Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tóm tắt luận án tiến sĩ hoạt động mưu sinh của người kháng ở xã chiềng bôm, huyện thuận châu, tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.52 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bản chất nền kinh tế truyền thống của phần lớn các dân tộc
thiểu số ở nước ta là nền kinh tế mang tính tự nhiên, tự cấp và tự
túc. Khi bước vào thời kỳ Đổi mới, nền kinh tế này phải chuyển
sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Cùng với sự chuyển đổi
đó là tình trạng gia tăng dân số, thu hẹp diện tích rừng, sự suy giảm
nhanh chóng chất lượng đất,…Từ đây, đang có rất nhiều vấn đề
được đặt ra trong công cuộc cải thiện sinh kế, cần sự quan tâm, giải
quyết kịp thời nhằm hướng tới sự ổn định và phát triển tộc người.
Không ít những chương trình, dự án phát triển đã và đang
được thực hiện ở miền núi Việt Nam, tuy nhiên, nền kinh tế của
các dân tộc thiểu số ở đây vẫn đang phát triển một cách hết sức
khó khăn, thiếu sự hợp lý và bền vững. Với nhiều nguyên nhân,
chúng ta đang chậm trễ trong việc tìm ra một chiến lược phát triển
phù hợp, thích ứng và khả dụng đối với mỗi dân tộc, mỗi vùng
miền.
Là một trong 21 dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ
Me ở nước ta, cho đến nay, với những lý do khách quan như dân
số ít, sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển về kinh
tế - xã hội, nên dân tộc Kháng nhận được rất ít sự quan tâm
nghiên cứu, trong đó, nghiên cứu về hoạt động mưu sinh lại càng
hiếm thấy.
Trong bối cảnh đó, việc thực hiện đề tài “Hoạt động mưu
sinh của người Kháng ở xã Chiềng Bôm, huyện Thuận Châu, tỉnh
Sơn La” sẽ không chỉ làm sáng tỏ những tri thức và kinh nghiệm
để thích ứng với môi trường tự nhiên của người Kháng mà còn tìm
ra những biến đổi và bất cập của nó với phát triển bền vững trong
điều kiện mới. Trên cơ sở tương đồng về điều kiện tự nhiên cũng
như trình độ phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động mưu sinh của
người Kháng ở Chiềng Bôm mang những nét khá tiêu biểu cho


1
một số dân tộc thiểu số và miền núi Tây Bắc. Vì vậy, từ kết quả
nghiên cứu, luận án hi vọng sẽ cung cấp nguồn tư liệu hữu ích, làm
cơ sở cho việc hoạch định những chương trình hỗ trợ cần thiết
phục vụ công tác giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết
vấn đề bảo vệ môi trường sống,… nhằm hướng tới phát triển bền
vững không chỉ với cộng đồng người Kháng mà còn ở các dân tộc
thiểu số khác trên địa bàn Tây Bắc nước ta.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Cung cấp nguồn tư liệu mới, cụ thể và có hệ thống về hoạt
động mưu sinh truyền thống của người Kháng ở xã Chiềng Bôm,
huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.
- Phân tích và lý giải sự biến đổi hoạt động mưu sinh của người
Kháng ở Chiềng Bôm từ khi thực hiện Đổi mới đến nay.
- Xác định những vấn đề đặt ra cho hoạt động mưu sinh của
người Kháng hiện nay trong mối quan hệ với phát triển bền vững
như tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ
tài nguyên môi sinh,…
- Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là nguồn tư liệu cần thiết,
làm cơ sở cho việc hoạch định những chương trình hỗ trợ phát
triển kinh tế - xã hội cho các dân tộc thiểu số nói chung và cộng
đồng người Kháng nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các hoạt động mưu sinh
của người Kháng ở xã Chiềng Bôm. Chúng tôi đã chọn một số bản
người Kháng trong xã làm điểm nghiên cứu sâu và có khảo sát một
số bản người Thái cận cư để thực hiện các nghiên cứu so sánh.
Về thời gian, luận án nghiên cứu các hoạt động mưu sinh của
người Kháng qua hai giai đoạn, trước Đổi mới và từ Đổi mới
(1986) đến nay. Giai đoạn trước Đổi mới được xác định trong luận

án này là vài thập niên trước khi công cuộc Đổi mới diễn ra. Sở dĩ
phân chia thành hai giai đoạn, lấy mốc là năm 1986 vì đây là thời
điểm diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại hội khởi
2
xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước
chuyển đổi quan trọng về đường lối, chủ trương phát triển kinh tế
của Đảng và Nhà nước ta từ quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường. Kể từ sau năm 1986, đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của
tất cả các dân tộc trên đất nước ta, trong đó có người Kháng đã có
những thay đổi, chuyển biến mạnh mẽ. Từ đó đến nay, thực hiện
chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường, được sự hỗ trợ của Nhà nước về mọi nguồn lực,
người Kháng nói chung và người Kháng ở Chiềng Bôm nói riêng
đang trong tiến trình xoá đói giảm nghèo, từng bước ổn định đời
sống. Tuy nhiên, cũng có không ít những thách thức đang đặt ra
đối với họ trong quá trình phát triển. Xem xét hoạt động mưu sinh
của người Kháng ở trước và sau Đổi mới sẽ cho thấy sự thích ứng,
biến đổi cũng như xu hướng phát triển của các hoạt động này dưới
tác động của những điều kiện kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện
nay.
4. Nguồn tư liệu của luận án
Nguồn tư liệu để hoàn thành luận án chủ yếu là tài liệu điền
dã do chúng tôi thu thập tại địa bàn nghiên cứu. Đó là kết quả của
các cuộc phỏng vấn, thảo luận, trao đổi,… với lãnh đạo địa phương
và người dân ở các bản người Kháng, xã Chiềng Bôm, huyện
Thuận Châu, tỉnh Sơn La từ năm 2006 đến nay. Tác giả đã thực
hiện 5 đợt khảo sát thực địa, được bố trí vào các tháng khác nhau
để đảm bảo có cái nhìn tổng thể và đa dạng về chu trình mưu sinh
khép kín hàng năm của họ.
Bên cạnh nguồn tư liệu điền dã, luận án còn sử dụng các

nguồn tài liệu thứ cấp về các chủ trương, chính sách trong phát
triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo của Chính phủ Việt
Nam; các Nghị quyết, báo cáo tổng kết, số liệu thống kê hàng năm,
… của tỉnh Sơn La, huyện Thuận Châu và xã Chiềng Bôm. Ngoài
các nguồn tư liệu trên, luận án còn kế thừa các kết quả nghiên cứu
3
về hoạt động kinh tế của người Kháng và của các tộc người khác
đã được công bố làm nguồn tư liệu.
5. Đóng góp của luận án
- Là công trình nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống về hoạt
động mưu sinh của dân tộc Kháng ở Chiềng Bôm.
- Phân tích một cách hệ thống và toàn diện về sự tác động của
hoạt động mưu sinh tới phát triển bền vững để từ đó, tìm ra những
bất cập trong phát triển sinh kế của người Kháng trong giai đoạn
hiện nay.
- Tư liệu và những kết quả nghiên cứu được công bố trong
luận án có ý nghĩa trong nghiên cứu, giảng dạy và hoạch định các
chương trình, chính sách liên quan đến đất đai, môi trường, an ninh
lương thực, giảm nghèo và phát triển bền vững,
6. Kết cấu của luận án
Ngoài các phần: Mở đầu, Kết quả và bàn luận, Kết luận và
Phụ lục, luận án được bố cục thành 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý
thuyết và phương pháp nghiên cứu
Chương 2. Tổng quan về người Kháng ở Việt Nam và
người Kháng ở địa bàn nghiên cứu
Chương 3. Hoạt động mưu sinh của người Kháng ở xã
Chiềng Bôm trước Đổi mới (1986)
Chương 4. Hoạt động mưu sinh của người Kháng ở xã
Chiềng Bôm từ Đổi mới (1986) đến nay - Thực trạng biến đổi

và những tác động đến phát triển bền vững
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu về hoạt động mưu sinh
Đến nay, chúng ta đã được tiếp cận một số công trình của các
học giả Xô Viết nghiên cứu về kinh tế, trong đó chủ yếu là các vấn
đề liên quan đến hoạt động nông nghiệp.
Ở nước ta, từ sau những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây, đã
có một số lượng đáng kể bài viết của các tác giả mang tính chuyên
đề về các hoạt động kinh tế của các dân tộc. Bên cạnh đó, những
khảo tả về hoạt động kinh tế luôn chiếm một vị trí quan trọng với
dung lượng đáng kể trong hầu hết các sách và giản chí dân tộc học
thời kỳ này. Ở mỗi nghiên cứu, các tác giả đều nhấn mạnh vị trí
của các hoạt động kinh tế trong đời sống tộc người mà trong đó,
nổi lên vai trò của hoạt động trồng trọt. Trên cơ sở trình độ phát
triển xã hội và điều kiện tự nhiên có được, các tộc người ở nước ta
đã cố gắng dựa vào tự nhiên, cải tạo và ứng xử hài hoà với tự nhiên
để từ đó hình thành nên hệ sinh thái nông nghiệp truyền thống.
Từ năm 1975 đến nay, đất nước được thống nhất đã tạo điều
kiện cho các nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu các lĩnh vực đời sống,
trong đó có kinh tế của các dân tộc thiểu số trên địa bàn cả nước.
Từ đó, bước đầu đưa ra những xu hướng, quan điểm trong vấn đề
cải tạo và phát triển trong sản xuất nông nghiệp vùng cao. Tuy
nhiên, các công trình kể trên tập trung phần lớn vào việc trình bày
hoạt động kinh tế dưới dạng những tri thức, đặc trưng văn hoá
truyền thống. Những biến đổi, thích ứng cũng như sự lý giải những
bất cập của nó trong điều kiện hiện nay còn chưa được quan tâm

nghiên cứu sâu.
5
Thời gian gần đây, nhằm đưa ra những cơ sở cho việc hoạch
định và phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi, đã và đang xuất
hiện ngày càng nhiều tác giả có hướng nghiên cứu sâu về các vấn
đề như sinh kế và đói nghèo; sinh kế tộc người trong bối cảnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; kế thừa tri thức địa phương trong
phát triển sinh kế; sinh kế và phát triển bền vững, . Qua đó, các
nhà nghiên cứu đã tìm ra những tiềm năng, lợi thế cũng như khó
khăn, thách thức của mỗi tộc người trong công cuộc chuyển đổi từ
nền kinh tế tự cấp, tự túc sang kinh tế thị trường.
Nhìn chung, qua những nghiên cứu về hoạt động mưu sinh
hiện nay, các tác giả đã thể hiện sự đổi mới trong cách tiếp cận
cũng như phân tích vấn đề. Vấn đề sinh kế đã được nhìn nhận một
cách khách quan, có hệ thống và nằm trong mối quan hệ tổng hoà,
biện chứng với các lĩnh vực khác của đời sống tộc người. Các tác
giả đã tìm tòi, phân tích và đề ra những giải pháp cụ thể nhằm giải
quyết những bất cập đang nảy sinh trong phát triển kinh tế của các
dân tộc trên cả nước. Trong đó, xu hướng đi tìm giải pháp cho một
số vấn đề như: an toàn lương thực, xoá đói giảm nghèo, tăng
trưởng kinh kế kết hợp với ổn định xã hội và bảo vệ tài nguyên
môi sinh,… đón nhận được nhiều sự quan tâm hơn cả.
Có thể khẳng định, chính những kết quả nghiên cứu về lĩnh
vực hoạt động mưu sinh trong những thập niên qua đã có những
đóng góp rất quan trọng tới việc hoạch định các đường lối, chủ
trương lớn trong sự nghiệp phát triển dân tộc và miền núi nước ta.
1.1.2. Nghiên cứu về hoạt động mưu sinh của dân tộc Kháng
Cho đến nay, Kháng là một dân tộc còn rất ít được chú ý
nghiên cứu. Ngoại trừ những bài viết nhỏ trên các báo địa phương,
người Kháng mới chỉ được đề cập trong một vài công trình mang

tính giới thiệu đại cương dân tộc học. Đặc biệt, chưa thấy xuất hiện
6
một chuyên khảo nào đề cập đến lĩnh vực kinh tế của riêng tộc
người này.
Sau những nghiên cứu từ những năm đầu thập kỷ 70 của thế
kỷ trước, mấy chục năm tiếp theo, việc tìm hiểu về dân tộc Kháng
vẫn chưa thực sự được chú ý. Thời gian gần đây, một số nghiên
cứu về người Kháng nói chung cũng như về vấn đề kinh tế nói
riêng vẫn chỉ dừng lại ở mức độ khái quát, chủ yếu là dưới dạng
giới thiệu về một dân tộc ít được mọi người biết tới. Nhìn chung,
vấn đề sinh kế của các tộc người nói chung cũng như của người
Kháng nói riêng đã bước đầu đã được đề cập ở những mức độ khác
nhau. Tuy nhiên, những phân tích, lý giải về sự thích ứng của sinh
kế trong điều kiện và hoàn cảnh mới, cũng như tìm hiểu một cách
hệ thống về sự tác động của nó trong mối quan hệ với phát triển
bền vững … còn chưa thực sự được làm rõ.
1.2. Một số khái niệm
Luận án đã nêu ra một số khái niệm có liên quan đến nội
dung nghiên cứu như: hoạt động mưu sinh, nguồn lực mưu sinh,
biến đổi, biến đổi sinh kế, phát triển bền vững,
1.3. Cơ sở lý thuyết
- Phương pháp luận: Luận án được hoàn thành trên cơ sở
Phép biện chứng của Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận án nghiên
cứu các hoạt động mưu sinh của người Kháng dưới góc độ văn
hoá. Cụ thể, chúng tôi nghiên cứu các cách thức mang tính văn hoá
của con người nhằm thực hiện các hành vi kinh tế, xem xét các
hoạt động kinh tế trong bối cảnh văn hoá tộc người.
- Các lý thuyết chủ yếu được áp dụng trong luận án gồm
Sinh thái học nhân văn và Khung sinh kế bền vững. Chúng tôi áp
dụng cách phân tích của Sinh thái học nhân văn để tìm ta mối quan

hệ tương tác giữa hệ thống xã hội của người Kháng ở Chiềng Bôm
với hệ sinh thái nông nghiệp xung quanh họ. Mối quan hệ này
7
mang tính biện chứng, trong đó, sự thay đổi của hệ thống này ảnh
hưởng qua lại đến cơ cấu, chức năng của hệ thống khác. Luận án
sử dụng lý thuyết về khung sinh kế bền vững để nghiên cứu về sinh
kế và đói nghèo của người Kháng từ khi Đổi mới đến nay dưới góc
độ sở hữu và tiếp cận các loại vốn sinh kế hay còn gọi là nguồn
lực mưu sinh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chính được áp dụng trong quá trình hoàn
thành luận án: Kế thừa tài liệu; Điền dã dân tộc học (quan sát,
phỏng vấn sâu, vẽ sơ đồ, chụp ảnh, ); Đánh giá nông thôn có
người dân tham gia,
8
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI KHÁNG Ở VIỆT NAM VÀ
NGƯỜI KHÁNG Ở ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
2.1. Đặc điểm tự nhiên ở Chiềng Bôm
Chiềng Bôm là một xã miền núi của huyện vùng cao Thuận
Châu, tỉnh Sơn La. Nếu tính từ trung tâm xã, xã cách thành phố
Sơn La 52 km về phía tây bắc, cách thị trấn Thuận Châu 12 km về
phía tây nam và cách Hà Nội 372 km về phía tây bắc.
Toàn bộ lãnh thổ tự nhiên của xã Chiềng Bôm là núi đất và đồi
đất. Đất đai thuộc địa hình thung lũng chiếm diện tích không đáng
kể. Số thung lũng có thể khai phá làm ruộng nước ở đây không
nhiều, hầu hết đất đai chân núi, chủ yếu là các dải đất thấp có thể
khai thác thành ruộng bậc thang ven suối, tập trung ở các bản nằm
ở phía tây và tây bắc của xã.
Sự khác biệt mạnh về địa hình đã tạo cho nơi đây nhiều cảnh

quan sinh thái khác nhau với tính đa dạng của sản phẩm cây trồng.
Những loại đất đai có mặt ở Chiềng Bôm thích hợp cho việc trồng
các loại cây lương thực, cây công nghiệp dài ngày, ngắn ngày và
cây ăn quả. Do địa hình phân cắt nên khí hậu Sơn La rất đa dạng,
mang tính chất chung của gió mùa chí tuyến. Khí hậu hàng năm
chia thành 2 mùa rõ rệt: mùa đông lạnh và khô. Sự đa dạng của khí
hậu trong vùng là yếu tố thuận lợi để phát triển các loại cây trồng
ôn đới, nhiệt đới và á nhiệt đới. Các hiện tượng thời tiết cực đoan:
lũ ống, lũ quét, mưa đá, sương muối, hạn hán kéo dài,… đã hạn
chế rất lớn đến hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Chế độ thuỷ văn và dòng chảy ở khu vực Chiềng Bôm dẫn đến
việc cung cấp nước sinh hoạt và sản xuất gặp rất nhiều khó khăn,
mùa khô thiếu nước trầm trọng, mùa mưa lũ lụt khủng khiếp. Dưới
tán rừng nơi người Kháng cư trú là hệ động thực vật tương đối
phong phú về chủng loại. Tuy nhiên, thời gian gần đây, việc khai
phá đất dốc một cách bừa bãi để canh tác nương rẫy đã làm suy
giảm nghiêm trọng nguồn tài nguyên này.
9
2.2. Đặc điểm dân cư và dân tộc
- Kháng là một trong số 21 dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ
Môn - Khơ Me ở nước ta. Trong lịch sử, tộc người này chỉ cư trú
tập trung ở Tây Bắc với rất nhiều tên gọi khác nhau. Hiện nay, dân
tộc này được công nhận tộc danh chính thức là dân tộc Kháng. Về
nguồn gốc, cũng như một số dân tộc khác (Xinh Mun, La Ha),
người Kháng ở Việt Nam từ đâu đến và đâu là mảnh đất nguồn cội
của họ vẫn đang là một câu hỏi lớn chưa được giải quyết thỏa
đáng. Tuy nhiên, những tư liệu lịch sử, dân tộc học và văn hóa hiện
có cho phép đoán định người Kháng và có thể một số cư dân nói
ngôn ngữ Môn - Khơ Me khác là chủ nhân ban đầu và lâu đời của
vùng đất Tây Bắc trước khi có sự xâm nhập của hai dân tộc Thái từ

Nam Trung Quốc xuống và Khơ Mú từ Lào tới địa bàn này.
- Người Kháng cư trú chủ yếu ở miền núi Tây Bắc Việt Nam,
trong đó, tập trung tại các tỉnh Sơn La, Điện Biên và Lai Châu. Xã
Chiềng Bôm hiện nay có 30 bản, 1.055 hộ và 5.359 nhân khẩu, bao
gồm 4 dân tộc chính đang cư trú, trong đó, người Kháng chiếm 36
% với 341 hộ, 2003 khẩu. Còn lại là các dân tộc: Thái (57,2 %),
Hmông (6 %), Khơ Mú (0,8 %).
2.3. Đặc điểm kinh tế - văn hoá - xã hội
- Trong đời sống kinh tế của các dân tộc ở Chiềng Bôm cả
những năm trước và sau Đổi mới, trồng trọt luôn giữ vai trò chính
yếu. Các hoạt động khác chỉ là những ngành kinh tế phụ, mang
tính chất hỗ trợ cho trồng trọt và chịu sự chi phối từ hoạt động kinh
tế chính yếu này.
- Xã hội truyền thống của người Kháng ở Chiềng Bôm hoàn
toàn bị lệ thuộc vào thiết chế bản mường của người Thái. Vì vậy,
bên cạnh một số yếu tố mang tính truyền thống Kháng, tồn tại
nhiều yếu tố văn hoá Thái, từ bố trí làng bản, nhà cửa, trang phục
đến ngôn ngữ, chữ viết, tín ngưỡng, phong tục tập quán và lễ hội,
- Với sự tác động của những chương trình hỗ trợ phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước (nhất là từ khi Đổi mới),
đời sống của người Kháng ở đây đang từng bước được cải thiện trên
mọi lĩnh vực.
10
CHƯƠNG 3
HOẠT ĐỘNG MƯU SINH CỦA NGƯỜI KHÁNG Ở
CHIỀNG BÔM TRƯỚC ĐỔI MỚI (1986)
3.1. Hoạt động trồng trọt
- Trong canh tác nông nghiệp của người Kháng ở Chiềng
Bôm thời kỳ này, nương rẫy là hoạt động chủ đạo. Lúa nương là
loại cây chủ yếu đảm bảo nguồn lương thực cho gia đình.

- Ruộng nước bắt đầu xuất hiện cùng với công cuộc định
canh, định cư của Nhà nước vào những năm cuối của thập niên 60
thế kỷ trước. Tuy nhiên, diện tích không đáng kể, chỉ làm lúa một
vụ, kỹ thuật canh tác đơn giản, ít chăm sóc.
- Khi rừng còn nhiều, diện tích nương lúa có thể được khai
phá tuỳ theo nhu cầu và khả năng của mỗi hộ gia đình thì cây ngô,
cây sắn,…. chỉ mang tính chất là những cây trồng phụ, không được
coi trọng.
- Do kỹ thuật canh tác đơn giản, công cụ thô sơ, phụ thuộc
nhiều vào thiên nhiên,… nên năng suất cây trồng thấp, thu nhập
bấp bênh, tình trạng thiếu đói xảy ra nhiều tháng trong năm.
3.2. Các hoạt động mưu sinh phụ trợ
- Bên cạnh trồng trọt, các loại hình kinh tế khác như chăn
nuôi, thủ công gia đình, hái lượm và săn bắn là những hoạt động
không thể thiếu, mang tính mùa vụ và bổ trợ cho trồng trọt.
- Chăn nuôi chưa được phát triển, mang nặng tính tự túc, tự
cấp với tập quán thả rông, ít chăm sóc và dựa vào thiên nhiên là
chính. Sản phẩm của hoạt động chăn nuôi không những là vật trao
đổi khi cần thiết, đem lại sức kéo cho canh tác ruộng nước, cung
cấp lễ vật cho các hoạt động tín ngưỡng mà còn là nguồn thực
phẩm quan trọng khi gia đình có công việc đại sự,…
- Hoạt động thủ công chủ yếu nhằm thoả mãn các nhu cầu
của sinh hoạt và sản xuất trong các gia đình, đôi khi để trao đổi và
11
là một bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế tự cấp tự túc của
người Kháng. Tuy nhiên, hoạt động này chỉ tập trung vào đan lát
và dệt vải.
- Trong khuôn khổ một nền kinh tế khép kín, khai thác các
nguồn lợi tự nhiên có một vai trò khá quan trọng trong đời sống
kinh tế và đứng vị trí thứ hai chỉ sau trồng trọt. Dưới những cánh

rừng, nơi người Kháng cư trú là một hệ động thực vật khá phong
phú, đem lại nguồn lương thực, thực phẩm quan trọng cho các bữa
ăn hàng ngày của người dân, nhất là những khi mất mùa, giáp hạt,

Bức tranh về sinh kế truyền thống của người Kháng ở Chiềng
Bôm trước Đổi mới đã cho thấy, những tri thức dù là tích luỹ hay
do học hỏi được từ người Thái đã trở thành một bộ phận trong hệ
thống giá trị văn hoá tộc người. Với điều kiện môi trường - xã hội
cụ thể, họ đã có những ứng xử thích hợp trong hoạt động mưu sinh
để tồn tại và phát triển.
3.3. Sự tiếp xúc và ảnh hưởng trong hoạt động mưu sinh
giữa người Thái và người Kháng ở Chiềng Bôm
Xem xét quá trình tiếp xúc và ảnh hưởng trong hoạt động
mưu sinh giữa người Thái và người Kháng ở Chiềng Bôm cho thấy
rằng, hai bên đã có những ảnh hưởng qua lại ở mức độ khác nhau.
Và trên thực tế, sự ảnh hưởng của người Thái đối với người Kháng
tương đối sâu sắc và toàn diện. Giữ gìn bản sắc văn hoá của các
dân tộc trong nhóm Môn - Khơ Me ở vùng Tây Bắc đang trong quá
trình chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn hoá Thái, trong đó có văn hoá
mưu sinh sẽ góp phần giữ gìn một thế mạnh của nền văn hoá dân
tộc, đó là tính đa dạng.
12
CHƯƠNG 4
HOẠT ĐỘNG MƯU SINH CỦA NGƯỜI KHÁNG Ở
CHIỀNG BÔM TỪ ĐỔI MỚI (1986) ĐẾN NAY - THỰC TRẠNG
BIẾN ĐỔI VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
4.1. Bối cảnh và những tiền đề cho sự biến đổi
4.1.1. Các chính sách của Nhà nước: Cư trú trên địa bàn xã
Chiềng Bôm, một xã vùng 3 của huyện Thuận Châu, người Kháng

đã được thụ hưởng sự hỗ trợ tích cực từ các chương trình của Nhà
nước: Chính sách định canh định cư; Chính sách liên quan đến đất
đai và rừng; Chính sách hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn; Chính
sách xoá đói giảm nghèo tạo việc làm,… Việc thực hiện các chính
sách này trong những thập niên qua là một nhân tố vô cùng quan
trọng trong quá trình cải thiện sinh kế của tộc người này.
4.1.2. Các nguồn lực mưu sinh: Từ Đổi mới đến nay, chất
lượng các nguồn lực trong sinh kế (tự nhiên, xã hội, con người, vật
chất, tài chính) của người Kháng ở Chiềng Bôm đang có sự thay
đổi theo những xu hướng khác nhau. So với trước đây, do sự hỗ trợ
của Nhà nước và sự nỗ lực của bản thân tộc người, các nguồn lực:
con người, xã hội, tài chính,… đang dần cải thiện. Trong khi đó,
nguồn lực tự nhiên (nhất là đất đai và nguồn nước) đang bị hạn chế
và nghèo kiệt dần. Mặc dù đang có sự cải thiện, nhưng nhìn chung,
các nguồn lực của người Kháng ở điểm nghiên cứu còn đang bộc
lộ nhiều hạn chế trong quá trình phát triển sinh kế hiện nay.
4.2. Thực trạng biến đổi
4.2.1. Chuyển đổi sử dụng đất và cơ cấu cây trồng vật nuôi.
Do sự bạc màu của đất, diện tích lúa nương ngày càng suy
giảm và dần biến mất trong cơ cấu cây trồng, thay vào đó là cây
ngô, sắn. Diện tích ruộng nước cũng đang tích cực được mở rộng,
song quỹ đất không còn nhiều. Hoạt động làm vườn được hình
thành và mở rộng để bù đắp nguồn thực phẩm mà việc hái lượm
giờ đây không đáp ứng được. Bên cạnh những giống vật nuôi
13
truyền thống, người Kháng đang làm quen với các loại giống và
mô hình chăn nuôi mới.
4.2.2. Kết hợp tri thức địa phương với tiến bộ khoa học
công nghệ
Trong việc tiến hành các hoạt động mưu sinh hiện nay, bên

cạnh những kinh nghiệm, tập quán truyền thống, người Kháng đã
bước đầu áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, đem lại sự cải
thiện đáng kể về năng suất, sản lượng các loại cây trồng, vật nuôi.
Đó là sự chuyển đổi từ giống lúa, ngô một vụ sang hai vụ, áp dụng
kỹ thuật chăm sóc mới, sử dụng các loại máy móc hiện đại, đầu tư
về thuỷ lợi….
4.2.3. Nâng cao năng suất và sản lượng nông nghiệp.
Nhờ vào sự đổi mới trong các chính sách về nông nghiệp,
nông thôn, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật,… nên năng
suất và sản lượng trong sản xuất nông nghiệp không ngừng được
tăng lên. So với thời điểm cách đây một thập niên, năng suất lúa
nước đã tăng khoảng 1,5 lần, sắn cao sản tăng gấp 2 lần và đặc
biệt, cây ngô lai cho năng suất vượt trội, gấp khoảng 2,5 lần so với
giống địa phương.
4.2.4. Kinh tế thị trường và sự hình thành các nông sản
hàng hoá
Thị trường ngày càng mở rộng đã tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân trong việc tiêu thụ sản phẩm. Một số nông sản
chỉ để phục vụ cho nhu cầu thị trường và được xem như một
nguồn thu nhập quan trọng, mặc dù quy mô còn nhỏ lẻ. Số gia
đình người Kháng tham gia hoạt động làm dịch vụ đã tăng lên
đáng kể, không chỉ có ở trung tâm xã mà xuất hiện ở từng bản
làng. Nếu như trước đây, hoạt động nông nghiệp của người Kháng
ở Chiềng Bôm chủ yếu mang tính chất tự cấp, tự túc thì nay, họ
đang dần thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi để đáp ứng nhu cầu
của thị trường, góp phần nâng cao thu nhập gia đình.
14
4.3. Tác động của sinh kế tới phát triển bền vững
4.3.1. Sinh kế và sự phát triển bền vững kinh tế
Đời sống kinh tế của người Kháng ở Chiềng Bôm hiện nay đã

có những bước phát triển đáng được ghi nhận: đa dạng hoá ngành
nghề, cải thiện thu nhập, nâng cao mức sống, Song, vẫn còn
những biểu hiện chưa thực sự bền vững: quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế còn chậm (nông nghiệp vẫn chiếm vị trí chủ đạo với
giá trị thu nhập khoảng 98,5 %, các ngành nghề khác vẫn giữ vai
trò hết sức khiêm tốn, không tạo ra giá trị đáng kể); sự chuyển dịch
cơ cấu cây trồng, vật nuôi chưa có định hướng rõ ràng (quá trình
này mặc dù đã triển khai nhiều năm nhưng vẫn chưa tìm ra được
hướng đi thích hợp); thị trường tiêu thụ nông sản không ổn định
(tạo nên nguy cơ rủi ro cao, khiến người dân chưa thực sự yên tâm
chuyển đổi và mở rộng sản xuất,…).
4.3.1. Sinh kế và sự phát triển bền vững xã hội
Từ những chương trình xoá đói giảm nghèo, cuộc sống người
Kháng ở Chiềng Bôm đã có những thay đổi đáng kể. Cơ sở hạ tầng
và các điều kiện dịch vụ xã hội từng bước được nâng cấp, tình
trạng nhà ở và nước sạch sinh hoạt ngày càng được cải thiện, tăng
thu nhập bình quân đầu người, Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề
đang đặt ra, có mối liên quan mật thiết đến hiệu quả sinh kế: tỷ lệ
hộ nghèo cao, tình trạng thiếu việc làm và chất lượng nguồn nhân
lực thấp,… Không chỉ với tỷ lệ đói nghèo cao, rất nhiều hộ gia
đình đang có nguy cơ tái nghèo. Khi diện tích ruộng nước không
còn có khả năng khai phá được nữa thì dân số vẫn tiếp tục gia tăng.
Cây hoa màu và các hoạt động kinh tế phụ trợ cũng góp phần giải
quyết nhu cầu lương thực nhưng thiếu tính ổn định và lâu dài.
4.3.1. Sinh kế và sự phát triển bền vững văn hoá
Qua các hoạt động sinh kế, người Kháng ở Chiềng Bôm đã
tích luỹ và học hỏi những tri thức và kinh nghiệm quý báu, góp
phần làm phong phú vốn văn hóa tộc người. Rất nhiều tri thức địa
phương có ảnh hưởng tích cực đến sinh kế đã được chứng minh
15

trên thực tế. Từ công cuộc phát triển sinh kế trong thời gian gần
đây, đời sống người dân đang được cải thiện, nhưng cũng từ đó,
đang nảy sinh những tác động không tích cực tới sự phát triển bền
vững về văn hoá như sự đơn giản hoá đời sống tâm linh, sự mai
một tri thức bản địa trong canh tác nông nghiệp và các nghề thủ
công truyền thống,…Trong khi những yếu tố văn hoá mới chưa
hình thành thì trước tác động của nền kinh tế thị trường, những yếu
tố văn hoá bản địa (tri thức địa phương, tín ngưỡng nông nghiệp
truyền thống,…) đang mất dần không gian xã hội để tồn tại.
4.3.1. Sinh kế và sự phát triển bền vững môi trường
Qua các hoạt động mưu sinh truyền thống, người Kháng ở
Chiềng Bôm đã sớm có ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên thiên
nhiên, thể hiện ở một số tập quán và kiêng kỵ được lưu truyền qua
nhiều thế hệ (tập quán luân canh, hưu canh; nghiêm cấm khai thác
khu vực rừng đầu nguồn, ). Tuy nhiên, hiện nay, trước sức ép của
sự đói nghèo và gia tăng dân số, đa số các hộ gia đình thiếu các
nguồn lực mưu sinh, phải vật lộn với các sinh kế khác nhau để tồn
tại và chính sự đói nghèo, sự mong manh của những nguồn lực
mưu sinh đã ngăn cản họ trong việc đầu tư ở mức cần thiết nhằm
mục đích bảo vệ môi trường mà họ đang sinh sống (thể hiện ở sự
suy giảm diện tích rừng một cách đáng báo động, tính "tước đoạt"
trong khai thác các nguồn lợi từ rừng, sự lạm dụng phân bón hoá
học trong hoạt động trồng trọt, )
16
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Từ trước đến nay, sinh kế của người Kháng ở Chiềng Bôm là
sinh kế của những cư dân nông nghiệp, lấy trồng trọt các loại cây
lương thực làm hoạt động mưu sinh chủ đạo và xuyên suốt. Bên
cạnh trồng trọt là một hệ thống các hoạt động mưu sinh phụ trợ.
Qua các hoạt động sinh kế, họ đã thể hiện những tri thức trong việc

ứng xử với tự nhiên và sự tôn trọng nguồn tri thức này sẽ là cần
thiết để chúng ta thực hiện thành công những chương trình, dự án
phát triển ở địa bàn nghiên cứu nói riêng và vùng miền núi nói
chung.
Bước vào thời kỳ Đổi mới, trước sự tác động của nhiều yếu tố
(khách quan và chủ quan), sinh kế của người Kháng Chiềng Bôm
đã và đang có những biến chuyển rõ rệt. Trong đó, vấn đề quan
trọng và cốt lõi chính là sự chuyển đổi từ cây lúa nương (vốn là
cây trồng chủ đạo) sang các loại cây trồng khác. Mặc dù nhận được
rất nhiều sự hỗ trợ của Nhà nước cộng với tinh thần nỗ lực của bản
thân tộc người nhưng với sự chuyển đổi này, sinh kế của người
Kháng đang gặp không ít khó khăn, thể hiện sự thiếu bền vững và
vẫn chưa tìm ra những hướng đi thực sự phù hợp.
Sự nâng cao chất lượng các nguồn lực trong sinh kế của
người Kháng ở Chiềng Bôm đã cho thấy vai trò và hiệu quả của
những chính sách mà Đảng và Nhà nước đã triển khai trong thời
gian vừa qua, đồng thời, cho thấy sự nỗ lực vươn lên để thích ứng
với hoàn cảnh mới của bản thân tộc người. Tuy nhiên, trong bối
cảnh hiện nay, để hòa nhập với nền kinh tế thị trường, hướng tới
một nền kinh tế phát triển và phát triển bền vững, chất lượng các
nguồn lực này còn bộc lộ nhiều hạn chế. Cải thiện chất lượng các
nguồn lực là cả một quá trình lâu dài nhưng cần thiết bởi hiệu quả
sinh kế phụ thuộc căn bản vào nguồn lực sinh kế.
Trong phát triển sinh kế, xoá đói giảm nghèo được xem là
một mục tiêu trọng yếu, nhưng do sự hạn chế về các nguồn lực nên
17
đời sống của các dân tộc thiểu số ở nước ta nói chung và người
Kháng ở Chiềng Bôm nói riêng rất khó để thoát khỏi vòng luẩn
quẩn của sự đói nghèo.
Sự chuyển đổi về sinh kế một mặt đã tạo ra những động lực,

nhưng mặt khác, cũng đang gây ra những tác động không tích cực
cho các lĩnh vực quan trọng khác như ổn định xã hội, bảo tồn văn
hoá, giữ gìn tài nguyên môi sinh, Vì vậy, qua nghiên cứu này có
thể khẳng định, hoạt động kinh tế có vai trò quyết định và ảnh
hưởng qua lại tới tất cả các lĩnh vực quan trọng khác của đời sống,
…Để giải quyết được những vấn đề nhằm hướng tới mục tiêu phát
triển bền vững của cộng đồng người Kháng hiện nay thì phát triển
sinh kế tộc người được coi là trọng tâm nhưng sự phát triển này
cần phải được xem xét một cách hài hoà với các lĩnh vực khác.
Từ những kết quả nghiên cứu về thực trạng đời sống mưu
sinh, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp có tính khả thi, nhằm
tìm ra những hướng đi phù hợp trong công cuộc cải thiện sinh kế
theo hướng bền vững của người Kháng ở Chiềng Bôm hiện nay.
1. Cần triển khai công tác quy hoạch đất đai cho các cộng
đồng bản làng của người Kháng. Do dân số tăng và sự khai thác
thiếu ý thức trong một thời gian dài nên hiện nay, đất sản xuất ở
vùng người Kháng Chiềng Bôm vừa thiếu, vừa bạc màu, cho sản
lượng và năng suất thấp (nhất là nương rẫy). Tình trạng này đang
đặt ra những thách thức trong công cuộc mưu sinh, nhất là đối với
những gia đình trẻ. Kết quả điều tra tại một số bản có tỷ lệ hộ
nghèo cao thì vấn đề thiếu đất sản xuất được người dân đưa lên
hàng đầu trong việc xác định nguyên nhân dẫn tới tình trạng nghèo
đói. Vì thế, việc cần làm trong những năm trước mắt là phải triển
khai công tác quy hoạch đất, rừng cho từng bản làng người Kháng.
Đây cũng là nguyện vọng của người dân, cần sự quan tâm giải
quyết của chính quyền và các ngành liên quan ở địa phương.
2. Cần có những chính sách, biện pháp phù hợp và khả thi
nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi. Đây là
18
giải pháp vừa trước mắt, vừa lâu dài nhằm góp phần khắc phục

tình trạng năng suất thấp và suy giảm nguồn tài nguyên đất, rừng
trong hoạt động sản xuất. Hệ cây trồng chủ yếu là cây lương thực
với diện tích và năng suất thấp cùng với quy mô chăn nuôi manh
mún,… là những nguyên nhân gây nên tình trạng đói nghèo trầm
trọng ở người Kháng hiện nay. Cho dù có áp dụng khoa học kỹ
thuật mới thì đất đai và cây trồng hiện tại cũng chỉ đủ đáp ứng nhu
cầu tự túc lương thực, trong khi mục tiêu phát triển bền vững sinh
kế nông nghiệp ở vùng người Kháng nói riêng và ở các dân tộc
miền núi nói chung phải là nông nghiệp hàng hóa trên cơ sở tự túc
lương thực. Vì thế, cần có nghiên cứu để đưa vào vùng người
Kháng các loại cây trồng, vật nuôi mới có khả năng thích nghi và
cho năng suất cao, từ đó, bảo đảm để người dân có thể vừa tự túc
lương thực vừa có nông sản hàng hóa, chuyển dần từ nghèo đói
sang đủ ăn và làm giàu. Tuy nhiên, trong việc xây dựng các mô
hình phát triển kinh tế bền vững, cần có sự tôn trọng những kiến
thức địa phương có giá trị ứng dụng, phù hợp với môi trường tự
nhiên vốn phức tạp và đa dạng.
3. Cần có chính sách cụ thể, phù hợp và thỏa đáng để gắn
người dân với rừng và kinh tế rừng, trong đó, chú trọng thực hiện
việc giao đất lâm nghiệp trên rừng nghèo cho hộ gia đình để người
dân trồng rừng và phát triển kinh tế rừng, bổ sung thêm nguồn thu
nhập của người dân. Rừng vốn là không gian sinh tồn quan trọng
của cư dân miền núi, nền kinh tế miền núi bị khủng hoảng cũng bắt
đầu từ sự khủng hoảng của tài nguyên rừng. Vì vậy, để giải quyết
tình trạng này ở vùng người Kháng Chiềng Bôm, cần phải phục
hồi lại chính diện tích rừng đã bị mất đi bằng việc đẩy mạnh phát
triển kinh tế rừng, giúp người dân khai thác các sản phẩm của rừng
một cách bền vững. Trong điều kiện hiện nay, kinh tế rừng không
chỉ để cải thiện thu nhập mà còn có ý nghĩa trong việc bảo vệ môi
trường. Tuy nhiên, những loại cây rừng được trồng không có thị

trường tiêu thụ ổn định, lại có tính dài hạn (trên dưới 10 năm mới
19
được thu hoạch), không đảm bảo được nhu cầu an ninh lương thực
trước mắt thì cần được xem xét. Bên cạnh đó, vấn đề giải quyết
việc làm, đa dạng hoá các nguồn thu nhập để người dân có thể đảm
bảo lương thực trong lúc chờ đợi nguồn thu nhập từ rừng là một
việc làm cần thiết.
4. Cần có những giải pháp để nâng cao năng lực vốn tài
chính bằng việc thay đổi nhận thức trong tập quán chi tiêu. Vấn đề
này có vai trò rất quan trọng trong điều kiện nguồn thu từ các hoạt
động sinh kế còn yếu. Chi tiêu thiếu kế hoạch, khả năng tích luỹ
thấp là thực trạng không chỉ của người Kháng mà là của phần lớn
các dân tộc thiểu số ở nước ta. Thói quen này đã ăn sâu vào nếp
nghĩ của mỗi con người và chính nó đã làm ảnh hưởng không nhỏ
tới nguồn lực tài chính trong phát triển sinh kế, hạn chế đến việc
đầu tư cho sản xuất và là một trong những nguyên nhân làm cho
không ít hộ gia đình người Kháng rơi vào cảnh nợ nần triền miên.
Với cách bán ngô, lúa non như hiện nay, họ không có tích luỹ để
đầu tư cho sản xuất, năng suất thấp, số tháng thiếu đói càng tăng
lên, họ bị rơi vào tình trạng luẩn quẩn trong vòng đói nghèo. Nó
làm cho bình quân thu nhập lương thực không thấp nhưng vẫn
thiếu đói, mùa giáp hạt đáng lẽ ngắn mà lại kéo dài và người nghèo
phải chạy ăn từng bữa.
Từ những kết quả của luận án này, chúng tôi xin đưa ra một
vài ý tưởng, mang tính chất gợi mở cho những nghiên cứu tiếp
theo:
1. Dưới góc độ kinh tế, cần có một nghiên cứu sâu về năng
lực sử dụng nguồn vốn tài chính trong hỗ trợ sinh kế (bao gồm
cả vốn vay và các khoản thu tiền mặt). Vấn đề này không chỉ đặt ra
đối với cộng đồng ở địa bàn nghiên cứu mà còn đối với hầu hết các

dân tộc thiểu số ở nước ta. Nghiên cứu về vấn đề này sẽ rất có ý
nghĩa, bởi nó có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh kế, nhất là an
ninh lương thực. Vấn đề tưởng chừng nhỏ nhưng khảo sát thực tế
20
sẽ thấy, nếu không được giải quyết kịp thời thì mọi giải pháp nhằm
cải thiện nguồn thu nhập cũng chẳng có nghĩa lý gì.
2. Dưới góc độ văn hoá, xem xét sự thay đổi các phương
thức mưu sinh hiện nay đã dẫn đến những thay đổi văn hoá và
lối sống của tộc người như thế nào. Thực tế cho thấy, quá trình
phát triển kinh tế của người Kháng (cũng như các dân tộc khác) đã
và đang dẫn đến hàng loạt những thay đổi về mặt văn hoá (vật
chất, tinh thần). Đây là một vài trong số rất nhiều vấn đề cần được
đặt ra khi xem xét sự biến đổi của văn hoá từ sự biến đổi sinh kế
mà luận án chưa có điều kiện tìm hiểu. Thực tế đã chứng minh,
kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tôn trọng các giá trị văn hóa,
bởi văn hóa nếu được phát huy sẽ là nguồn lực quan trọng trong
phát triển sinh kế.
3. Cũng dưới góc độ văn hoá, trên cơ sở văn hoá mưu sinh,
xem xét quá trình tiếp biến của văn hoá Kháng (và một số dân
tộc thuộc nhóm Môn - Khơ Me) với văn hoá của dân tộc Thái.
Với xu hướng chịu sự “Thái hoá” một cách mạnh mẽ của một số
tộc người có dân số ít ở Tây Bắc (Kháng, Mảng, Xinh Mun,…)
như hiện nay thì việc tìm lại những nét văn hoá cơ tầng của các
dân tộc này là cần thiết trong xu thế giữ gìn sự đa dạng trong bức
tranh văn hoá tộc người. Đây sẽ là vấn đề văn hoá học lý thú và có
ý nghĩa nếu được làm sáng tỏ.
21
KẾT LUẬN
1. Trải qua một thời gian dài trong lịch sử, cùng với một số
dân tộc khác ở Tây Bắc, người Kháng ở Chiềng Bôm được coi là

người Xá - lớp người với thân phận lệ thuộc hoàn toàn vào dân tộc
Thái. Họ đã chung sống và chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ nền văn
hoá của dân tộc chủ thể vùng, trong đó có văn hoá mưu sinh. Tồn
tại trong môi trường miền núi Tây Bắc với những đặc trưng về
điều kiện đất đai, khí hậu, thuỷ văn,… hoạt động mưu sinh của
người Kháng ở Chiềng Bôm đã thể hiện sự thích ứng của con
người với tự nhiên ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Hệ thống tri
thức trong hoạt động mưu sinh của họ một phần được đúc kết, một
phần do học hỏi từ dân tộc Thái cận cư đã thể hiện sự giao lưu tiếp
xúc, làm nên những sắc thái văn hoá đặc trưng của miền Tây Bắc
Tổ quốc.
2.Trước năm 1986, hoạt động mưu sinh của người Kháng ở
Chiềng Bôm khá đa dạng với đầy đủ các phương thức như trồng
trọt, chăn nuôi, thủ công gia đình, trao đổi và khai thác nguồn lợi
tự nhiên. Trong đó, nương rẫy đóng vai trò chủ đạo. Ruộng nước
bắt đầu xuất hiện khi công cuộc định canh định cư của Nhà nước
được tiến hành. Do một thời gian dài bị lệ thuộc người Thái, sau đó
là chiến tranh và những năm tháng trong cơ chế quan liêu bao cấp,
nền kinh tế của người Kháng Chiềng Bôm nhìn chung bị hạn chế
rất nhiều về các nguồn lực. Với công cụ sản xuất thô sơ, kỹ thuật
canh tác giản đơn, chủ yếu dựa vào tự nhiên,… nền kinh tế truyền
thống mang nặng tính tự cấp, tự túc và khép kín.
3. Bước vào thời kỳ Đổi mới (từ sau năm 1986), nền kinh tế
của người Kháng ở Chiềng Bôm đã có những chuyển biến đáng kể.
Sự ra đời của hàng loạt các chính sách phát triển dân tộc và miền
núi của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua đã có ảnh hưởng
tích cực và làm đa dạng các nguồn lực sinh kế của đồng bào
(nguồn lực con người, tài chính, vật chất)…. Tuy nhiên, trong
22
nguồn lực tự nhiên, đất đai và rừng được xem là không gian sinh

tồn của con người và các hoạt động mưu sinh lại đang gặp nhiều
trở ngại bởi nhiều yếu tố (chính sách quản lý rừng, sự gia tăng dân
số, suy thoái môi trường,…). Trên thực tế, đất đai là một tài sản tự
nhiên rất quan trọng đối với sinh kế. Quyền đất đai có khả năng tạo
cơ sở để người nông dân tiếp cận các loại tài sản khác cũng như là
nhân tố quyết định đến sự lựa chọn các phương thức sinh kế. Vì
thế, biến đổi trong các chế độ sở hữu đất đai hay tiếp cận đất đai
của người Kháng ở Chiềng Bôm đã ảnh hưởng đến an ninh sinh kế
của họ.
Để thích ứng với hoàn cảnh mới, các hoạt động mưu sinh đã
có những biến đổi dưới nhiều hình thức. Trong cơ cấu, nông
nghiệp trồng trọt vẫn là ngành kinh tế chủ đạo, đem lại nguồn thu
nhập chính cho người dân. Khi cây lúa nương mất dần vị trí trong
trồng trọt thì việc tích cực mở rộng diện tích và thâm canh cây lúa
nước đã đáp ứng phần nào nhu cầu lương thực. Các loại cây hoa
màu ngày một chiếm ưu thế trên đất dốc, sản phẩm trồng trọt phát
triển dần theo hướng hàng hoá, đem lại nguồn thu nhập tiền mặt,
song lại không đảm bảo về mặt an ninh lương thực cho các hộ gia
đình.
Chăn nuôi, lâm nghiệp mặc dù đang có xu hướng chuyển dịch
theo hướng tăng tỷ trọng trong cơ cấu thu nhập nhưng còn chậm
chạp. Mặc dù được sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật,… từ phía Nhà nước
nhưng việc mở rộng quy mô chăn nuôi còn đang gặp nhiều cản trở
bởi những khó khăn về nguồn thức ăn, điều kiện thời tiết,…
Với sự khan hiếm các nguồn nguyên liệu từ tự nhiên cũng
như sự xuất hiện ngày càng nhiều của các sản phẩm hàng hoá sẵn
có trên thị trường, các nghề thủ công gia đình đang có xu hướng
giảm dần vai trò trong đời sống.
Cơ chế thị trường đã làm cho hoạt động trao đổi buôn bán của
người dân ngày một thuận lợi, tạo ra động lực cho các hoạt động

kinh tế khác phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá.
23
Hoạt động khai thác nguồn lợi tự nhiên cũng không còn giữ
vị trí quan trọng như trước đây bởi sự suy thoái cộng với những
thay đổi về chính sách quản lý về tài nguyên rừng của Nhà nước.
Đa dạng hoá ngành nghề cũng đang là hướng đi mới trong việc
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tuy nhiên, định hướng chưa thật rõ ràng
và cụ thể.
Nhìn chung, do xuất phát điểm về kinh tế - xã hội ở mức thấp
cùng với sự hạn chế về nguồn lực mưu sinh và phương thức mưu
sinh, nghèo đói vẫn đang là một thách thức lớn.
4. Bản chất nền kinh tế truyền thống của người Kháng ở
Chiềng Bôm là nền kinh tế mang tính tự nhiên, tự cấp và tự túc.
Ngày nay, khi bước vào thời kỳ Đổi mới, nền kinh tế này phải
chuyển sang kinh tế hàng hoá và đây là cả một vấn đề lớn đối với
đồng bào. Từ nghiên cứu này có thể khẳng định, sự chuyển đổi về
sinh kế một mặt đã tạo ra những động lực, nhưng mặt khác, cũng
đang gây ra những tác động không tích cực cho các lĩnh vực quan
trọng khác của đời sống tộc người. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế hiện
nay phải được xem xét trong mối quan hệ biện chứng với các lĩnh
vực như ổn định xã hội, bảo tồn văn hoá, giữ gìn tài nguyên môi
sinh,… Đó là một tổng hoà không thể chia cắt nhằm hướng tới
phát triển bền vững tộc người.
Để hướng tới mục tiêu này, một số giải pháp được đặt ra như
triển khai công tác quy hoạch đất đai, chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
tôn trọng tri thức địa phương, gắn người dân với kinh tế rừng, nâng
cao chất lượng nguồn lực con người,….
24

×