờ trong triều nhen nhóm nhiều âm mưu nhằm diệt trừ Quý Ly. Vào
năm Quang Thái thứ 5 (1392) đời Thuận Tông, tông thất Trần Nhật Chương mưu
giết Hồ Quý Ly, vua Nghệ Tông cho là có lòng khác, giết Nhật Chương. Thượng
hoàng ngày càng tỏ ra tin dùng Quý Ly hơn. Theo “Chiếu cầu lời nói thẳng”,
tháng 4 năm Nhâm Thân (1392), Bùi Mộng Hoa dâng thư chỉ trích Quý Ly: “Thần
nghe trẻ con có câu hát rằng: “Thâm hiểm thay Thái sư họ Lê”, xem thế, Quý Ly

nhất định có ý dòm ngôi báu” [9, tr.183], Thượng hoàng lại đưa thư ấy cho Quý
Ly xem… Để củng cố vị trí, tăng cường vây cánh cho mình, Quý Ly tìm cách đưa
25


×