Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

NHỮNG SUY NGHĨ VÀ KIẾN NGHỊ VỀ QUẢN LÝ KHAI THÁC HỆ THỐNG CÔNG TRÌNH TRONG VÙNG ĐÊ BAO CHỐNG LŨ Ở ĐB SÔNG CỬU LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.07 KB, 6 trang )

NHữNG SUY NGHĩ Và KIếN NGHị Về QUảN Lý KHAI THáC Hệ THốNG
CÔNG TRìNH TRONG VùNG ĐÊ BAO CHốNG Lũ ở ĐB SÔNG CửU LONG
Th.s NGUYễN THANH TUYềN
Th.s Vũ NGọC CHÂU
Cơ sở 2 Đại học Thuỷ lợi
Tóm tắt: Hàng năm, khoảng 1,9 triệu ha đất của Đồng bằng sông Cửu Long bị ngập lũ. Lũ ảnh h-
ởng nghiêm trọng tới sản xuất và đời sống của bà con, song lũ cũng có những tác động tích cực. N-
ớc lũ cung cấp một hàm lợng phù sa lớn, giàu dinh dỡng bồi đắp cho đồng ruộng, cung cấp nguồn
thủy sản phong phú, thau chua, rửa phèn, rửa mặn cải tạo đồng ruộng rất tốt. Từ những năm 1980,
Chính phủ đã đầu t để khai thác, phát triển các vùng đất bị ảnh hởng lũ. Hàng loạt các dự án, công
trình kiểm soát lũ đợc xây dựng. Phần lớn diện tích vùng ngập lũ đã có thể chủ động trong việc
canh tác hai vụ; một số diện tích ở vùng ngập nông đã có thể sản xuất ba vụ. Từ mô hình kiểm soát
lũ tháng tám thành công, một số địa phơng trong vùng ngập đã phát triển hệ thống bờ bao thành hệ
thống đê bao kiểm soát lũ cả năm. Một số các công trình này do thiếu một chế độ điều tiết hợp lý đã
và đang gây nên những ảnh hởng tới môi trờng (suy thoái đất, ô nhiễm nguồn nớc, giảm nguồn lợi
thủy sản, thay đổi chế độ thủy văn, thủy lực) và khả năng phát triển bền vững của vùng. Để giải
quyết các tồn tại này, việc nghiên cứu, tìm giải pháp để khắc phục các tồn tại của hệ thống đê bao
khép kín là nhiệm vụ quan trọng.
Sông Mekong dài 4.200 km, chảy qua 6 nớc là
Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào,
Campuchia và Việt Nam, có diện tích lu vực
795.000 km
2
. Sông Mekong đã tạo nên một vùng
châu thổ rộng 49.367 km
2
, kéo dài từ Krachia
(Campuchia) ra tới biển ĐBSCL, thuộc lãnh thổ
Việt Nam là phần cuối cùng của Châu thổ sông
Mekong, bao gồm 13 tỉnh/thành là Long An, Tiền
Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu


Giang, Sóc Trăng, Bến Tre, An Giang, Kiên
Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và T.P Cần Thơ. Tổng
diện tích tự nhiên toàn Đồng bằng vào khoảng
3,94 triệu ha, chiếm 79% diện tích toàn Châu thổ
và bằng 5% diện tích toàn lu vực sông Mekong.
Sông Mekong là một trong những con sông lớn
trên thế giới, có nguồn tài nguyên nớc phong phú.
Hàng năm, Đồng bằng sông Cửu Long nhận
khoảng 150 triệu tấn phù sa và đang có xu thế
tăng dần lên trong những năm gần đây. Tại Tân
Châu, hàm lợng phù sa bình quân trong mùa lũ
khoảng 800 g/m
3
, trong đó tháng VIII trên 1.000
g/m
3
Lợng phù sa này hàng năm bồi đắp cho
Đồng bằng sông Cửu Long và các bãi bồi ven biển
Đông (đa hình 1 ĐBSCL)
Đồng bằng sông Cửu Long bị chia cắt bởi các
nhánh của sông Mekong ở trung tâm và hai mặt
tiếp giáp biển. Lu lợng trên dòng chính lớn nhất là
về mùa lũ, vào các tháng 9 - 10 hàng năm, dòng lũ
này chảy tràn toàn khu vực và gây ra ngập lụt sâu
cho các tiểu vùng với mức độ ngập khác nhau, tùy
theo đặc điểm địa hình.
Hiện trạng sông ngòi kênh rạch và chế độ dòng
chảy chính trên sông Tiền, sông Hậu cùng với sự
ảnh hởng thủy triều biển Đông và biển Tây đã
phân chia đồng bằng sông Cửu Long thành các

vùng cơ bản nh :
Bảng 1. Phân vùng Đồng bằng sông Cửu Long
TT Vùng Diện tích (ha) Ghi chú
1 Đồng Tháp Mời 820.000Ngập sâu 80%
2 Giữa sông Tiền, sông Hậu 780.000Ngập sâu 40%
3 Tứ Giác Long Xuyên 560.000Ngập sâu 40%
4 Bán Đảo Cà Mau 1.780.000Ngập vừa và ít ngập
5 Đồng bằng sông Cửu long 3.940.000
Từ đặc điểm của các vùng ta thấy dòng
chảy trong cả năm đã tạo nên chế độ ngập cho
từng vùng với mức độ khác nhau, từ ngập
nông đến ngập sâu, có vùng tiêu thoát nhanh,
nhng cũng có vùng tiêu thoát chậm, lũ kéo
dài.
Khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long mang
tính chất gió mùa cận xích đạo, có sự phân
mùa khô-ẩm rất sâu sắc tùy theo hoạt động
của hoàn lu gió mùa. Mùa khô thờng trùng với
mùa ít ma, đây cũng là thời kỳ khống chế của gió
mùa Đông-Bắc kéo dài khoảng từ tháng XI đến
tháng IV năm sau, có khí hậu đặc trng là khô,
nóng và rất ít ma. Mùa ẩm trùng với mùa ma, là
thời kỳ khống chế của gió mùa Tây-Nam kéo dài
từ tháng V đến tháng X, có khí hậu đặc trng là
nóng, ẩm và ma nhiều. Quy luật phân bố này khá
ổn định qua các năm và cũng ít thay đổi theo
không gian, chính vì vậy khí hậu này rất phù hợp
với sự phát triển nông nghiệp (chủ yếu là cây lúa).
Bai 19
1

Từ điều kiện tự nhiên của ĐBSCL, ngời dân
đã lựa chọn một số mô hình canh tác thích
hợp theo dạng chung sống với môi trờng tự
nhiên. Tùy theo điều kiện địa hình, thủy văn,
chất lợng nớc, có thể xây dựng các mô hình
canh tác cho phù hợp.
1. Mô hình canh tác phi công trình
Từ xa xa đến nay, nhân dân ở Đồng bằng
sông Cửu Long đã biết tận dụng tài nguyên
khí hậu này và chế độ dòng chảy (ngập lụt và lợng
cung cấp mùa kiệt) để sản xuất nông nghiệp trong
điều kiện hầu nh phi công trình. Mô hình canh tác
nói chung có dạng nh hình 1. Với mô hình này,
phần lớn diện tích canh tác 3 vụ nếu nh ở vùng
ngập nông: vụ màu, lúa Hè thu và lúa Đông xuân.
Thời điểm xuống giống vụ Đông xuân phụ thuộc
nhiều vào thời gian lũ rút. Ngợc lại, những vùng
ngập lũ sâu thì không thể canh tác đợc 2 vụ, mà
chỉ chủ yếu trồng lúa mùa.
Hình 1. Mô hình thời vụ với điều kiện phi công trình
Với mô hình canh tác nh trên ta đã thấy cơ
cấu mùa vụ nh vậy là khá hợp lý nhng cũng có
một số u, nhợc điểm sau :
Ưu điểm :
Canh tác ít đầu t công trình (phi công
trình),
Tận dụng lợng phù sa rất lớn (khoảng
0,3kg/m
3
),

Phù hợp với mô hình sống chung với lũ
từ bao đời.
Nh ợc điểm :
Chế độ canh tác lạc hậu phụ thuộc vào
thiên nhiên là chủ yếu,
Không phù hợp với sự phát triển của
nhân loại.
Không đảm bảo về lơng thực và xuất
khẩu.
Không cải tạo đợc phèn.
2. Cơ cấu mùa vụ ở những vùng đã đợc
kiểm soát lũ cả năm
Với cơ cấu canh tác mùa vụ phi công trình
nh trên hay còn gọi là hình thái sống chung với
lũ, rất khó để phát triển tốt cho điều kiện dân
sinh kinh tế. Đồng thời, với đờng lối chủ trơng
của Đảng đối với sự nghiệp phát triển đồng
bằng sông Cửu Long đã đợc nêu trong trong các
nghị quyết đại hội Đảng. Tuy nhiên, sự phát
triển của đồng bằng sông Cửu Long đã đợc đầu
t nhng còn dới mức khả năng và tiềm năng của
nó. Để vùng đồng bằng rộng lớn này có thể phát
triển với đúng tiềm năng của nó, chúng ta cần
phải thay đổi một số yếu tố: (i) Hạ tầng cơ sở
vật chất kỹ thuật (chủ động về tiêu thoát lũ và
cấp nớc), (ii) Điều kiện quản lý khai thác từng
vùng, sự liên quan giữa các vùng và toàn vùng,
(iii) Chính sách liên quan đến sản xuất, lực lợng
sản xuất, phát triển giao thông, văn hóa, khoa
học kỹ thuật của nhân dân ở đồng bằng sông

Cửu Long.
Chính vì những xu thế đó mà đồng bằng sông
Cửu Long đã đợc đầu t cho từng vùng và từng
mặt. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ đề
cập tới những tiểu vùng đã đợc chống lũ triệt để.
Những vùng này đã đợc đầu t công trình hoàn
chỉnh với mục tiêu tổng hợp nh thủy lợi, giao
thông, dân c đã đợc đảm bảo và cải thiện. Khi
xây dựng những tiểu vùng này cần phải tránh
những mâu thuẫn giữa thợng lu và hạ lu, phải có
những hành lang thoát lũ, xây dựng các mô hình
sản xuất đa dạng và chế độ quản lý liên vùng
cho hợp lý. Nhất là phải tận dụng đợc những u
điểm của cơ cấu mùa vụ ở hình thức phi công
trình.
Là các vùng có cơ cấu mùa vụ hoàn toàn phụ
thuộc vào thiên nhiên, đến khi có sự đầu t đã
hoàn toàn kiểm soát đợc chế độ lũ và cấp nớc,
cơ cấu mùa vụ đã đợc nâng lên 3 vụ. Năng suất,
sản lợng đợc tăng cao, điều kiện dân sinh, kinh
tế trong vùng đợc cải thiện và phát triển nh ở
vùng Vĩnh Hng, Hồng Ngự - Tỉnh đồng Tháp ;
Tri Tôn - Tỉnh An Giang; Ô Môn Xà No - Tỉnh
Hậu Giang. Trong một số năm vừa qua mặc dù
kiểm soát đợc lũ nhng vấn đề hạn hán lại phát
sinh trong môi trờng sinh thái ở những vùng
này.
Bai 19
2
Do canh tác quanh năm (ngăn lũ hoàn toàn)

sẽ xẩy ra nhiều vấn đề cấp bách cần phải giải
quyết :
a) Ô nhiễm môi trờng trầm trọng trong mùa
lũ ở những vùng dân c do không tiêu thoát đợc
nên đã sinh ra bệnh tật.
b) Đất canh tác bị cằn cỗi do ít đợc phù sa
bồi đắp (do hạn chế lợng lũ tràn đồng, nhất là
vào trung tuần tháng 8)
c) Phát sinh sâu bệnh nhiều hơn nên lợng
thuốc sâu ngày càng tăng
d) Lợng phân bón vô cơ ngày càng tăng
e) Sản lợng và chất lợng gạo giảm, chứa
nhiều hàm lợng độc tố do thuốc sâu và phân bón
gây ra nên khó có thể tiêu thụ và xuất khẩu.

Hình 2. Đặc điểm chế độ mực nớc trong vùng đã đợc kiểm soát
3. Các giải pháp đề xuất
Vấn đề quản lý khai thác triệt để nh hiện nay cần phải thay đổi. Việc thay đổi này phải duy trì đ-
ợc những u điểm của cơ cấu canh tác phi công trình và vẫn phát huy u điểm của hệ thống thủy lợi đã
đợc xây dng hoàn chỉnh, cụ thể là: (i) Vẫn lấy đợc hàm lợng phù sa mùa lũ (bình quân 0,1 - 0,3
kg/m
3
), (ii) Thau chua rửa phèn và làm vệ sinh môi trờng sau một mùa lũ, (iii) Bảo vệ đợc môi trờng
sinh thái, và (iv) Duy trì nguồn thủy sản. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề nghị cơ cấu mùa
vụ nên thay đổi cho một số vùng cụ thể nh ở bảng 2.
Bai 19
3
Bảng 2. Cơ cấu mùa vụ
Nh vậy, là hy sinh vụ mùa trong thời gian lũ
lớn. Sự hy sinh có tính toán này sẽ đa lại nguồn

lợi tốt hơn là không hy sinh (bỏ vụ). Với phơng
án cho lũ tràn đồng (bỏ vụ mùa cao sản) này có
thể xẩy ra các trờng hợp sau:
a) Cho lũ tràn đồng đối với vùng ngập sâu
thời gian dài để lấy phù sa và vệ sinh đồng
ruộng, môi trờng ngay sau khi thu hoạch lúa hè
thu (thờng vào trung tuần tháng 8) tùy theo từng
vùng
Việc cho lũ tràn đồng không phải mỗi năm
một lần mà nên 2 hoặc 3 năm một lần. Chọn vào
những năm lũ lớn hoặc những năm nhu cầu lơng
thực xuất khẩu không cao (do giảm giá) và các
năm trớc đó đợc mùa liên tục. Việc hy sinh một
vụ lúa mùa (cao sản) trong 2 hoặc 3 năm sẽ đem
lại nhiều mặt lợi hơn (nếu có điều kiện nên
nghiên cứu về hiệu quả kinh tế khi cho lũ tràn
đồng theo chu kỳ nào, t = 2 hay 3 năm).
Trong trờng hợp lũ rút chậm, kéo dài ta có
thể sử dụng các giải pháp tiêu bằng động lực
vào cuối mùa lũ để chủ động trong việc canh
tác.
b) Cho lũ tràn đồng đối với vùng ngập vừa
và nông
Với vùng này, ta có cơ cấu mùa vụ nh sau:
Hình 3. Cơ cấu mùa vụ khi cho ngập lũ và tiêu bằng động lực
Hình 4. Cơ cấu mùa vụ tại vùng ngập vừa và nông
Bai 19
4
Với hình thức này cũng đem lại những tác
dụng tơng tự nh vùng ngập sâu: có khả năng lấy

phù sa cải tạo đồng ruộng tốt, thời gian cho lũ
tràn đồng có thể không canh tác hoặc có thể
canh tác lúa mùa chịu ngập, cá tự nhiên ( tùy
điều kiện cụ thể ở từng vùng). Chu kỳ cho lũ
tràn đồng ở vùng này nên từ 1 đến 2 năm /lần ở
những vùng thời gian ngập ngắn và có thể canh
tác sớm vụ đông xuân (nh vậy có thể phát sinh
chi phí nhiên liệu bơm tiêu đầu vụ đông xuân)
Cho lũ tràn đồng là vấn đề nhạy cảm và sẽ có
ý kiến khác nhau, nhng qua thực tế khi đi thị sát
tại đồng bằng sông Cửu Long chúng tôi thấy ng-
ời dân ở đây vẫn mơ ớc về những mùa phù sa
bồi đắp cho đồng ruộng và đầy ắp tôm cá trong
mùa lũ. Việc cho lũ tràn đồng phải có sự liên
hoàn giữa các tiểu vùng, các Huyện - Tỉnh.
Đồng thời phải có sự chỉ đạo thống nhất toàn lu
vực. Có thể phân khu để cho lũ tràn đồng theo
từng năm thay đổi luân phiên cho các vùng để
đảm bảo an toàn lơng thực cho toàn đồng bằng
cũng nh duy trì các yêu cầu khác, cụ thể có thể
chia ra các vùng:
Vùng nam sông Hậu phân lũ ra biển
Tây,
Vùng Đồng Tháp Mời phân lũ ra sông
Tiền và hệ thống sông Vàm cỏ ,
Vùng khu giữa phân lũ ra sông tiền và
sông Hậu.
Kết luận
Việc đầu t các hệ thống thủy lợi hoàn chỉnh để
kiểm soát đợc chế độ nớc cho canh tác chủ động

vụ mùa ở đồng bằng sông Cửu Long là cần
thiết. Nhng việc quản lý khai thác và xây dựng
cơ cấu mùa vụ phải phù hợp với tình hình thực
tế ở đồng bằng sông Cửu Long không nhất thiết
cứ phải chống lũ triệt để và canh tác suốt cả
năm mà không có thời gian bồi bổ cho đất.
Các nghiên cứu về luận cứ này thiết nghĩ là
cần thiết để vùng đất màu mỡ này phát triển một
cách bền vững.
Bài viết này chúng tôi đợc đúc kết qua thời
gian dài công tác trong ngành thủy lợi ở đồng
bằng sông Cửu Long, mặc dù vậy sẽ có nhiều
hạn chế nhất định, rất mong đợc các nhà khoa
học, các nhà thủy lợi quan tâm hợp tác trao đổi.
Khi chúng tôi đang hoàn tất bài viết này thì
báo Tuổi trẻ ra ngày 28/8/2006 đã đa tin Hàng
trăm ngàn ha lúa vụ ba (vụ mùa cao sản) trong
vùng đê bao khép kín ở đồng bằng sông Cửu
Long đã đợc xả lũ trắng đồng. ở Xã Vĩnh Lộc
(An Phú, An Giang) và Thờng Phớc (Tân Hồng,
Đồng Tháp). Việc xả lũ ồ ạt không kèm theo
các biện pháp gia cố bảo vệ đã gây thiệt hại lớn
cho cơ sở hạ tầng.
TàI LIệU THAM KHảO
[1] Cơ sở 2 - Trờng Đại học Thủy lợi. 2005. Nghiên cứu các vấn đề kiểm soát lũ và kinh tế - xã hội -
môi trờng phục vụ phát triển bền vững vùng ĐTM
[2] Phân viện Khảo sát Quy hoạch Thủy lợi Nam bộ. 2005. Quy hoạch Tổng hợp Đồng bằng sông Cửu
Long.
[3] Nguyễn Ngọc Trân. 1990. Báo cáo tổng hợp Đồng bằng sông Cửu Long: Tài nguyên - Môi trờng
- Phát triển. Chơng trình điều tra cơ bản tổng hợp vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Chơng trình 60-

B). ủy ban Khoa học Nhà nớc. Hà nội - Tp. Hồ Chí Minh - ĐBSCL.
[4] Trần Đức. 2006. ĐBSCL: Đê bao bị tàn phá vì xả lũ. Trang 2. Báo tuổi trẻ ngày 28/8/2006.
[5] Trần Đức, Quốc Bảo. 2006. Buộc nông dân trồng lúa ba vụ, bị kiểm điểm. Trang 2. Báo tuổi trẻ
ngày 29/8/2006.
Summary
me. nguyen thanh tuyen
me. vu ngoc chau
Water Resources University
A large area in the Viet Nam's Mekong River Delta is flooded annually. Flooding has serious
negative impacts on production and on the human lives. In the past, the flooded areas were almost
unproductive or planted with very low yield floating rice. However, floods also have positive
effects. Floodwaters carry sediments to enrich the rice fields, increase aquaculture production,
leach toxic ions from acidic soils and generally cleanse the land. Since the 1980s, as the result of
many projects funded by the Government to exploit the flooded area, water control structures have
begun to promote development with a new perspective. Double or triple cropping patterns have
been practiced in the flooded. Water control structures also cause some effect to environment and
quality of agriculture products.
Bai 19
5
Ngêi ph¶n biÖn: ThS. L¬ng Quang X«
Bai 19
6

×