Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Đặc điểm kiến trúc chăm pa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 41 trang )

1. Sơ lược về lịch sử văn hóa Champa:
Lịch sử Chăm Pa, bao gồm các quốc gia Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm
Thành (Campanagara) và Thuận Thành (Nagar Cam), độc lập được từ 192 và kết
thúc nhập hoàn toàn vào 1832 [1] . Trước thế kỷ thứ 2, vùng đất của vương quốc
Chăm Pa cổ đã được nhắc đến với tên Hồ Tôn Tinh (trong truyền thuyết), rồi tên
huyện Tượng Lâm (thuộc quận Nhật Nam thời nhà Hán) khi nằm dưới sự thống trị
của Trung Quốc. Lãnh thổ này được ghi nhận là từ miền Trung trở vào miền Nam
Việt Nam, thay đổi tùy thời kỳ. Từ 1694 đến 1832, chúa Chăm Pa (Trấn vương
Thuận Thành) nằm dưới sự đô hộ của các chúa Nguyễn, vua nhà Tây Sơn và vua
nhà Nguyễn cho đến lúc bị sáp nhập. Hiện tại tuy nó đã bị sát nhập vào nước Việt
Nam, nhưng chúng ta không thể phủ nhận sự ảnh hưởng của nền văn hóa champa
, trong quá khứ, cũng như hiện tại, đối với tổng thể văn hóa 54 dân tộc anh em Việt
Nam. Nhất là văn hóa tộc người Champa có ảnh hưởng rất lớn. Cho dù quốc gia đó
không còn nữa, lịch sử dân tộc đó vẫn luôn luôn còn hiện diện, trong tiến trình của
lịch sử nhân loại, và ít ra vẫn còn trong ký ức của dân tộc đó, lưu truyền từ đời này
sang đời khác và mãi mãi cho đến tận cùng…của lịch sử nhân loại.
Lịch sử vương quốc Chăm Pa được khôi phục dựa trên ba nguồn sử liệu
chính:
o Các di tích còn lại: bao gồm các công trình đền tháp xây bằng gạch còn
nguyên vẹn cũng như đã bị phá hủy và cả các công trình chạm khắc đá).
o Các văn bản còn lại: bằng tiếng Chăm, tiếng Phạn trên các bia và bề mặt
các công trình bằng đá.
o Các sách sử của Việt Nam và Trung Quốc, các văn bản ngoại giao, và các
văn bản khác liên quan còn lại.
Văn hóa Champa có nguồn gốc từ văn hóa Sa Huỳnh nhưng trên bước
đường phát triển đã chịu ảnh hưởng nhiều mặt và rất sâu sắc nền văn hóa Ấn Độ.
Khi mới lập nước, quý tộc Chăm đã tiếp thu và sử dụng ngay hệ thống thần
quyền của Ấn Độ để xây dựng hệ thống thần quyền cho vương quyền mình.
Người Chăm xưa tôn thờ các thần sơ khai của người Ấn, đứng đầu là Inđra, vị
thần chủ của các thần. Họ cũng sùng bái các thần Ấn giáo như là bộ ba Bơrama,
Visnu, Siva, và tiếp thu cả đạo Phật thuộc phái Đại thừa. Các công trình xây dựng


đền tháp, nghệ thuật kiến trúc, môtíp kiến trúc của Champa cũng đều học tập của
Ấn Độ. Mỹ Sơn (Quảng Nam) là khu di tích Chăm nổi tiếng gồm gần 70 đền tháp
xây dựng vào nửa sau thiên niên kỷ I, đã được công nhận là di sản văn hóa thế
giới.
1
Tuy vậy, không phải văn hóa Ấn Độ đã mang vào Champa một cách nguyên
vẹn, rập khuôn, mà trong thực tế tất cả những hình thức văn hóa đó đều đã được
gia giảm và thể hiện theo kiểu Champa. Nếu nghiên cứu kỹ, ta vẫn có thể nhận
thấy tháp đền Champa có những dáng vẻ riêng.
2. Khu di tích đền tháp chăm
Tháp Chăm, trong Ấn Độ giáo người ta gọi là Sikhara nghĩa là đỉnh núi
nhọn, biểu thị của núi Mêru, một dạng kiến trúc tiêu biểu được xây dựng theo tín
ngưỡng thống nhất thờ thần Siva, một trong tam vị nhất thể của đạo Bà La Môn.
Núi Mêru theo thần thoại có nhiều đỉnh cao thấp khác nhau, vị thần tối cao ngự
trên đỉnh núi cao nhất, các vị thần tuỳ theo các bậc cao thấp khác nhau mà ngự
trị ở những đỉnh núi thấp hơn trên cùng một dãy Mêru. Núi Mêru được biểu hiện
thành kiến trúc Sikhara, người Chăm gọi là Kalan, có nghĩa là đền thờ. Đúng ra
là Kalan Chăm chứ không phải là tháp Chăm, nhưng người ta quen gọi là tháp
Chăm, đồng thời từ tháp đã trở thành một thuật ngữ kiến trúc chỉ loại hình cao
tầng đế nhỏ, cho nên người ta chỉ dùng từ “tháp” để gọi loại hình kiến trúc này.
• Các di tích của kiến trúc Chăm:
 Khu vực Quảng Bình – Quảng Trị – Thừa Thiên Huế: hiện biết khoảng 30 di
tích văn hóa Chămpa, tập trung thành từng nhóm ở:
- Bờ nam sông Gianh: tiêu biểu là thành Cao Lao Hạ, những minh văn trong
hang động Phong Nha ở Quảng Bình.
- Ven sông Thạch Hãn của đồng bằng Quảng Trị: Cổ thành, tháp Hà Trung .
- Đồng bằng Thừa Thiên Huế: thành Lồi, tháp Liễu Cốc, tháp Vân Trạch Hòa,
tháp Mỹ Khánh.
 Khu vực Quảng Nam – Quảng Ngãi: vùng trung tâm của vương quốc
Chămpa, tập trung những di tích quan trọng và lớn nhất, với nhiều loại hình di tích

nhất.
- Khu di tích Trà Kiệu (xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam):Gò
Cấm, Chùa Vua, Triền Trang, Chiêm Sơn Đông, Chiêm Sơn Tây.
- Thánh địa Mỹ Sơn – trung tâm tôn giáo lớn nhất của người Chăm – là một khu
đền tháp tập trung trong một thung lũng, cách Trà Kiệu khoảng 20km về phía Tây, là
trung tâm Phật giáo Đồng Dương và là kinh thành Indrapura của vương quốc Chămpa
trong thế kỷ IX – X.
- Ngoài các trung tâm trên, còn có các di tích: Khương Mỹ, Chiên Đàn, Bằng An
(Quảng Nam), thành Châu Sa, di tích Chánh Lộ, Khánh Vân, An Tập, Cổ Lũy phần
lớn còn lại là phế tích (Quảng Ngãi).
 Khu vực Bình Định: Là một kinh đô của người Chăm trong gần 5 thế kỷ (XI –
XV), có 4 di tích thành cổ (Thị Nại, Thành Tra, Đồ Bàn, Chánh Mân), hàng chục đền
2
tháp khá nguyên vẹn như khu tháp Bánh Ít, Dương Long, Hưng Thạnh,…và nhiều phế
tích đền tháp khác và còn nổi tiếng với trung tâm sản xuất gốm Gò Sành.
3
 Khu vực Phú Yên – Khánh Hòa: Các di tích ở hạ lưu sông Đà Rằng thuộc
đồng bằng Tuy Hòa là Tháp Nhạn và Thành Hồ cùng với hàng chục phế tích
khác. Nổi tiếng là khu tháp Pô Nagar ở Nha Trang – được coi là thánh địa phía
Nam của Chămpa và đến nay vẫn còn thờ Thiên Yana – một tín ngưỡng cổ của
người Chăm.
 Khu vực Ninh Thuận – Bình Thuận: có nhiều di tích từ niên đại sớm đến
muộn, như Hòa Lai, Pô khaung Garai, Pô Romê ở Ninh Thuận; Pô Đam, Phú Hài
ở Bình Thuận… Nơi đây hiện là địa bàn cư trú chính của người Chăm nên các
khu đền tháp vẫn là nơi để người Chăm sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo.
 Khu vực Tây Nguyên :có một số di tích đền tháp và phế tích Chămpa ở
Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum nhưng niên đại khá muộn.
3. Phong cách đặc trưng
Lịch sử xây dựng các đền tháp Champa kéo dài từ cuối thế kỷ thứ 7 đến đầu
thế kỷ 17. Trong khoảng thời gian này, những người Champa xưa đã để lại một số

lượng lớn các công trình kiến trúc đền tháp, thành luỹ, các tác phẩm điêu khắc.
Hiện tại có trên hai mươi cụm di tích kiến trúc đền tháp và rất nhiều phế tích
kiến trúc. Các di tích này có giá trị đặc sắc, mang tính toàn cầu, xứng đáng nhận
được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Một trong những sự quan tâm ấy là
việc tổ chức UNESCO đã công nhận Mỹ Sơn là di sản văn hoá thế giới cũng chính
là việc đánh giá cao thành quả nghiên cứu về kiến trúc Champa nói chung.
Tháp Chăm xây dựng để thờ cúng các vị thần. Các vị thần được thờ phượng
có thể là các vị thần Ấn Độ giáo tiêu biểu như Siva (thần hủy diệt), Ganesha (phúc
thần đầu người mình voi) hoặc đấy còn có thể là các vị Phật. Điều này tùy thuộc
vào lòng tin và kính mộ của mỗi vì vua ở các triều đại khác nhau. Ở thánh địa Mỹ
Sơn hiện nay phần lớn là công trình kiến trúc tôn giáo thờ các vị thần thuộc Ấn Độ
giáo và Bà la môn giáo. Nhưng ở thánh địa Đồng Dương (thuộc địa phận huyện
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) đây là kinh đô Phật giáo lớn nhất của Champa.
Trong lĩnh vực văn hoá vật thể thì
nghệ thuật Champa cổ và nghệ thuật Việt
cổ có nhiều nét tương đồng. Nhìn chung
thì nghệ thuật Champa có trước nghệ
thuật Việt và đã đạt đỉnh cao ngay khi
nghệ thuật Việt độc lập chưa ra đời.
4
Xét về mặt kiến trúc: các tháp Champa hầu hết ở trên những đồi cao hoặc
núi thấp, được xây dựng thành từng cụm, hướng Đông nhìn ra biển đón dương
khí thì chùa, tháp Việt Nam thời Lý, thời Trần cũng thường xây dựng trên gò, đồi
và sườn núi, tạo nên cả một quần thể, hướng Nam hoặc Nam chếch Đông, đón
dương khí. Tháp Việt Nam cũng vươn cao với nhiều tầng như tháp Champa và có
bình diện vuông gần với các phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Tháp Champa cũng
như tháp Lý - Trần về cơ bản cũng xây bằng gạch hoặc phụ thêm một số thành
phần bằng đá. Có điều, tháp Champa được đục trực tiếp trên gạch sau khi xây,
còn ở tháp Lý - Trần thì hình trang trí được in, khắc trực tiếp trên gạch, rồi sau
đó mới mang nung, xây đến đâu là có hình trang trí cho chỗ đó rồi.

Phổ biến và cũng hấp dẫn nhất trong nghệ thuật Champa là các apsara, đa
số thuộc đỉnh cao của điêu khắc Champa thuộc thế kỷ thứ 10. Các nhân vật kết
hợp người với chim hoặc với thú đều có cả trong nghệ thuật Champa và nghệ
thuật Việt.
a. Phong cách
• Phong cách Trà Kiệu sớm (cuối thế kỷ
VII)
- Đây là giai đoạn và phong cách cổ nhất của
nghệ thuật Chămpa. Hiện vật hầu hết tìm thấy từ
Quảng Bình đến Quảng Nam, tiêu biểu là đài thờ
Trà Kiệu niên đại cuối thế kỷ VII, hiện đang trưng
bày ở Bảo tàng điêu khắc Chămpa (Đà Nẵng).
- Phong cách này chịu nhiều ảnh hưởng của
miền Amavarati (Nam Ấn Độ).
• Phong cách An Mỹ (đầu thế kỷ VIII) :
- Tiêu biểu là sưu tập các bức tượng bán thân các vị thần Ấn giáo phát hiện
ở An Mỹ (Tam Kỳ, Quảng Nam).
- Bên cạnh sự ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn
Độ, nghệ thuật Môn (miền trung Thái Lan)
phong cách này mang yếu tố bản địa Chămpa rõ
hơn.
•Phong cách Mỹ Sơn E1 (thế kỷ VIII – IX)
5
- Hiện vật của phong cách này tìm thấy ở nhiều nơi nhưng tập trung trong khu
Mỹ Sơn.
- Tác phẩm tiêu biểu là
đài thờ và mi cửa kalan E1
và pho tượng Ganesa đứng ở
E5 Mỹ Sơn.
- Giai đoạn này ảnh

hưởng Ấn Độ mờ dần, mối
liên hệ với khu vực láng
giềng như Môn, Khmer được
tăng cường, tính chất bản địa
ngày càng khẳng định.
• Theo phong cách Hòa Lai (cuối thế kỷ VIII – giữa thế kỷ IX )
- Yếu tố tiêu biểu nhất là các vòm cửa nhiều mũi
tròn trùm lên các cửa thật, cửa giả và các khám.
- Các cột ở khung cửa hình bát giác bằng sa thạch
được trang trí bằng một đường các hình lá uốn cong.
Khoảng giữa hai cột trụ ốp có trang trí hình thực vật. Ở
bên dưới các cột trụ ốp là các hình kiến trúc thu nhỏ
trong đó có hình người đắp nổi.
Tất cả tạo cho các tháp Hoà Lai một vẻ đẹp trang
trọng và tươi mát.
• Theo phong cách Đồng Dương (giữa thế kỷ
IX – đầu thế kỷ X)
- Các trang trí cây lá được biến thành những hình
hoa hướng ra ngoài.
Cái nhận thức cổ điển của nét lượn và tỷ lệ ở phong cách Hoà Lai đã bị biến mất
và các tháp Đồng Dương trở nên mạnh mẽ hơn.
6
• Phong cách Mỹ Sơn A1 (thế kỷ thứ X): thể hiện đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất là
ở ngôi tháp Mỹ Sơn A1.
Những cột ốp trên mặt tường đứng thành đôi một. Đứng giữa hai cột ốp là các
bức tượng người. Các vòm cửa có hình dáng phức tạp nhưng không chạm khắc gì.
Bộ diềm kép, các hình đá trang trí góc được khoét thủng. Thân chính của tháp được
xây dựng có hình dáng cao vút lên và các tầng thu nhỏ dần lại. Những đặc trưng
của phong cách Hoà Lai và Đồng Dương không còn thấy ở các tháp thuộc phong
cách Mỹ Sơn A1.

• Phong cách Khương Mỹ (thế kỷ X)
- Phong cách này kế thừa phong cách bản địa trước đó và có thêm ảnh hưởng
của nghệ thuật Khmer
- Các tác phẩm diễn tả chân thực, mộc mạc, mang vẻ đẹp hiện thực
• Phong cách Trà Kiệu muộn – cuối thế kỷ X.
- Phong cách này thể hiện sự hiền hòa, duyên dáng, tiêu biểu là các vũ nữ Trà
Kiệu trên các bệ thờ tại đây.
- Đây là giai đoạn đạt đỉnh cao của nghệ thuật Chămpa cùng với giai đoạn Đồng
Dương, nhưng phong cách Trà Kiệu muộn còn có sự tiếp thu yếu tố của nghệ thuật
Java và Khmer.
7

8
• Phong cách Chánh Lộ (thế kỷ XI)
- Đây là khu phế tích kiến trúc, các hiện vật tìm thấy ở đây mang những đặc
điểm bảo lưu và kế thừa của phong cách Trà Kiệu muộn.
- Trong giai đoạn này có các nhóm tháp Chiên Đàn (Quảng Nam), Pô Nagar
(Nha Trang), Bánh Ít, Tháp Bạc, Bình Lâm (Bình Định),Tháp Nhạn (Phú Yên),
một số tháp trong khu Mỹ Sơn.
• Phong cách Tháp Mẫm (thế kỷ XII đến XIII)
- Chủ yếu thể hiện trên các nhóm tháp và tác phẩm tìm thấy từ Quảng Ngãi
đến Bình Định. Nổi bật là tính hoành tráng và những đặc trưng thống nhất dễ
nhận biết bở các tác phẩm. Tấm bia ở nhóm G khu Mỹ Sơn có niên đại năm 1157
xác định niên đại cho phong cách này.
- Ngoài ra có thể nhận thấy ảnh hưởng của nghệ thuật Bayon, Angkor Vat,
và nghệ thuật Đại Việt thời Lý trong phong cách này
9
o
• Phong cách Pô Kloong Garai (cuối thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XVI):
- Đây là phong cách cuối cùng của nghệ thuật Chămpa, thể hiện ở vùng

Ninh Thuận – Bình Thuận và Tây Nguyên. Sau giai đoạn này nghệ thuật Chămpa
dần dần mai một.
b. Đặc trưng của các ngôi tháp Champa
- Mọi ngôi tháp đều được xây bằng gạch hoặc chủ yếu bằng gạch. Gạch có
màu đỏ hồng, đỏ sẫm, được nung trước với độ xốp cao, được xây không có mạch
vữa và có thể có điêu khắc trực tiếp trên gạch.
- Có chiều cao lớn hơn vài ba lần so với chiều ngang thân tháp. Tỷ lệ các phần
của tháp có tính nhân bản, nghĩa là nó được xuất phát từ con người.
- Tháp có phần ngọn được thu nhỏ dần hoặc giật cấp.
- Các trang trí kiến trúc, điêu khắc có tính nhịp điệu, tính lặp lại và đồng
dạng, đăng đối.
- Đa phần các tháp có cửa quay ra hướng Đông, các phía còn lại là cửa giả,
được bố trí đăng đối với cửa chính.
10
- Trong tháp theo nguyên mẫu có thờ thần Siva, biểu trưng là bộ ngẫu tượng
Yoni và Linga được làm bằng sa thạch.
- Tháp thường được đặt tại các vị trí thoáng, gò đồi cao, không gần chỗ người
dân sinh sống.
11
c. Các di tích còn lại
Thứ
tự
Tên di tích Địa điểm Niên đại
1 Nhóm tháp Liễu Cốc
xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên
- Huế
thế kỷ XIII
2 Nhóm tháp Mỹ Khánh
xã Phú Diên, Huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên -
Huế

thế kỷ XIII - IX
2 Nhóm tháp Mẫm xã Nhơn Hậu, Huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định thế kỷ XIII
3 Nhóm tháp Bằng An
làng Bằng An, xã Điện An, huyện Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam
thế kỷ IX - X
4 Nhóm tháp Mỹ Sơn xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam
5 Nhóm tháp Chiên Đàn
làng Chiên Đàn, xã Tam An, thành phố Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam
thế kỷ XI - XII
6 Nhóm tháp Khương Mỹ
làng Khương Mỹ, xã Tam Xuân, huyện Núi Thành,
tỉnh Quảng Nam
thế kỷ X
7 Nhóm tháp Cánh Tiên xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định thế kỷ XII - XIII
8 Nhóm tháp Phú Lốc xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định thế kỷ XIII
9 Nhóm tháp Bánh Ít
thôn Đại Lộc, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước,
tỉnh Bình Định
thế kỷ XI - XII
10 Nhóm tháp Thủ Thiện xã Bình nghi, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định thế kỷ XII - XIII
11 Nhóm tháp Dương Long xã Tây Bình, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định thế kỷ XII - XIII
12 Nhóm tháp Bình Lâm xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định thế kỷ XII
13 Nhóm tháp Đôi thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định thế kỷ XII
14 Nhóm tháp Nhạn thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên thế kỷ XII
15 Nhóm tháp Po Nagar thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà thế kỷ X - XIII
16 Nhóm tháp Hòa Lai
làng Tam Tháp, xã Tân Hải, huyện Ninh Hải,
tỉnh Ninh Thuận

thế kỷ IX
17
Nhóm tháp Po Klong
Garai
phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm,
tỉnh Ninh Thuận
thế kỷ XIII - XIV
18 Nhóm tháp Po Rome
làng Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước,
tỉnh Ninh Thuận
thế kỷ XVII
19 Nhóm tháp Po Dam
làng Tuy Tịnh, xã Phong Phú, huyện Tuy Phong,
tỉnh Bình Thuận
thế kỷ IX
20 Nhóm tháp Po Sah Inư
phường Phú Hài, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình
Thuận
thế kỷ VIII
21 Nhóm tháp Yang Praong Bản Đôn, huyện Ea Sup, tỉ
12
4. Tìm hiểu kỹ thuật xây dựng tháp cổ ChamPa tại miền trung Việt Nam
Ðối với các tháp Chăm, kỹ thuật xây dựng tháp thực chất là sự kết hợp hài
hòa, chặt chẽ của công nghệ xây dựng và điêu khắc. Mà biểu hiện vật chất của nó
chính là tỷ lệ kiến trúc và nghệ thuật kết hợp kiến trúc với các dạng điêu khắc
trang trí, đặc biệt là kỹ thuật xây dựng không mạch vữa. Qua đó, nó thể hiện giá
trị phi vật thể là nội dung thờ tự, tâm linh và cao hơn là ý nghĩa triết học của các
đền tháp Chăm.
Theo đó, việc nghiên cứu xác định được đúng kỹ thuật xây dựng tháp Chăm
của người Chăm xưa sẽ giúp cho việc trùng tu được chuẩn xác, đưa ra được

những phương tiện và phương pháp để bảo tồn trùng tu được tối đa các giá trị
chân xác của di tích. Phương pháp tu bổ đó vừa đảm bảo được tính nguyên gốc,
chính xác, phù hợp, cụ thể cho mỗi tháp và từng bộ phận chi tiết của các tháp
Chăm. Ðồng thời qua đó có thể mở ra hướng trong nghiên cứu, tìm ra phương
pháp xây mới có nhiều ưu điểm hơn phục vụ cho ngành xây dựng, thay thế cho
lối xây bằng vữa xi măng + cát hoặc vôi + cát như hiện nay cũng như lý giải
những ẩn số xung quanh các vấn đề như kỹ thuật, triết học, tâm linh của người
Chăm xưa. Ðiều này nhằm góp phần cho công cuộc trùng tu và phát huy các giá
trị tại Mỹ Sơn nói riêng và các tháp có giá trị tại miền Trung nói chung.
Như chúng ta đã biết, trong công tác trùng tu, đối với các tháp Chăm, yêu
cầu bắt buộc của việc trùng tu ngoài nhiệm vụ hàng đầu là tu sửa khẩn cấp để
bảo tồn kịp thời di tích và giá trị lịch sử của công trình cổ, còn đòi hỏi phải xây
gạch theo kiểu cổ truyền của người Chăm xưa, tức là kỹ thuật thế nào đó để kết
dính các viên gạch lại với nhau. Ngoài yêu cầu của độ bền vững ra, không còn để
lộ khe hở, cũng như không để lộ cho thấy mạch hồ vữa của chất kết dinh (nếu có).
Như thế, ngôi đền tháp sau khi phục chế mới không có sự khác biệt và giữ được
nét đặc thù của tháp Chăm, đồng thời giữ được nét thẩm mỹ của màu sắc và hoa
văn điêu khắc trên mặt tường ngôi tháp.
13
Trên cơ sở đó, nhiều giả thuyết về kỹ thuật xây cất các ngôi tháp cổ của
người Chăm xưa đã được đưa ra. Có những giả thuyết đã cho rằng: Người Chăm
xưa xây Tháp bằng gạch mộc chưa nung, tức là dùng những viên gạch còn sống,
trong đó có chứa một ít cát (khoảng 10% - đây có thể là do nguồn đất sét làm gạch
đặc thù hoặc cũng có thể do người ta pha vào khi làm gạch) nhúng nước rồi xát và
ép chặt vào nhau để kết dính (điều này đã tạo nên một lớp vữa “giả tạo”. Thành ra
cách xây này không vữa mà như là có vữa) rồi nung toàn khối. Trong đó, người
Chăm xưa đã nghĩ tới phương pháp xây tháp theo nguyên tắc tạo ra một tổng thể
đồng chất với bề dày tường lớn để có được lực liên kết bền vững nhất, đồng thời dễ
dàng tạo ra được những tác phẩm điêu khắc có đường nét mỹ thuật cao. Nhưng vì
đất sét là vật liệu lâu khô, lại phải nung qua lửa, đòi hỏi độ ẩm phải còn 20% trước

khi nung nên người Chăm không thể đổ đất sét lỏng như hiện nay ta đổ bêtông mà
trước tiên phải làm nên những viên gạch mộc, phơi qua vài ngày để gạch se lại, sau
đó nhúng nước, xát và ép để viên này dính sát với viên kia, chồng lên và so le mí với
nhau. Khi ngôi tháp xây xong thì toàn bộ ngôi tháp, nền và móng đã trở thành một
tổng thể đất sét đồng chất (ngoại trừ một ít lanh tô hoặc trụ đá phải dùng trong kỹ
thuật xây và có thể được xử dụng để gia cường sau khi xây). Tổng thể đất sét này
được nung chín, tất nhiên sẽ có độ bền vững hơn là xây bằng gạch đã nung trước
với hồ vữa, là 2 chất liệu khác nhau. Và cách xây và nung tháp của người Chiêm
Thành thì bắt buộc phải “xây từ dưới lên trên và nung từ trên xuống dưới” nhằm
tránh cho tháp khỏi bị đổ vì xây bằng gạch mộc.
14
Phần đỉnh tháp luôn luôn được xây nhỏ hơn phần đế và thân tháp để trọng
tâm khó đổ ra ngoài. Vì vậy người Chăm xưa phải xây tường tháp rất dày từ 1m
đến gần 2m. Cùng với việc xây từng đoạn xong để trong một ít thời gian cho gạch
se cứng lại thì những yếu tố này góp phần làm giảm tải trọng bản thân của tháp
lên các viên gạch. Xây tháp tới đâu thì đổ đầy đất ở trong lẫn ngoài lên tới đó,
ngang với mặt tường đang xây, ém đất thật chặt để giữ tháp cho vững đồng thời
để người thợ có điều kiện làm việc dễ dàng trong lúc xây và chạm khắc. Ðó cũng
chính là một loại, vừa giàn giáo, vừa cốp pha (Scaffold and framework) trong
ngành xây dựng, nhưng ngày nay thì người ta làm bằng gỗ và sắt. Sau đó thực
hiện việc điêu khắc, trang trí trên gạch còn mềm ướt của Tháp. Xây tới đâu thì
chạm khắc, trang trí tới đó. Có một điều, khi xây tháp phải đổ đất ở trong và
ngoài ngôi tháp để giữ tháp cho vững, đồng thời làm phương tiện cho người thợ
xây ngồi làm việc và lên xuống. Ví dụ: muốn xây một ngôi tháp có chiều cao 20m
thì phải có diện tích mặt bằng để làm việc với đường kính là 30m, một ngôi tháp có
chiều cao 10m thì phải có diện tích mặt bằng với đường kính 15m (vào khoảng 2/3
chiều cao), do đó nó có nhược điểm là ở những khu có tháp quây quần nằm gần sát
nhau như ở Mỹ Sơn thì những ngôi tháp xây sau thường không được cao lắm.
Khi tháp xây lên tới đỉnh xong rồi lúc đó đỉnh tháp vẫn chừa lỗ trống chưa
gắn vật trang trí vào. Người Chăm xưa để như vậy vài ngày cho gạch khô, se lại.

Việc để cho gạch se khô lại (độ ẩm còn khoảng 20%) và việc pha thành phần cát
vào trong gạch cũng là một kỹ thuật góp phần cho công đoạn nung tránh được sự
nứt vỡ của vật liệu tại các mối liên kết. Sau đó bới dần đất ở phần đỉnh Tháp ra,
chất cây khô chung quanh đốt cháy lên để nung phần đỉnh tháp cho chín. Khi
phần đỉnh tháp đã được nung xong thì người ta bới đất để đốt lửa nung phần
tháp tiếp theo ở dưới. Cứ thế, người ta đốt lửa nung dần từng phần cho đến hết
phần chân tháp. Ðến đây, tháp đã khá vững chắc, người ta bới đất ở trong tháp
ra để chất củi đốt lên nung thêm ở phần trong cho hoàn chỉnh, kết thúc công
đoạn nung tháp.
Ðối với đền tháp thì người Chăm xưa dùng phương pháp xây như trên. Còn
đối với thành luỹ kiến trúc nhà ở, giếng nước và mồ mả thì người Chăm vẫn xây
bằng gạch đã nung hoặc đá với vữa vôi + cát hoặc vôi với mật của đường mía.
Trước đây ở Hội An, Thanh Chiêm và quanh tháp Bằng An có một đoạn thành và
nhiều mồ mả của người Chăm xưa xây theo cách đó. Hiện nay, chỉ còn lại một ít
giếng nước như giếng Bá Lễ, giếng Cô Tiên được xây bằng gạch nung với vữa vôi
+ đường.
15
Và cuối cùng, sau khi nghiên cứu để đưa ra giả thiết đó, người ta đã kiểm
chứng bằng giải pháp thực nghiệm và thu được kết quả khả quan. Quá trình tiến
hành thực nghiệm từ mô hình như sau: Người ta cho tiến hành xây và nung thử
một ngôi tháp nhỏ bằng gạch mộc, có tỷ lệ gần đúng với tỷ lệ của ngôi tháp thật:
cao 0,6m; rộng 0,3m; gạch cỡ :7cm x 4cm x 2cm. Ðịa điểm nung tại nhà Ông Lê
Quốc Tuấn ở khối 5, Phường Thanh Hà, Hội An. Quá trình thực hiện xây và nung
mô hình tháp đã được tôi thực hiện ghi hình lại. Kỹ thuật xây dựng được tiến hành
theo đúng nguyên mẫu của giả thiết được đặt ra. Người ta đã dùng những viên
gạch mộc pha cát có kích thước như vậy nhúng nước rồi xát và ép để kết dính
chúng lại với nhau. Sau đó thực hiện điêu khắc, trang trí trên mô hình của tháp,
đợi vài ngày cho gạch se khô lại rồi nung toàn bộ ngôi tháp theo đúng phương pháp
giả định đã được đặt ra. Ðó là người ta cho nung phía bên ngoài và phía bên trong
ngôi Tháp. Kết quả của quá trình thực nghiệm:

- Công việc thực hiện điêu khắc cũng như việc xử lý, tạo hình các chi tiết
trên Tháp được tiến hành khá dễ dàng trước khi nung vì được thực hiện trên
gạch mộc.
- Tháp sau khi nung nói chung là không khác biệt với Tháp Chăm cổ, rất
vững chắc, không nghiêng, không đổ.
 Các công đoạn xây dựng tháp được đúc kết lại như sau :
1. Chuẩn bị chất kết dính.
2. Đúc gạch theo khuôn đã định sẵn. Nung gạch lần 1.
3. Xếp gạch theo mô hình tháp bằng chất kết dính.
4. Nung tháp.
5. Gọt dũa, trang trí và điêu khắc và hoàn chỉnh toàn bộ khối tháp.
16
5. Những bí ẩn tháp Chăm
a. Những viên gạch kỳ lạ.
Với mắt thường thì đó chỉ là những viên gạch mà chúng ta vẫn thường gặp
nhưng chúng là nỗi băn khoăn triền miên của nhiều nhà nghiên cứu tháp Chăm.
Là chất liệu duy nhất tính bằng đơn vị dùng để xây tháp nhưng các viên gạch này
mang trong nó quá nhiều bí ẩn. Cùng một kích thước nhưng những viên gạch
được đúc thí nghiệm theo quy trình thủ công hiện nay sẽ nặng hơn viên gạch
Chăm cổ 1,3 lần. Độ bền chịu nén, độ dai va đập cùng những tính chất khác của
gạch Chăm đều cao hơn gạch thông thường rất nhiều. Khi tạt nước vào một mặt
bất kỳ của viên gạch Chăm thì các mặt còn lại thoát nước ra gần hết (điều này
không xảy ra đối với gạch xây dựng thông thường). Một hướng dẫn viên du lịch
“sống” lâu năm với tháp Chăm Mỹ Sơn cho biết nhiều viên gạch khi bị vỡ ra để
lộ phần đất sống bên trong. Điều này có nghĩa là gạch chỉ được nung chín đều
phần bên ngoài, bên trong vẫn còn “sống”. Điều kỳ lạ là phần “đất sống” bên
trong những viên gạch gãy vỡ qua thời gian dài, dù nằm ngoài trời, chịu mưa
chịu nắng vẫn không bị rả ra. Vậy, thành phần của chúng ngoài đất sét ra còn có
những gì? Quy trình sản xuất gạch có gì khác thường? Các viên gạch này có góp
phần vào quá trình làm tháp Chăm nhanh khô ráo sau những cơn mưa dầm?

b. Một thứ hỗn hợp kết dính chưa rõ thành phần.
Điều dễ nhận thấy là những viên gạch tháp Chăm như được dán chặt vào
nhau vì giữa chúng không có một đường lằn chứng tỏ có sự diện diện của vôi vữa.
Đến nay người ta vẫn chưa biết rõ về chất kết dính này? Thành phần của nó gồm
những gì? Phương thức tạo ra nó như thế nào? Khi dùng kỹ thuật “dán” chặt
những viên gạch lại bằng chất kết dính thì, ngoài mục đích làm tháp vững chắc
người ta còn có mục đích gì khác? Vì sao phải cần loại hỗn hợp kết dính này mà
không dùng vôi vữa để xây tháp?
c. Một loại hình nghệ thuật tạo hình “rất ít xuất hiện” ở Đông Nam Á”.
17
Những hình trang trí ở tháp Chăm được tạo tác ngay trên gạch của thân
tháp hoặc được đắp bằng sa thạch. Những hình tượng nghệ thuật sống động đó
thể hiện một cách sinh động các nhân vật trong thế giới thần thoại Ấn. Điều này
cho thấy sự tinh vi đến tuyệt diệu của nghệ thuật điêu khắc Chăm, đặc biệt là
nghệ thuật tạo hình trên gạch. Có phải các nghệ nhân Chăm thực hiện kỹ thuật
chạm trổ sau khi các tường gạch đã xây xong? Nếu như thế, những sai sót mắc
phải trong quá trình tạo tác được giải quyết như thế nào? Những nghệ nhân điêu
khắc là người kiêm luôn công việc xây dựng hay có hai nhóm thực hiện hai công
đoạn nối tiếp nhau: xây dựng và trang trí? Phù điêu, tuợng trên tháp được tạo
tác như thế nào? Giữa hỗn hợp kết dính “bí ẩn” với nghệ thuật kiến trúc và nghệ
thuật tạo hình Chăm có liên quan gì không?
d. Những khối gạch khổng lồ nhưng không bị nghiêng lún.
Các tháp Chăm cao sừng sững nhưng dáng dấp thanh thoát; chỉ khi đến gần
người ta mới thấy hết được vẻ đồ sộ của nó. Tháp hầu như là một khối đặc vì
khoảng trống bên trong hầu như không đáng kể. Phần “ruột” của đa số các tháp
chỉ vừa đủ chỗ cho một người hành lễ (một số tháp lớn thì bên trong cũng chỉ có
một khoảng trống vừa đủ để người hành lễ đi một vòng quanh tuợng thần). Với
chất liệu gạch và kiểu kiến trúc như thế chắc chắn sức nặng dồn lên nền móng là
rất lớn. Thế nhưng các nhà kiến trúc Chăm đã xử lý móng như thế nào để giữ
tháp đứng vững qua hàng trăm năm mà độ từ biến không biểu hiện ra ngoài

thành sự cố nghiêng lún?
e. Những đền tháp qua hàng trăm năm bị thiên nhiên bào mòn nhưng
không bị lộ chân móng?
Khu di tích thánh địa Mỹ Sơn nằm trong lòng chảo nên vấn đề này không
khó lý giải. Riêng các tháp Chăm rải rác từ Bình Định đến Phan Thiết đều tọa lạc
trên đồi cao nên chân móng của chúng đã đặt ra nghi vấn. Các ngôi tháp trên đồi
này được xây dựng cách đây hơn năm trăm năm, thời kỳ các vị vua Chăm chuyển
kinh đô từ Trà Kiệu vào Đồ Bàn. “Đất thánh của vương quyền Chămpa sau thế
kỷ XIII có lẽ đã được dời vào vùng Đồ Bàn.
18
Tuy nhiên vì tính chất đặc biệt quan trọng của nó, nên Mỹ Sơn hẳn không bị
bỏ phế một cách đột ngột … sớm nhất cũng phải đến thế kỷ XV thì khu đất thánh
này mới hoàn toàn bị bỏ hoang. Ấy là lúc vương quyền Chămpa đã dời đô về
miền Phan Rang” [2: tr.20]. Qua mấy trăm năm trơ vơ giữa trời, hứng chịu biết
bao trận mưa xối xả và những cơn gió mùa thổi tứ bề, chắc chắn đỉnh đồi phải bị
bào mòn dữ dội, chân tháp theo đó cũng liên tục bị mài mòn, thế nhưng tháp
Chăm vẫn không thấy dấu hiệu lộ ra chân móng. Phải chăng các nhà kiến trúc
Chăm đã tính được độ lún của tháp theo thời gian để tháp không bị “tróc” ra
khỏi ngọn đồi? Đều này khó có khả năng xảy ra vì trong xây dựng không ai dám
phiêu lưu như thế? Vậy tháp Chăm “bình chân như vại” trên những đỉnh đồi bằng
cách nào?
6. Sự linh thiêng của Tháp Chăm.
Có nhiều lý do đưa đến sự linh thiêng của tháp Chăm. Đối với người Chăm
ở miền Trung thì tháp vừa là kiến trúc tôn giáo vừa là lăng mộ (kalan). “Ðền-
tháp ở Mỹ Sơn được xem như tiêu biểu cho kiến trúc tôn giáo Champa. Ngôi đền
chính hay Kalan là kiến trúc quan trọng nhất trong quần thể đền-tháp. Kalan
tượng trưng cho một tiểu vũ trụ. Theo quan niệm của Ấn Ðộ giáo, Kalan có 3
phần:
•Ðế tháp gọi là Bhurloka tượng trưng cho thế giới trần tục.
•Thân tháp gọi là Bhuwarloka tượng trưng cho thế giới tâm linh, nơi con

người tự thanh tịnh chính mình để có thể tiếp xúc với tổ tiên đã hòa nhập với thần
linh;
•Mái tháp gọi là Swarloka tượng trưng cho thế giới thần linh, nơi chư thần
tụ tập”(5).
Trong Hin-đu giáo, Bàlamôn được xem là hình thức phát triển tiếp theo của
đạo Vêđa. Bàlamôn giáo giữ vai trò đặc biệt trong đời sống tâm linh của người
Chăm. Bàlamôn giáo đi tìm chân lý đưa đến sự giải thoát. Chân lý đó là sự gặp
gỡ giữa linh hồn cá thể (Atma) với linh hồn vũ trụ (Brahma). Linh hồn vũ trụ
(Brahma) còn có nghĩa là Đại Hồn, là nguồn gốc của vũ trụ, là chúa tể của các
vị thần, là đấng Tuyệt Đối. Brahma có quyền năng tối cao, hiện thân trong một
thể gồm 3 ngôi: Thần Sáng Tạo (Brahma), Thần Bảo Tồn (Visnu), Thần Phá
Hủy (Siva). Con người được giải thoát khi linh hồn cá thể tìm gặp được Đại Hồn,
tức là đã nhập thân vào linh hồn vũ trụ.
19
Các tháp Chăm dọc miền Trung toạ lạc trên những đỉnh đồi cao, chung
quanh có phong cảnh đẹp đẽ. Toàn cảnh tháp Chăm toát lên vẻ đẹp thanh thoát,
tĩnh lặng. Tháp vừa là lăng mộ vừa là đền thờ thần, và là nơi tiến hành các nghi lễ
thần thánh. Tất cả những yếu tố đó cho thấy tháp không chỉ là công trình kiến
trúc tôn giáo nghệ thuật mà còn là hiện thân của triết lý giải thoát. Tháp là cầu
nối giữa cuộc sống trần thế với đấng toàn năng Brahma. Tháp là nơi chuyển tiếp
để linh hồn cá thể hoá thân vào linh hồn vũ trụ. Đó là “không gian thiêng” để con
người từ biệt cõi trần, đi vào thế giới của đấng toàn năng.
Thung lũng Mỹ Sơn được người Chăm gọi là vùng đất thiêng, là vùng đất đã
dâng cho thần (vì vậy trong suốt quá trình xây 72 đền tháp ở đây, vật liệu không
được lấy trong thung lũng mà phải chuyển từ ngoài vào). Thực chất quần thể di
tích kiến trúc Mỹ Sơn là “thánh địa” của các thầy tu (tăng lữ) và giới quý tộc.
Giới này tin (và phải tin) rằng có Brahma - hiện thân của quyền năng tuyệt đối
mà bất cứ ai cũng phải nể sợ. Trong vùng đất thiêng này có núi thiêng; trong núi
thiêng có suối thiêng, trong suối thiêng có nước thiêng. Nước thiêng để dâng cúng
và “tắm” cho tượng thần. Không ai được đến gần hay “dẫm” lên những cái

thiêng ấy.
Đồng bào ‘Cao Nguyên’ sợ tháp Chăm vì tin rằng đó là nơi cư ngụ của thần
nước; ở đó có Yang hay Yàng tức là Trời.
Đàn Hoà Chí bị điên sau khi giáp mặt với Mỹ Sơn có lẽ cũng do khủng
hoảng tư tưởng.
Đó là sự bế tắc không sao giải toả nổi trong tâm thần của một “trí nhân quân
tử” vốn được lĩnh hội một cách bài bản nền văn hoá (Trung Hoa) trừu tượng lại
bất ngờ đối diện với một nền văn hoá (Chăm) cụ thể đến “ghê hồn”.
Tóm tắt:
- Ngày nay, hầu hết các tác phẩm điêu khắc Chăm đều được chăm nom kỹ
càng trong các viện bảo tàng trên khắp thế giới. Điều này, về một mặt nào đó, là
một điều may mắn, đáng mừng.
- Tuy nhiên, người ta cũng không khỏi ước mong rằng, một ngày nào không
xa, khi những ngôi đền tháp Chăm nằm trải dài trên dải đất miền trung của nước
ta được bảo quản chu đáo hơn, và trở thành những viện bảo tàng đích thực, mở
rộng cho khách du lịch thập phương, thì những tác phẩm nghệ thuật của người
Chăm, hiện lưu lạc ở khắp mọi nơi, thi thoảng sẽ có dịp được đưa về đây “trưng
bày” tại hiện trường, trong chính môi trường cũ của chúng, là những ngôi đền
tháp , lúc đó sẽ không còn là những nơi hoang phế nữa.
20
- Những dấu tích văn hoá, nghệ thuật thuộc những thời đại xa xưa của một
dân tộc, là hiện thân của cái dĩ vãng của dân tộc đó, đồng thời cũng là một phần dĩ
vãng của nhân loại. Con người cần cái dĩ vãng đó để nhìn lại mình và kẻ khác. Nó
như một tấm gương, nhìn vào đó người ta thấy được lịch sử, thấy được những nét
nhân bản, hay không nhân bản, trong một nền văn hoá, nghệ thuật, và từ đó nhận
ra được những cái đẹp phổ biến, mà con người dù ở thời đại nào, thuộc nền văn
hoá nào, cũng đều có thể cảm thụ được.
- Tháp Champa nói chung dù có dược giải thích thế nào chăng nữa, thì
những bí ẩn của tháp Chàm, cũng như Người và Đất Chiêm Thành, chắc chắn vẫn
không thay đổi, các tháp Chăm vẫn kiêu hãnh và bền bỉ tồn tại cùng thời gian và

lịch sử. Nó chính là minh chứng về tài năng vĩ đại và kỳ diệu của con người và nó
vẫn còn làm cho hậu thế chúng ta đổ nhiều thời gian và trí lực để nghiên cứu tìm
hiểu và học tập, là một dạng công trình thuộc thể loại kiến trúc đền tháp Chăm.
7. Những giá trị văn hóa của kiến trúc Chăm:
- Văn hóa Champa mang nhiều giá trị văn hóa trên nhiều lĩnh vực. Đặc biệt là
lĩnh vực kiến trúc.
- Những kiến trúc này ngoài việc mang đậm bản sắc văn hóa của tộc người
Chăm, đã phản ánh sinh động, cụ thể những ảnh hưởng của văn hóa các tộc người
xung quanh.
- Trong lịch sử, các đền tháp Champa đã là phần rất lớn trong đời sống tinh thần
cho con người Champa, khắc họa sâu sắc sự tôn kính và sùng bái thần linh của người
Champa cũng như ước mơ về 1 cuộc sống ấm no, hạnh phúc, phồn thịnh của họ.
- Bàn tay và khối óc sáng tạo của dân tộc Chăm làm sáng tỏ tính phong phú, đa
dạng, giúp chúng ta thấy được sự giao lưu văn hoá, quá trình phát triển của tộc người
Chăm.
- Có nhiều nét trạm trổ và các bức tượng bằng đá hình vũ nữ Chăm thể hiện nếp
sinh hoạt ca múa và chơi nhạc dân gian rất sinh động. Người Chăm luôn mang trong
máu của mình một tâm hồn văn nghệ dân tộc đặc biệt.
8. Trình độ xây dựng công trình của người Chăm :
- Đã phát triển đến trình độ cao trong việc xây dựng công trình bằng việc xây
dựng các tháp với qui mô lớn , đồ sộ, nguy nga và tráng lệ với 1 kỹ thuật xây dựng
cao, sử dụng chất liệu kết dính tốt chưa từng thấy mà đến nay các nhà khoa học vẫn
chưa tìm thấy loại chất liệu này. Vậy nhưng chất liệu này không làm cho tháp bị bám
rêu và các khuôn gạch đúc được giữ nguyên vẹn bề mặt từ hơn 4000 năm đến nay.
21
- Rất tinh xảo và khéo léo để tạo nên các khu tháp và điêu khắc trên đó. Đồng
thời xây dựng các hình tượng thần linh vô cùng đẹp vẫn còn nhiều giá trị đến ngày
nay.
- Hình ảnh Tháp chùa có một dáng vẻ kiến trúc độc đáo, xây dựng bằng gạch đất
nung đã phản ánh trình độ của một dân tộc có nền văn hóa cao.

- Điêu khắc cũng thể hiện nét đẹp kỳ vĩ, hùng tráng trong các nhân vật đã cho
thấy nghệ thuật điêu khắc trong việc xây dựng các công trình của người Chăm đã có
bước phát triển rực rỡ trong giai đoạn tồn tại của đất nước này.
9. Giới thiệu một số tháp tiêu biểu
a. Quảng Nam
KHU ÐỀN THÁP MỸ SƠN
Mỹ Sơn thuộc địa phận xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách
thành phố Đà Nẵng khoảng 70 km về hướng tây nam, cách thành phố Hội An khoảng
40km.
Khu đền tháp Mỹ Sơn nằm trong một thung lũng có đường kính khoảng 2km,
xung quanh là đồi, núi, trong mạch núi cao khoảng 100m đến 400m từ Đông Trường
Sơn qua Mỹ Sơn đến kinh đô Trà Kiệu.
Mỹ Sơn là thánh địa Ấn Độ giáo của Vương quốc Chămpa. Mỗi vị vua, sau khi
lên ngôi, đều đến Mỹ Sơn làm lễ thánh tẩy, dâng cúng lễ vật và xây dựng đền thờ. Mỹ
Sơn là điểm duy nhất của nghệ thuật Chăm có quá trình phát triển liên tục từ thế kỷ 7
đến thế kỷ 13. Vào đầu thế kỷ thứ 7, vua Sambhuvarman đã xây dựng ngôi đền bằng
những vật liệu rất bền vững, còn tồn tại đến ngày nay. Các triều vua sau đó đều tu sửa
các đền tháp cũ và xây dựng đền tháp mới để dâng lên các vị thần của họ.
Những đền thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một bộ Linga hoặc hình tượng của thần Siva
- Ðấng bảo hộ của các dòng vua Chămpa. Vị thần được tôn thờ ở Mỹ Sơn là
Bhadrésvara, là vị vua đã sáng lập dòng vua đầu tiên của vùng Amaravati vào cuối thế
22
kỷ 4 kết hợp với tên thần Siva, trở thành tín ngưỡng chính thờ thần - vua và tổ tiên
hoàng tộc.
Vào năm 1885, di tích Mỹ Sơn được phát hiện bởi một học giả người Pháp tên là
M.C Paris. Vào những năm đầu thế kỷ 20, hai nhà nghiên cứu của Viễn thông Pháp là
L.Finot và L.de Lajonquière và nhà kiến trúc sư kiêm khảo cổ học H. Parmentier đã
đến Mỹ Sơn để nghiên cứu văn bia và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Chăm. Cho đến
những năm 1903-1904 những tài liệu cơ bản nhất về bia ký và nghệ thuật kiến trúc Mỹ
Sơn đã được L.Finot chính thức công bố.

Đền tháp ở Mỹ Sơn được chia thành nhiều cụm, xây dựng theo cùng một nguyên
tắc. Kết cấu mỗi cụm gồm có một ngôi đền thờ chính (Kalan), bao quanh bằng những
ngôi tháp nhỏ hoặc công trình phụ. Ngôi đền chính tượng trưng cho núi Meru - trung
tâm vũ trụ, là nơi hội tụ của thần linh và thờ thần Siva. Các đền phụ (miếu phụ) thờ
các vị thần trông coi hướng trời. Ngoài ra còn có những công trình phụ là những ngôi
tháp thường có mái lợp ngói, là nơi khách hành hương sửa lễ, cất giữ đồ tế lễ. Đền thờ
của người Chăm không có cửa sổ, chỉ các công trình tháp phụ mới có cửa sổ.
Đền, tháp Chăm xây bằng gạch, ghép với những mảng trang trí bằng sa thạch.
Chúng được xếp khít với nhau và ngày nay chưa có công trình nghiên cứu nào xác
định được chất kết dính. Sau khi tường tháp được xây lên, những nhà điêu khắc mới
bắt đầu chạm trổ hoa lá, hình người, hình thú lên tháp. Kỹ thuật điêu khắc trên gạch
của người Chăm rất ít xuất hiện trong các nghệ thuật khác ở khu vực.
Mỗi ngôi đền tháp ở Mỹ Sơn có 3 bộ phận chính: đế tháp, thân tháp và mái tháp.
oĐế tháp: theo quan niệm của người Chămpa, đế tháp tượng trưng cho thế giới
trần tục, thường được xây trên nền hình vuông hoặc hình chữ nhật, bằng gạch hoặc đá
phiến to. Xung quanh đế được trang trí các môtip hoa văn, hình con thú, hình người
cầu nguyện đứng trong các vòm cuốn nhỏ…
oThân tháp: cũng theo quan niệm của người Chămpa, thân tháp tượng trưng cho
thế giới tâm linh, nơi con người gột rửa bụi trần được thoát tục để có thể tiếp xúc với
tổ tiên và hoà nhập với thần linh.
23
oMái tháp: mái tháp tượng trưng cho thần linh, thường có ba tầng càng lên cao
càng thu hẹp. Mỗi tầng lại mô phỏng đầy đủ cấu trúc cửa chính và cửa giả giống tầng
dưới và được trang trí những ngẫu tượng, vật cưỡi của các vị thần trong Ấn Độ Giáo
như: chim thần, ngỗng thần, bò thần, voi, sư tử Tầng một và hai ở mỗi góc thường
trang trí các tháp nhỏ.
Về mặt kiến trúc thì các
đền tháp, lăng mộ ở Mỹ Sơn
là nơi hội tụ của các kiểu
dáng khác nhau, từ những

kiểu cổ đại hay kiểu Mỹ Sơn
E1 (thế kỷ 8, Mỹ Sơn E1 và
F1), kiểu Hòa Lai (cuối thế
kỷ 8 - đầu thế kỷ 9, Mỹ Sơn
A2, C7 và F3), kiểu Đồng
Dương (cuối thế kỷ 9 -
đầu thế kỷ 10, Mỹ Sơn A10,
A11-13, B4, B12), kiểu Mỹ
Sơn A1 (thế kỷ 10, Mỹ Sơn B5, B6, B7, B9, C1, C2, C5, D1, D2, D4), kiểu chuyển
tiếp Mỹ Sơn A1-Bình Định (đầu thế kỷ 11 - giữa thế kỷ 12, Mỹ Sơn E4, F2, nhóm K)
và kiểu Bình Định (cuối thế kỷ 11 - đầu thế kỷ 14, Mỹ Sơn B1 và các nhóm G, H).
Nghệ thuật và kiến trúc qua bố
cục đền tháp mang ảnh hưởng lớn của
phong cách Ấn Độ. Khu thánh địa
gồm nhiều cụm tháp, bố cục mỗi cụm
tháp đều có một tháp chính (kalan) ở
giữa và nhiều tháp phụ nhỏ bao bọc
xung quanh. Kalan thường thờ Linga
(sinh thực khí) hay linh tượng Shiva.
Mặt trước mỗi cụm tháp là một tháp
cổng (gopura), tiếp đến tiền đình
(mandapa), hạng mục công trình có chức năng là nơi sắp xếp lễ vật và múa hát nghi
thức hành lễ. Bên cạnh là một kiến trúc luôn quay về hướng Bắc (hướng thần tài lộc
Kuvera), gồm 1 hay 2 phòng, gọi là Kósa Grha dùng để chứa đồ tế nhuyễn và thức ăn
(cỗ) cúng chư thần. Các tháp đều có hình chóp, biểu tượng của đỉnh Meru thần thánh,
nơi cư ngụ của các vị thần Hindu. Cổng tháp thường quay về phía đông để tiếp nhận
ánh sáng Mặt Trời. Nhiều tháp có kiến trúc rất đẹp với hình những vị thần được trang
24
trí với nhiều loại hoa văn. Phần lớn những kiến trúc này hiện nay đã bị suy tàn, nhưng
đây đó vẫn còn sót lại những mảng điêu khắc mang dấu ấn hoàng kim của các triều đại

Chăm pa huyền thoại. Những đền thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một bộ linga hoặc hình
tượng của thần Shiva - thần bảo hộ của các triều vua Chăm pa. Những người cầu
nguyện thời trước thường đi vòng quanh tháp theo chiều kim đồng hồ trên một lối nhỏ.
Cụm tháp A (Kalan Mỹ Sơn A1) thờ 1 bộ Linga, có 6 ngôi đền nhỏ từ A2-A7 đối
xứng nhau bao quanh thờ các vị thần phương hướng (trừ 2 hướng Đông, Tây): hướng
Đông-thần sấm Indra, hướng Đông Nam-thần lửa Agni, hướng Nam-Diêm vương
Yama, hướng Tây-thần bầu trời Varuna, hướng Tây Nam-thần Nairta, hướng Tây Bắc-
thần gió Vayu, hướng Bắc-thần Kuvera, hướng Đông Bắc-thần toàn năng Isána. Tháp
A1 có 2 cửa chính đối diện nhau, quay về 2 hướng Đông và Tây. Bao phía ngoài, xa
tháp chính A1 hơn, là các tháp phụ tương đối lớn, được ký hiệu từ A8-A12, phân bố
trên một mặt bằng vuông vắn.
Đối diện với cụm tháp A, là cụm tháp B (Kalan Mỹ Sơn B1) là cụm tháp trung
tâm của thánh địa Mỹ Sơn.
Mặc dù chịu ảnh hưởng lớn từ Ấn Độ giáo, song biểu tượng của Phật giáo cũng
tìm thấy ở Mỹ Sơn, vì đạo Phật Đại Thừa (Mahayana) đã trở thành tín ngưỡng chính
của người Chăm vào thế kỷ 10. Một số đền
đài đã được xây dựng trong thời gian này,
tuy nhiên vào thế kỷ 17 nhiều tòa tháp ở Mỹ
Sơn đã được tu sửa và xây dựng thêm.
Tại thánh địa Mỹ Sơn có một đền xây
dựng bằng đá, nó cũng là đền đá duy nhất
của các di tích Chăm. Văn bia tại Mỹ Sơn
cho biết, đền này được trùng tu lần cuối
cùng bằng đá vào năm 1234.Nhưng rất tiếc
là xây dựng chưa hoàn thành. Khi người
Pháp khám phá Mỹ Sơn nó có nền như ngày
nay, phía trên là đống gạch khổng lồ mà họ
phải dọn dẹp 2 tháng mới xong. Ngày nay, ngôi đền này đã bị sập (có lẽ do bom Mỹ
trong chiến tranh Việt Nam, vì ngay sát tháp là một hố bom sâu hoắm vẫn dấu tích)
nhưng hệ móng của nó cho thấy nó cao trên 30 m và đây là ngôi đền cao nhất của

thánh địa này. Các tài liệu thu thập được xung quanh khu đền này cho thấy nhiều khả
năng đây là vị trí của ngôi đền đầu tiên vào thế kỷ 4.
Trong số 225 di tích Chăm được phát hiện tại Việt Nam, riêng Mỹ Sơn có
khoảng 70 đền tháp, 32 bi ký tồn tại ở dạng này hay dạng khác. Những đền tháp ở đây
25

×