Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

những nhân tố nào đã cản trở cơ hội bình thường hóa quan hệ việt nam – hoa kỳ năm 1977

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.19 KB, 18 trang )

Tiểu luận

Những nhân tố nào đã cản trở cơ hội bình thường
hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ năm 1977

1


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU __________________________________________________________ 3
Chương I: Khái quát bối cảnh chung: ________________________________________ 8
1, Bối cảnh quốc tế và khu vực:. ____________________________________________ 8
2, Bối cảnh trong nước: ___________________________________________________ 9
Chương II: Những nhân tố cản trợ bình thường hóa quan hệ Việt nam – Hoa Kỳ năm
1977: _________________________________________________________________ 11
1, Nhân tố chủ quan: _____________________________________________________ 11
2, Nhân tố khách quan: ___________________________________________________ 13
Chương III: Đánh giá: ___________________________________________________ 15
KẾT LUẬN: ___________________________________________________________ 16
Danh mục tài liệu tham khảo. ______________________________________________ 17

2


LỜI NÓI ĐẦU.
Việt Nam - một quốc gia nhỏ bé nằm trên bán đảo Đơng Dương, với vị trí địa lý
thuận lợi và nguồn tài nguyên vô cùng phong phú là mối quan tâm của rất nhiều cường
quốc. Sau hơn 1000 năm phong kiến phương Bắc đô hộ, chúng ta tiếp tục trải qua cuộc
kháng chiến chống Pháp kháng Nhật. Trong khi đó, ở bên kia Thái Bình Dương, Hoa Kỳ
là cường quốc đứng đầu thế giới cả về kinh tế lẫn quân sự. Hai quốc gia với khoảng cách
lớn về địa lý, vị thế và sức mạnh đã gặp nhau trong một cuộc chiến tranh phi nghĩa: Cuộc


chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ngay sau Hiệp định Giơnevo về chấm dứt chiến tranh ở
Đơng Dương, Hoa Kỳ đã có mong muốn thay chân Pháp tại Việt Nam. Sau 30 năm chiến
đấu ác liệt, Việt Nam đã chiến đấu với một đối thủ hơn về mọi mặt. 30 tháng 04 năm
1975, cả nước hân hoan trong niềm vui chiến thắng, non sông Việt Nam thu về một mối,
thống nhất hai miền, cùng hịa bình và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chiến thắng Đế quốc
Mỹ không chỉ đặc biệt quan trọng với riêng nhân dân ta mà còn mang ý nghĩa quốc tế và
thời đại. Chiến thắng lịch sử đó đã chứng minh rằng một dân tộc nhỏ bé, nghèo nàn và
lạc hậu như Việt Nam nhưng có đủ dũng khí, đủ ý chí đấu tranh đã đánh bại cường quốc
hàng đầu thế giới.
20 năm sau ngày chiến tranh chấm dứt, ngày 11 tháng 07 năm 1995, hai quốc gia
chính thức bình thường hóa quan hệ. Đó là một q trình đấu tranh khơng ngừng của Việt
Nam nhằm phá bỏ cấm vận cũng như các hình thức phản động khác để đi đến bình
thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Về phía Hoa Kỳ, chúng ta ghi nhận những nỗ
lực đặc biệt dưới thời chính quyền Tổng thống Bill Clinton. Trong giai đoạn này hai quốc
gia đã bình thường hóa quan hệ, mở rộng quan hệ thương mại, phát triển mối quan hệ
trên mọi mặt và ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh. Tuy nhiên, phải chăng cho đến tận
năm 1995, hai quốc gia mới có cơ hội xóa đi những rào cản trong quá khứ để tiến tới một

3


mối quan hệ mới tốt đẹp hơn? Câu trả lời là Không. Trong suốt 20 năm sau chiến tranh,
quan hệ hai quốc gia đã trải qua nhiều thay đổi có lúc căng thẳng, có lúc hịa dịu. Một
trong những giai đoạn khá tích cực trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ sau chiến tranh có
thể nói đến, đó chính là những nỗ lực bình thường hóa quan hệ đầu tiên từ cả hai phía
dưới thời Tổng thống Carter, năm 1977.
Chính sách của Tổng thống Carter có điểm ưu tiên bình thường hóa quan hệ với
Việt Nam, đó là cách mà Mỹ có thể ngăn chặn tầm ảnh hưởng của Liên Xơ và Trung
Quốc tại Việt Nam nói riêng và tại Đơng Nam Á nói chung. Trước khi lên nhậm chức
Tổng thống, Tổng thống Carter đã thông qua Liên Xô chuyển đến Chính phủ Việt Nam

đề nghị ba điểm về kế hoạch bình thường hóa i. Những động thái đầu tiên của Hoa Kỳ thể
hiện thiện ý muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam là việc Hoa Kỳ không sử dụng
quyền phủ quyết (Veto) ngăn cản việc Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc
và phái đoàn do Thượng nghị sĩ Woodcock dẫn đầu đã sang thăm và làm việc tại Việt
Nam. Ngày 5 tháng 10 năm 1977, Tổng thống Carter đã chúc mừng Việt Nam đã trở
thành thành viên Liên Hợp Quốc. Sau đó, hai bên đã có các cuộc đàm phán thương lượng
ở Paris (ba vòng) và ở New york ( một vòng) trong năm 1977 về tiến trình bình thường
hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Về phía mình, Việt Nam cũng thể hiện mong muốn
bình thường hóa với Hoa kỳ để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, mở rộng quan hệ thương mại
buôn bán, làm động lực phát triển nền kinh tế cịn non kém lạc hậu. Chúng ta khơng
ngừng nhân nhượng, dần dần rút hết các điều kiện cho việc bình thường hóa ( bao gồm cả
khoản bồi thường 3,25 tỷ đô-la khôi phục lại Việt Nam). Tuy nhiên, trong q trình đàm
phán, hai bên đã khơng đi đến điểm chung lại chịu sức ép quá lớn từ Quốc hội Hoa Kỳ,
chính phủ Carter đã chính thức dừng lại kế hoạch bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Thay vào đó, sau giai đoạn này quan hệ hai nước trở nên căng thẳng bởi những chính
sách cấm vận của Hoa Kỳ áp đặt đối với Việt Nam.Có thể nói năm 1977 là một cơ hội
hiếm có cho cả hai quốc gia bình thường hóa quan hệ ngay sau chiến tranh tạo điều kiện
phát triển tốt đẹp cho cả hai nhưng cơ hội đó đã khơng trở thành sự thật. Vậy, những
nhân tố nào đã cản trở cơ hội bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ năm
i

Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB Chính trị quốc gia, trang 313.

4


1977? Trước bối cảnh thế giới có nhiều biến chuyển cũng như những thay đổi phức tạp
trong xã hội Việt Nam và Hoa Kỳ, có thể phân tích các nhân tố đó trên hai khía cạnh:
Nhân tố chủ quan ( những nhân tố xuất phát từ phía Việt Nam) và Nhân tố khách quan (
những nhân tố xuất phát từ các yếu tố bên ngồi như Hoa Kỳ, Liên Xơ).

* Tóm tắt nội dung:
Về những nhân tố nội tại xuất phát từ phía Việt Nam, hai năm sau cuộc chiến đấu
gian khổ chống lại chủ nghĩa Đế quốc mà cụ thể hơn là trực tiếp chống lại kẻ thù Mỹ,
chúng ta chưa kịp thời có những chuyển biến về tư duy để bắt kịp với xu thế phát triển
mới của thế giới. Đi sâu vào phân tích Báo cáo chính trị Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ IV năm 1976 do đồng chí Lê Duẩn phát biểu, nhấn mạnh liên tục và mạnh mẽ việc “
tiếp tục đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới đứng đầu là Đế
quốc Mỹ” i. Thêm vào đó, chúng ta tiếp tục theo đuổi tư duy hai phe, hai cực, đấu tranh
và hợp tác một chiều; coi Hoa Kỳ là Đế quốc đầu sỏ âm mưu bá quyền thế giới, phá hoại
hịa bình và tiến bộ thế giới. Ta chủ động mở rộng quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa
anh em, coi “sức mạnh thời đại chúng ta là sức mạnh tổng hợp của ba dịng thác cách
mạng” ii. Khi các quốc gia khác khơng ngừng mở rộng quan hệ quốc tế trên mọi mặt với
mọi đối tác, Việt Nam chưa kịp thời thay đổi những tư duy cũ trên mà tiếp tục tư duy ỷ
lại các nước xã hội chủ nghĩa anh là do yếu tố ý thức hệ. Bên cạnh đó, yếu tố nhận thức
của các nhà lãnh đạo Việt trong giai đoạn này cũng đóng vai trị quan trọng trong kế
họach bình thường hóa quan hệ hai quốc gia. Như đã nói ở trên, năm 1977 Việt Nam
chưa bắt kịp được với sự thay đổi của khu vực và thế giới nên chưa có những điều chỉnh
hợp lý trong chính sách với từng đối tượng cụ thể. Sau chiến thắng lẫy lừng tháng 4 năm
1975, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia “đáng lo ngại” ở ĐÔng Nam Á. Các
nước láng giềng, đặc biệt là các nước ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam lo ngại
dân tộc nhỏ bé này có thể có những hành động trả đũa hoặc đe dọa an ninh các nước nói
riêng, an ninh khu vực nói chung. Các quốc gia ASEAN chủ trương bình thường hóa
quan hệ với Đơng Dương nhưng chúng ta còn cân nhắc sự “trung lập thực sự” của các
i
ii

Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IV năm 1976, Lê Duẩn, NXB Sự thật năm 1977, trang 169.
Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV năm 1976, Lê Duẩn, NXB Sự thật năm 1977, trang 176.

5



quốc gia đó. Các nhà lãnh đạo Việt Nam chưa hiểu rằng các quốc gia hành động vì lợi ích
tối cao của dân tộc và tầm quan trọng của ASEAN đối với Việt Nam. Lợi ích của họ tại
khu vực, trong mối quan hệ với Việt Nam mới là mối quan tâm của các quốc gia trong
giai đoạn này. Đối với các đối tượng khác, ta chưa đánh giá hết ý đồ chiến lược của Liên
Xô, Mỹ hay Trung Quốc. Ta tiếp tục giữ thái độ ỷ lại, trông chờ vào các nước xã hội chủ
nghĩa như trong giai đoạn chiến tranh.Điều này vô cùng tại hại khi các quốc gia Đông Âu
và ngay cả Liên Xô cũng bắt đầu nghĩ đến hịa hỗn Mỹ, Trung và phương Tây để tranh
thủ điều kiện thuận lợi, tập trung phát triển kinh tế. Đối với Trung Quốc, ta chỉ nhấn
mạnh đấu tranh, bỏ qua mặt tranh thủ hợp tác i. Đối với Mỹ, ta tập trung đấu tranh chống
Mỹ, chống chủ nghĩa tư bản do Mỹ cầm đầu. Thêm vào đó, ta gay gắt trong việc đòi Mỹ
khắc phục hậu quả sau chiến tranh mà không chiếu đến thể diện nước lớn cũng như
những nhạy cảm trong nội bộ nước Mỹ. Chính việc khơng tìm hiểu kỹ và khơng nắm bắt
rõ tình hình nước Mỹ đã khiến Việt nam bị động, khơng có những thay đổi phù hợp với
xu thế mới.
Bên cạnh những nhân tố trong lịng Việt Nam, khơng thể khơng đề cập đến những
nhân tố bên ngoài đã cản trở cơ hội bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ năm 1977. Có
nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội hình thường hóa nói trên.
Nhưng, sự thật là liệu về phía mình, Hoa Kỳ có thực sự có thiện chí bình thường hóa hay
khơng? Trong giai đoạn này, nội bộ Hoa Kỳ đã có những chia rẽ rõ nét về chính sách
bình thường hóa. Một làn sóng khơng nhỏ những người phản đối bình thường hóa quan
hệ với Việt Nam đã gây sức ép lên chính quyền Carter. Quốc hội liên tục có những sửa
đổi luật để ngăn chặn việc Hoa Kỳ sẽ đền bù sau chiến tranh cho Việt Nam, điều kiện để
bình thường hóa. Chưa dừng ở đó, trong nội bộ Mỹ, hai phe ủng hộ bình thường hóa với
Trung Quốc và với Việt Nam đã có những mâu thuẫn nhất định. Phe ủng hộ bình thường
hóa với Trung Quốc do Cố vấn an ninh quốc gia Brzezinski đã thắng và Mỹ đã sử dụng “
con bài Trung Quốc” như một cách giữ cán cân cân bằng với Liên Xơ. Chính vì thế, bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam đi vào ngõ cụt. Vai trị của Liên Xơ trong giai đoạn
này khơng phải là nhỏ. Với Việt Nam, quan hệ với Liên Xơ ln là hịn đá tảng trong

i

Nhìn lại Chính sách đối ngoại Việt Nam trong thời kì đổi mới 1986 – 2000, Bộ ngoại giao.

6


chính sách đối ngoại. Chính mối quan hệ đồng minh quan trọng của Việt Nam và Liên
Xơ đã nhanh chóng bị phe đối lập của Brzezinski chớp lấy như một bằng chứng cho việc
Hà nội là chính phủ thân Liên Xơ. Mỹ coi đó như một “lý do chính đáng” cho việc chấm
dứt q trình bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ đang có những dấu hiệu tốt đẹp đầu
tiên.
* Bài tiểu luận được phân bố như sau:
Chương I: Khái quát bối cảnh chung:
Nêu rõ bối cảnh quốc tế và khu vực cũng như tình hình kinh tế xã hội Việt Nam để
làm rõ những thay đổi và những biến chuyển cơ bản đã tác động đến các đối tượng như
thế nào.
Chương II: Những nhân tố cản trở bình thường hóa quan hệ Việt nam – Hoa
Kỳ năm 1977.
Câu hỏi được trả lời qua hai khía cạnh: những nhân tố chủ quan từ phía Việt Nam
và những nhân tố khách quan do tác động từ bên ngoài.
Chương III: Đánh giá, nhận xét.
Trong khuôn khổ của bài tiểu luận, do những hạn chế về khả năng tìm hiểu cũng
như nguồn tài liệu tham khảo còn chưa phong phú, bài tiểu luận chắc chắn khơng tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những đóng góp của thầy cơ và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, ngày 25 tháng 04 năm 2009.

7



Chương I: Khái quát bối cảnh chung:
1, Bối cảnh quốc tế và khu vực:.
* Thế giới:
Từ giữa những năm 1970 tình hình thế giới diễn ra có nhiều biến động trên các
mặt: chính trị, kinh tế và quan hệ quốc tế. Đó là bước khởi đầu cho một loạt những bước
ngoặt trong đời sống chính trị và kinh tế những năm sau đó.
Nét nổi bật đầu tiên trong giai đoạn này chính là bước phát triển vượt bậc của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ, nhiều quốc gia bắt đầu chuyển đổi, cơ cấu lại nền kinh
tế. Các thành tựu này đã tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống, đến mọi quốc gia
cũng như các mối quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại của từng nước.
Sau những tác động mạnh mẽ của khủng hoảng kinh tế, các quốc gia đều điều
chỉnh chính sách, tập trung khắc phục các vấn đề nội bộ, củng cố ảnh hưởng và vị thế
quốc gia. Mỹ, sau sự suy giảm cả thế và lực, đã thúc đẩy hịa hỗn với các đối thủ chính,
tập trung ưu tiên giải quyết các vấn đề trong nước. Trung Quốc có những bước cải cách
nền kinh tế với phương châm giữ vững cục diện ổn định chính trị. Các quốc gia đặt lợi
ích quốc gia, đặc biệt là lợi ích kinh tế lên cao nhất, thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế
ngày càng mở rộng.
Tình hình kinh tế xã hội và quan hệ giữa các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa
đã xuất hiện những dấu hiệu không thuận lợi. Tốc độ phát triển kinh tế của các nước xã
hội chủ nghĩa Châu Âu, đặc biệt là Liên Xô giảm sút nhanh chóng, kế hoạch đuổi kịp Mỹ
về kinh tế là điều khơng tưởng. Những khó khăn về kinh tế đã dẫn đến những bất ổn về
chính trị và xã hội.Các quốc gia ở Đơng Âu đã có nhiều thay đổi trong tư duy và nhận
thức. Khủng hoảng lên đến đỉnh điểm với mâu thuẫn Xô – Trung xuất phát từ lợi ích
riêng biệt của mỗi quốc gia.
Đây được xem là thời kỳ vừa đấu tranh vừa hợp tác trong cùng tồn tại hịa bình
giữa các nước lớn, đồng thời cũng là thời kỳ chuyển từ hệ thống thế giới hai phe hai cực
sang đa cực hóa. Trung Quốc tách khỏi phe Xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu, bắt
đầu cải thiện quan hệ với Mỹ để hình thành cục diện ba nước lớn: Mỹ - Liên Xô – Trung


8


Quốc chi phối cơng việc quốc tế i. Chính trị thế giới cũng như quan hệ quốc tế có những
thay đổi mang tính bước ngoặt, tạo đà phát triển cho những giai đoạn tiếp theo.
* Khu vực Đông Nam Á:
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã
chấm dứt tình trạng chiến tranh kéo dài trong khu vực Đông Nam Á nhiều thập kỉ qua.
Các nước lần đầu tiên đang đứng trước cơ hội có được hịa bình, ổn định để phát triển
kinh tế. Các nước Đơng Nam Á điều chỉnh chính sách nhấn mạnh hịa bình, trung lập,
duy trì và tăng cường quan hệ với Mỹ, Nhật Bản và các nước phương Tây khác, đồng
thời từng bước cải thiện quan hệ với các nước trên bán đảo Đông Dương, với Liên Xô,
Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác ii. Liên Xơ và Trung Quốc là hai cường
quốc nhanh chóng tận dụng để mở rộng ảnh hưởng của mình tại khu vực của ngõ
này.Liên Xô với tư cách anh cả trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã không ngừng giúp đỡ
Việt Nam khắc phục hậu quả sau chiến tranh.Về phía mình, thuận lợi về mặt vị trí địa lý,
Trung Quốc không ngừng gia tăng ảnh hưởng để thay chân Mỹ tại các quốc gia Đông
Nam Á.
Trước những thay đổi lớn trên thế giới nói trên, Việt Nam khơng thể tiếp tục giữ
cái nhìn như trước 1975, chúng ta cần thay đổi tư duy và quan điểm để nhanh chóng theo
kịp những phát triển của thời đại mới.

2, Bối cảnh trong nước:
Với Đại thắng mùa Xuân 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân
dân ta đã kết thúc thắng lợi. Đây là một trong những chiến thắng lịch sử lẫy lừng nhất của
dân tộc Việt Nam, đánh bại đế quốc Mỹ - một đế quốc có thế lực kinh tế, quân sự. Một
kỷ nguyên mới được mở ra: Kỷ nguyên độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi đó đã nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, ta tranh thủ
thời điểm thuận lợi này để mở rộng quan hệ quốc tế cũng như hợp tác kinh tế với các
nước trên thế giới.


i
ii

Giáo trình lịch sử Quan hệ quốc tế 1945 – 1990, Học viện quan hệ quốc tế, trang 294.
Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội 2002, trang 294.

9


Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi nói trên, đất nước ta phải đương đầu với
những khó khăn và phức tạp, đặc biệt về lĩnh vực kinh tế.Kinh tế miền Bắc chủ yếu vẫn
là sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, cơ chế quản lý vốn nặng về tập trung quan liêu bao
cấp. Việc chấn chỉnh lại cơ chế quản lý kinh tế cho phù hợp với quy luật vận động hết
sức khó khăn. Đối với miền Nam, do chính sách thực dân kiểu mới, yếu tố tư bản chủ
nghĩa (TBCN) đã xâm nhập mạnh vào các ngành công nghiệp, thương nghiệp, tài chính
ngân hàng...và bước đầu trong nơng nghiệp. Trong chừng mực nhất định, kinh tế ở các
vùng bị tạm chiếm đã phát triển theo hướng TBCN nhưng vẫn là sản xuất nhỏ, cơ cấu
mất cân đối và lệ thuộc nặng nề vào viện trợ bên ngồi. Đó là chưa kể đến khó khăn ở
những vùng bị tàn phá bởi chiến tranh, bị hủy diệt bởi chất độc hóa học. Sau giải phóng,
miền Nam cịn có sự phức tạp về mặt xã hội.Chiến tranh và quá trình cưỡng bức đơ thị
hóa của Mỹ đã gây xáo trộn trong phân bố lực lượng lao động. Sau chiến tranh, quần
chúng nhân dân rất phấn khởi, nhanh chóng bắt tay vào xây dựng chế độ mới, nhưng
cũng cịn một bộ phận kích động, lơi kéo quần chúng, móc nối với các thế lực phản động
bên ngoài, gây rối loạn trong nước.Những tệ nạn do chế độ thực dân mới của Mỹ để lại
cũng rất nặng nề như ma túy, lưu manh, bụi đời, mại dâm... ; số người thất nghiệp, đặc
biệt là số người mù chữ chiếm tỷ lệ lớn trong dân cư.
Ngồi những khó khăn nội bộ, Việt Nam cịn phải đấu tranh để chống lại bao vây
cô lập từ bên ngoài. Các thế lực thù địch liên tiếp phối hợp để chống phá nước ta, các mối
quan hệ với láng giềng có nhiều trắc trở. Sau khi Miền Nam hồn tồn giải phóng, Mỹ đã

mở rộng lệnh cấm vận ra toàn bộ lãnh thổ Việt Nam thống nhất, tiến hành phong tỏa tài
sản của Việt Nam ở Mỹ,...
Việt Nam trong giai đoạn này phải phát huy hết sức mình để “vừa chống thù trong,
vừa chống giặc ngoài”, vừa tranh thủ những thuận lợi đồng thời đối phó với khó khăn
phức tạp không thể lường trước.

10


Chương II: Những nhân tố cản trợ bình thường hóa quan hệ Việt
nam – Hoa Kỳ năm 1977:
1, Nhân tố chủ quan:
a/ Yếu tố ý thức hệ:
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV họp trong bối cảnh nhân dân ta đã vượt qua
những thử thách, giành được thắng lợi vẻ vang. Tổ quốc Việt Nam đã thống nhất, các
mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập thống nhất, thực
hiện chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ tư họp từ
ngày 14 đến ngày 20 tháng 12 năm 1976 tại thủ đô Hà nội, 1008 đại biểu thay mặt hơn 1
triệu Đảng viên của 38 Đảng bộ tỉnh, thành và các cơ quan trực thuộc trung ương trong cả
nước. Đến dự đại hội có 29 đồn đại biểu các Đảng cộng sản, Đảng cơng nhân của phong
trào giải phóng dân tộc và các tổ chức quốc tế. Đồng chí Lê Duẩn thay mặt ban chấp
hành Trung ương đã trình bày báo cáo chính trị với Đại hội. Đại hội đã tổng kết những
bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Giai đoạn này cả nước ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Tuy nhiên, cũng trong Báo cáo chính trị tại Đại hội này, Đảng ta đã tiếp tục thể
hiện những tư tưởng cũ đó là tư tưởng hai phe hai cực, đấu tranh và hợp tác một chiều
trong khi hầu hết các quốc gia khác đều đã có những bước chuyển trong chính sách đối
ngoại để phù hợp với tình hình mới; nhấn mạnh tư tưởng đấu tranh chống đế quốc mà cụ
thể Mỹ là đế quốc đứng đầu. Tại đại hội, đồng chí Lê Duẩn cho biết : “ Chủ nghĩa đế

quốc do Mỹ cầm đầu ra sức chuẩn bị cho chiến tranh thế giới mới, tìm mọi cách phản
kích phong trào cách mạng hịng giành lại những vị trí đã mất, đè bẹp phong trào giải
phóng dân tộc và ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.” i. Có thể nói vào giai
đoạn này, các quốc gia bắt đầu có những thay đổi mạnh mẽ trong quan hệ đội ngoại mở
rộng các mối quan hệ quốc tế, phục vụ cho lợi ích tối cao của dân tộc. Lấy ví dụ với Nhật
Bản, trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản và Mỹ đứng hai bên chiến tuyến.

i

Báo cáo chính trị Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Lê Duẩn, Nhà xuất bản Sự thật, Hà nội 1977, trang 171.

11


Nhưng, ngay sau khi kết thúc chiến tranh, để huy động hết sức người sức của cho việc tái
thiết Nhật Bản những nhà soạn thảo chính sách của Nhật đã ngay lập tức bình thường hóa
với Mỹ, thúc đẩy phát triển kinh tế. Vậy tại sao Nhật có thể ngay lập tức hợp tác với Mỹ
để tập trung phát triển kinh tế trong khi giai đoạn này Việt Nam hoàn tồn có đầy đủ điều
kiện để thực hiện điều đó, chúng ta đã bỏ qua? Câu trả lời ở đây chính là do vào giai đoạn
này, những nhà lãnh đạo Việt Nam còn nặng tư duy hai phe hai cực, đấu tranh giai cấp,
nêu cao tinh thần cộng sản trong khi các quốc gia khác đặt lợi ích quốc gia lên đầu.
Chúng ta tiếp tục cho rằng “những mục tiêu của thời đại ngày nay gắn chặt với nhau
trong cuộc đấu tranh chung của ba dòng thác cách mạng hợp thành cao trào cách mạng vĩ
đại và đang ở thế tiến công, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào Chủ nghĩa đế quốc”i. Chúng ta
quên đi rằng mục tiêu cao nhất của Việt nam lúc này là củng cố hịa bình, tập trung xây
dựng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.Chúng ta chưa kịp nắm bắt được trào lưu quốc
tế đã chuyển từ đối đầu sang hịa hỗn, chạy đua kinh tế để tranh thủ các nhân tố thuận
lợi phục vụ công cuộc hàn gắn chiến tranh, kiến thiết đất nước. Trong khi chúng ta còn
đang vẫy vùng với cơn khủng hoảng trong nước, đối phó với cấm vận ngồi nước thì các
nước khác đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội quốc tế, vươn lên làm khoảng cách giữa ta và

họ ngày càng xa. Nếu thay đổi tư duy từ những năm 1976 có lẽ Việt Nam đã tranh thủ cơ
hội này bình thường hóa quan hệ với Mỹ, thúc đẩy phát triển trao đổi thương mại. Có thể
nói những hệ tư tưởng cũ đã kéo lùi sự phát triển của Việt Nam và cũng là một trong
những nguyên nhân trì hỗn q trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ.
b/ Nhận thức của lãnh đạo:
Không thể phủ nhận một trong những yếu tố quan trọng cản trở cơ hội bình
thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ năm 1977 chính là việc các nhà lãnh đạo Việt
Nam chưa có những đánh giá chính xác và phù hợp với tình hình lúc bấy giờ. Như đã nói
ở trên, khi các nước đã bắt tay phát triển kinh tế, chúng ta vẫn mải mê với “ tinh thần
quốc tế vơ sản” với “ba dịng thác cách mạng” với “cuộc tiến cơng vào chủ nghĩa đế

i

Giải thích một số từ ngữ trong báo cáo chính trị Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nhà xuất bản Sách giáo
khoa Mac – Lenin 1978, trang 246.

12


quốc.” . Ta chưa kịp thời nhận ra những thay đổi về chiến lược của các cường quốc đối
với Việt Nam.
Vấn đề thứ hai đó chính là điều kiện bình thường hóa do Việt Nam đề ra năm 1977
liên quan đến việc Mỹ buộc phải bồi thường hậu quả chiến tranh và khôi phục Việt Nam.
Ngay sau chiến tranh, tháng 9 năm 1975 Thủ tướng Phạm Văn Đồng công bố: Việt Nam
sẵn sàng thiết lập quan hệ hịa bình với Mỹ trên cơ sở Hiệp định Paris năm 1973 (điều
21), đòi hỏi Mỹ thực hiện lời hứa của Tổng thống Nicxon trong một công hàm gửi ngày 1
tháng 2 năm 1973. Mỹ hứa sẽ cung cấp 3.25 tỉ đôla xây dựng lại Việt Nam sau chiến
tranh mà không kèm theo bất cứ điều kiện chính trị nào. Sau thất bại tại Việt Nam, Mỹ đã
bị tổn thất nặng nề cả về kinh tế và chính trị. Ảnh hưởng của Mỹ khơng cịn được như
trước, vị thế bị giảm sút và ngay trong nội bộ, chính phủ Mỹ bị phản đối gay gắt. Trước

tình hình đó,chính phủ Carter ra sức hàn gắn vết thương Việt Nam ở cả hai quốc gia.
Song với tư cách là một cường quốc, Mỹ không dễ dàng bồi thường chiến tranh cho Việt
Nam một cách công khai, làm như vậy là Mỹ đã tự nhận sai lầm về mình. Tuy nhiên, lãnh
đạo Việt Nam vẫn kiên trì theo đuổi mục tiêu địi bồi thường từ phía Mỹ mà không quan
tâm đến vấn đề thể diện cường quốc của Mỹ. Chính quyền của Tổng thống Carter vẫn đề
ngỏ việc sẽ bồi thường cho Việt Nam khôi phục kinh tế cũng như các nguồn viện trợ
khác theo điều 21 Hiệp định Paris qui định cũng như theo công hàm của Tổng thống
Nicxon nhưng điều đó khơng được phía Việt Nam chấp nhận và ta coi việc bồi thường đó
như một điều kiên tiên quyết cho giải pháp bình thường hóa. Khơng thể phủ nhận rằng
thái độ q kiên quyết của các nhà lãnh đạo Việt Nam trong vấn đề này đã khơng làm dịu
đi tình hình mà trái lại đã không đem đến kết quả tốt đẹp nào cho nỗ lực của cả hai bên.

2, Nhân tố khách quan:
a/ Hoa Kỳ:
Ngồi những nhân tố mang tính chủ quan xuất phát từ phía Việt Nam nói trên,
khơng thể phủ nhận vai trò của đối tượng còn lại trong mối quan hệ này. Mặc dù ngay từ
đầu, chính quyền Carter đã có những động thái rất tích cực có thể nói hồn tồn thiện ý
để thể hiện mong muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Song đấy chỉ là cách

13


nhìn trên quan điểm nước Mỹ, đi sâu vào phân tích những nhân tố trong lịng nước Mỹ
trong suốt q trình đàm phán để đi đến bình thường hóa, ta sẽ thấy một bộ phận không
nhỏ trong nội bộ Hoa Kỳ đã có tác động rất lớn và tiêu cực vào việc bình thường hóa
quan hệ hai nước.
Sau nhiều vịng đàm phán mà chưa đi đến kết quả, Việt Nam đã chủ động điều
chỉnh điều kiện bình thường hóa để thể hiện thiện ý của mình. Cụ thể là chúng ta đã
khơng gay gắt địi hỏi 3,25 tỉ đơ-la Mỹ bồi thường và hàn gắn vết thương sau chiến tranh.
Ngay sau vịng đàm phán bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đầu tiên diễn ra

tại Paris tháng 5 năm 1977, làn sóng phản đối bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ đã vin
vào điều kiện đòi bồi thường của Việt nam để gây sức ép. Những người chống bình
thường hóa trong Quốc hội Mỹ đã nhanh chóng ngăn chặn nỗ lực ngoại giao của chính
quyền. Quốc hội Mỹ đã thông qua một sửa đổi đạo luật về viện trợ nước ngoài với số
phiếu áp đảo (266/131) i. Sửa đổi này ngăn cấm chính qun Mỹ khơng được đàm phán
đền bù chiến tranh, viện trợ, hoặc bất kỳ hình thức chi trả nào với Việt Nam. Trước tình
hình căng thẳng trên, Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Cyrus Vance đã tuyên bố Hoa Kỳ sẽ
không trả Việt Nam bất kỳ khoản đền bù chiến tranh nào. Đến tháng sáu Hạ viện tiếp tục
thông qua một sửa đổi đạo luật viện trợ khác. Trước sức ép của Quốc Hội Tổng thống
Carter khơng những từ bỏ nỗ lực bình thường hóa với Việt Nam mà thậm chí cịn rút lại
những lời hứa viện trợ ii. Chính nội bộ Mỹ mà cụ thể là Quốc hội đã gây sức ép ngăn
chặn nỗ lực ngoại giao của chính phủ Carter.
Trong hồi ký của mình, Tổng thống Carter đã viết “ Bước đi với Trung Quốc có
tầm quan trọng tối cao, cho nên sau vài tuần đánh giá, tơi quyết định hỗn cố gắng về
Việt Nam cho đến khi ký Hiệp định của chúng ta ở Bắc Kinh.”iii Về phía Mỹ có thể nói
ván cờ mới của Carter là quan hệ Mỹ - Trung. Trong tranh luận hai phe một bên là bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam, một bên là bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc,
Mỹ đã chọn Trung Quốc phục vụ cho chiến lược lâu dài của mình. Trong nội bộ Mỹ xuất
hiện hai phe rõ rệt : Bộ trưởng Bộ ngoại giao Mỹ Vance – một người ủng hộ mạnh mẽ
i

Nayan Chanda, Brother Enemy: the war after the war, Collier Books 1988, trang 153.
Chính sách đối ngoại Việt Nam tập II (1986 – 2006), Học viện quan hệ quốc tế, trang 360.
iii
Trích : Hồi Ký Carter.
ii

14



bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và phe của Cố vấn an ninh quốc gia Brzezinski ủng hộ bình thường hóa với Trung Quốc. Brzezinski cho rằng Mỹ phải có đường lối cứng
rắn chống lại Liên Xơ, ngăn chặn sự lan rộng ảnh hưởng của Liên Xô tại Châu Á bằng
“con bài Trung Quốc”. Ở Đông Nam Á Mỹ phải ủng hộ Trung Quốc để chống lại chính
phủ thân Liên Xô ở Hà nội. Ngược lại, Ngoại trưởng Vance muốn duy trì hịa dịu với
Liên Xơ, ổn định Đơng Nam Á bằng việc bình thường hóa quan hệ với Hà nội. Cơ hội
bình thường hóa của Việt Nam hồn tồn khơng cịn hi vọng khi ưu thế nghiêng về phe
của Brzezinski. Mỹ cần Trung Quốc để cân bằng ảnh hưởng với Liên Xô ở khu vực này.
b/ Liên Xô :
Từ cuối năm 1977, tầm ảnh hưởng của Liên Xô đã lan rộng ra nhiều khu vực trên
thế giới. Có thể nói việc Việt Nam hợp tác với bất cứ quốc gia nào là hồn tồn bình đẳng
và phù hợp với luật pháp cũng như thông lệ tập quán quốc tế, Hoa Kỳ khơng có bất cứ lý
do nào để vin vào đó hủy bỏ việc bình thường hóa với Việt Nam. Tuy nhiên, ký kết Hiệp
ước với Việt Nam có nghĩa là Liên Xơ đã đặt một chân vào Đông Nam Á, khu vực mà
xưa nay nước Nga Xơ Viết ln mong muốn có tầm ảnh hưởng. Trung Quốc mà đặc biệt
là Mỹ lo ngại sự gia tăng ảnh hưởng của Liên Xơ ở khu vực này có thể ảnh hưởng tới vị
thế cường quốc của mình. Mỹ lấy cớ đó để trì hỗn việc bình thường hóa quan hệ với
Việt Nam. Về sau, chính phía Mỹ cho rằng một trong những nguyên nhân để Mỹ cấm
vận Việt Nam chính là việc Việt Nam thân thiện với Liên Xô và đe dọa an ninh khu vực
Asean đặc biệt là Thái Lan i.

Chương III: Đánh giá:
Chính quyền Carter đã có những nỗ lực đầu tiên trong việc bình thường hóa với
Việt Nam, về phía Việt Nam chúng ta cũng đã thể hiện những thiện ý mong muốn hợp
tác. Tuy nhiên, năm 1977 cơ hội đó chưa trở thành hiện thực là một điều đáng tiếc cho
mối quan hệ hai quốc gia. Dựa trên những phân tích ở trên, có thể thấy rất nhiều yếu tố
bên trong cũng như tác động bên ngoài đã khiến cho hai quốc gia bỏ qua cơ hội này. Mỗi
i

Nhìn lại Chính sách đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 1986 – 2000, Bộ ngoại giao.


15


quốc gia đều có những tính tốn riêng cho lợi ích quốc gia của mình, chính vì vậy khi lợi
ích quốc gia bị trùng lặp bị mâu thuẫn, hai quốc gia sẽ không gặp được điểm chung khi
ngồi vào bàn đàm phán. Những cản trở q trình bình thường hóa hồn tồn có thể tránh
được nhưng hai quốc gia vào lúc bấy giờ cịn có nhiều tồn tính riêng dẫn đến mâu thuẫn
khơng thể giải quyết. Về phía mình, Việt Nam khơng kịp có những chuyển hướng trong
tư duy, chưa nhận thấy những thay đổi chiến lược của các bên dẫn đến sai lầm trong
đường lối chính sách đối ngoại. Các tác động bên ngoài như từ nội bộ nước Mỹ, yếu tố
Liên Xơ cũng có những tác động nhất định đối với viêc bình thường hóa. Những cản trở
năm 1977 được xem xét như một bài học để từ đó rút ra kinh nghiệm. Từ đó, chúng ta có
thể tránh được những sai lầm đáng tiếc đó.

KẾT LUẬN
Việt Nam và Hoa Kỳ đã có mối quan hệ rất lâu trong lịch sử, có những giai đoạn
quan hệ hai nước đối đầu căng thẳng nhưng cũng có những giai đoạn hai quốc gia hòa dịu
và hợp tác. Năm 1977 được xem là một trong những thời điểm tích cực của mối quan hệ

16


Việt – Mỹ. Vào năm này cả hai nước đã không đi đến được mục tiêu cuối cùng là một
bước mới trong quan hệ hai quốc gia, bỏ lỡ cơ hội mở ra một giai đoạn phát triển tốt đẹp
hơn. Tuy nhiên, điều đó khơng có nghĩa hai quốc gia sẽ mãi mãi ở thế đối đầu căng
thẳng. Năm 1995, sau rất nhiều nỗ lực, hai nước đã bình thường hóa quan hệ mở ra một
tương lai mới đầy triển vọng. Nghiên cứu về cơ hội bị bỏ lỡ năm 1977 cùng với nhân tố
đã cản trở những dấu hiệu bình thường hóa đầu tiên này để cả hai nước cùng rút ra những
bài học cho riêng mình. Chúng ta khép lại quá khứ, tiếp thu những bài học từ thất bại để
có những bước đổi mới trong chính sách phù hợp xu hướng mới của quốc tế. Việt Nam

và Hoa Kỳ ngày nay cam kết những chính sách mới tiến bộ hơn, làm dịu đi những nỗi
đau chiến tranh và mở ra nhiều cơ hội hợp tác và phát triển hơn nữa trong tương lai.

Danh mục tài liệu tham khảo.
1, Chính sách đối ngoại Việt Nam tập II (1986 – 2006), Học viện quan hệ quốc tế.
2, Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB Chính trị quốc gia.
3, Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IV năm 1976, Lê Duẩn,
NXB Sự thật năm 1977
4, Nhìn lại Chính sách đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 1986 – 2000, Bộ
ngoại giao.

17


5, Giáo trình lịch sử Quan hệ quốc tế 1945 – 1990, Học viện quan hệ quốc tế.
6, Giải thích một số từ ngữ trong báo cáo chính trị Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ IV, Nhà xuất bản Sách giáo khoa Mac – Lenin 1978.
7, Ngoại giao Việt nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới 1975-2000, NXB chính trị
quốc gia.
8, Red Brotherhood at war - Chân lý thuộc về ai, tác giả: Grant Evans - Kelvin
Rowley, người dịch: Nguyễn Tấn Cưu, NXB Quân đội nhân dân,1986
9, Nayan Chanda, Brother Enemy: the war after the war, Collier Books 1988.
10, Honey and vinegar , Richard Haass, Meghan L. O'Sullivan.

18



×