Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

quan hệ việt nam– trung quốc từ sau khi bình thường hoá năm 1991 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.57 KB, 16 trang )


HỌC VIỆN NGOẠI GIAO VIỆT NAM
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO
BỘ MÔN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI


BÀI TẬP LỚN CUỐI KỲ

QUAN HỆ VIỆT NAM– TRUNG QUỐC TỪ SAU KHI
BÌNH THƯỜNG HOÁ NĂM 1991 ĐẾN NAY


***********************




Sinh viên thực hiện: Trần Huyền Trang – H33
Lớp/ Khoá : H33

Hà Nội, ngày 2 tháng 4 năm 2009

1

Mục lục

Trang
Lời mở đầu …………………………………………………………….2
Chương I. Nội dung chính
I. Những cơ sở cho việc bình thường hóa quan hệ và phát triển
quan hệ Việt – Trung ……………………………………… 3


II. Những thành tựu nổi bật trong quan hệ Việt – Trung kể từ khi
bình thường hóa năm 1991 đến nay………………………… 5
1. Quan hệ chính trị - ngoại giao ………………………………… 5
2. Quan hệ kinh tế, thương mại ………………………………… 6
3. Quan hệ văn hóa, giáo dục và khoa học - kỹ thuật …………… 8
4. Giải quyết các vấn đề tồn tại ………………………………… 9
III. Triển vọng quan hệ Việt – Trung ………………………………11
Chương II. Đánh giá …………………………………………………13
Danh mục tài liệu tham khảo ……………………………………… 14













2


Lời mở đầu

Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc là mối quan hệ có ý nghĩa đặc biệt, có bề
dày lịch sử truyền thống hữu nghị lâu đời nhất trong quan hệ ngoại giao song
phương của Việt Nam từ trước đến nay. Bởi vậy, quan hệ giữa hai nước luôn là

một vấn đề mang tính chiến lược trong đường lối, chính sách đối ngoại của Việt
Nam. Ngày nay, xu hướng chung trong quan hệ Việt – Trung là phát triển hòa
bình, ổn định, đáp ứng nguyện vọng và phù hợp với lợi ích của cả hai bên. Quan
hệ Việt - Trung phát triển theo phương châm 16 chữ vàng: "Láng giềng hữu
nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần 4 tốt
"Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Tuy nhiên, trong quá khứ,
quan hệ Viêt – Trung không phải lúc nào cũng diễn ra thuận lợi và êm đẹp. Hai
nước đã từng trải qua thời kỳ “đối đầu” và “thù địch”: Quan hệ Việt – Trung đã
dần xấu đi trong giữa thập niên 70, với cao trào là chiến tranh biên giới 1979.
Thập niên 80 chủ yếu là một thập niên tiếp tục căng thẳng, tuy nửa sau chứng
kiến một sự xích lại gần nhau dần dần. Sự xích lại này được củng cố trong đầu
thập niên 90 và tiến trình dẫn đến bình thường hoá quan hệ, sau những nỗ lực
của cả hai bên, đã được hoàn tất vào tháng 11-1991, với chuyến đi đến Thành
Đô, Trung Quốc của tổng bí thư và thủ tướng Việt Nam. Kể từ khi bình thường
hoá quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ hữu nghị và hợp tác Việt - Trung đã
phát triển nhanh chóng và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị,
ngoại giao, văn hóa, giáo dục,… và đem lại nhiều lợi ích thiết thực. Vấn đề đặt
ra ở đây là sau những căng thẳng diễn ra giữa hai nước, thì đâu là cơ sở và động
lực cho việc bình thường hóa quan hệ, và sau khi chính thức bình thường hóa
vào năm 1991, quan hệ Việt – Trung đã có những bước tiến triển như thế nào?
Triển vọng quan hệ hai nước trong tương lai ra sao? Em xin được trình bày cụ
thể một số nội dung để làm rõ những vấn đề đó.

3

CHƯƠNG I. NỘI DUNG CHÍNH
I. NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC BÌNH THƯỜNG HÓA VÀ PHÁT TRIỂN
QUAN HỆ VIỆT TRUNG TỪ NĂM 1991 ĐẾN NAY.

Từ ngay nửa cuối 1980, Việt Nam đã từng bước điều chỉnh chinh sách đối

ngoại trên cơ sở xác định lại chủ trương quan hệ với các nước lớn chủ chốt có
quan hệ trực tiếp đến an ninh chiến lược và phát triển của Việt Nam. Vì vậy, nỗ
lực bình thường hóa và phát triển hữu nghị với với Trung Quốc là một trong
những khâu đột phá quan trọng trong việc thực hiện chủ trương cân bằng quan
hệ của Việt Nam với các nước lớn. Cơ sở cho những chuyển biến, vận động tích
cực trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời điểm đó có thể khái
quát lại ở một số điểm sau:
Chiến tranh lạnh kết thúc, đặt cột mốc cho thế giới từ trật tự hai cực bước
sang trật tự mới theo xu hướng đa cực, mở ra kỷ nguyên mới trong quan hệ
quốc tế. Đặc điểm lớn nhất trong quan hệ quốc tế ở thời kỳ hậu chiến tranh lạnh
là hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình giữa các nước. Xu thế toàn cầu hóa và
khu vực hóa về kinh tế ngày càng trở thành một xu thế chung và là dòng chảy
chính của thế giới. Hệ thống kinh tế thế giới là một thế thống nhất không thể
tách rời khiến cho sự phu thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng.
Trước bối cảnh đó, tư duy đối ngoại của Đảng ta đã có những thay đổi phù
hợp với trật tự thế giới mới. Về an ninh phát triển: chúng ta nhận thức được
rằng, an ninh của mỗi quốc gia trước hết phải dựa vào sự phát triển của kinh tế,
khoa học kỹ thuật. Về vấn đề lợi ích giai cấp – dân tộc, lợi ích cao cả và thiêng
liêng nhất của dân tộc ta là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta,
bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, ra sức phát triển nhanh về kinh
tế xã hội, làm cho dân giàu nước mạnh. Chúng ta phát triển quan hệ đối ngoại
với tinh thần “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới” (văn kiện Đại hội Đảng VII năm 1991). Trước tình hình hình đó, việc cải

4
thiện và thiết lập quan hệ bình thường với tất tất cả các nước, đặc biệt là các
nước lớn (trong đó có Trung Quốc) đã trở thành một đòi hỏi tất yếu và cấp bách
của chính sách đối ngoại Việt Nam.
Đối với Việt Nam, Trung Quốc có vị trí đặc biệt quan trọng: Trung Quốc
không chỉ là một nước láng giềng, mà còn là một nước lớn. Tuy Việt Nam có vị

trí nhất định ở khu vực Đông Nam Á nhưng Việt Nam là một nước nghèo, còn
nhiều khó khăn trong việc phát triển đất nước. Bên cạnh đó, quan hệ đối ngoại
của Việt Nam kể từ năm 1945 đã chỉ ra rằng lợi ích của Việt Nam là phát triển
quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, đặc biệt là các nước lớn và các nước láng
giềng. Bởi vậy, Việt Nam coi việc phát triển quan hệ hữu nghị với Trung Quốc
là một ưu tiên trong chính sách đối ngoại.
Thế giới sau chiến tranh lạnh thay đổi cũng làm cho các nước có thay đổi về
môi trường chiến lược và an ninh. Việt Nam và Trung Quốc đều đã thay đổi
nhiệm vụ của nền an ninh đất nước từ bảo vệ nền độc lập tự chủ của đất nước
sang nhiệm vụ bảo vệ sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Ưu tiên hàng đầu
của Việt Nam trong thập kỷ 80 là đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh
tế - xã hội. Vì vậy, yêu cầu phát triển kinh tế trở thành yêu cầu cấp bách và có ý
nghĩa sống còn. Nhằm khắc phục những sai lầm trong quá trình phát triển kinh
tế trước đây và phát triển hơn nữa đất nước, ngay từ trong thời kỳ chiến tranh
lạnh cả hai nước đều đã thi hành chính sách mới về phát triển kinh tế. Kể từ
thập kỷ 90, sự phát triển kinh tế với tốc độ cao của các nền kinh tế khác ở khu
vực Đông Á tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam và Trung Quốc phát triển
kinh tế của mình, nhưng cũng tạo ra thách thức cho hai nước phải tập trung
phát triển kinh tế nếu như không muốn giẫm chân tại chỗ và thụt lùi. Để tạo
điều kiện thực hiện chương trình cải cách kinh tế, cả hai nước đều cần duy trì
môi trường hòa bình và phát triển quan hệ với các nước láng giềng. Trong bối
cảnh đó, quan hệ Việt - Trung đã được bình thường hóa và ngày càng phát
triển.

5

II. NHỮNG THÀNH TỰU NỔI BẬT TRONG QUAN HỆ VIỆT TRUNG
KỂ TỪ KHI BÌNH THƯỜNG HÓA NĂM 1991 ĐẾN NAY.
1. Quan hệ chính trị - ngoại giao
Trong những năm qua, quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc phát

triển nhanh chóng. Từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, các
cuộc gặp gỡ cấp cao của lãnh đạo hai nước, hai Đảng đã được duy trì thường
xuyên hàng năm dưới nhiều hình thức khác nhau. Từ đó, lãnh đạo hai nước đã
ký 5 bản Thông cáo chung (năm 1991, 1992, 1994, 1995 và 2004) và 3 bản
Tuyên bố chung (1999, 2000, 2001). Qua các cuộc viếng thăm cấp cao, hai
nước đã đạt được nhận thức chung và thỏa thuận xây dựng quan hệ Việt Nam -
Trung Quốc theo phương châm 16 chữ vàng: "Láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần 4 tốt "Láng giềng
tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Hai bên đã đề ra nguyên tắc chung
trong quan hệ giữa hai nước là hữu nghị và láng giềng thân thiện dựa trên năm
nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình, hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi, giải quyết
các vấn đề tranh chấp trông qua thương lượng và bằng biện pháp hòa bình,
quan hệ giữa hai nước không nhằm vào nước thứ ba và cũng không làm ảnh
hưởng đến quan hệ của mỗi nước với các nước khác. Tuy nhiên cần phải khẳng
định ngay rằng, tính chất của quan hệ Việt – Trung không còn thuần nhất là
tình đồng chí, anh em như những năm 50 - 60 nữa mà đã được xác định rõ ràng
“đồng chí nhưng không đồng minh” với tinh thần “thân nhưng không gần, sơ
nhưng không xa…”. Những nguyên tắc trên là những nguyên tắc chỉ đạo trong
quan hệ giữa hai nước trong thời gian qua đồng thời cũng là những nguyên tắc
chung để xử lý quan hệ Việt - Trung trong thế kỷ tới.
Bên cạnh các đoàn cấp cao, nhiều đoàn đại biểu của các ngành (kể cả các
đoàn đại biểu quốc phòng và an ninh), các đoàn thể, các địa phương đã thăm
lẫn nhau, tiến hành hợp tác giữa các ngành và kết nghĩa giữa các địa phương.

6
Trong lĩnh vực ngoại giao, hai bên đã thỏa thuận tiếp tục tăng cường cơ chế
trao đổi ý kiến hàng năm về những vấn đề song phương, khu vực và quốc tế mà
hai bên cùng quan tâm. Điều đó đã góp phần tăng cường sự hiểu biết và tin cậy
lẫn nhau, thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển toàn diện và nhanh chóng.
Hai bên còn tăng cường hợp tác, phối hợp với nhau tại các diễn đàn đa

phương quốc tế và khu vực như Liên Hợp Quốc, Hợp tác Đông Á, APEC,
ASEM…
Mối quan hệ đa phương của mỗi bên cũng tạo điều kiện thuận lợi cho quan
hệ song phương giữa hai nước ngày càng phát triển. Với tư cách là thành viên
của tổ chức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Việt Nam đã tích
cực ủng hộ Trung Quốc trở thành bên đối thoại chính thức của Diễn đàn
ASEAN, tạo thêm điều kiện thuận lợi để Trung Quốc phát triển quan hệ với
nhóm nước này. Ngược lại, với địa vị một thành viên có tiếng nói quan trong
trong tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Trung Quốc
cũng ủng hộ Việt Nam gia nhập tổ chức nói trên, tạo điều kiện thuận lợi cho
quan hệ kinh tế giữa hai nước ngày càng phát triển, không những qua kênh
song phương mà còn qua kênh đa phương.
Tóm lại, sự phát triển trong quan hệ Việt - Trung được đặt trong bối cảnh
chung là Việt Nam và Trung Quốc đều đang thực hiện chính sách đối ngoại
rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa.
2. Quan hệ kinh tế, thương mại
Từ khi bình thường hoá quan hệ năm 1991 đến nay, mối quan hệ kinh tế
thương mại giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng
với những nội dung và phương thức hợp tác mới mà các giai đoạn trước đây
chưa từng có. Cùng với quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế giữa hai nước ngày
càng phát triển. Đặc điểm lớn nhất trong quan hệ kinh tế Việt - Trung trong thời
gian qua là quan hệ toàn diện và có tính chất bổ sung cho nhau. Quan hệ kinh tế

7
thương mại có bước đột phá. Hiện nay Trung Quốc đã trở thành một trong
những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Kim ngạch mậu dịch song
phương giữa hai nước đã tăng từ 32 triệu USD năm 1991 lên đến trên 20 tỷ
USD vào năm 2008, tiến tới đạt mục tiêu nâng kim ngạch lên 25 tỷ USD vào
năm 2010. Năm 2009, Chính phủ Trung Quốc cũng đã quyết định cung cấp cho
phía Việt Nam khoản vay tín dụng ưu đãi trị giá 300 triệu USD. Ngoài tín dụng

ưu đãi, Chính phủ Trung Quốc còn hỗ trợ Việt Nam nhiều khoản viện trợ không
hoàn lại dùng vào việc tổ chức các đoàn tham quan, khảo sát kinh nghiệm phát
triển kinh tế xã hội ở Trung Quốc…Chính phủ hai nước đã ký kết nhiều hiệp
định và văn bản thoả thuận về kinh tế thương mại hoặc có liên quan đến kinh tế
thương mại như : Hiệp định thương mại (1991); Hiệp định về thành lập Uỷ ban
hợp tác kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc (1994); Hiệp định về
mua bán ở vùng biên giới hai nước (1998)…
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu nhập khẩu cũng phát triển theo hướng đa dạng
hoá mặt hàng và chủng loại, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của hai bên. Ngoài
buôn bán chính ngạch theo tập quán và thông lệ quốc tế, thời gian qua buôn bán
tiểu ngạch (mậu dịch biên giới) giữa hai nước cũng phát triển rất mạnh. Tỷ lệ
giữa buôn bán chính ngạch và buôn bán tiểu ngạch dao động trong khoảng 50 -
60%. Buôn bán qua biên giới đã góp phần làm tăng nguồn thu ngân sách trên
địa bàn, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống cho cư dân vùng biên giới.
Tính đến 22/09/2007, Trung Quốc có 49 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng
số vốn đăng ký đạt 1,523 tỷ USD, đứng thứ 15/78 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu
tư trực tiếp vào Việt Nam. Trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ
tịch nước Hồ Cẩm Đào tháng 11/2006, hai bên đã ký Hiệp định về phát triển sâu
rộng quan hệ kinh tế thương mại và Bản ghi nhớ về “Hai hành lang, một vành
đai kinh tế”. Hiện hai bên đã lập Nhóm công tác triển khai Hiệp định về phát
triển sâu rộng quan hệ kinh tế thương mại và đang trao đổi để thành lập các
Nhóm công tác để triển khai hai thoả thuận về “Hai hành lang một vành đai kinh
tế.” Hai bên cũng đang trao đổi về các dự án hợp tác khác như Dự án viễn thông

8
nông thôn; Dự án đường sắt đô thị tuyến Hà Nội-Hà Đông. Nhìn chung, với
phương châm “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”, quan hệ kinh tế
thương mại Việt Nam – Trung Quốc đã đạt được nhiều tiến triển quan trọng
3. Quan hệ văn hóa, giáo dục và khoa học - kỹ thuật
Về mặt văn hoá, từ sau ngày bình thường hoá quan hệ, mối quan hệ hợp tác

về văn hoá giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc ngày càng phát triển sâu rộng.
Hai nước đã ký Hiệp định văn hoá vào ngày 2/12/1992, nêu rõ các nguyên tắc
bình đẳng, khuyến khích giao lưu, tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực như:
văn hoá nghệ thuật, thể dục, thể thao, báo chí, phát thanh truyền hình, điện ảnh,
thư viện, bảo tàng…Hai bên còn ký các văn bản thoả thuận khác như: Kế hoạch
thực hiện Hiệp định văn hoá Việt Nam - Trung Quốc; kế hoạch thực hiện hợp
đồng văn hoá năm 2000 - 2001; chương trình hợp tác văn hoá giữa hai nước giai
đoạn 2002 - 2003… Do vậy, các hoạt động giao lưu văn hoá giữa hai nước đã
phát triển mạnh mẽ. Từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay, hai bên cũng đã
tiến hành trao đổi các đoàn biểu diễn nghệ thuật, tổ chức nhiều cuộc giao lưu
văn hoá, thể thao, góp phần tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
Về hợp tác giáo dục: Ngành giáo dục hai nước đã tiến hành những cuộc hội
đàm và ký kết các văn bản thoả thuận về giao lưu và hợp tác giáo dục. Tính đến
nay, có hơn 20 trường đại học của Việt Nam có quan hệ giao lưu hợp tác với
hơn 40 trường đại học và học viện của Trung Quốc. Hàng năm, Chính phủ
Trung Quốc cấp 45 suất học bổng cho lưu học sinh Việt Nam đến Trung Quốc
học tập. Phía Việt Nam cũng cấp khoảng 5 - 10 suất học bổng cho lưu học sinh
Trung Quốc sang Việt Nam học tập. Hợp tác giáo dục Việt - Trung rất đa dạng.
Bên cạnh việc trao đổi lưu học sinh (kể cả sinh viên và nghiên cứu sinh), hai
nước còn trao đổi thực tập sinh, nghiên cứu sinh, bồi dưỡng cán bộ, trao đổi
khoa học…
Từ sau năm 1991, hợp tác giữa hai nước Việt Nam, Trung Quốc trong lĩnh
vực khoa học kỹ thuật cũng ngày một tăng cường và phát triển mau lẹ. Hai nước

9
đã ký Hiệp định hợp tác Khoa học kỹ thuật, Nghị định thư về hợp tác Khoa học
công nghệ , Hiệp định hợp tác sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà
bình…Trong lĩnh vực Khoa học xã hội và nhân văn, Trung tâm Khoa học xã hội
và nhân văn quốc gia Việt Nam đã ký các Hiệp định hợp tác với Viện Khoa học
xã hội Trung Quốc và một số Viện Khoa học xã hội các tỉnh Quảng Đông,

Quảng Tây, Tứ Xuyên… Đặc biệt, các cuộc hội thảo khoa học giữa hai nước
như: Hội thảo "Chủ nghĩa xã hội - cái phổ biến và cái đặc thù" (6/2000) và Hội
thảo "Chủ nghĩa xã hội - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung
Quốc" (11/2000), Hội thảo “Trung Quốc - Asean” (10/2004),… đã được tổ
chức thành công.
4. Giải quyết các vấn đề tồn tại
Từ sau khi bình thường hoá quan hệ vào năm 1991 đến nay, những vấn đề
tồn tại giữa hai nước chủ yếu liên quan đến tranh chấp biên giới, lãnh thổ, trong
đó phải kể đến: biên giới trên đất liền, trên Vịnh Bắc Bộ và vấn đề xác định chủ
quyền lãnh thổ, thềm lục địa ở Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Trường Sa
và Hoàng Sa. Tuy nhiên, trong bản Thông cáo chung ký ngày 10/11/1991, lãnh
đạo hai nước đã thống nhất quan điểm và khẳng định: “Hai bên đồng ý thông
qua thương lượng giải quyết hoà bình các vấn đề lãnh thổ, biên giới…tồn tại
giữa hai nước”.
Về vấn đề biên giới trên đất liền, sau khi Việt Nam và Trung Quốc bình
thường hoá quan hệ, Chính phủ hai nước đã thống nhất đàm phán giải quyết vấn
đề tồn tại về biên giới trên đất liền theo nguyên tắc tôn trọng đường biên giới đã
được hoạch định bởi các Công ước 1887 và 1895 do Chính phủ Pháp và nhà
Thanh ký, và đã được phía Việt Nam và Trung Quốc đồng ý chấp nhận. Ngày
30/12/1999, hai bên ký Hiệp ước biên giới trên đất liền. Hai bên đều thể hiện
quyết tâm hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc và ký Nghị định thư
biên giới trong năm 2008. Sau gần 8 năm đàm phán và triển khai phân giới cắm
mốc trên thực địa, ngày 31/12/2008 tại Hà Nội, hai trưởng đoàn đàm phán cấp

10
Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam và Trung Quốc đã long trọng ra
Tuyên bố chung về việc hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới đất
liền. Việc hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc trên biên giới đất liền
Việt Nam - Trung Quốc là sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại của dân tộc ta và
là một mốc quan trọng trong lịch sử quan hệ Việt Nam – Trung Quốc. Lần đầu

tiên Việt Nam và Trung Quốc có một đường biên giới trên đất liền hoàn chỉnh,
được thể hiện rõ ràng trong các văn bản pháp lý được hai bên thống nhất và trên
thực địa, có giá trị trường tồn với hai quốc gia, giúp ngăn ngừa các tranh chấp
biên giới , đồng thời mở ra cơ hội mới cho công cuộc phát triển của mỗi nước,
đặc biệt là tạo điều kiện cho các địa phương biên giới hai bên mở rộng hợp tác,
phát triển kinh tế, tăng cường giao lưu hữu nghị. Việc hoàn thành phân giới cắm
mốc đã đưa Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc vào
cuộc sống theo đúng Thỏa thuận giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước, là biểu hiện
sinh động của mối quan hệ "đối tác, hợp tác chiến lược toàn diện" Việt Nam –
Trung Quốc, góp phần tăng cường sự tin cậy giữa hai bên, tạo động lực mới
thúc đẩy quan hệ Việt – Trung ngày càng phát triển.
Ngày 25/10/2000, Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp định phân định
Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá. Điều này trước hết đã giúp hai nước
giải quyết dứt điểm một trong những vấn đề tồn tại lâu nay, đồng thời góp phần
tạo thuận lợi cho việc quản lý và duy trì ổn định lâu dài trong vịnh Bắc Bộ, tăng
cường sự tin cậy, thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước. Tình hình ở
Vịnh Bắc Bộ về cơ bản là tương đối ổn định; hai Hiệp định về Vịnh Bắc Bộ
được triển khai tương đối hiệu quả, công tác quản lý đánh bắt và bảo vệ nguồn
lợi dần đi vào nề nếp, hạn chế tối đa các xung đột có thể nảy sinh; công ty dầu
khí quốc gia hai nước đã ký Thoả thuận thăm dò chung trong khu vực thoả
thuận ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ tháng 11/2006, công tác kiểm tra, kiểm soát vi
phạm trong Vịnh Bắc Bộ đã được lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam và lực
lượng Kiểm ngư Trung Quốc tiến hành trong tháng 9/2006, lực lượng hải quân

11
hai nước cũng đã tiến hành tuần tra chung 2 lần trên Vịnh Bắc Bộ.
Đối với vấn đề biển Đông, đặc biệt là việc xác định chủ quyền đối với hai
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, hai bên nhất trí kiên trì thông qua đàm phán
hoà bình để giải quyết. Đến nay, hai bên đã tiến hành các vòng đàm phán cấp
chuyên viên về vấn đề trên biển, tăng thêm hiểu biết về lập trường của nhau.

Trong các bản Tuyên bố chung năm 1999 và 2000 hai bên đã khẳng định "Tiếp
tục duy trì cơ chế đàm phán hiện có về vấn đề trên biển, kiên trì thông qua đàm
phán hoà bình để tìm ra một giải pháp cơ bản, lâu dài mà hai bên đều có thể
chấp nhận được…”. Giữa ASEAN và Trung Quốc cũng đã ký Tuyên bố về cách
ứng xử ở biển Đông (DOC), hiện đang trong quá trình trao đổi để đi vào triển
khai, tiến tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC). Ngày 14/3/2005,
ba công ty dầu khí 3 nước Việt Nam (PetroVietnam), Trung Quốc (CNOOC),
Phi-lip-pin (PNOC) đã ký được Thoả thuận về khảo sát địa chấn chung trong
một số khu vực trên biển Đông và đang được triển khai thuận lợi. Cho tới tận
hôm nay, vấn đề về đảo Trường Sa, Trường Sa vẫn chưa được giải quyết, thậm
chí còn thêm phần căng thẳng hơn, tuy nhiên Việt Nam vẫn duy trì mọi nỗ lực
nhằm hạn chế xung đột một cách tối đa và giữ vững lập trường, quan điểm là
thông qua đàm phán, giải quyết một cách hoà bình mọi tranh chấp trên cơ sở
luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật
biển năm 1982 và tinh thần của Tuyên bố về Cách ứng xử của các bên trên biển
Đông năm 2002 (DOC).Trong các cuộc viếng thăm, tiếp xúc giữa lãnh đạo hai
nước gần đây, hai bên đã thỏa thuận thời gian tới sẽ đặt trọng tâm đàm phán vào
vấn đề trên biển; duy trì hòa bình, ổn định trên biển; tăng cường hợp tác trong
các lĩnh vực có điều kiện và cùng nhau phấn đấu để cùng với các bên liên quan
tìm ra giải pháp cơ bản, lâu dài, cùng chấp nhận được cho vấn đề trên biển.





12
III. TRIỂN VỌNG QUAN HỆ VIỆT TRUNG
Do vai trò to lớn của Trung Quốc trên phạm vi quốc tế và vai trò của Việt
Nam trong khu vực Đông Nam Á, việc tăng cường hơn nữa quan hệ hữu nghị
giữa Việt Nam và Trung Quốc trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, ngoại giao,

văn hoá giáo dục, khoa học - kỹ thuật…là đóng góp quan trọng vào việc duy trì
hòa bình và an ninh ở khu vực
.
Sự bất bình thường trong quan hệ Việt - Trung
trong một giai đoạn ngắn trước đây không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của mỗi
nước, mà còn tác động xấu đến tình hình an ninh trong khu vực Đông Nam Á.
Vì vậy, từ năm 1991, việc bình thường hóa quan hệ Việt - Trung đã góp phần
thúc đẩy quan hệ Việt Nam - ASEAN phát triển, chấm dứt tình trạng đối đầu
giữa hai nhóm nước trong khu vực Đông Nam Á, đem lại hòa bình và an ninh
trong khu vực. Cùng với quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế với tính chất toàn
diện và bổ sung cho nhau giữa hai nước sẽ ngày càng phát triển hơn nữa. Việc
tăng cường và phát triển quan hệ kinh tế, khoa học kỹ thuật và thương mại Việt
- Trung với đúng tiềm năng của hai bên và tương xứng với quan hệ chính trị tốt
đẹp giữa hai nước là lợi ích của mỗi nước và nguyện vọng của nhân dân Việt
Nam và Trung Quốc. Phát triển hơn nữa mối quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học
kỹ thuật giữa hai nước là cơ sở để củng cố và thúc đẩy quan hệ chính trị ngày
càng phát triển.
Đối với vấn đề tranh chấp lãnh thổ còn tồn tại như vấn đề biển Đông, quan
hệ đại cục tốt đẹp chính là tiền đề quan trọng cho việc cả hai nước đi vào giải
quyết những vấn đề cụ thể; giải quyết dứt điểm những bất đồng còn tồn tại về
lãnh thổ dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế. Việc giải quyết hoàn hoàn và triệt để
vấn đề tranh chấp lãnh thổ dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, vừa tạo điều kiện
thuận lợi cho mối quan hệ hợp tác giữa hai nước ngày càng phát triển, vừa là
minh chứng cho tình hữu nghị truyền thống lâu đời giữa nhân dân hai nước Việt
Nam và Trung Quốc.


13
CHƯƠNG II. ĐÁNH GIÁ


Việc phát triển tình hữu nghị Việt - Trung là phù hợp với tinh thần chung
của chính sách đối ngoại của nước ta trong thời kỳ đổi mới “Việt Nam sẵn sàng
là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển” (văn kiện Đại hội IX), là phù hợp với xu thế phát
triển chung của thời đại, là phù hợp với lợi ích của mỗi nước và là đóng góp
quan trọng vào việc duy trì hòa bình và an ninh ở châu Á – Thái Bình Dương.
Từ khi bình thường hoá quan hệ hai nước năm 1991 đến nay, trên cơ sở những
nguyên tắc được ghi nhận trong các bản Thông cáo chung và Tuyên bố chung,
mặc dù còn không ít các vấn đề tồn tại, nhưng mối quan hệ hữu nghị truyền
thống giữa hai nước đã phát triển nhanh chóng và đạt được những thành tựu
quan trọng trên tất cả những lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ
thuật… cũng như trong việc giải quyết thoả dáng những vấn đề biên giới lãnh
thổ giữa hai nước.
Có thể nói rằng, mặc dù trong quá trình phát triển, quan hệ hai nước đã trải
qua những bước thăng trầm, song mục tiêu chung của hai nước vẫn là hướng tới
quan hệ hợp tác hữu nghị toàn diện. Đặc biệt, tiềm năng phát triển của mối quan
hệ Việt - Trung cũng lại là rất lớn, với sự cố gắng chung của cả hai bên, với
phương châm "khép lại quá khứ, mở ra tương lai”, “Láng giềng hữu nghị, hợp
tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt "Láng
giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, “Đối tác hợp tác chiến lược toàn
diện”, mối quan hệ đó sẽ không ngừng được củng cố và phát triển tốt đẹp hơn
trong thế kỷ 21, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà
bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới.



14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bước phát triển tư duy mới đối ngoại của Đảng trong quan hệ các

nước láng giềng và khu vực thời kỳ đổi mới – tác giả Nguyễn Thị
Mai Hoa – Chính sách đối ngoại VN tập II (HVQHQT)
2. Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc từ sau khi bình thường hoá năm
1991: thành tựu, vấn đề và triển vọng - tác giả Đỗ Tiến Sâm –
Chính sách đối ngoại VN tập II (HVQHQT)
3. Phát triển quan hệ với các nước lớn trong chính sách đối ngoại mới
của Đảng và nhà nước ta – tác giả Nguyễn Hoàng Giáp - Chính
sách đối ngoại VN tập II (HVQHQT)
4. Về vấn đề đổi mới tư duy trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam
5. “Quan hệ Việt – Trung ngày nay” - Tướng Daniel SCHAEFFER -
Cố vấn chiến lược doanh nghiệp quốc tế (Trung Quốc và Đông
Nam Á)
6. Khoá luận tốt nghiệp: “Quan hệ chính trị Việt Nam - Trung Quốc
1986 - 1999: từ đối đầu đến khuôn khổ 16 chữ” (Trần Thị Minh
Phương – C31.HVQHQT)
7. Lịch sử quan hệ Việt – Trung nhìn từ góc độ đại chiến lược (Vũ
Hồng Lâm - Tạp chí nghiên cứu và thảo luận - Thời đại Mới số 2
tháng 7/2004)
8. Trang web:










15




×