Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.01 KB, 62 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

TIỂU LUẬN
Môn tài chính ngân hàng và
sự phát triển kinh tế
Đề tài :
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Gi¶ng viªn híng dÉn : TS. Đặng Anh Tuấn
Nhãm thùc hiÖn : Nhóm 9
Líp : CH 19A
Hà Nội - 2011
DANH SÁCH NHÓM 9:
1. Dương Kiều Anh
2. Nguyễn Thị Kim Dung
3. Lê Thị Như Quỳnh
4. Trần Văn Đức
5. Nguyễn Thuỳ Dương
6. Yommalalachanthavong
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời từ đầu năm 2000. Tuy mới đi vào
hoạt động hơn 10 năm song thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua nhiều giai
đoạn thăng trầm của thị trường: từ giai đoạn chập chững biết đi (2000 – 2005) đến
sự phát triển đột phá của thị trường vào năm 2006 và sự bùng nổ năm 2007, tiếp đó
là sự sụt giảm của thị trường chứng khoán từ năm 2008 đến nay. Nguyên nhân của
những biến động này là do đâu? Những thành tựu đã đạt được? Có nên phát triển
tiếp thị trường chứng khoán hay không? Nếu có thì chúng ta phải thực hiện những
giải pháp nào để phát triển thị trường chứng khoán bền vững….


Như chúng ta đã biết, thị trường chứng khoán là nơi luân chuyển và phân bổ
các nguồn vốn từ khu vực có lợi nhuận thấp sang khu vực có lợi nhuận cao, tạo điều
kiện cho nguồn vốn được sử dụng một cách hiệu quả nhất. Do đó, khi vốn đã trở
thành một loại hàng hóa đặc biệt, phát triển thị trường chứng khoán là việc rất cần
thiết để phát triển thị trường hàng hóa. Hơn nữa, thị trường chứng khoán cũng có
sức hấp dẫn vốn có của nó. Nó không chỉ quan trọng đối với nền kinh tế của một
nước mà còn quan trọng đối với mỗi người bởi khả năng đầu tư sinh lợi của nó.
Như vậy, phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam là thật sự cần thiết.
Vấn đề đặt ra bây giờ là làm thế nào để thị trường chứng khoán Việt Nam có thể
phát triển một cách ổn định, bền vững. Do đó, nhóm chúng tôi chọn đề tài: “Thực
trạng và giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay” nhằm
mục đích hiểu rõ thực trạng hiện tại của thị trường chứng khoán Việt Nam và từ đó
đưa ra các giải pháp phát triển thị trường hiệu quả nhất.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, tiểu luận bao gồm các nội dung sau:
Chương I: Cơ sở lý luận về thị trường chứng khoán
Chương II: Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay
Chương III: Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay
Với kiến thức lý luận và thực tiễn còn hạn chế nên bài tiểu luận này không
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong thầy giáo cùng các bạn góp ý kiến bổ sung cho
bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
4
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
I. KHÁI QUÁT THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách rất tự phát và sơ khai,
xuất phát từ nhu cầu trao đổi mua bán các vật phẩm hàng hóa… của các thương
gia. Lúc đầu chỉ là một nhóm nhỏ, sau đó tăng dần và hình thành một khu chợ riêng.
Cuối thế kỷ XV, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành “thị trường”
với việc thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước này được sửa đổi hoàn

chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc cho mọi thành viên tham gia “thị
trường”.
Phiên chợ đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 ở Bruges (Bỉ), tại đó có một
bảng hiệu hình ba túi da với một từ tiếng Pháp là “Bourse” tức là “Mậu dịch thị
trường” hay còn gọi là “Sở giao dịch”.
Vào năm 1547, thành phố ở Bruges (Bỉ) mất đi sự phồn thịnh do eo biển
Even bị lấp cát nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và chuyển qua thị trấn
Auvers (Bỉ), ở đây thị trường phát triển rất nhanh và giữa thế kỷ XVI một quan
chức đại thần của Anh quốc đã đến quan sát và thiết lập một mậu dịch thị trường tại
London (Anh), nơi mà sau này được gọi là Sở giao dịch chứng khoán London. Các
mậu dịch thị trường khác cũng lần lượt được thành lập tại Pháp, Đức và Bắc Âu.
Sự phát triển thị trường ngày càng mạnh cả về lượng và chất với số thành
viên tham gia đông đảo và nhiều nội dung khác nhau. Vì vậy, theo tính chất tự
nhiên nó lại được phân ra thành nhiều thị trường khác nhau như: thị trường giao
dịch hàng hóa, thị trường hối đoái, thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai và
thị trường chứng khoán … với đặc tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao
dịch của người tham gia trong đó.
Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra ngoài trời với những ký
hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Cho đến năm 1921,
ở Mỹ, khu chợ ngoài trời được chuyển vào trong nhà, Sở giao dịch chứng khoán
chính thức được thành lập. Ngày nay, cùng với sự phát triển của công nghệ, khoa
học kỹ thuật, các phương thức giao dịch tại các sở giao dịch chứng khoán cũng đã
5
được cải tiến theo tốc độ và khối lượng yêu cầu nhằm đem lại hiệu quả và chất
lượng cho các giao dịch. Các Sở giao dịch dần dần sử dụng máy tính để truyền các
lệnh đặt hàng và chuyển dần từ giao dịch thủ công kết hợp với máy vi tính sang sử
dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử.
Cho đến nay, các nước trên thế giới đã có khoảng trên 160 sở giao dịch
chứng khoán phân tán trêm khắp các châu lục. Ngày nay, NYSE, AMEX,
NASDAQ và hàng trăm các thị trường chứng khoán khác đã góp phần đáng kể vào

nền kinh tế quốc gia và toàn cầu.
2. Khái niệm và vai trò của thị trường chứng khoán
Hiện nay, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về thị trường chứng khoán:
Quan điểm thứ nhất, cho rằng thị trường chứng khoán(TTCK) và thị trường
vốn là một, chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm: Thị trường tư bản.
Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất bên
trong của quá trình mua bán các chứng khoán. TTCK là biểu hiện bên ngoài, là hình
thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt, tách rời
nhau mà thống nhất phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư
bản.
Quan điểm thứ hai, của đa số các nhà kinh tế cho rằng: “Thị trường chứng
khoán được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải đồng nhất là một”. Như
vậy, theo quan điểm này, TTCK và thị trường vốn là khác nhau, trong đó TTCK chỉ
giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn như trái phiếu chính phủ,
cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn được giao dịch trên
thị trường tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của TTCK.
Quan điểm thứ ba, dựa trên những gì quan sát được tại đa số các sở giao
dịch chứng khoán lại cho rằng “Thị trường chứng khoán là thị trường cổ phiếu”,
hay là nơi mua bán các cổ phần được các công ty phát hành ra để huy động vốn.
Theo quan điểm này, thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường mua
bán các công cụ tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu.
Các quan điểm trên đều được khái quát trên những cơ sở thực tiễn và trong
điều kiện lịch sử nhất định.
6
Tuy nhiên, quan điểm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung
của TTCK hiện nay, được trình bày trong giáo trình là:
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các
loại chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay là bút toán
ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức
phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại

chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng.
Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ
cấp hay thị trường thứ cấp, tại sở giao dịch hay thị trường chứng khoán phi tập
trung, ở thị trường giao ngay hay thị trường có kỳ hạn. Các quan hệ trao đổi này
làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy, thực chất đây là quá trình
vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hoá khác vì
hàng hoá của thị trường chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu
về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy có thể nói,
bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung
và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi
phí vốn hay giá của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc
cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Vai trò của thị trường chứng khoán
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực với sự ra đời của tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), của liên minh Châu Âu, của các khối thị trường
chung, đòi hỏi các quốc gia phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả
cao. Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò
quan trọng của thị trường chứng khoán trong phát triển kinh tế:
Thứ nhất, thị trường chứng khoán, với việc tạo ra các công cụ tài chính có
tính thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn
của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.
Yếu tố thông tin và yếu tố cạnh tranh trên thị trường sẽ đảm bảo cho việc
phân phối vốn một cách có hiệu quả. Thị trường tài chính là nơi tiên phong áp dụng
công nghệ mới và nhạy cảm với môi trường thường xuyên thay đổi. Thực tế trên thị
7
trường chứng khoán, tất cả các thông tin được cập nhật và được chuyển tải tởi tất
cả các nhà đầu tư, nhờ đó, họ có thể phân tích và định giá cho các chứng khoán. Chỉ
những công ty có hiệu quả và bền vững mới có thể nhận được vốn với chi phí rẻ
trên thị trường.

Thị trường chứng khoán tạo ra một sự cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường
tài chính, điều này buộc các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính phải
quan tâm tới hoạt động của chính họ và làm giảm chi phí tài chính.
Việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán có thể làm tăng vốn tự có
của các công ty và giúp họ tránh các khoản vay có chi phí cao cũng như sự kiểm
soát chặt chẽ của các ngân hàng thương mại. TTCK khuyến khích sự cạnh tranh
của các công ty trên thị trường. Sự tồn tại của thị trường chứng khoán cũng là yếu
tố quyết định để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây chính là các yếu tố đảm bảo
cho sự phân bố có hiệu quả các nguồn lực trong một quốc gia cũng như trong phạm
vi quốc tế.
Thứ hai, TTCK góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua
việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng, giải toả
sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn, song vẫn tập trung vốn cho phát
triển kinh tế. Việc tăng cường tầng lớp trung lưu trong xã hội, tăng cường sự giám
sát của xã hội đối với quá trình phân phối đã giúp nhiều nước tiến xa hơn tới một xã
hội công bằng và dân chủ. Việc giải toả tập trung quyền lực kinh tế cũng tạo điều
kiện cạnh tranh công bằng hơn, qua đó tạo hiệu quả và tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu
và quản lý doanh nghiệp. Khi quy mô của doanh nghiệp tăng lên, môi trường kinh
doanh trở lên phức tạp hơn, nhu cầu về quản lý chuyên trách cũng tăng theo. Thị
trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tiết kiệm vốn và chất xám, tạo điều kiện
thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Cơ chế thông tin hoàn hảo
tạo khả năng giám sát chặt chẽ của thị trường chứng khoán đã làm tác động của các
tiêu cực trong quản lý, tạo điều kiện kết hợp hài hoà giữa lợi ích của chủ sở hữu,
nhà quản lý và những người làm công.
Thứ tư, hiệu quả của quốc tế hoá thị trường chứng khoán. Việc mở cửa của
thị trường chứng khoán làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
8
Điều này cho phép các các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường
đầu tư nguồn tiết kiệm bên ngoài, đồng tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và

mở rộng các cơ hội kinh doanh của các công ty trong nước.
Hàn Quốc, Singapore, Thailand, Malaysia là những minh chứng điển hình
về việc tận dụng các cơ hội do thị trường chứng khoán mang lại. Tuy nhiên, chúng
ta cũng phải xem xét các tác động tiêu cực có thể xảy ra như việc tăng cung tiền quá
mức, áp lực của lạm phát, vấn đề chảy máu vốn, hoặc sự thâu tóm của người nước
ngoài trên thị trường chứng khoán.
Thứ năm, thị trường chứng khoán tạo cơ hội cho chính phủ huy động các
nguồn tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho
việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ.
Thứ sáu, thị trường chứng khoán cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu
kỳ kinh doanh trong tương lai. Việc thay đổi giá chứng khoán có xu hướng đi trước
chu kỳ kinh doanh cho phép chính phủ cũng như các công ty đánh giá kế hoạch đầu
tư cũng như việc phân bổ các nguồn lực của họ. Thị trường chứng khoán cũng tạo
điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế.
Ngoài những tác động tích cực trên đây, thị trường chứng khoán cũng có
những tác động tiêu cực nhất định. Thị trường chứng khoán hoạt động trên cơ sở
thông tin hoàn hảo. Song ở các thị trường mới nổi, thông tin được chuyển đổi tới
các nhà đầu tư không đầy đủ và không giống nhau. Việc quyết định giá cả, mua
bán chứng khoán của các nhà đầu tư không dựa trên cơ sở thông tin và xử lý thông
tin. Như vậy giá cả chứng khoán không phản ánh giá trị kinh tế cơ bản của công ty
và không trở thành cơ sở để phân phối một cách có hiệu quả các nguồn lực .
Như vậy, vai trò của thị trường chứng khoán thể hiện trên nhiều khía cạnh
khác nhau. Song vai trò tích cực hay tiêu cực của thị trường chứng khoán có thực sự
phát huy hay hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia thị trường và sự
quản lý của nhà nước.
3. Nguyên tắc hoạt động
Nguyên tắc công khai
Chứng khoán là các hàng hóa trừu tượng, người đầu tư không thể kiểm tra
trực tiếp được các chứng khoán như các hàng hóa thông thường mà phải dựa trên cơ
9

sở các thông tin liên quan. Vì vậy, TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống
công bố thông tin tốt. Theo luật định, các bên phát hành chứng khoán có nghĩa vụ
cung cấp đầy đủ, trung thực và kịp thời những thông tin có liên quan đến tổ chức
phát hành, tới đợt phát hành. Công bố thông tin được tiến hành khi phát hành lần
đầu cũng như theo các chế độ thường xuyên và đột xuất, thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng, sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên
quan khác.
Việc công khai thông tin về TTCK phải thỏa mãn các yêu cầu:
Chính xác: Các thông tin công khai nhưng không xác thực hoặc không tin
cậy có thể dẫn tới những quyết định đầu tư sai lầm của các nhà đầu tư, ảnh hưởng
tới quyền lợi của nhà đầu tư, vi phạm nguyên tắc công bằng trên TTCK. Do đó, đòi
hỏi thông tin phải chính xác.
Kịp thời: Nếu thông tin công khai nhưng không kịp thời, chậm trễ, lạc hậu
thì sẽ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư.
Dễ tiếp cận: Thông tin TTCK phải dễ dàng tiếp cận đối với các nhà đầu tư.
Vì vậy, TTCK đã sử dụng nhiều loại phương tiện để công khai thông tin như báo
chí, phát thanh, truyền hình, các cơ quan thông tin, mạng lưới thông tin của Sở giao
dịch chứng khoán …
Nguyên tắc trung gian
Theo nguyên tắc này, trên TTCK các giao dịch được thực hiện thông qua tổ
chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư
thường không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát
hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh các
công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp khách hàng, hoặc kết nối các
khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài
khoản của mình.
Nguyên tắc đấu giá
Mọi việc mua bán chứng khoán trên TTCK đều hoạt động trên nguyên tắc
đấu giá. Nguyên tắc này dựa trên mối quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định.
Căn cứ vào hình thức đấu giá, có các loại đấu giá:

10
- Đấu giá trực tiếp: Các nhà môi giới chứng khoán trực tiếp gặp nhau thông
qua người trung gian (một chuyên gia chứng khoán) tại quầy giao dịch để thương
lượng.
- Đấu giá gián tiếp: Các nhà môi giới thương lượng giá qua điện thoại, mạng
máy tính.
- Đấu giá tự động: là hình thức đấu giá qua hệ thống máy tính nối giữa máy
chủ của sở giao dịch với hệ thống máy của công ty chứng khoán thành viên. Các
lệnh mua, bán được truyền đến máy chủ, máy chủ tự động khớp các lệnh mua – bán
có giá phù hợp và thông báo kết quả cho những công ty chứng khoán có các lệnh
đặt hàng được thực hiện.
Căn cứ vào phương thức đấu giá, có đấu giá định kỳ và đấu giá liên tục:
- Đấu giá định kỳ: là hệ thống trong đó các giao dịch chứng khoán được tiến
hành tại một mức giá duy nhất bằng cách tập hợp tất cả các đơn đặt hàng mua và
bán trong một khoảng thời gian nhất định.
- Đấu giá liên tục: là hệ thống trong đó việc mua bán chứng khoán được tiến
hành liên tục bằng cách phối hợp các đơn đặt hàng của khách hàng ngay khi có các
đơn đặt hàng có thể phối hợp được.
Khi thực hiện nguyên tắc đấu giá bao giờ cũng phải tuân thủ theo các thứ tự
ưu tiên về giá (giá đặt mua cao nhất và giá chào bán thấp nhất), về thời gian, về
khách hàng (ưu tiên các nhà đầu tư cá nhân trước), về quy mô lệnh (cùng một mức
giá, ưu tiên các lệnh có khối lượng lớn hơn).
4. Các chủ thể tham gia thị trường
Các cá nhân và tổ chức tham gia TTCK có thể được chia thành 3 nhóm sau:
nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán.
Nhà phát hành:
Chủ thể phát hành là người cung cấp các chưng khoán- hàng hóa của thị
trường chứng khoán. Các chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các doanh nghiệp
và một số tổ chức khác như: Quỹ đầu tư, tổ chức tài chính trung gian
- Chính phủ và chính quyền địa phương là chủ thể phát hành các chứng

khoán: Trái phiếu Chính phủ; Trái phiếu địa phương; trái phiếu công trình; tín phiếu
kho bạc.
11
- Công ty là chủ thể phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
Các tổ chức tài chính là chủ thể phát hành các công cụ tài chính như các trái
phiếu, chứng chỉ hưởng thụ phục vụ cho mục tiêu huy động vốn và phù hợp với
đặc thù hoạt động của họ theo luật định.
Nhà đầu tư
Chủ thể đầu tư là những người có tiền, thực hiện việc mua và bán chứng
khoán trên thị trường chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận. Nhà đầu tư có thể được
chia thành hai loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Các nhà đầu tư cá nhân
Nhà đầu tư cá nhân là các cá nhân và hộ gia đình, những người có vốn nhàn
rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm
lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, kỳ vọng lợi
nhuận càng cao thì mức độ chấp nhận rủi ro phải càng lớn và ngược lại. Chính vì
vậy các nhà đầu tư cá nhân luôn phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với
khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mình.
- Các nhà đầu tư có tổ chức
Nhà đầu tư có tổ chức là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng
khoán với số lượng lớn trên thị trường. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên
thị trường chứng khoán là các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty
đầu tư, các công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo
hiểm xã hội khác. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm là đa dạng hoá
danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có
chuyên môn và có kinh nghiệm
Các tổ chức kinh doanh trên TTCK
a. Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng
khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là bảo lãnh

phát hành, môi giới, tự doanh, quản lý quỹ đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán. Để
có thể thực hiện mỗi nghiệp vụ, các công ty chứng khoán phải đảm bảo được một số
vốn nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền.
12
b. Các ngân hàng thương mại
Tại một số nước, các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn tự có để tăng
và đa dạng hóa lợi nhuận thông qua đầu tư vào các chứng khoán. Tuy nhiên các
ngân hàng chỉ được đầu tư vào chứng khoán trong những giới hạn nhất định để bảo
vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán. Một số nước cho phép
ngân hàng thương mại thành lập công ty con độc lập kinh doanh chứng khoán và
thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
Các tổ chức có liên quan đến TTCK
a. Cơ quan quản lý nhà nước:
Cơ quan quản lý, giám sát TTCK được hình thành dưới nhiều mô hình hoạt
động khác nhau, có nước do các tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ quan này
trực thuộc chính phủ, nhưng có nước lại có sự kết hợp quản lý giữa các tổ chức tự
quản và nhà nước. Nhưng nhìn chung cơ quan quản lý này do chính phủ của các
nước thành lập, nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và bảo đảm cho
TTCK hoạt động lành mạnh, suôn sẻ và phát triển vững chắc. Cơ quan này có thể
có những tên gọi khác nhau, tùy thuộc từng nhà nước và nó được thành lập để thực
hiện chức năng quản lý nhà nước đối với TTCK.
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là một cơ quan thuộc chính phủ thực hiện
chức năng quản lý nhà nước đối với TTCK ở Việt Nam. Ủy ban Chứng khoán nhà
nước được thành lập theo Nghị định số 75/CP ngày 28/11/1996.
b. Sở giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành thị trường thông qua bộ máy
tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động trên sở giao dịch.
Ngoài ra, sở giao dịch cũng ban hành những quy định điều chỉnh các hoạt động giao
dịch chứng khoán trên sở, phù hợp với các quy định của luật pháp và ủy ban chứng
khoán.

c. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Hiệp hội kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các công ty chứng khoán và
một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với
mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành
chứng khoán nói chung.
13
d. Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
Là tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh
toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán.
e. Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
Là tổ chức phụ trợ, phục vụ cho các giao dịch chứng khoán. Công ty này
cung cấp hệ thống máy tính với các chương trình để thông qua đó có thể thực hiện
được các giao dịch một cách chính xác, nhanh chóng. Thông thường, công ty dịch
vụ máy tính ra đời khi TTCK đã phát triển đến một trình độ nhất định, bắt đầu đi
vào tự động hóa các giao dịch.
f. Các tổ chức tài trợ chứng khoán
Là tổ chức được thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng và tăng
trưởng của TTCK thông qua các hoạt động cho vay tiền để mua cổ phiếu, và cho
vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng. Một số nước không có loại
hình tổ chức này.
g. Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
Là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản
vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát
hành đối với một đợt phát hành cụ thể. Các mức hệ số tín nhiệm vì thế thường được
gắn cho một đợt phát hành, chứ không phải gắn cho công ty, vì thế, một công ty
phát hành có thể mang nhiều mức hệ số tín nhiệm cho các phát hành nợ của nó.
Các nhà đầu tư có thể dựa vào các hệ số tín nhiệm do các công ty đánh giá hệ
số tín nhiệm cung cấp để cân nhắc đưa ra quyết định đầu tư của mình.
5. Cấu trúc và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán
Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn TTCK được chia thành thị

trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
a. Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các loại chứng khoán mới phát
hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành
thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
Vai trò của thị trường sơ cấp:
- Chứng khoán hóa nguồn vốn cần huy động, vốn của công ty được huy động
qua việc phát hành chứng khoán
14
- Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính, trực tiếp đưa các khoản tiền nhàn
rỗi tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền sang dạng vốn dài hạn.
Đặc điểm của thị trường sơ cấp:
- Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà chứng khoán đem lại vốn cho người
phát hành.
- Những người bán trên thị trường sơ cấp được xác định thường là kho bạc,
ngân hàng nhà nước, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành …
- Giá chứng khoán trên thị trường sơ cấp do tổ chức phát hành quyết định và
thường được in ngay trên chứng khoán.
b. Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã phát hành trên thị
trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán
đã phát hành.
Đặc điểm của thị trường thứ cấp:
- Trên thị trường thứ cấp các khoản thu được từ việc bán chứng khoán thuộc
về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về nhà phát
hành.
- Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá
chứng khoán trên thị trường thứ cấp do cung và cầu quyết định.
- Thị trường thứ cấp là thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể
mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường thứ cấp.
Căn cứ vào phương thức hoạt động của TTCK, TTCK được phân thành thị
trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) và phi tập trung (thị trường OTC).

Cũng có thể phân loại TTCK theo tính tập trung của thị trường (tính chất tập
trung ở đây là muốn nói đến việc các giao dịch được tổ chức tập trung theo một địa
điểm vật chất). Khi đó, TTCK bao gồm Sở giao dịch chứng khoán (thị trường tập
trung) và thị trường OTC (thị trường phi tập trung). Tại sở giao dịch chứng khoán
các giao dịch tập trung tại một địa điểm; các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và
tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch. Trên thị trường
OTC, các giao dịch (cả sơ cấp lẫn thứ cấp) được tiến hành qua mạng các công ty
chứng khoán phân tán trên khắp quốc gia được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá
cả trên thị trường này được hình thành theo phương thức thỏa thuận.
15
Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường, TTCK được phân thành các thị
trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng
khoán phái sinh.
Thị trường cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu,
bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã
được phát hành, các trái phiếu này bao gồm trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và
trái phiếu chính phủ.
Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường phát hành và
mua đi bán lại các chứng khoán phái sinh được phát hành. Đây là loại thị trường
cao cấp chuyên giao dịch những công cụ tài chính cao cấp, do đó thị trường này chỉ
xuất hiện ở những nước có TTCK phát triển mạnh. Các chứng khoán phái sinh như:
quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn…
6. Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán:
Tại mỗi nước, việc điều hành và giám sát TTCK được tổ chức ở nhiều cấp độ
khác nhau. Nhìn chung các tổ chức tham gia quản lý và giám sát TTCK gồm 2
nhóm: Các cơ quan quản lý của chính phủ và các tổ chức tự quản.
Cơ quan quản lý của chính phủ
Đây là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động của
TTCK. Nhìn chung các cơ quan này chỉ thực hiện các chức năng quản lý chung chứ

không trực tiếp điều hành và giám sát thị trường. Các cơ quan này có thẩm quyền
ban hành các quy định điều chỉnh các hoạt động trên TTCK tạo nên cơ sở cho các tổ
chức tự quản trực tiếp thực hiện chức năng điều hành và giám sát thị trường của
mình. Các cơ quan quản lý của chính phát phủ gồm có Ủy ban chứng khoán nhà
nước và một số bộ, ngành có liên quan như bộ tài chính, bộ tư pháp, ngân hàng nhà
nước…
Các tổ chức tự quản
Là các tổ chức hình thành cùng với sự phát triển của TTCK, thực hiện chức
năng điều hành và giám sát thị trường nhằm bảo vệ lợi ích chung của toàn thị
trường. Các tổ chức tự quản bao gồm: Sở giao dịch và hiệp hội các nhà kinh doanh
chứng khoán.
16
Các tổ chức tự quản thực hiện việc quản lý và giám sát thị trường trên cơ sở
tuân thủ các quy định của các cơ quan quản lý của chính phủ. Hoạt động điều hành
và giám sát thị trường của các tổ chức này bao gồm 3 bộ phận: Quản lý giám sát các
hoạt động giao dịch (bao gồm cả việc phát hành), quản lý và giám sát công ty chứng
khoán, giải quyết các tranh chấp và xử lý các trường hợp vi phạm.
II. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHỨNG KHOÁN
1. Chứng khoán và việc phát hành chứng khoán
1.1 Khái niệm và đặc điểm của chứng khoán
Chứng khoán là những giấy tờ có giá và có khả năng chuyển nhượng, xác
định số vốn đầu tư( tư bản đầu tư); chứng khoán có xác nhận quyền sở hữu hoặc
quyền đòi nợ hợp pháp, bao gồm các điều kiện về thu nhập và tài sản trong một
thời hạn nào đó.
Thuật ngữ “giấy tờ có giá” có nghĩa rộng hơn là thuật ngữ là chứng khoán.
Chứng khoán là một tài sản tài chính có các đặc điểm cơ bản sau:
Tính thanh khoản( tính lỏng): Tính lỏng của tài sản là khả năng chuyển tài
sản đó thành tiền mặt. Khả năng này cao hay thấp phụ thuộc vào khoảng thời gian
và chi phí cần thiết cho việc chuyển đổi và rủi ro của việc sút giá trị của tài sản đó
do việc chuyển đổi. Chứng khoán có tính lỏng cao hơn so với các tài sản khác

Tính rủi ro: Chứng khoán là tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu tác động
lớn của rủi ro, bao gồm rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ thống. Rủi ro có hệ
thống hay là rủi ro thị trường là loại rủi ro tác động tới toàn bộ hoặc hầu hết các tài
sản. Loại rủi ro này chịu tác động của các điều kiện kinh tế chung như: lạm phát, sự
thay đổi tỷ giá hối đoái, lãi suất Rủi ro không có hệ thống là loại rủi ro chỉ tác
động đến một tài sản hay một nhóm nhỏ các tài sản. Loại rủi ro này thường liên
quan tới điều kiện của nhà phát hành.
Tính sinh lợi: Chứng khoán là một tài sản tài chính mà khi sở hữu nó, nhà
đầu tư muốn nhận được một thu nhập lớn hơn trong tương lai. Thu nhập này được
bảo đảm bằng lợi tức được phân chia hàng năm và việc tăng giá chứng khoán trên
thị trường. Khả năng sinh lợi bao giờ cũng quan hệ chặt chẽ với rủi ro của tài sản,
thể hiện nguyên lý – mức độ chấp nhận rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng
lớn.
17
Hình thức của chứng khoán. Hình thức của chứng khoán có thu nhập ( cố
định hoặc biến đổi) thường bao gồm phần bìa và phần bên trong. Ngoài bìa ghi rõ
quyền đòi nợ hoặc quyền tham gia góp vốn. Số tiền ghi trên chứng khoán được gọi
là mệnh giá của chứng khoán. Đối với giấy tờ có giá với lãi suất cố định bên trong
có phiếu ghi lợi tức (Coupon) – ghi rõ lãi suất hoặc lợi tức sẽ được hưởng.
1.2. Phát hành chứng khoán
a-Các chủ thể phát hành
Thứ nhất là Chính phủ.
Mục đích phát hành của chính phủ là bù đắp sự thiếu hụt của ngân sách và
huy động vốn để tài trợ cho các công trình, dự án lớn và quan trọng. Chính phủ phát
hành các loại chứng khoán bao gồm: Trái phiếu Chính phủ, Trái phiếu công trình và
Tín phiếu kho bạc.
Thứ hai là các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp phát hành ra chứng khoán để huy động vốn và tăng vốn
cho sản xuất kinh doanh bên cạnh nguồn vốn đi vay từ các ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường chỉ có các công ty cổ phần và doanh nghiệp cổ phần

hoá là tổ chức được phép phát hành cả trái phiếu và cổ phiếu.
Thứ ba là các quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, được hình thành bằng
vốn góp của các nhà đầu để tiến hành đầu tư vào chứng khoán và các loại hình đầu
tư khác. Mục đích của thành lập quỹ đầu tư là tập hợp và thu hút những nhà đầu tư
nhỏ, lẻ tham gia kinh doanh.
b- Các phương thức phát hành chứng khoán
Thứ nhất: Phân loại theo đợt phát hành
Theo tiêu thức này, người ta phân chia phương thức phát hành thành phát
hành chứng khoán lần đầu và phát hành các đợt tiếp theo.
Thứ hai: Phân loại theo đối tượng mua bán chứng khoán
Theo đối tượng mua bán chứng khoán, phương thức phát hành được phân
chia thành:
18
Phát hành riêng lẻ: là việc phát hành trong đó chứng khoán được bán trong
phạm vi một số người nhất định (thông thường là nhà đầu tư có tổ chức), với những
điều kiện hạn chế và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định.
Phát hành ra công chúng: là hình thức phát hành trong đó chứng khoán được
phát hành rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn các nhà đầu tư nhất định,
trong đó phải đảm bảo một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ. Ngoài ra tổng khối lượng
phát hành chứng khoán cũng phải đạt một tỷ lệ theo quy định.
Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải được cơ quan quản lý nhà
nước về chứng khoán cấp giấy phép hoặc chấp thuận. Sau khi phát hành trên thị
trường sơ cấp, chứng khoán sẽ được giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán khi đã
đáp ứng được các quy định về niêm yết chứng khoán của sở giao dịch chứng
khoán. Tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng phải thực hiện một chế độ
báo cáo, công bố thông tin công khai và chịu sự quản lý, giám sát riêng theo quy
định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Việc phát hành ra công chúng được phân biệt thành hai hình thức: phát hành
cổ phiếu ra công chúng và phát hành trái phiếu ra công chúng.

- Trường hợp phát hành cổ phiếu ra công chúng, việc phát hành được tiến
hành theo một trong hai phương thức sau:
+ Phát hành lầnđầu ra công chúng (IPO): là việc phát hành trong đó cổ
phiếu của công ty lần đầu tiên được bán rộng rãi cho các công chúng đầu tư. Nếu
cổ phần được bán lần đầu cho công chúng nhằm tăng vốn thì đó là IPO sơ cấp, còn
khi cổ phần được bán lần đầu từ số cổ phần hiện hữu thì đó là IPO thứ cấp.
+ Chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp): là đợt phát hành cổ phiếu bổ sung
của công ty cho rộng rãi các công chúng đầu tư.
Trường hợp phát hành trái phiếu ra công chúng, việc phát hành được thực
hiện bằng phương thức duy nhất, đó là chào bán sơ cấp.
1.3 Cách thức đầu tư chứng khoán
Nhà đầu tư có thể tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán trên hai thị
trường thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp: Nhà đầu tư tham gia đấu giá cổ phần
tại các trung tâm giao dịch chứng khoán, hoặc công ty chứng khoán làm đại lý
nhận lệnh (thường là công ty làm tư vấn phát hành cho công ty cổ phần). Thị trường
19
thứ cấp: Nhà đầu tư không đến trực tiếp các trung tâm giao dịch mà mở tài khoản
tại các công ty chứng khoán để thực hiện giao dịch theo nguyên tắc trung gian đối
với chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch. Còn đối với các chứng khoán chưa
niêm yết hoặc chưa đăng ký giao dịch thì không cần điều kiện này.
1.3.1. Thị trường sơ cấp
a- Đầu tư thông qua đấu giá cổ phần
Khi tham gia đấu giá nhà đầu tư thực hiện thông qua các bước sau:
Bước 1: Nhà đầu tư tìm kiếm thông tin về đợt đấu giá: công bố trên các
website: www.ssc.gov.vn, www.hastc.org.vn, www.vafi.org.vn, ;Bao gồm bản
công bố thông tin: tóm tắt tình hình hoạt động của doanh nghiệp, và bản quy chế
đấu giá: Quy định về thời gian đăng ký nộp tiền đặt cọc, và thời gian bỏ giá.
Bước 2: Nhà đầu tư đến địa điểm tổ chức đấu giá: nộp tiền đặt cọc, được
nhận về phiếu đấu giá.
Bước 3: Đến buổi đấu giá nhà đầu tư bỏ phiếu đấu giá vào hòm. Sau đó tổ

chức đấu giá sẽ đóng hòm và mở phiếu tham dự đấu giá, nhập từng lệnh của nhà
đầu tư (theo mã số) trên bảng điện tử. Giá đấu sẽ được tính từ cao xuống thấp.
Bước 4: Nhà đầu tư nếu chúng sẽ nộp phần tiền còn lại. Nếu không chúng sẽ
nhận tiền đặt cọc về. Bốn bước trên được tóm tắt trên hình sau:
Các bước đầu tư thông qua đấu giá cổ phiếu
(Đấu giá không thành công) (Đấu giá thành công)
b- Đầu tư thông qua đấu thầu trái phiếu
Khi tham gia đấu thầu nhà đầu tư thực hiện thông qua các bước sau:
20
Tìm hiểu thông tin về đợt đấu giá
đăng ký đấu giá
Tham gia đấu giá
Nhận tiền đặt cọc Nộp phần tiền còn lại
Bước 1: Tìm hiểu thông tin về đợt đấu thầu trái phiếu trên các trang website:
www.sse.gov.vn, www.hastc.org.vn, www.vse.org.vn,
Bước 2: Nộp tiền đặt cọc và nhận phiếu đấu thầu
Bước 3: Tham dự đấu thầu và bỏ thầu. Lãi suất bỏ thầu thấp sẽ trúng giá, bỏ lãi suất
cao sẽ không trúng giá. Các bước tham dự đấu thầu được thể hiện thông qua hình
sau:
1.3.2. Thị trường thứ cấp
a-Đầu tư thông qua thị trường niêm yết và đăng ký giao dịch
Đầu tư trên thị trường niêm yết (trung tâm GDCK HCM) và đăng ký giao
dịch (trung tâm GDCK HN) được thể hiện qua minh hoạ và các bước sau:
Các bước tham gia đầu tư trên thị trường niêm yết và đăng ký giao dịch
Bước 1: Các nhà đầu tư muốn mua bán chứng khoán trên hai trung tâm này phải
tuân thủ theo nguyên tắc trung gian: Tức là phải tiến hành mở tài khoản tại các công
ty chứng khoán là thành viên của trung tâm giao dịch, thông thường tất cả 14 công
ty chứng khoán hiện đang hoạt động trên thị trường đều là thành viên của hai trung
tâm giao dịch.
Bước 2: Nghiên cứu hồ sơ các công ty có trên thị trường để đầu tư: Có thể qua các

bản tin chứng khoán hàng ngày, qua hồ sơ lưu trữ tại các công ty chứng khoán, hoặc
qua các trang thông tin mạng: www.vietstock.com.vn, www.vse.org.vn,
www.hastc.org.vn, Và các trang website của quỹ đầu tư nước ngoài:
www.mekongcapital.com.vn, www.vinafund.com, Hoặc các trang website của
công ty niêm yết, hoặc đăng ký giao dịch.
21
Mở tài khoản tại các công ty CK
Nghjên cứu hồ sơ các công ty trên thị
trường
Có thể tham khảo ý kiến tư vấn
Đặt lệnh mua, bán
Bước 3: Tham khảo ý kiến tư vấn của các công ty chứng khoán, trong trường hợp
này nhà đầu tư phải trả phí tư vấn, Công ty chứng khoán, Ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn miễn khoản phí tư vấn này cho các nhà đầu tư khi giao dịch
tại công ty
Bước 4: Đặt lệnh mua, bán. Sau khi lệnh được đặt sẽ được đưa vào để chờ khớp.
Nếu lệnh khớp được thì sau thời gian quy định nhà đầu tư sẽ có chứng khoán mua,
hoặc tiền do bán chứng khoán.
b-Đầu tư cổ phiếu ngoài sàn (OTC)
Cách thức tham gia đầu tư: Có thể mua trực tiếp giữa các nhà đầu tư, hoặc
qua các nhân viên môi giới. Các môi giới để đảm bảo, thường bắt nhà đầu tư muốn
mua, hoặc bán phải đặt cọc, rồi sau đó các môi giới sẽ đi tìm người mua bán khác,
hoặc thông qua các môi giới khác, và hưởng chênh lệch giá ở giữa.
2. Niêm yết chứng khoán
* Khái niệm: Niêm yết chứng khoán là quá trình định danh các chứng khoán
đáp ứng đủ tiêu chuẩn được giao dịch trên SGDCK. Cụ thể, đây là quá trình
SGDCK chấp thuận cho công ty phát hành có chứng khoán được phép niêm yết và
giao dịch trên SGDCK nếu công ty đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về định lượng
cũng như định tính mà SGDCK đề ra.
* Mục tiêu của việc niêm yết

-Thiết lập quan hệ hợp đồng giữa SGDCK với tổ chức phát hành có chứng
khoán niêm yết, từ đó quy định trách nhiệm và nghĩa vụ của tổ chức phát hành
trong việc công bố thông tin, đảm bảo tính trung thực, công khai và công bằng.
- Nhằm mục đích hỗ trợ thị trường hoạt động ổn định, xây dựng lòng tin
của công chúng đối với thị trường chứng khoán bằng cách lựa chọn các chứng
khoán có chất lượng cao để giao dịch.
- Cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin về các tổ chức phát hành.
- Giúp cho việc xác định giá chứng khoán được công bằng trên thị trường
đấu giá vì thông qua việc niêm yết công khai, giá chứng khoán được hình thành dựa
trên sự tiếp xúc hiệu quả giữa cung và cầu chứng khoán.
* Vai trò của việc niêm yết chứng khoán đối với tổ chức phát hành
- Thuận lợi:
22
+ Công ty dễ dàng trong việc huy động vốn: Niêm yết nhằm mục đích huy
động vốn thông qua việc phát hành chứng khoán. Công ty có thể thu hút vốn dài
hạn thông qua phát hành chứng khoán với chi phí thấp.
+ Tác động đến công chúng: Niêm yết góp phần “tô đẹp” thêm hình ảnh
của công ty trong các nhà đầu tư, các chủ nợ, người cung ứng,
+ Nâng cao tính thanh khoản cho các chứng khoán: Khi các chứng khoán
được niêm yết, chúng có thể nâng cao tính thanh khoản, mở rộng phạm vi chấp
nhận làm vật thế chấp và dễ dàng được sử dụng cho mục đích tài chính, thừa kế và
các mục đích khác.
+ Ưu đãi về thuế
- Hạn chế:
+ Nghĩa vụ báo cáo như là một công ty đại chúng: Công ty niêm yết phải có
nghĩa vụ công bố thông tin một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời liên quan đến các
mặt hoạt động của công ty cũng như các biến động có ảnh hưởng đến giá cả chứng
khoán niêm yết. Nghĩa vụ công bố thông tin đại chúng trong một số trường hợp làm
ảnh hưởng đến bí quyết, bí mật kinh doanh và gây phiền hà cho công ty.
+ Những cản trở trong thâu tóm và sáp nhập:

Niêm yết chứng khoán bộc lộ nguồn vốn và phân chia quyền biểu quyết của
công ty cho những người mua là những người có thể gây bất tiện cho những cổ
đông chủ chốt và công việc quản lý điều hành hiện tại của công ty. Công ty có thể
gặp nhiều cản trở trong việc thực hiện mục tiêu thâu tóm hay sáp nhập của mình.
23
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM HIỆN NAY
I. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM.
1. Lịch sử ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một
nước công nghiệp phát triển đũi hỏi trong nước phải có một nguồn vốn lớn để đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế. Vỡ vậy, Việt Nam cần phải cú chớnh
sỏch huy động tối đa mọi nguồn lực tài chính trong và ngoài nước để chuyển các
nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế thành nguồn vốn đầu tư và thị trường chứng
khoán tất yếu sẽ ra đời vỡ nú giữ vai trũ quan trọng đối với việc huy động vốn trung
và dài hạn cho hoạt động kinh tế.
Nhận thức rừ việc xây dựng thị trường chứng khoán là một nhiệm vụ chiến
lược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tiến trỡnh xõy dựng và phỏt triển đất
nước, trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, phù hợp với các điều kiện kinh tế
– chính trị và xó hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở tham
khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình thị trường chứng khoán trên thế giới,
thị trường chứng khoán Việt Nam đó ra đời.
Quá trình hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam
* Trước năm 1975:
7/1963 Giáo sư Vũ Quốc Hùng, Trưởng khoa Luật Viện Đại Học Sài Gòn đó
soạn thảo văn bản trình về vấn đề thiết lập TTCK tại Sài Gòn
16/02/1973 Thủ Tướng Chính Phủ Sài Gũn đó ký sắc lệnh số 027SL/Th/PC2
về thị trường chứng khoán và các qui định có liên quan đến nghành môi giới kinh
doanh chứng khoán. Theo sắc lệnh, một uỷ ban chứng khoán Quốc gia sẽ được
thành lập

Đến tháng 2 năm 1974, các ý tưởng về vấn đề thành lập TTCK lại được đề
cập bởi bản phúc trỡnh về TTCK Việt Nam của Ngõn Hàng quốc gia Việt nam. Vào
thời gian này Tiến sỹ N.Robbins Đại học Columbia đó tỏc động với ông Nguyễn
Bích Huệ , cố vấn của Thống đốc NHQG Việt Nam lập bản Đề án thành lập TTCK
Việt Nam…
24
*Sau năm 1975 :
Năm 1990: Chính phủ đó giao đồng thời cho Bộ tai chính NHNN Việt Nam
nghiên cứu xây dựng đề án hỡnh thành TTCK và trỡnh Chớnh phủ xem xột
Năm 1995: Chính phủ đó thành lập ban chuẩn bị tổ chức TTCK gồm cỏc
chuyờn gia của NHNN Việt Nam và Bộ Tài Chớnh
28/11/1996: Ban hành NĐ75/Cp về việc thành lập Uỷ ban CKNN. Sau đó
lập quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998 của Thủ tướng chính phủ về
việc thành lập 2 trung tâm giao dịch chứng khoỏn
20/7/2000: Trung tâm GDCK TPHCM chính thức được khai trương; vào
ngày 28/07/2000 đó tổ chức phiờn giao dịch đầu tiên với 2 loại cổ phiếu được niêm
yết là : REE và SAM
Ngày 8/3/2005: TTGDCK Hà Nội được khai trương.
2. Sự phát triển của TTCK ở Việt Nam:
Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi , ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị
định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho Thị
trường chứng khoán Việt Nam ra đời.
Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Việc chuẩn bị cho TTCKVN thực ra đã
do Uỷ Ban Chứng khoán Việt Nam ra đời bằng Nghị định 75/CP ngày 28-11-1996.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (TTGDCK TP.HCM) được thành lập
theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi vào hoạt
động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000.
Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội đã chính thức chào
đời vào ngày 8/3/2005. Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết và giao

dịch chứng khoán của các công ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân chơi” cho các
DN nhỏ và vừa (với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng)
Chỉ số VN – Index: VN - Index là ký hiệu của chỉ số chứng khoán Việt Nam.
VN - Index xây dựng căn cứ vào giá trị thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm
yết. Với hệ thống chỉ số này, nhà đầu tư có thể đánh giá và phân tích thị trường một
cách tổng quát. Chỉ số VN -Index so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị
trường cơ sở vào ngày gốc 28-7-2000, khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào
25

×