1. Tỷ giá 3
1.1 Khái niệm và phân loại 3
1.2. Cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái 3
2. Chính sách tỷ giá 7
2.1. Khái niệm và hệ thống chính sách tỷ giá 7
2.2. Các công cụ của Chính sách tỷ giá 7
2.3. Vai trò của chính sách tỷ giá tới tăng trưởng kinh tế 9
3. Kinh nghiệm của một số quốc gia về chính sách tỷ giá 11
3.1 Nhóm các nước có đồng tiền mạnh 11
3.2. Nhóm các nước đang chuyển đổi về cơ cấu kinh tế (Ba Lan, Nga, Séc…) 12
3.3. Nhóm các nước Châu Á và khu vực ASEAN 13
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM 15
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ TRONG
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP 30
1. Thiết lập chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước 30
2. Thực hiện chính sách đa ngoại tệ 30
3. Kết hợp đồng bộ với các chính sách quản lý vĩ mô khác của Nhà nước 31
4. Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối 32
5. Nâng cao hiệu quả quản lý dự trữ ngoại hối của NHNN 34
6. Nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam 34
1
LỜI NÓI ĐẦU
Tỷ giá hối đoái giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế của
mỗi quốc gia cũng như các quan hệ thương mại quốc tế thông qua việc phản ánh
tương quan giá trị đồng tiền của những nước khác nhau. Cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của thương mại quốc tế, ngày nay tỷ giá hối đoái đã trở thành công cụ
điều tiết vĩ mô quan trọng của mỗi quốc gia và là vũ khí lợi hại trong cuộc chiến
tranh thương mại hết sức khốc liệt trên thế giới.
Trong thời gian qua, để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đã nhiều lần thay đổi phương pháp điều hành tỷ giá. Từ chỗ được giữ cố
định, “đông cứng” trong một thời gian khá dài, đến nay tỷ giá hối đoái đã được
hình thành một cách khách quan theo tín hiệu thị trường và có sự điều tiết của Nhà
nước. Thực tế đã chứng minh rằng, cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái hiện nay là
phù hợp với đặc điểm tình hình và mục tiêu phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên,
để cơ chế điều hành tỷ giá mới có thể thực sự phát huy tác dụng cần thiết phải có
những cải cách hơn nữa trong việc quản lý tỷ giá hối đoái. Làm sao để tỷ giá hối
đoái sát hợp với tín hiệu thị trường, theo hướng điều tiết của Nhà nước, khuyến
khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, nâng cao uy tín của đồng tiền và tiến tới một
đồng Việt Nam có khả năng chuyển đổi luôn là câu hỏi được đặt ra cho không chỉ
những nhà hoạch định chính sách mà còn cho tất cả chúng ta những người học và
nghiên cứu kinh tế.
Đề tài nghiên cứu: “Thực trạng của chính sách Tỷ giá ở Việt Nam và các
giải pháp hoàn thiện trong bối cảnh áp dụng chính sách mở của, hội nhập quốc
tế” được lựa chọn chính từ những yêu cầu, đòi hỏi đó.
Nội dung của bài luận này chỉ dừng lại nghiên cứu việc điều hành chính sách
tỷ giá của NHTW Việt Nam và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
quản lý tỷ giá hối đoái trong thời gian tới. Bên cạnh đó, do hạn chế về thời gian,
thông tin và trình độ lý luận nên trong quá trình viết không tránh khỏi những sai
sót nhất định. Chúng em rất mong nhận được sự hướng dẫn đóng góp của các thầy
cô, bạn bè để hoàn thiện hơn trong việc học tập.
2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH
SÁCH TỶ GIÁ
1. Tỷ giá
1.1 Khái niệm và phân loại
a) Khái niệm
Trong nền kinh tế hàng hoá hiện đại, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều
có đồng tiền riêng khác nhau cả về hình thức lẫn giá trị và đều tham gia ngày càng
tích cực vào đời sống kinh tế xã hội quốc tế theo trình độ phát triển và vị thế của
quốc gia mình. Trong quá trình tham gia các hoạt động thương mại, đầu tư, vay
mượn và trao đổi quốc tế các nước, các tổ chức , cá nhân, các đối tác phải thanh
toán với nhau thông qua các đồng tiền của các bên được chuyển đổi, tính toán theo
một tương quan tỷ lệ nhất định.
Vì vậy, tuỳ thuộc vào từng góc độ nghiên cứu, xem xét mà tỷ giá hối đoái có
thể được định nghĩa theo hai cách sau:
Định nghĩa 1: Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này thể
hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước kia.
Theo định nghĩa này, tỷ giá hối đoái được coi là giá cả của một loại hàng hoá
đặc biệt- hàng hoá tiền tệ.
Ví dụ: 1 USD = 19.500 VND
Định nghĩa 2: Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa hai tiền tệ của hai
nước với nhau mà trong thời đại ngày nay sự so sánh đó là sự so sánh sức mua của
các tiền tệ.
b) Phân loại
Trong thực tế tuỳ từng nơi từng lúc khi quan tâm đến một khía cạnh nào đó
của tỷ gía hối đoái người ta thường gọi đến tên đến loại tỷ giá đó. Do vậy cần thiết
phải phân loại tỷ giá hối đoái.
1.2. Cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái
a) Thuyết ngang giá vàng
3
Trong thời kỳ bản vị kim loại, nhất là bản vị vàng (và bạc), các đồng tiền
quốc gia đều được so sánh, quy đổi với nhau trên cơ sở hàm lượng kim loại (vàng)
chứa đựng trong đồng tiền của mình hay do đơn vị đồng tiền của mình đại diện.
Trong giai đoạn này, đặc biệt từ năm 1870 đến thời kỳ đầu đại chiến thế giới lần
thứ nhất, người ta xác định tỷ giá giữa các đồng tiền bằng cách so sánh hàm lượng
vàng chứa trong mỗi đơn vị tiền tệ của từng nước.
Ví dụ: Hàm lượng vàng của một bảng Anh (GBP) là 2,488281 gam và của
một đô la Mỹ là 0,888671 gam. Do đó, tỷ giá hối đoái của GBP và USD là:
GBP/USD=2,488281/0,888671=2,80
Trong chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái của một nước cũng như trên thế
giới khá ổn định và thường chỉ biến động theo mức tăng giảm hàm lượng vàng
chứa đựng trong mỗi đơn vị tiền tệ.
Do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới sau Chiến tranh thế giới
lần thứ nhất, đặc biệt là do những bất lợi của chế độ bản vị vàng (kiềm chế sự phát
triển kinh tế và giao lưu kinh tế quốc tế ) nên phần lớn các nước đã từ bỏ chế độ
bản vị vàng vào đầu những năm 30. Đến năm 1971, các nước hoàn toàn bãi bỏ chế
độ bản vị vàng.
b) Thuyết ngang giá sức mua ( Purchasing Power Parity - PPP )
Khi tỷ lệ lạm phát của một nước tăng tương đối so với lạm phát của một
nước khác, mức cầu đồng tiền nước đó giảm do xuất khẩu giảm. Ngoài ra, người
tiêu dùng và các doanh nghiệp trong nước có lạm phát cao có xu hướng tăng nhập
khẩu. Như vậy, cả hai lực lượng này tạo áp lực giảm giá đồng tiền của nước có
lạm phát cao.Tỷ lệ lạm phát thường khác nhau giữa các quốc gia, tạo nên các kiểu
mẫu mậu dịch quốc tế để điều chỉnh thích hợp và ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái .
Một trong những lý thuyết nổi tiếng nhất và gây nhiều tranh cãi nhất trong
tài chính quốc tế là thuyết ngang giá sức mua, tập trung vào mối liên hệ lạm phát –
tỷ giá hối đoái.
4
Ý tưởng căn bản của thuyết ngang giá sức mua ban đầu được phát triển bởi
nhà kinh tế học cổ điển David Ricardo vào thế kỷ 19. Nhưng chính Gustar Cassel,
một nhà kinh tế người Thụy Điển mới là người phổ biến rộng rãi PPP vào những
năm 20 của thế kỷ XX. Trong những năm này, rất nhiều nước như Đức, Hungary,
Nga phải trải qua thời kỳ lạm phát phi mã vì sức mua đồng tiền của các nước đó
giảm rất mạnh, bị mất giá mạnh so với các đồng tiền ổn định như USD. Lúc này
quan niệm về thuyết PPP trở nên phổ biến trước thực trạng lịch sử như vậy. Có
nhiều hình thức khác nhau của thuyết PPP.
Theo hình thức tuyệt đối, thuyết PPP là sự phát triển của quy luật một giá.
Nội dung cơ bản của quy luật một giá là: nếu hai nước cùng sản xuất một loại
hàng hoá giống nhau thì giá cả của hai loại hàng hoá đó giống nhau trên toàn thế
giới và không phụ thuộc vào nước nào sản xuất ra nó.
Như vậy, theo quy luật một giá thì nếu như thép của Mỹ được sản xuất với
giá 100 USD/tấn, còn thép của Nhật được sản xuất ra với giá 10.000 JPY/tấn thì
có nghĩa là 1 USD = 100 JPY, tỷ giá USD/JPY = 100.
Giả sử tỷ giá USD/JPY = 50 thì điều đó có nghĩa: thép của Nhật bị đắt tương
đối so với thép của Mỹ. Khi đó cầu thép của Nhật sẽ giảm xuống cho đến khi giá
thép của Nhật còn 5000 JPY/tấn hoặc tỷ giá phải nâng lên USD/JPY = 100 (tức là
giảm giá đồng JPY). Tương tự khi tỷ giá là 150 JPY/USD thì xu hướng là cầu thép
của Nhật tăng tới 15.000JPY/tấn hoặc tỷ giá phải giảm xuống đến 100 JPY/USD
(tăng giá đồng JPY).
Trên cơ sở quy luật một giá, thuyết PPP phát biểu rằng: Tỷ giá bất kỳ giữa
hai đồng tiền của hai nước sẽ bằng tỷ số mức giá của hai nước đó tại cùng thời
điểm.
Ví dụ: Thép Nhật tăng giá 11.000 JPY/tấn, thép Mỹ vẫn ở giá 100 USD/tấn,
tỷ giá cũ là 100 JPY/USD, thì lúc đó thuyết PPP nói rằng tỷ giá sẽ được điều chỉnh
5
theo hướng giảm giá đồng JPY, tức là bằng 110 JPY/USD. Việc vận dụng thuyết
PPP chỉ cung cấp cho ta một hướng dẫn lâu dài về sự vận động của tỷ giá.
Tuy nhiên, trong ngắn hạn nó không được hoàn hảo, thậm chí còn bị sai lệch
đáng kể vì thị trường là không hoàn hảo, tồn tại chi phí vận chuyển, bảo hiểm,
thanh toán, thông tin và nhiều hàng rào thương mại khác, do đó, thuyết PPP tuyệt
đối hiếm khi thấy trong thực tế, nhưng thuyết PPP tương đối lại khá phổ biến.
Thuyết PPP tương đối được duy trì, dù cho sức mua của đồng tiền không
giống nhau ở mọi nơi, thay đổi mức giá cả giữa hai quốc gia được hấp thụ bởi sự
biến động của tỷ giá, do đó, quan hệ PPP được duy trì không thay đổi. Nếu nước A
có tỷ lệ lạm phát bằng 0% và nước B có tỷ lệ lạm phát bằng 10% thì đồng tiền của
nước B phải giảm giá 10% so với đồng tiền của nước A. Sự biến động của tỷ giá
sẽ duy trì tỷ lệ giá cả giữa hai nước trước và sau khi lạm phát xảy ra là không thay
đổi.
Nếu thuyết PPP tương đối hoạt động, có hiệu lực ngay lập tức và chính xác,
thì chính sách tiền tệ sẽ không có tác dụng cải thiện cán cân thương mại. Bất cứ sự
thay đổi nào trong các mức giá cả giữa hai nước do thay đổi mức cung ứng tiền sẽ
được hấp thụ ngay lập tức bởi sự thay đổi của tỷ giá. Trong thực tế thuyết PPP
tương đối có ảnh hưởng tương đối tới sự biến động của tỷ giá, nhưng xảy ra chậm
hơn. Xu hướng là rõ ràng nhưng nhiều yếu tố có thể làm méo mó quan hệ này
trong ngắn hạn. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do trong giai đoạn ngắn
hạn đối với cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế thì giá cả hàng hoá được
coi như là cố định. Trong khi đó tỷ giá trao đổi thì được điều chỉnh thường xuyên
do sự cập nhật thông tin và do sự thay đổi của chính sách kinh tế. Điều đó có
nghĩa, sự thay đổi của tỷ giá đã tạo ra sự sai lệch lớn và kéo dài so với thuyết PPP.
6
2. Chính sách tỷ giá
2.1. Khái niệm và hệ thống chính sách tỷ giá
Chính sách tỷ giá là tổng thể các nguyên tắc công cụ biện pháp được nhà
nước điều chỉnh tỷ giá của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt mục
tiêu đã định trong chiến lược phát triển của quốc gia đó.
Để quản lý và điều hành tỷ giá NHTW thường sử dụng các chính sách chủ
yếu sau:
- Chính sách chiết khấu: khi NHTW nâng cao lãi suất chiết khấu làm lãi suất
trên thị trường tăng, làm các nguồn vốn ngắn hạn trên thị trường quốc tế chạy vào
nước mình để thu lợi tức cao làm dịu sự căng thẳng của cầu vượt cung ngoại hối
do đó làm tỷ giá giảm xuống và ngược lại.
- Chính sách hối đoái: khi tỷ giá lên cao NHTW bán ngoại hối ra thị trường
kéo tỷ giá tụt xuống và ngược lại. Tuy nhiên NHTW phải có dự trữ ngoại hối đủ
lớn, nếu cán cân thanh toán thiếu hụt thường xuyên thì khó có đủ ngoại hối thực
hiện phương pháp này.
- Phá giá tiền tệ: là sự nâng cao một cách chính thức TGHĐ hay là việc nhà
nước hạ thấp sức mua đồng tiền nước mình so với ngoại tệ làm đẩy mạnh xuất
khẩu hạn chế nhập khẩu cải thiện cán cân thương mại làm tỷ giá bớt căng thẳng.
- Nâng giá tiền tệ: là việc Nhà nước chính thức nâng giá đơn vị tiền tệ nước
mình so với ngoại tệ làm cho tỷ giá giảm xuống.
2.2. Các công cụ của Chính sách tỷ giá
a) Nhóm công cụ trực tiếp
NHTW thông qua việc mua bán đồng nội tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố định
hay gây ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất định theo mục
tiêu đã đề ra. Hoạt động can thiệp trực tiếp của ngân hàng trung ương tạo ra hiệu
ứng thay đổi cung tiền có thể tạo ra áp lực lạm phát hay thiểu phát không mong
muốn cho nền kinh tế vì vậy đi kèm hoạt động can thiệp này của NHTW thì phải
7
sử dụng thêm nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ lượng dư cung hay bổ sung phần
thiếu hụt tiền tệ ở lưu thông.
Nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ được thực hiện thông qua việc NHTW
tham gia mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ. Một nghiệp vụ mua ngoại tệ
trên thị trường của NHTW làm giảm cung ngoại tệ do đó làm tăng tỷ giá hối đoái
và ngược lại. Do đó đây là công cụ có tác động mạnh lên tỷ giá hối đoái.
Nghiệp vụ thị trường mở nội tệ là việc NHTW mua bán có chứng từ có giá.
Tuy nhiên nó chỉ tác động gián tiếp đến tỷ giá mà lại có tác động trực tiếp đến các
biến số kinh tế vĩ mô khác (lãi suất, giá cả). Nó được dùng phối hợp với nghiệp vụ
thị trường mở ngoại tệ để khử đi sự tăng, giảm cung nội tệ do nghiệp vụ thị trường
mở gây ra.
Ngoài ra Chính phủ có thể sử dụng biện pháp can thiệp hành chính như biện
pháp kết hối, quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, quy định hạn chế
mục đích sử dụng ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng mua ngoại tệ, quy định hạn
chế thời gian mua ngoại tệ, nhằm giảm cầu ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và giữ cho tỷ
giá ổn định.
b) Nhóm công cụ gián tiếp
Lãi suất tái chiết khấu là công cụ hiệu quả nhất. Cơ chế tác động đến tỷ giá
hối đoái của nó như sau: Khi lãi suất chiết khấu thay đổi kéo theo sự thay đổi cùng
chiều của lãi suất trên thị trường. Từ đó tác động đến xu hướng dịch chuyển của
dòng vốn quốc tế làm thay đổi tài khoản vốn hoặc ít nhất làm cho người sở hữu
vốn trong nước chuyển đổi đồng vốn của mình sang đồng tiền có lãi suất cao hơn
để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Cụ thể lãi suất tăng dẫn đến xu hướng là
một dòng vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ đổ vào trong nước và
người sở hữu vốn ngoại tệ trong nước sẽ có xu hướng chuyển đồng ngoại tệ của
mình sang nội tệ để thu lãi suất cao hơn do đó tỷ giá sẽ giảm (nội tệ tăng) và
ngược lại muốn tăng tỷ giá sẽ giảm lãi suất tái chiết khấu.
8
Muốn giảm tỷ giá hối đoái thì Chính Phủ có thể quy định mức thuế quan cao,
quy định hạn ngạch và thực hiện trợ giá cho những mặt hàng xuất khẩu chiến lược.
Và ngược lại sẽ làm tăng tỷ giá hối đoái.
Ngoài ra Chính Phủ có thể sử dụng một số biện pháp khác như điều chỉnh tỷ
lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ với NHTW, quy định mức lãi suất trần kém hấp
dẫn đối với tiền gửi bằng ngoại tệ. Mục đích là phòng ngừa rủi ro tỷ giá, hạn chế
đầu cơ ngoại tệ, làm giảm áp lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối.
2.3. Vai trò của chính sách tỷ giá tới tăng trưởng kinh tế
a) Đối với cán cân thanh toán
Tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ là quan trọng đối với một quốc gia vì
trước tiên nó tác động trực tiếp tới giá cả hàng xuất nhập khẩu của chính quốc gia
đó. Khi TGHĐ tăng (đồng nội tệ xuống giá) sẽ làm tăng giá trong nước của hàng
nhập khẩu và giảm giá ngoài nước của hàng xuất khẩu của nước đó, cải thiện sức
cạnh tranh quốc tế của hàng trong nước. Các nguồn lực sẽ được thu hút vào những
ngành sản xuất mà giờ đây có thể cạnh tranh hiệu quả hơn so với hàng nhâp khẩu
và cũng vào ngành xuất khẩu mà giờ đây có thể có hiệu quả hơn trên các thị
trường quốc tế. Kết quả là xuất khẩu tăng nhập khẩu giảm làm cán cân thanh toán
được cải thiện.
b) Với lạm phát và lãi suất
Khi các yếu tố khác không đổi TGHĐ tăng làm tăng giá các mặt hàng nhập
khẩu tính bằng nội tệ. Các hộ gia đình,các nhà sản xuất sử dụng đầu vào nhập
khẩu phải tiêu dùng hàng nhập khẩu với mức giá tăng cùng tỷ lệ phá giá. Kết quả
mức giá chung trong nền kinh tế trở nên cao hơn đặc biệt là nền kinh tế nhỏ, mở
cửa với thế giới bên ngoài có xuất khẩu và nhập khẩu chiếm tỷ lệ cao so với GDP.
Nếu TGHĐ tiếp tục có sự gia tăng liên tục qua các năm có nghĩa là lạm phát đã
tăng. Nếu lãi suất tăng ở mức vừa phải có thể kiểm soát sẽ kích thích tăng trưởng
9
nhưng nếu lạm phát tăng quá cao sẽ tác động làm lãi xuất tăng làm giảm đầu tư
ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế.
c) Với sản lượng và việc làm
Đối với các lĩnh vực sản xuất chủ yếu dựa trên nguồn lực trong nước thì khi
TGHĐ tăng, sự tăng giá hàng nhập khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh cho các
lĩnh vực này giúp phát triển sản xuất từ đó tạo thêm công ăn việc làm giảm thất
nghiệp, sản lượng quốc gia có thể tăng lên và ngược lại.
d) Đối với đầu tư quốc tế
- Đầu tư trực tiếp: TGHĐ tác động tới giá trị phần vốn mà nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư hoặc góp vốn liên doanh. Vốn ngoại tệ hoặc tư liệu sản xuất được
đưa vào nước sở tại thường được chuyển đổi ra đồng nội tệ theo tỷ giá chính thức.
Bên cạnh đó tỷ giá còn có tác động tới chi phí sản xuất và hiệu quả các hoạt động
đầu tư nước ngoài. Do đó sự thay đổi TGHĐ có ảnh hưởng nhất định tới hành vi
của các nhà đầu tư nước ngoài trong việc quyết định có đầu tư vào nước sở tại hay
không.
- Đầu tư gián tiếp: là loại hình đầu tư thông qua hoạt động tín dụng quốc tế
cũng như việc mua bán các loại chứng khoán có giá trên thị trường.
Trong một thế giới có sự luân chuyển vốn quốc tế tự do khi TGHĐ tăng tổng
lợi tức từ khoản vay bằng ngoại tệ lớn hơn lãi suất trong nước sẽ xảy ra hiện tượng
luồng vốn chảy ra nước ngoài và ngược lại TGHĐ giảm luồng vốn sẽ đổ vào trong
nước.
Như vậy muốn tạo môi trường đầu tư ổn định nhằm phát triển kinh tế đòi hỏi
các quốc gia xây dựng và điều chỉnh một chính sách tỷ giá ổn định hợp lý giảm
mức độ rủi ro trong lĩnh vực đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
e) Với nợ nước ngoài
10
Các khoản vay nợ nước ngoài thường được tính theo đơn vị tiền tệ nước đó
hoặc những đồng tiền mạnh nên khi TGHĐ tăng lên cũng đồng nghĩa với sự tăng
lên của gánh nặng nợ nước ngoài. Ngày nay khi sự luân chuyển vốn quốc tế ngày
càng tự do thì các nước đặc biệt các nước đang phát triển càng cần phải thận trọng
hơn trong chính sách tỷ giá để đảm bảo tăng trưởng và khả năng trả nợ nước
ngoài.
3. Kinh nghiệm của một số quốc gia về chính sách tỷ giá
Hiện nay trên thế giới, các quốc gia nhìn chung đều sử dụng chính sách thả nổi
có quản lý nhưng mức độ quản lý hay thả nổi là khác nhau ở các quốc gia khác
nhau.
3.1 Nhóm các nước có đồng tiền mạnh
Những nước này gần như tự do ngoại hối và thống nhất một tỷ giá duy nhất
cho tất cả các hoạt động có liên quan. Các nước này có khả năng dự trữ ngoại tệ
của NHTW dồi dào, có thị trường ngoại hối phát triển ở mức độ cao, các công cụ
gián tiếp mà NHTW sử dụng rất phong phú, đa dạng và có tính chất hỗ trợ nhau.
Điển hình ở nhóm này là Mỹ.
Thị trường tiền tệ, ngoại hối của Mỹ là thị trường phát triển và hoàn chỉnh
vào loại nhất thế giới, nghệ thuật điều chỉnh tỷ giá của họ cũng đạt đến độ hoàn
hảo và có ảnh hưởng toàn cầu. Chính sách đồng đô-la yếu, rơi tự do chính là yếu
tố kích thích xuất khẩu của Mỹ, thúc đẩy tăng trưởng tạo ra nhiều nhu cầu việc
làm, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp vốn vẫn lơ lửng như một mối đe doạ với
siêu cường quốc kinh tế thế giới. Về dài hạn, chính sách này ít nguy cơ gây tăng
mạnh lạm phát và sẽ làm tăng lãi suất và kích thích các nhà đầu tư nước ngoài tạo
ra hàng tỷ đô-la cho Mỹ trang trải các thâm hụt trong ngân sách và tài khoản vãng
lai.
11
3.2. Nhóm các nước đang chuyển đổi về cơ cấu kinh tế (Ba Lan, Nga, Séc…)
Các nước trong nhóm này đều gắn đồng tiền với một số ngoại tệ nhất định
(Ba Lan với 5 đồng tiền USD, DEN, GBP, FRF, CHF; CH Séc với 2 đồng tiền
DEM, USD) tỷ giá được công bố hàng ngày với mức dao động cho phép. NHTW
sẽ can thiệp khi tỷ giá ra ngoài biên độ dao động. Trong giai đoạn chuyển sang nền
kinh tế thị trường, dự trữ ngoại tệ thấp, thị trường hối đoái và nội tệ chưa phát
triển thì cơ chế trên tỏ ra là một điểm tựa tương đối chắc chắn cho NHTW trong
việc kiểm soát chính sách tỷ giá. Chúng ta sẽ xem xét trường hợp của nước Nga.
Trước cuộc khủng hoảng T8/1998, chủ trương thực hiện liệu pháp ‘sốc’
để cải tổ nền kinh tế, Chính phủ Nga đã áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi hoàn toàn
cùng với khá nhiều chính sách tự do hoá trong giai đoạn 91-95. Những đợt phá giá
vô căn cứ đã góp phần tạo ra sự tụt dốc tới 3000 lần của đồng Rúp so với USD,
làm tăng lạm phát trong nước. Ước tính đến năm 1995, tổng giá trị USD bằng tiền
mặt lưu hành quy đổi giá trị so với đồng Rúp đã vượt quá 3 lần, Nga là quốc gia
tầm cỡ duy nhất trong lịch sử phụ thuộc quá nhiều vào đồng tiền của một quốc gia
khác. Ngày 6-7-1995, Chính phủ Nga đưa ra hệ thống ‘hành lang hối đoái’ nhằm
tạo tiền đề cho quá trình cố định tỷ giá đồng tiền này.
Năm 1998, sau khi thay đổi mệnh giá đồng Rúp theo tỷ lệ mới 1/1000 tỷ
giá đồng Rúp giảm xuống còn một con số, Chính Phủ Nga đã quyết định thực hiện
chính sách cố định tỷ giá ở mức 6.2 R/USD. Song với những biến động quá lớn về
giá cả một số mặt hàng chủ chốt trên thị trường quốc tế đã gây nên khủng hoảng
tiền tệ T8/1998, hệ thống Ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán,
khoảng 1/3 ngân hàng bị phá sản, gần 160 tỷ USD nợ nước ngoài không có khả
năng trả Ngày 9/9/1998, Nga đã buộc phải từ bỏ mục tiêu biên độ tỷ giá và
chuyển sang hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi, do thị trường quyết định, NHTW chỉ
có nhiệm vụ ngăn chặn sự dao động quá nhiều của tỷ gía. T7/2004, NHTW Nga đã
12
quyết định chuyển sang hệ thống mới, tỷ gía được xác định trên cơ sở tỷ giá bình
quân của đồng Rúp so với USD và € .
Bài học rút ra ở đây là:
+ Cơ chế điều hành TGHĐ cần được đặt trong mối quan hệ với lãi suất
và lạm phát, phù hợp với từng thời kỳ nhất định, phối hợp song song với chính
sách kinh tế trên tất cả ngành lĩnh vực khác.
+ Sự phá giá vô căn cứ đồng tiền quốc gia trong thời kỳ chuyển đổi và
chính sách thả nổi khiến đồng tiền nội tệ bị mất giá nghiêm trọng, lạm phát gia
tăng khó kiểm soát làm tháo chạy dòng vốn đầu tư nước ngoài, giảm tốc độ tăng
trưởng.
+ Cơ chế TGHĐ thả nổi nếu được đặt trong biên độ dao động nhất định
có thể thành công và thích hợp với công cuộc cải cách kinh tế- xã hội.
3.3. Nhóm các nước Châu Á và khu vực ASEAN
Các nước ASEAN đa số đều thả nổi TGHĐ, không quy định giới hạn với các
NHTM. Đa số các nước này có thị trường hối đoái phát triển, thị trường chứng
khoán có tốc độ tăng trưởng cao, mức dự trữ ngoại tệ lớn đủ điều kiện để tiến tới
tự do hoàn toàn, NHTW có đủ sức cũng như các công cụ để can thiệp trong trường
hợp cần thiết.
Trung Quốc là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng mạnh và hàng đầu ở
Châu Á, T4/1994 Chính Phủ nước này đã chính thức công bố thực hiện chính sách
TGHĐ “thả nổi có quản lý”: tỷ giá đồng NDT được dao động trong một biên độ
hẹp và NHTW có thể điều chỉnh tỷ giá mục tiêu trên cơ sở các biện pháp kiểm
soát chặt chẽ vốn vào ra của Chính phủ. Điều này không những làm ổn định tiền tệ
mà còn tạo được lòng tin của nhõn dõn thông qua việc đưa đồng tiền đến gần giá
trị thực của nó. T12/1996, NDT được chính thức chuyển đổi trong các giao dịch
trên tài khoản vãng lai sau khi đựơc ấn định ở mức 8.27 NDT/USD( biên độ dao
động 0.125% ). Chế độ tỷ giá mới này đã biến Trung Quốc thành khu vực an toàn,
13
thu hút đầu tư rất mạnh kể cả trong thời kỳ khủng hoảng khu vực, thay thế Mỹ trở
thành nước thu hút FDI lớn nhất thế giới, dự trữ ngoại tệ chỉ xếp sau Nhật Bản.
Vai trò của đồng NDT ngày càng được củng cố và nâng cao trên khu vực và thế
giới.
Ngày 31/7/2005, Trung Quốc tuyên bố TGHĐ đồng NDT căn cứ vào
“giỏ” ngoại tệ gồm USD, Euro, yên Nhật và đồng won Hàn Quốc. NHTW Trung
Quốc mới đây đã tăng giá NDT 2% nhằm làm dịu tình trạng mất cân bằng trong
mậu dịch đối ngoại của Trung Quốc, mở rộng kích cầu trong nước cũng như nâng
cao mức cạnh tranh của doanh nghiệp trên trường quốc tế, nâng cao hiệu quả tận
dụng vốn nước ngoài…Người phát ngôn NHTW Trung Quốc cho biết: hiện nay
khâu quản lý ngoại tệ của nước này đã được nới lỏng dần dần, việc xây dựng thị
trường ngoại tệ không ngừng tăng cường, các cuộc cải cách tiền tệ đã thu được
tiến triển thực chất, kiểm soát vĩ mô thu được thành quả nổi bật, kinh tế quốc dân
tiếp tục duy trì đà tăng trưởng ồn định.Vì vậy Trung Quốc chọn thời điểm này để
thực hiện cải cách tỷ giá.
Kết luận
Khi có một thị trường hối đoái và nội tệ phát triển ở mức cao có đầy đủ
công cụ gián tiếp giúp NHTW linh hoạt trong can thiệp và trung hoà giữa các chỉ
tiêu của chính sách tiền tệ.Bản thân nền kinh tế đó cũng phải phát triển mạnh, có
dự trữ đồng tiền có sức mạnh và có khả năng chuyển đổi, ổn định tương đối, có xu
hướng tăng giá.
14
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM
1. Giai đoạn 1986 – 1996
Năm 1986 là năm có tỉ lệ lạm phát tăng cao nhất (775%) so với các năm trước
đó, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ 1981 – 1985 lần lượt tăng là: 70%, 95%, 50%,
65% và 92%. Sau đổi tiền, CPI năm 1985 tăng đến 92%, năm 1986 lên tới 775%,
nền kinh tế bước vào thời kỳ lạm phát dữ dội với tỉ lệ tăng 3 chữ số kéo dài trong
2 năm tiếp theo.
Đến cuối năm 1988 và qua năm 1989, nhiều biện pháp về tiền tệ nhằm kiểm
soát lạm phát mới được đưa ra. Một trong những quyết định quan trọng lúc đó là
việc lần đầu tiên NHNN mạnh tay nới lỏng tỷ giá VND/USD vào cuối năm 1988
và tiếp tục cơ chế linh hoạt đến năm 1991, trước khi bước vào giai đoạn đóng băng
tỷ giá từ năm 1992.
Trong giai đoạn này, tỷ giá VND/USD liên tục tăng qua các năm và đã được
điều chỉnh sát với giá thị trường, chứng tỏ rằng NHNN đã bắt đầu thả nổi tỷ giá,
mối quan hệ cung – cầu được quan tâm hơn. Tuy nhiên, với việc thả nổi tỷ giá đã
có nhiều hạn chế:
- Kích thích tâm lý nắm giữ USD để đầu cơ ăn chênh lệch giá
- Tỷ giá thường xuyên thay đổi và tình trạng thiếu ngoại tệ đã gây mất ổn
định nền kinh tế
- Nhà nước không kiểm soát được việc lưu thông tiền tệ
Do vậy, sau năm 1992 Chính phủ đã có những diều chỉnh cải cách về chính sách
tỷ giá:
- Quy định biên độ dao động của tỷ giá so với tỷ giá chính thức được công bố
hàng ngày bởi NHNN
- Buộc các đơn vị kinh tế (trước hết là các đơn vị kinh tế quốc doanh) có
ngoại tệ phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn định
- Bãi bỏ hoàn toàn hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán
ngoại thương giữa ngân sách với các đơn vị kinh tế tham gia vào hoạt động
ngoại thương.
15
Sự thay đổi này đã có tác động rất mạnh đến cán cân thương mại. Tỉ lệ
nhập siêu so với xuất khẩu đã lập tức giảm mạnh từ 47,6% trong năm 1986 xuống
gần như cân bằng vào năm 1989 và thậm chí đã có xuất siêu vào năm 1990.
Trong 2 năm 1992 và 1993 nạn đầu cơ ngoại tệ về cơ bản đã được giải tỏa,
những đồng ngoại tệ đã được hướng mạnh vào hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu. Tình hình cung – cầu ngoại tệ đã được cải thiện. NHTW còn khuyến khích
tích lũy giá trị dưới dạng nội tệ hơn là ngoại tệ, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu
hút được lượng ngoại tệ lớn lao từ kiều hối. Nhìn chung tỷ lệ lạm phát đã duy trì ở
mức độ chấp nhận được và ổn định giá trị đồng Việt Nam trong thời kì này.
Từ năm 1993 trở đi, giá USD trên thị trường quốc tế biến động mạnh trong
khi ở Việt Nam lại khá ổn định. Tuy nhiên trên thực tế, đây là giai đoạn tăng giá
mạnh của đồng Việt Nam, tỷ giá hối đoái danh nghĩa thường xuyên bị neo trong
khoảng 10.835VND/USD đến 11.060
VNĐ/USD từ năm 1993 – 1996. Hơn nữa, Việt Nam nằm trong tình trạng nhập
siêu, thâm hụt ngoại thương, nợ nước ngoài tăng, dự trữ ngoại tệ tăng chậm, nguy
cơ đỗ vỡ cán cân thanh toán quốc tế luôn rình rập, báo hiệu khủng hoảng nợ nước
ngoài… dẫn đến việc không thể thực hiện được mục tiêu cân bằng ngoại tệ. Việc
duy trì chính sách tỷ giá cố định trong 1 thời gian dài đã không kích thích được
xuất khẩu dẫn đến thương mại kém phát triển.
Như vậy từ năm 1989 nước ta bước sang giai đoạn tỷ giá thả nổi cho đến
cuối năm 1991, từ năm 1992 nước ta chuyển sang chế độ tỷ giá cố định có điều
chỉnh đã phát huy nhiều mặt tích cực góp phần ổn định nền kinh tế và chính sách
tiền tệ.
16
2. Giai đoạn 1997 – 1998
Vào nửa cuối năm 1997, khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước khu vực
Đông Nam Á bùng nổ và tăng nhanh, các nước trong khu vực hầu như đã phá giá
mạnh đồng nội tệ của mình điển hình đồng nội tệ của Indonexia đã mất giá hơn
95% dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ. Đồng VND được đánh giá cao hơn
các đồng nội tệ của các nước trong khu vực nên gây khó khăn lên ngành xuất khẩu
của Việt Nam, nhập khẩu tăng dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại. Đồng thời
nhu cầu ngoại tệ để thanh toán L/C trả chậm và trả nợ vay nước ngoài của các
ngân hàng càng làm thị trường ngoại tệ căng thẳng hơn trong khi cán cân vãng lai
đã bội chi đến mức báo động.
Đứng trước tình hình này, để tạo sự cân bằng cung – cầu trên thị trường và
giảm áp lực căng thẳng ngoại tệ, giảm tác động tiêu cực của khủng hoảng đến nền
kinh tế Việt Nam, NHTW đã điều chỉnh chính sách tỷ giá và cho phá giá đồng
VND, mở rộng biên độ giao dịch, cụ thể:
- NHNN đã ban hành Quyết định số 45/QĐ-NH7 ngày 27/2/1997 mở rộng biên
độ giao dịch từ 1%lên 5%.
- Ngày 13/10/1997, tăng biên độ dao động lên 10%.
Việc nới rộng biên độ giao dịch đã làm cho tỷ giá thị trường tăng mạnh.
Mặc dù tỷ giá tăng, nhưng giá cả trên thị trường không có những biến động đáng
kể.
Điển hình quý IV năm 1997, tỷ giá hối đoái công bố của NHNN suốt hơn 1
năm là 11.170 - 11.175 VND/USD, với biên độ được phép là 10% thì giá giao dịch
thường xuyên của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là từ 12.292 - 12.293
VNĐ/USD. Chênh lệch thấp tới khoảng 7 – 8% so với tỷ giá thực tế thị trường (tỷ
giá hối đoái thị trường đã lên tới mức trên 13.000 VNĐ/USD từ tháng 11/1997).
Đến đầu năm 1998, với mức lạm phát năm 1997 của VND là 3,7%, của
USD là 2,5%; trong lúc USD lên giá khoảng 20% thì tỷ giá giao dịch ở thị trường
17
ngoại tệ liên ngân hàng lúc đó là 13.567 VNĐ/USD. Có thể thấy rằng, NHNN
thông qua tỷ giá chính thức thấp (11.175 VNĐ/USD) và biên độ khống chế 10%
đã buộc các NHTM phải giao dịch tỷ giá ở mức tối đa (sát trần) mà vẫn thấp hơn
10% (13.567/12.293) so với mức thực tế.
Sự bất hợp lý này chỉ giải quyết bằng cách điều chỉnh tỷ giá hối đoái danh
nghĩa (mức 10% đã là quá cao). Ngày 14/2/1998 theo quyết định 37/1998/QĐ-
TTG của thủ tướng chính phủ đã chính thức điều chỉnh tăng tỷ giá hối đoái chính
thức 5,6% từ 11.175 lên 11.800VND/USD. Với quyết định này đã giúp giảm bớt
mức độ VND bị đánh giá cao trong thanh toán đối ngoại, tạo điều kiện rút ngắn
chênh lệch về tỷ giá của thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do (khoảng
cách chênh lệch giữa 2 thị trường trên chỉ còn khoảng 0,2% so với đầu năm 1998
là 7 – 8%), mức chênh lệch về lãi suất nội tệ và ngoại tệ được điều chỉnh hợp lý,
rủi ro về tỷ giá hối đoái nói chung đã thấp hơn nhiều so với các năm trước. Điều
này tạo điều kiện tốt cho kinh doanh ngân hàng, ổn định tâm lý gửi tiền, nhà đầu
tư và doanh nghiệp.
Tháng 8/1998, so với USD thì VND lên giá tuyệt đối khoảng 16%, hoạt
động kinh tế đối ngoại gặp nhiều khó khăn hơn, nhất là xuất khẩu do sự giảm giá
hàng loạt của các đồng tiền, tình hình cung cầu ngoại tệ lại căng thẳng trở lại. Vì
thế, ngày 7/8/1998, NHNN giảm biên độ giao dịch còn 7%, tỷ giá chính thức
điều chỉnh từ 11.815 lên 12.298 VND/USD, tức VND giảm giá 4,1%. Mặc dù biên
độ được điều chỉnh giảm nhưng tỷ giá chính thức tăng nên thực chất VND bị phá
giá. Tỷ giá chính thức này được ấn định trên cơ sở tỷ giá mua bán trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng nên tỷ giá này sẽ phản ánh sát hơn tương quan cung cầu
ngoại tệ trên thị trường. Quyết định này đã giúp cho thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng giao dịch sôi động hơn, nhiều doanh nghiệp, ngân hàng chủ động hơn, cân
đối nhu cầu ngoại tệ, bước đầu giải tỏa tâm lý găm giữ, đầu cơ ngoại tệ.
18
Để ngăn chặn tình trạng găm giữ, đầu cơ, đào hối ngoại tệ và tập trung
lượng ngoại tệ vào sự quản lý của nhà nước, vào ngày 12/9/1998 Chính phủ ban
hành Quyết định số 173/QĐ-TTG về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của
người cư trú là tổ chức trên cơ sở tỷ lệ kết hối bắt buộc 80% số ngoại tệ phải bán
của khách hàng trong vòng 15 ngày có nguồn thu ngoại tệ trừ tài khoản vãng lai,
quy định chặt chẽ hơn về mức và thời gian kết hối ngoại tệ tùy thuộc đối tượng
khách hàng giao dịch. Mặc dù chính sách quản lý mới này mang đậm tính chất
hành chính, nhưng cũng đem lại kết quả khả quan như: Quý IV năm 1998 doanh
số mua, bán ngoại tệ liên tục tăng từ mức thấp vài triệu USD/ngày trước đó lên
mức bình quân 35 triệu USD/ngày. Quan hệ cung - cầu ngoại tệ chính thức trên thị
trường được cải thiện đáng kể đã góp phần ổn định tốt hơn tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá giao dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được duy trì trong
biên độ quy định, khoảng cách chênh lệch về tỷ giá giữa thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng và thị trường tự do được giảm thiểu khá thấp (dưới 1%).
Việc điều chỉnh tỷ giá như trên của NHNN đã làm tăng sức cạnh tranh
thương mại, tác động tích cực đối với xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu của Việt
Nam, giảm nhập siêu trong các năm 1997 – 1998, cán cân tài khoản vãng lai và
cán cân thanh toán cũng giảm dần thâm hụt, mặc dù đầu tư nước ngoài suy giảm
mạnh trong các năm này đặc biệt trong năm 1999, lần đầu tiên cán cân thương mại
thặng dư. Bên cạnh đó cũng có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế, bởi khi
VND giảm giá đã làm tăng thêm gánh nặng nợ nước ngoài của chính phủ và các
doanh nghiệp có vốn vay nước ngoài, giảm đầu tư trực tiếp nước ngoài.
19
Sơ đồ 2.1. Tỷ giá hối đoái năm 1997
Sơ đồ 2.2. Giá trị xuất, nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1986 – 2008
Đơn vị: triệu USD
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Thực tế, sự thay đổi của tỷ giá chính thức đều có những tác động nhất định
trong đời sống kinh tế và NHNN luôn muốn điều chỉnh tỷ giá chính thức cho phù
hợp với thực tế. Điều này rất khó khăn vì không tính toán cân nhắc kỹ sẽ dẫn đến
20
những biến động bất thường trên thị trường. Nếu điều chỉnh hàng ngày sẽ gây tâm
lý bất ổn, còn nếu giữ “cứng” quá lâu khi điều chỉnh sẽ dễ gây biến động đột ngột.
Cơ chế này rõ ràng là không phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường và
thông lệ quốc tế. Bởi vậy, việc thay đổi cách xác định mức tỷ giá là cần thiết.
3. Giai đoạn 1999 – 2006
Từ đầu 1999, Đông Nam Á đã bước ra cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ,
do vậy chính sách tỷ giá của Việt Nam đã có sự thay đổi phù hợp với tình hình
kinh tế giai đoạn sau khủng hoảng trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm của các nước
trong khu vực.
Từ 26/2/1999 hình thức công bố tỷ giá trước đây được xóa bỏ. Tỷ giá hàng
ngày công bố là tỷ giá giao dịch bình quân liên Ngân hàng. NHTM được phép
giao dịch trong biên độ cho phép của NHNN (đầu tiên là , sau đó là
). Tỷ giá này được NHNN lấy bình quân giữa các Ngân hàng và cho công bố là tỷ
giá chính thức của ngày hôm sau. Tỷ giá này có căn cứ lấy ở khu vực giao dịch
chiếm 90% lượng ngoại tệ. Đây là việc chuyển từ cơ chế tỷ giá cố định sang cơ
chế tỷ giá thả nổi có điều tiết. Điều này có ý nghĩa rất to lớn vì nó chuyển từ cơ
chế tỷ giá xác định một cách chủ quan theo ý chí của NHNN sang cơ chế tỷ giá
xác định khách quan trên cơ sở cung - cầu của thị trường.
Giai đoạn này, chúng ta đã áp dụng chế độ tỷ giá bán thả nổi ngày càng
mềm dẻo, linh hoạt hơn để đối phó với những giai đoạn mất cân bằng kinh tế vĩ
mô. Việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái buộc NHNN phải dùng các công cụ để can
thiệp vào thị trường ngoại tệ chứ không còn có thể đơn giản như trước 26/2/1999.
Trong việc sử dụng công cụ thị trường mở để điều hành tỷ giá gặp nhiều khó khăn
và chưa thực sự trở thành một công cụ hữu hiệu để điều hành tỷ giá và giữ nó ổn
định. Sử dụng nghiệp vụ này để đạt hiệu quả cao thì đòi hỏi nguồn ngoại tệ phải
21
được quản lý tập trung vào một mối duy nhất là NHNN để có thể chủ động can
thiệp. Tuy nhiên tình hình dự trữ ngoại hối nước ta luôn ở mức thấp và thiếu.
Bắt đầu từ năm 2004, cơ chế điều hành tỷ giá ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi
đáng kể như: Vào tháng 5/2004, NHNN đã bãi bỏ các trần cố định về tỷ giá kỳ hạn
để thay bằng chênh lệch lãi suất. Đến tháng 7/2006, NHNN bỏ biên độ giao dịch
USD tiền mặt, cho Eximbank thí điểm cơ chế mua bán ngoại tệ mặt theo tỷ giá
thỏa thuận.
4. Diễn biến Chính sách tỷ giá ở Việt Nam trong những năm gần đây
4.1 Năm 2008:
Giai đoạn 1 (1/1/2008 – 25/3/2008): Tỷ giá VND/USD giảm
Đầu năm 2008, tỷ giá dao dộng quanh mức 16.000 – 16.200 VND/USD, đến giữa
tháng 3/2008, tỷ giá giảm xuống còn 15.400 VND/USD.Mặc dù giảm giá USD là
phù hợp trong điều kiện lạm phát trong nước và thế giới tăng cao, thế nhưng trước
tình hình này, để hệ thống ngân hàng không rơi vào tình trạng mất thanh khoản,
nhưng vẫn theo chủ trương tăng giá VND và kiềm chế lạm phát, ngày 10/3/2008,
NHNN đã quyết định nới rộng biên độ tỷ giá từ ± 0.75 % lên ± 1% Bên cạnh đó,
NHNN cũng tung ra thị trường 33.000 tỷ đồng vay ngắn hạn, gấp 1,5 lần số lượng
tiền định rút về qua tín phiếu bắt buộc, làm cho lạm phát tăng nhanh hơn ở những
tháng sau ảnh hưởng tới tỷ giá.
- Giai đoạn từ 26/03 – 16/07/2008:tỷ giá usd/vnd Tăng với tốc độ chóng mặt tạo
cơn sốt USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do.
Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép cho vay ngoại tệ đối với doanh
nghiệp xuất khẩu (theo quyết định số 09/2008/QĐ, NHNN không cho phép vay để
chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu, vay thực hiện dự án sản xuất xuất khẩu) giảm
hiện tượng doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tế bán lại trên thị trường.
Nhận thấy tình trạng sốt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử,
NHNN đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các
22
thông tin trên thị trường cho rằng USD đang trở nên khan hiếm, điều chỉnh giảm
tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tỷ giá vào cuối tháng 3/2008 là 15.960
VND/USD so với mức 16.091 VND/USD vào cùng kỳ tháng 1/2008, đồng thời
nâng biên độ giao dịch lên mức ±1%. Tỷ giá giảm một lần nữa tác động xấu
đến cán cân thương mại Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD
đã được chặn đứng.
- Giai đoạn từ 17/07 – 15/10/2008: Giảm mạnh và dần đi vào bình ổn.
Đồng thời lúc này, NHNN đã ban hành một loạt các chính sách nhằm bình
ổn thị trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ (cấm mua bán
ngoại tệ trên thị trường tự do không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD
thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất
khẩu vàng; bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn.
- Giai đoạn từ 16/10 đến hết năm 2008: tỷ giá USD tăng trở lại
Trong khoảng thời gian từ tháng 10 - tháng 11, nhà đầu tư nước ngoài đẩy
mạnh việc bán ra chứng khoán trong đó bán trái phiếu (700 triệu USD), cổ phiếu
(100 triệu USD). Nhu cầu mua ngoại tệ của khối nhà đầu tư nước ngoài tăng cao
khi muốn đảm bảo thanh khoản của tổ chức tại chính quốc. Nhu cầu mua USD của
các ngân hàng nước ngoài cũng tăng mạnh (khoảng 40 triệu USD/ngày). Cầu USD
trên thị trường tự do tăng cao bởi khi NHNN không cho phép nhập vàng thì hiện
tượng nhập lậu vàng gia tăng, làm tăng cầu USD để nhập khẩu (do USD là đồng
tiền thanh toán chính). NHNN bán hơn 1 tỷ USD cho các NHTM đáp ứng nhu cầu
nhập khẩu một số mặt hàng thiết yếu. NHNN phải ngừng chiến dịch buộc các
ngân hàng mua tín phiếu bắt buộc trong một thời gian. NHNN phải xác lập trần
huy động lãi suất tiền đồng và ngoại tệ cũng như trần qui mô tín dụng cho các
NHTM
23
4.2 Năm 2009:
Năm 2009 có thể coi là năm “tiền tệ” tại Việt Nam. Nguyên nhân của hiện
tượng này trước hết là dòng vốn nước ngoài như FDI, FII, ODA, kiều hối đều
giảm do nền kinh tế toàn cầu suy giảm vì cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Một nguyên nhân góp phần đáng kể căng thẳng USD trong giai đoạn này là tác
động tiêu cực của gói kích cầu thông qua hỗ trợ lãi suất 4% của Chính phủ. Với
chính sách này, lãi suất vay VND giảm một cách tương đối so với vay USD. Các
doanh nghiệp nhập khẩu thay vì vay USD đã tăng cường vay VND sau đó mua
USD thanh toán hàng nhập khẩu. Điều này làm tăng cầu vốn bằng VND và làm
khan hiếm USD trong nền kinh tế. Trong khi đó, nguồn cung USD từ các doanh
nghiệp xuất khẩu lại hạn chế. Do kỳ vọng USD tăng giá nên các nhà xuất khẩu
găm giữ USD trên tài khoản. Cung USD giảm, cầu USD tạo áp lực tăng tỷ giá.
Trước tình thế này, NHNN quyết định nâng biên độ giao dịch lên mức ±5%
(24/3/2009) và sau đó giảm xuống ± 3% (26/11/2009). Tỷ giá BQLNH trong suốt
9 tháng đầu năm 2009 được NHNN giữ gần như là cố định, tỷ giá BQLNH cuối
tháng 9/2009 chỉ tăng 0.08% so với cuối tháng 1/2009, trong khi đó tỷ giá trên
thị trường tự do liên tục tăng mạnh. càng về cuối năm tỷ giá càng biến động và
mất giá mạnh, thị trường ngoại hối luôn có biểu hiện căng thẳng, đồng thời USD
tín dụng thì thừa, USD thương mại thì thiếu. Các ngân hàng không có ngoại tệ để
bán cho doanh nghiệp và nếu có bán thì mức tỷ giá cũng cao hơn mức tỷ giá trần
do NHNN quy định. Những bất ổn trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã
tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đồng tiền
mất giá còn ảnh hưởng đến lạm phát trong nước do giá hàng nhập khẩu tăng mạnh.
Tuy là khan hiếm ngoại tệ nhưng NHTW vẫn không thực hiện chính sách kết hối
mà chỉ kêu gọi khuyến khích các tổ chức nắm giữ nhiều ngoại tệ bán ngoại tệ ra.
NHNN bán ngoại tệ cho các ngân hàng có trạng thái ngoại hối âm
24
Diễn biến tỷ giá USD/VNĐ 2008-2009
4.3 Năm 2010:
Năm 2010, USD lại tiếp tục căng thẳng, giá mua bán USD tại các
NHTM luôn chạm trần. Sau một thời gian dài không điều chỉnh tỷ giá
BQLNH, ngày 11/2/2010, NHNN đã bất ngờ tăng giá USD 3%. Mặc dù tăng
tỷ giá nhưng áp lực về cầu USD vẫn không giảm. Tình trạng găm giữ ngoại tệ
vẫn không suy giảm. Nhiều NHTM không cân đối được nguồn ngoại tệ đã
buộc phải thương lượng giá với bên cung rồi cộng thêm khoản phí vào giá
bán USD cho người có nhu cầu mua ngoại tệ. Tỷ giá bị chèn ép. Ngày
17.8.2010, lần thứ hai trong năm, NHNN điều chỉnh USD tăng 2,1% từ 18,544
lên 18,932, với biên độ được giữ nguyên ở mức +/-3%, áp dụng từ ngày
18/08/2010 Tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 18.544 đã tăng lên 18.932
VND/USD. Các NHTM được phép mua bán USD ở mức giá 19.500
VND/USD, tăng 400VND/USD so với ngày 17.8.2010. Việc tỷ giá được điều
chỉnh một cách bất ngờ và nhát ngừng đã thành viên thị trường thêm hoang
mang, và không làm “giảm nhiệt” thị trường ngoại tệ. Cuối năm 2010, khi các
thông tin về tình hình kinh tế vĩ mô không khả quan như gia tăng tỷ lệ lạm phát,
nợ nược ngoài, nợ công, thâm hụt ngân sách, dự trữ ngoại hối quốc gia suy
25