Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

khảo sát sự ảnh hưởng của vừng (sesamum orientale) lên một số chỉ tiêu sinh lý của chuột mus musculus var. albino bằng phương pháp cho uống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.11 KB, 51 trang )

Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mè (vừng) là một loại thực phẩm đã xuất hiện từ rất lâu của dân tộc ta. “Muối
vừng” trước đây đã từng là món ăn trong bữa cơm của các gia đình ở nông thôn và
thành thò. Ngoài ra, chúng ta còn gặp những món ăn được phổ biến từ rất lâu ở từng
vùng đòa phương khác nhau như: bánh tráng (đa) nướng (Thanh Hóa), kẹo gương
(Quảng Ngãi), mè xửng (Huế)…
Ngày nay, vừng được mở rộng phạm vi sử dụng vì ngoài ý nghóa là món ăn có
giá trò dinh dưỡng nó còn có tác dụng chữa nhiều bệnh. Hạt vừng và dầu hạt vừng
được dùng để chữa táo bón, chữa kiết lò mới phát, chữa vết bỏng… Ở Trung Quốc dầu
vừng được dùng làm thuốc bổ và giải độc. Ở Ấn Độ hạt vừng là thuốc làm dòu da, lợi
tiểu, lợi sữa, chữa tró. Ở Haiti, nước sắc từ hạt vừng trò hen…
Trong phạm vi nghiên cứu của bài luận này tôi chỉ tập trung nghiên cứu sự
ảnh hưởng của hạt vừng lên những chỉ tiêu sinh lý máu ở cơ thể chuột như:
_ Sự tăng trọng của chuột.
_ Số lượng hồng cầu trong máu.
_ Số lượng bạch cầu trong máu.
_ Nồng độ hemoglobin trong máu.
Nghiên cứu này tạo cơ sở cho việc sử dụng hạt vừng một cách rộng rãi trong
việc chế biến các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng, thực phẩm chức năng và góp
phần trong việc điều trò – phòng chống bệnh cho con người.




- Trang 1 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
TỔNG QUAN
1. Đại Cương Về Vừng [1]
1.1. Tên gọi
Tên khoa học: Sesamum orientale L.


Tên đồng nghóa: Sesamum indicum DC.
Tên khác: Mè, hồ ma, chi ma, kén ma nga (Thái).
Tên nước ngoài: Gingelly seed, sesame, blue plant, gingelly oil plant
(Anh); sésame, benne, jugioline (Anh).
Họ: Pedaliaceae.
1.2. Hình thái cây vừng
Cây thảo đứng, sống hàng năm.
Thân có nhiều lông mòn.
Lá mọc so le ở gốc, đôi khi chia 3 thùy; các lá phía trên mọc đối, hình mác
hẹp, gốc và đầu thuôn, mép nguyên hoặc hơi khía răng, gân lá hình mạng rõ ở mặt
dưới.
Hoa mọc đơn độc ở kẽ lá gần ngọn, có cuống ngắn, màu trắng hoặc hơi hồng;
đài năm răng nhỏ, có lông mềm; tràng hình ống loe ở đầu, các cánh hoa hàn liền
chia hai môi, môi trên hai thùy, môi dưới ba thùy; bốn nhò, hai dài hai ngắn; bầu bốn
ô, có lông mềm, chứa nhiều noãn.
Quả nang, hình trụ dài, có lông và khía dọc, mở thành bốn mảnh; hạt nhiều,
hình trái xoan, dẹt, màu vàng ngà hoặc đen tùy loại.
Mùa thu hoạch: tháng 4 – 6.



- Trang 2 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
1.3. Phân bố – sinh thái
Vừng là cây trồng từ cổ xưa ở vùng nhiệt đới Châu Á. Tại các tỉnh phía nam
Trung Quốc (cả đảo Hải Nam), n Độ, Malaysia, Thái lan, Campuchia, Lào và Việt
Nam…
Cây ưa sáng và ưa ẩm; sinh trưởng mạnh trong mùa xuân – hè, khi thời tiết
chưa nắng – nóng, nhiệt độ không khí trung bình dưới 28
0

C. Đến giữa hoặc cuối mùa
hè, nhiệt độ lên cao, cây đã có quả già và hoàn thành chu kỳ sống trong thời gian từ
3 đến 3,5 tháng. Vừng ra hoa nhiều. Hoa nở từ dưới lên dần phía ngọn và thụ phấn
nhờ côn trùng. Khi cây có là bắt đầu vàng úa cũng là lúc quả già, gặp thời tiết khô
và nóng, quả sẽ tự tách ra thành nhiều mảnh, phán tán hạt ra ngoài.
Vừng được trồng phổ biến ở khắp các miền quê Việt Nam trừ vùng núi cao
lạnh. Vừng có nhiều giống. Có loại cho hạt màu đen, thường được trồng ở các tỉnh
phía nam và hạt màu trắng vàng, được trồng rộng rãi khắp nơi cây thích nghi với cả
những vùng có khí hậu cận nhiệt đới ở Trung Quốc. Tổng sản lượng vừng ở Châu
mỗi năm có thể đến vài trăm ngàn tấn.
1.4. Hạt vừng
Vừng vàng hình thon dẹp, một đầu nhọn, một đầu tròn, da hạt nhẵn hoặc
nhám mang nhiều vân hình nhiều cạnh và một đường ngôi phân đôi hạt theo chiều
dọc. Màu sắc hạt thường là trắng, vàng, đen, xám… tùy giống khác nhau.
Hạt vừng dày 3 – 4mm, rộng 1,6 – 2,3mm không có nội phôi nhủ. Trọng
lượng 1000 hạt chỉ 2 – 4g. Vì hạt rất nhỏ nên khi gieo vừng cần chú ý công tác làm
đất kỹ, tơi, mòn.
Vỏ hạt rất mỏng. Các sắc tố chứa trong tế bào hạt quyết đònh màu sắc của
hạt. Thường thì hạt màu trắng hoặc vàng nhạt chứa nhiều dầu nhất, sau đó là hạt
màu nâu, và ít dầu nhất là hạt đen. Tức là vỏ hạt càng mòn tỷ lệ dầu càng cao.


- Trang 3 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
a. Thành phần hóa học [9]
Bảng 1.1: Thành phần hóa học.
Nước 7,60
Protid 20,1
Lipid 46,4
Gluxit 17,8

Xenlulo 3,50


Thành phần hóa
học (g%)
Tro 4,80
Ca 120
P 379
Muối khoáng
(mg%)
Fe 10
Caroten 0,03
B
1
0,30
B
2
0,15

Vitamin (mg%)
PP 4,50
b. công dụng:[1]
Hạt vừng và dầu hạt vừng được dùng chữa táo bón tăng cường dinh dưỡng.
Mỗi sáng uống một muỗng cà phê dầu vừng, ăn một nắm vừng sống, hoặc ăn cháo
vừng.
Điều trò bệnh lỵ mới phát: vừng đen ăn sống 30g mỗi ngày, ăn liền 2 – 3
ngày.
Điều trò vết bầm tím, sưng: uống một muỗng canh dầu vừng đen ép sống với ít
rượu.
Trò vết bỏng, rết cắn: lấy hạt vừng đen nghiền nhỏ đắp lên vết thương, hay

dùng dầu vừng bôi lên vết thương.



- Trang 4 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ

A. Hoa vừng

B. Quả nang





C. Hình thái cây vừng





D. Quả nang được tách đôi

E. Hạt vừng đen

F. Hạt vừng vàng
Hình 1.1. Cây vừng





- Trang 5 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
2. Đại Cương Về Máu
2.1. Chức năng chung của máu [3]
Chức năng hô hấp: máu vận chuyển O
2
từ phổi đến các tế bào và CO
2
từ các
mô đến phổi.
Chức năng dinh dưỡng: máu vận chuyển các chất như glucose, các amino
acid, các acid béo, các vitamin… đến cung cấp cho các tổ chức tế bào.
Chức năng đáo thải: máu lưu thông khắp cơ thể lấy những chất cặn bã của
chuyển hóa tế bào đưa đến các cơ quan bài xuất như thận, phổi, tuyến mồ hôi…
Chức năng bảo vệ cơ thể: các loại bạch cầu của máu có khả năng thực bào,
khử độc, tiêu diệt vi trùng. Trong máu có các kháng thể, kháng độc tố… tham gia vào
cơ chế bảo vệ cơ thể.
Chức năng thống nhất điều hòa hoạt động cơ thể: máu mang các hormone,
các loại khí O
2
và CO
2
, các chất điện giải khác Ca
++
, K
+
, Na
+
… để điều hòa hoạt

động của các nhóm tế bào, các cơ quan khác nhau trong cơ thể nhằm đảm bảo sự
họat động đồng bộ của các cơ quan trong cơ thể.
Máu còn có khả năng điều hòa nhiệt độ cơ thể một cách nhanh chóng làm cho
các phần khác nhau trong cơ thể luôn có cùng một nhiệt độ tương đương nhau.
2.2. Các thành phần của máu [5]
Lấy máu chống đông rồi cho vào một ống nghiệm, sau đó đem ly tâm, ta thấy
máu được phân chia thành hai phần rõ rệt:
_ Phần trên có màu vàng nhạt vì có các sắc tố màu vàng và chiếm khoảng từ
55– 60% thể tích của máu. Đó là huyết tương của máu.
_ Phần dưới đặt hơn có màu đỏ thẫm, chiếm khoảng từ 40 – 45% thể tích
máu, đó là các tế bào máu gồm có: các hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu.


- Trang 6 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
2.2.1. Huyết tương
Huyết tương là một dòch thể lỏng, trong, màu vàng nhạt, vò hơi mặn. Huyết
tương là thành phần quan trọng của máu, chiếm tỷ lệ 55 – 60% khối lương của máu.
Trong huyết tương nước chiếm từ 90 – 92%, vật chất khô chiếm 8 – 10%. Trong vật
chất khô có:
_ Protein huyết tương (nồng độ 82 – 83g/l) gồm có hai phần chính là albumin
(4,5%), globin (2,5 – 3%) và một phần nhỏ fibrinogen. Protein huyết tương
có những chức năng quan trọng như: dinh dưỡng và chuyển hóa, tạo áp suất
keo của máu, bảo vệ cơ thể và làm đông máu.
_ Glucid huyết tương hầu hết ở dạng glucose tự do với nồng độ 1g/l. Đây là
nguồn năng lượng và nguyên liệu để tổng hợp nhiều chất quan trọng của tế
bào. Vì vậy tác dụng chủ yếu của glucid huyết tương là dinh dưỡng và cung
cấp năng lượng.
_ Lipid huyết tương không ở dạng tự do mà kết hợp với các protein thành hợp
chất hòa tan lipoprotein với nồng độ 5 – 8g/l. Các lipid huyết tương tham

gia vào những chức năng quan trọng: dinh dưỡng và vận chuyển.
2.2.2. Hồng cầu [3]
2.2.2.1. Hình dạng và cấu trúc
Hồng cầu là những tế bào không nhân hình đóa lõm hai mặt, được tạo thành
trong tủy xương ở động vật có vú; chúng mất nhân khi vào hệ tuần hoàn.
Đường kính của hồng cầu từ 7 – 8µm. Chiều dày của hồng cầu ở trung tâm là
1µm và ở ngoại vi là 2 – 3µm.
Hình lõm hai mặt thích hợp với khả năng vận chuyển khí của hồng cầu vì:
_ Làm tăng diện tích tiếp xúc của hồng cầu lên 30% so với hồng cầu hình
cầu. Tổng diện tích tiếp xúc của hồng cầu trong cơ thể là 3000 m
2
.
_ Làm tăng tốc độ khuếch tán khí.
- Trang 7 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
_ Làm cho hồng cầu có thể dễ dàng di chuyển trong mao mạch có đường kính
rất nhỏ.
Hồng cầu là những tế bào không nhân và có rất ít cơ quan. Màng hồng cầu có
bản chất là lipoprotein. Trên màng có các kháng nguyên của nhóm máu.
Thành phần của hồng cầu là huyết cầu tố (hemoglobin). Hemoglobin chiếm
34% trọng lượng tươi và trên 90% trọng lượng khô của hồng cầu.
2.2.2.2. Vai trò hemoglobin trong hồng cầu [3], [5]
Hồng cầu là những túi chứa đựng hemoglobin. Chính những phân tử
hemoglobin này thực hiện chức năng vận chuyển khí O
2
và CO
2
của hồng cầu.
a. Số lượng hemoglobin
Hàm lượng hemoglobin trung bình của người Việt Nam là 14,6 ± 0,6g/100ml

máu toàn phần ở nam và 13,2 ± 0,55g/100ml máu toàn phần nữ.
Mỗi hồng cầu có khoảng 34,6 – 35 microgram hemoglobin.
b. Cấu tạo hemoglobin
Hemoglobin là một protein có màu gồm hai thành phần là hem và globin.
Trong đó:
_ Heme là một sắc tố màu đỏ giống nhau ở tất cả các động vật. Nó gồm một
vòng có 4 nhóm pyrrol kết lại với nhau gọi là vòng porphin và trên vòng
porphin gắn những gốc methyl, vinyl và propinyl gọi là vòng porphyrin. Ở
chính giữa của vòng có một nguyên tử sắt luôn ở dạng ferrous (Fe
++
). Mỗi
phân tử hemoglobin sẽ có 4 heme.







- Trang 8 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ


N
N
N
N
CH
2
CH

2
COOH
CH
3
CH
3
C
2
H
3
H
3
C
C
2
H
3
CH
2
CH
2
COOH
H
3
C
Fe

A B
Hình 1.2. Hemoglobin
A. Hình thái hemoglobin

B. Nhóm heme chứa sắt
_ Globin là một protein, có cấu trúc thay đổi tùy theo loài. Chính globin
quyết đònh tính đặc hiệu của hemoglobin. Globin gồm 4 chuỗi polypepid
giống nhau từng đôi một: trong phân tử hemoglobin ở người trưởng thành
phần globin gồm hai chuỗi α và hai chuỗi β.
Tỷ lệ phần trăm tính theo trọng lượng của các thành phần của hemoglobin
như sau:





Globin: 95%
Hemoglobin
Sắt: 0,34%
4 hem
Porphyrin: 4,66%
- Trang 9 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ

Acid Acetic
Chu trình Krebs
2-α-Ketoglutaric acid
Glycine
4 Pyrrole
Fe
2+
Hem
Globin
Hemoglobin


Sơ đồ 1.2: Cấu tạo hemoglobin.
2.2.2.3. Các chất cần thiết cho sự thành lập hồng cầu [5]
a. Vitamin B
12
Vitamin B
12
cần thiết để biến đổi ribonucleotit thành deoxyribonucleotit, một
trong những giai đoạn quan trọng trong sự thành lập DNA. Do đó, thiếu vitamin B
12
sẽ ngăn chặn sự phân chia tế bào và sự trưởng thành của nhân.
Đối với sự sản xuất hồng cầu, thiếu vitamin B
12
sẽ gây ức chế sự sản xuất
hồng cầu. Các tế bào nguyên hồng cầu của tủy xương lớn hơn bình thường, được gọi
là hồng cầu non lớn và hồng cầu trưởng thành có kích thước lớn được đặt tên là đại
hồng cầu, hình quả trứng lớn không đều. Các đại hồng cầu này sau khi vào máu tuần
hoàn có khả năng chuyên chở oxy, nhưng do chúng dễ bò bễ, nên gây thiếu máu ác
tính.
Bệnh thiếu máu ác tính, không phải do thiếu vitamin B
12
trong thức ăn mà do
cơ thể không hấp thu được vitamin B
12
vì dạ dày thiếu sự bài tiết yếu tố nội tại (là
chất tiết ra từ phần đáy và thân dạ dày, bản chất là mucopolysacarit hay
mucopolypeptit).
- Trang 10 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
Lượng vitamin B

12
cần thiết mỗi ngày để duy trì sự trưởng thành bình thường
của hồng cầu dưới 1 mg, trong khi đó gan có khả năng dự trữ số lượng vitamin B
12

khoảng 1000 lần nhiều hơn.
b. Axit folic (vitamin L
1
, vitamin B
9
)
Axit folic là một vitamin tan trong nước, có nhiều trong rau cải xanh, óc, gan,
thòt. Hằng ngày cần 50 – 100mg.
Axit folic cần thiết cho sự trưởng thành các hồng cầu do sự tăng sự methyl
hóa quá trình thành lập DNA.
Sự hấp thu axit folic ở ruột, nhưng chủ yếu là ở hỗng tràng dưới
monoglutamat.
c. Chất sắt
Sắt là một chất quan trọng trong sự thành lập Hb, sắt được hấp thu ở phần trên
của bộ máy tiêu hóa, chủ yếu là tá tràng. Sắt được hấp thu bằng cơ chế chủ động.
Sắt được hấp thu dưới dạng nhò (Fe
++
) hơn là ở dạng tam (Fe
+++
).
Sắt tham gia vào thành phần heme, nên thiếu sắt sẽ gây thiếu máu nhược sắc.
d. Erthropoietin
Erthropoietin là yếu tố điều hòa sự nhân lên của tế bào gốc trong tủy xương,
kính thích sự trưởng thành của hồng cầu non và giải phóng hồng cầu khỏi tủy xương
đi vào tuần hoàn. Yếu tố này có cấu trúc protein gồm 165 acid amin, phân tử lượng

30400.
Erthropoietin được tạo ra từ yếu tố tạo hồng cầu của thận (REF) phản ứng với
một globulin của huyết tương, kích thích tủy xương tạo hồng cầu.
e. Cholin và Thymidin
Cholin và thymidin cần thiết để tạo thành chất nền và màng hồng cầu.


- Trang 11 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
2.2.3. Bạch cầu [3]
Bạch cầu là những tế bào có nhân được tạo thành trong tủy xương và các hạch
bạch huyết. Chúng có khả năng di động trong mạch máu, giúp cơ thể chống lại các
tác nhân gây nhiễm khuẩn và nhiễm độc bằng quá trình thực bào và bằng quá trình
miễn dòch. Kích thước khác nhau tùy loại bạch cầu, nhưng nói chung lớn hơn hồng
cầu, trung bình đường kính từ 8 - 15µ.
2.2.3.1. Số lượng bạch cầu
người Việt Nam trưởng thành số lượng bạch cầu là 7000 ± 700 ở nam và
6200 ± 550 ở nữ. Số bạch cầu trong máu tăng sau khi ăn, khi lao động nặng. Trong
bệnh nhiễm khuẩn cấp tính số lượng bạch cầu tăng rỏ rệt, đặt biệt tăng rất cao trong
bệnh bạch huyết cấp tính hoặc mãn tính. Ngược lại số lượng bạch cầu giảm trong
trường hợp bò nhiễm xạ, bệnh suy tủy.
2.2.3.2. Các loại bạch cầu
Có hai loại bạch cầu: bạch cầu có hạt và bạch cầu không hạt:
_ Bạch cầu không hạt: tế bào mono (monocyte), tế bào lympho (lymphocyte).
_ Bạch cầu có hạt gồm: bạch cầu đa nhân trung tính (neutrophil), bạch cầu đa
nhân ưa acid (eosinophil), bạch cầu đa nhân ưa baso (basophil).
Công thức tính bạch cầu thông thường ở người Việt Nam trưởng thành:
_ Neutrophil 65 – 70%
_ Eosinophil 9 – 11%
_ Basophil 0 – 0,5%

_ Lymphocyte 20 -25%
_ Monocyte 2 - 4%



- Trang 12 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ

Sơ đồ 1.3: Sinh tổng hợp bạch cầu[11]
2.2.4. Tiểu cầu [3]
2.2.4.1. Hình dạng và số lượng
Tiểu cầu là những mảnh nhỏ của tế bào nhân khổng lồ trong tủy xương. Khi
các tế bào này bể vở, chúng sẽ giải phóng tiểu cầu và đưa vào máu.
Hình dạng của tiểu cầu không nhất đònh (tròn, bầu dục, hình sao,…), có đường
kính khoảng 2 – 4µ. Tiểu cầu là những tế bào không có nhân, trong tế bào chất của
tiểu cầu có các protein co giản giống như actomyosin của cơ chiếm khoảng 20%
protein của tiểu cầu. Các tơ actin này có vai trò trong quá trình co giãn tiểu cầu và
trong hiện tương co cục máu đông.
- Trang 13 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
Ngoài tác dụng làm đông máu, tiểu cầu còn có đặc tính ngưng kết thành cục
mỗi khi gặp một diện tích thô ráp và vật lạ, do đó tiểu cầu có khả năng làm vết
thương khép lại nhanh chóng, có tác dụng cầm máu. Khi có vết thương gây chảy
máu, tiểu cầu tụ lại ở mép vết thương, kết dính với nhau và khi vỡ giải phóng những
chất như ADP, sérotonin, adrénalin gây co mạch và đóng miệng vết thương để cầm
máu.
2.2.4.2. Sự sản sinh tiểu cầu
Tiểu cầu hình thành từ những nguyên bào nhân khổng lồ trong tủy xương.
Nguyên bào nhân khổng lồ


Tế bào nhân khổng lồ
Bể vỡ
Tiểu cầu
Sơ đồ 1.4: Tạo tiểu cầu
3. Vài Nét Về Bệnh Thiếu Máu [4]
3.1. Đònh nghóa
Thiếu máu là tình trạng giảm số lượng hồng cầu hay huyết sắc tố hoặc
hematocrit dưới mức bình thường so với người cùng tuổi, cùng giới khỏe mạnh.
Đối với nam được coi là thiếu máu khi: số lượng hồng cầu dưới 4 triệu hay
hemoglobin dưới 12g/100ml hoặc hematocrit dưới 36%
Đối với nữ được coi là thiếu máu khi: số lượng hồng cầu dưới 3,5 triệu hay
hemoglobin dưới 10g/100ml hoặc hematocrit dưới 30%.



- Trang 14 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
3.2. Nguyên Nhân Gây Thiếu Máu[2]
3.2.1. Thiếu máu do thiếu sắt
Do mất sắt vì kinh nguyệt nhiều, xuất huyết đường tiêu hóa, điều trò dài ngày
với aspirine và thuốc kháng viêm không steroid, nhiễm giun móc, xuất huyết đường
niệu.
Giảm cung cấp sắt ở người bò cắt dạ dày, khẩu phần ăn không đủ sắt ở người
già thiếu dinh dưỡng, nhòn ăn. Nhu cầu sắt cao ở phụ nữ và trẻ em.
3.2.2. Thiếu máu do mất máu
Khi mất máu, Fe
++
và các thành phần của hồng cầu bò mất khỏi cơ thể, mất
máu có thể cấp tính hoặt kinh niên.
Thiếu máu do mất máu cấp như chấn thương, xuất huyết tiêu hóa…khi lượng

máu mất hơn 10% dù cơ thể vận dụng cơ chế bù trừ (co mạch, tăng nhòp tim, tăng
sức co bóp, tái phân phối máu) huyết áp vẫn giảm dần do giảm thể tuần hoàn. Khi
lượng máu mất đến 30 - 40% thì xảy ra shock. Nếu sự mất máu được kiểm soát, số
lượng hồng cầu sẽ phục hồi sau 3-4 tuần.
Thiếu máu do mất máu kinh niên như do tró, rong kinh, giun. Cơ thể thích nghi
với tình trạng thiếu máu. Hồng cầu có ít Hb thiếu máu nhược sắc hồng cầu nhỏ.
3.2.3. Thiếu máu do huyết tán
Thiếu máu huyết tán có đặc điểm là hồng cầu vỡ sớm, tích tụ lại trong cơ thể
Fe
++
và các sản phẩm từ sự hủy hoại hồng cầu. Do đời sống hồng cầu ngắn nhưng
tủy xương thường ở trạng thái hoạt động mạnh gây tăng số lượng hồng cầu lưới trong
máu. Ngoài biểu hiện thiếu máu còn biểu hiện vàng da nhẹ. Nếu hồng cầu vỡ nhiều
gây Hb máu và Hb niệu đái huyết sắc tố.
3.2.4. Khiếm khuyết ở màng hồng cầu
Bệnh hồng cầu hình cầu di truyền có sự bất thường của protein màng hồng cầu
(chất spectin), sự rối loạn về cấu trúc và chức năng của men ATPase, chất
phospholipid ở màng hồng cầu giảm. Các rối loạn về cấu trúc của màng làm cho
- Trang 15 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
màng hồng cầu tăng tính thấm đối với Na
+
làm cho hồng cầu phình lên ở dạng hình
cầu vận chuyển được oxi nhưng dễ vỡ khi đi quan trọng ở xoang tỉnh mạch và tuần
hoàn ở lách. Di truyền mang tính trội, nhiễm sắc thể thường.
3.2.5. Huyết tán do các nguyên nhân ngoài hồng cầu
Một số yếu tố mắc phải, ngoại sinh đối với hồng cầu gây tan máu bởi tác động
trực tiếp gây tổn thương màng hồng cầu hoặc bởi kháng thể bao gồm: thuốc, chất
hóa học, nộc rắn, vi khuẩn, sốt rét, ngoài ra còn các yếu tố cơ học như: van tim nhân
tạo, phỏng, viêm mạch máu.

Kháng thể gây hủy hoại hồng cầu có thể xếp thành 2 loại: kháng thể ấn thuộc
nhóm IgG, tác động tối ưu đối với nhiệt độ 37
0
C và kháng thể lạnh thuộc nhóm IgM,
tác động tối ưu ở 4
0
C. Kháng thể lạnh gây tình trạng thiếu máu kinh niên xảy ra
cùng với sự tăng sinh hệ lympho hoặc vô căn. Tan máu xảy ra ở các phần xa cơ thể
nhiệt độ thấp hơn 30
0
C.
Thiếu máu huyết tán do nhiễm khuẩn: tổn thương hồng cầu có thể theo các cơ
chế:
_ Do tác động trực tiếp của dộc tố vi khuẩn như Clostridium perfringens tiết
lecithinase tác động lên lipoprotein gây vỡ hồng cầu.
_ Do cơ chế miễn dòch: polysaccharide từ vi khuẩn được găn lên bề mặt hồng
cầu, cơ thể tạo kháng thể chống lại gây vỡ hồng cầu.
_ Ký sinh trùng có tác động trực tiếp gây vỡ hồng cầu.
_ Động máu nội mạch rải rác: gây tan máu do hồng cầu qua lòng mạch bò
hẹp.
3.2.6. Thiếu máu do tủy xương kém hoặc không hoạt động
Sự sinh hồng cầu giảm nếu tủy xương bò cốt hóa hoặc xơ tủy; tủy xương bò
xâm lấn bởi ác tính; tủy xương bò ngộ độc bởi thuốc, hóa chất; thiếu hormon
eryhtroppoietine như suy thận mạn, bất sản tủy không rõ nguyên nhân. Ngày nay
người ta nghó rằng bất sản tủy do:
- Trang 16 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
_ Tổn thương tế bào gốc làm giảm số lượng tế bào gốc.
_ Tổn thương vi mô trường ở tủy xương (tổn thương tế bào chất đệm).
_ Do cơ chế miễn dòch, là cơ chế được đề cập nhiều nhất do quá trình miễn

dòch hay tự miễn, gây tình trạng ức chế miễn dòch ở tủy xương. Các tế bào
lympho đã hoạt hóa sản xuất ra các γINF và βTNF có tác động ức chế sự
tăng trưỡng của tế bào gốc, tế bào chất đệm thì bò ức chế bởi γINF.
3.3. Phòng chống thiếu máu [6]
3.3.1. Bổ sung bằng viên sắt
Cải thiện nhanh tình trạng thiếu máu ở các đối tượng bò đe dọa. Trong điều
kiện nguồn thuốc và cán bộ hạn chế nên ưu tiên cho đối tượng có tỷ lệ mắc bệnh cao
như người mẹ có thai, trẻ em, học sinh và lao động một số ngành nghề khác.
Bảng 1.2: Các loại viên sắt thường dùng.
Loại Hợp chất sắt
(mg/viên)
Sắt nguyên
tố (mg/viên)
%Fe
Ferruos sulfat (7 H
2
O) 300 60 20
Ferrous sulfat (andehit) 200 74 37
Ferrous sulfat (khô, 1
H
2
O)
200 60 30
Ferrous gluconat 300 36 12
Ferrous fumarat 200 66 33
Phụ nữ có thai: nên cho 2 viên có 60 mg sắt nguyên tố và 250 mg folat vào
thời kỳ hai của thời kỳ có thai là tổng liều khoảng 250 viên.
Trẻ em trước tuổi đi học: nên cho thành hai đợt ngắn 2 – 3 tuần mỗi ngày 30
mg sắt nguyên tố dạng viên hoặc dạng nước vài ba lần mỗi năm.
Học sinh: liều hằng ngày khoảng 30 – 60 mg sắt nguyên tố tùy theo tuổi và

trọng lượng. Đối với trẻ dưới 1 tuổi, chủ yếu dựa vào sắt trong sữa mẹ và cho ăn bổ
sung hợp lý (có nhiều sắt và Vitamin C).
- Trang 17 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
3.3.2. Cải thiện chế độ ăn
Trước hết chế độ ăn cần cung cấp đầy đủ năng lượng và các thực phẩm giàu
sắt. Đồng thời cần tăng cường khả năng hấp thu sắt nhờ tăng lượng vitamin C từ rau
quả (ô dinh dưỡng, vườn rau gia đình). Tỷ lệ hấp thu của sắt không ở dạng Heme
tăng lên thuận chiều với lượng vitamin C trong khẩu phần. Nên khuyến khích các
cách chế biến nảy mầm, lên men (giá đỗ, dưa chua). Vì các quá trình này làm tăng
lượng vitamin C và làm giảm lượng Tamin và acid Phytic trong thực phẩm.
3.3.3. Tăng cường sắt cho một số thức ăn
Đây là một hướng kỹ thuật khó khăn nhưng đang được thăm dò ở nhiều nước.
Vấn đề đặt ra là đảm bảo hoạt tính sinh học của sắt mà không gây ra mùi vò khó chòu
cho thực phẩm. Các loại thực phẩm được thử nghiệm tăng cường là gạo, muối,
đường, nước mắm, bột cá, chè.
4. Sơ Lược Về Sắt [8]
Sắt là một nguyên tố có hàm lượng rất ít trong cơ thể. Tổng lượng sắt vào 4 –
5g ở cơ thể người lớn bình thường. Sắt đóng vai trò rất quan trọng và là yếu tố cần
thiết đối với cơ thể, tuy nhu cầu sắt hằng ngày rất ít. Người lớn bình thường cần
12mg sắt mỗi ngày, trẻ em 1 tuổi cần 6mg. Nhu cầu này tăng lên ở những cơ thể
đang phát triển, phụ nữ có thai, người mẹ cho con bú và nhất là những trường hợp bò
mất máu (như kinh nguyệt nhiều, chấn thương,…).
Tuy vậy, bài tiết sắt ra ngoài rất ít (khoảng 1 – 2mg mỗi ngày), mặt khác còn
tái sử dụng hầu hết số sắt trong những hồng cầu chết. Vì vậy nhu cầu sắt giảm đi 10
lần và thực tế mỗi ngày chỉ cần 1,5 – 2mg sắt cũng đủ.
Trong cơ thể sắt được phân bố làm hai nhóm:
_ Sắt thuộc heme: thấy trong hemoglobin, myoglobin.
_ Sắt không thuộc heme: là sắt tự do ở dưới dạng sắt tuần hoàn (Fe
2+

) và sắt
dự trữ (Fe
3+
). Sắt tự do dưới dạng sắt hai trong huyết tương gắn vào một
protein đặt biệt (β
1
Globin) gọi là transferrin hay siderofilin (chất vận
chuyển sắt).
- Trang 18 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
4.1. Vai trò của sắt
Sắt là nguyên tố không thể thiếu trong cơ thể. Trong cơ thể con người, sắt có
mặt trong hầu hết các tế bào và có nhiều chức năng quan trọng khác nhau.
Sắt là thành phần quan trọng tạo nên hemoglobine, myoglobine và men oxy
hóa như mytochrome–C, succinyl–dehydrogenase và một số reductase khác. Sắt
cũng đóng vai trò như là một cofactor cho một số enzyme, bao gồm các enzyme
tham gia vào sinh tổng hợp collagen và các chất dẫn truyền thần kinh (dopamine,
epinephrine, norepinephrine và serotonin).
4.2. Phân bố sắt trong cơ thể
Khoảng hai phần ba lượng sắt trong cơ thể chứa trong hemoglobin. Khoảng
30% sắt dự trữ ở trong ferritin và hemosiderin trong hệ liên võng nội mô tại gan,
lách, tủy xương. Còn lại một lượng nhỏ có trong thành phần các men có chứa sắt
(cytochrom, catalase, peroxydase), trong myoglobin của cơ và gắn với protein vận
chuyển sắt là transferrin. Do tỷ lệ khác nhau này mà khi cơ thể thiếu sắt trước tiên
sẽ ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp hemoglobin và lượng sắt dự trữ còn sắt trong
các hem của tế bào thường chỉ giảm trong các trường hợp thiếu sắt nặng.
Bảng 1.3: Phân bố sắt trong cơ thể người.
Nam (g) Nữ (g) %
Hemoglobin 2,4 1,7 65
Feritin và hemosiderin 1,0 (0,3 – 0,5) 0,3(0 – 1,0) 30

Myoglobin 0,15 0,12 3,5
Các men có sắt 0,02 0,015 0,5
Sắt gắn với transferrin 0,004 0,003 0,1
4.3. Hấp thu sắt
Trong thức ăn sắt ở dạng ferric (Fe
3+
). Sắt có trong các hợp chất vô cơ hoặc
hữu cơ. Sắt có thể ở dạng hydroxyd hoặc kết hợp với protein. Hàm lượng sắt khác
- Trang 19 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
nhau trong từng loại thức ăn nhưng nhìn chung các thức ăn từ thòt chứa nhiều sắt hơn
các thức ăn thực vật, trứng hay sữa. Khẩu phần ăn hàng ngày trung bình có chứa
khoảng 10 – 15mg sắt. Chỉ có khoảng 5 – 10% sắt được hấp thu (tỷ lệ này có thể
tăng lên 20 – 30% trong trường hợp thiếu sắt hoặc tăng nhu cầu sử dụng sắt ở phụ nữ
có thai).
Bảng 1.4: Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hấp thu sắt trong cơ thể .
Yếu tố làm tăng hấp thu sắt Yếu tố làm giảm hấp thu sắt
Dạng ferrous (Fe
2+
) Dạng ferris (Fe
3+
)
Sắt vô cơ Sắt hữu cơ
Môi trường acid (HCl), vitamin C Môi trường kiềm
Các yếu tố hòa tan (acid amin…)
Các yếu tố gây kết tủa (phitat,
phosphat)
Thiếu sắt trong cơ thể Thừa sắt
Tăng tổng hợp hồng cầu Giảm tổng hợp hồng cầu
Tăng nhu cầu (có thai) Nhiễm khuẩn, viêm mạn tính

Hemochromatose
Các thuốc thải sắt (desferriosamin)
Chè (trà)
Quá trình hấp thu sắt bắt đầu tại dạ dày nhưng chủ yếu diễn ra tại hành tá
tràng và ở mức độ ít hơn tại đoạn dầu ruột non. Để hấp thu được sắt phải chuyển từ
dạng ferris (Fe
3+
) sang dạng ferrous (Fe
2+
). Pepsin tách sắt khỏi các hợp chất hữu cơ
và chuyển thành dạng gắn với acid amin hoặc với đường. Acid chlohydric khử Fe
2+

thành Fe
3+
để dễ hấp thu.
Sự kiểm soát quá trình hấp thu sắt và lượng sắt được hấp thu vào tỉnh mạch
cửa phụ thuộc vào nhu cầu của cơ thể và kho dự trữ sắt của cơ thể. Trong trường hợp
thiếu sắt một lượng sắt lớn hơn sự hấp thu qua riềm bàn chải vào tế bào niêm mạc
ruột và vào máu đi về tỉnh mạch cửa. Ngược lại trong trường hợp cơ thể quá tải sắt,
lượng sắt được hấp thu vào tế bào niêm mạc ruột sẽ giảm đi.
Một yếu tố khác ảnh hưởng đến quá trình hấp thu sắt là sự điều hòa hấp thu
sắt ngay tại riềm bàn chải của ruột non. Lượng sắt được hấp thu thừa sẽ kết hợp với
- Trang 20 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
apoferritin để hình thành ferrin nằm trong bào tương tế bào niêm mạc ruột. Ferritin
này sẽ được thải vào lòng ruột khi tế bào biểu mô ruột bò bong ra. Ngoại trừ một số
trường hợp quá tải sắt nặng, sắt tự do không có trong huyết tương do sắt được gắn
với transferrin ở máu tỉnh mạch cửa.
4.4. Vận chuyển sắt [9], [10]

Sắt được vận chuyển bởi transferrin. Transferrin là một protein có trọng lượng
phân tử 80000. Transferrin được tổng hợp tại gan và có nửa đời sống khoảng 8 – 10
ngày. Một phân tử transferrin có thể gắn với hai phân tử sắt. Sau khi sắt tách ra
transferrin tiếp tục gắn với những nguyên tử sắt mới. Bình thường chỉ có khoảng một
phần ba transferrin bão hòa sắt.
Tỷ lệ này có thể thay đổi trong các bệnh lý thiếu hoặc quá tải sắt. Transferrin
chủ yếu lấy sắt từ các đại thực bào của hệ liên võng nội mô. Chỉ có một lượng nhỏ
sắt được lấy từ sắt hấp thu qua đường tiêu hóa hàng ngày. Các nguyên hồng cầu lấy
sắt cần thiết cho quá trình tổng hợp hemoglobin từ transferrin. Các nguyên hồng cầu
rất giàu các receptor với transferrin.
Ngoài ra một lượng nhỏ sắt cũng được chuyển đến tế bào không phải hồng
cầu (như tổng hợp các hem chứa sắt).









- Trang 21 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
Thức ăn Ruột
(Fe
3+
Fe
2+
) (hấp thu Fe
2+

)
(HCl dạ dày)

Huyết tương (transferin)

Hồng cầu có nhân (non) Gan (kho) Đại thực bào: (sắt dự
trữ ở dạng ferritin,
Tủy: Đại thực bào hemosiderrin)

Hồng cầu: Hb
Sơ đồ 1.5: Vận chuyển sắt trong cơ thể
4.5. Dự trữ sắt và chu trình chuyển hóa sắt hằng ngày của cơ thể [9]
4.5.1. Dự trữ sắt
Bình thường các hồng cầu chết bò thực bào tại các tế bào của hệ liên võng nội
mô. Một phần nhỏ sắt giải phóng từ sự phân hủy hemoglobin sẽ đi vào huyết tương
và phần lớn được dự trữ trong các đại thực bào dưới dạng ferritin và hemosiderin.
Sắt chứa trong ferritin và hemosiderin là sắt có hóa trò ba (dạng ferric).
Ferritin là một protein tan trong nước có trọng lượng phân tử 465000. Vỏ
protein khi chưa liên kết với sắt gọi là apoferritin. Sau khi apoferritin liên kết với sắt
tạo thành ferriin. Lượng sắt chứa trong ferritin chiếm khoảng 20% trọng lượng
protein này. Mỗi phân tử apoferritin có thể liên kết với 4000 – 5000 nguyên tử sắt.
Hemosiderin là một tổ hợp có chứa sắt không hòa tan trong nước. Lượng sắt chứa
trong hemosiderin chiếm khoảng 37% trọng lượng của nó.

- Trang 22 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
4.5.2. Chu trình chuyển hóa sắt hằng ngày của cơ thể
Sau khi hồng cầu chết đi, sắt được chuyển từ hemoglobin sang đại thực bào
(khoảng 20 mg/ngày). Sau đó transferrin lấy từ đại thực bào chuyển đến tủy xương
cung cấp cho các nguyên hồng cầu tổng hợp hemoglobin mới (cũng khoảng 20

mg/ngày).
Lượng sắt mất đi hằng ngày không đáng kể (vào khoảng 1mg/ngày) và được
bù lại bằng lượng hấp thu được trong thức ăn (khoảng 1mg/ngày được hấp thu). Sắt
hấp thu từ thức ăn cũng được chuyển đến các nguyên hồng cầu bằng protein vận
chuyển transferrin.
Hấp thu Các mô Mất đi (1mg)
1mg
Transferrin
20mg 20mg
Tủy xương Tế bào liên võng – nội mô
(Đại thực bào)
20mg 20mg
Hemoglobin
1.7 – 2.4g
Sơ đồ 1.6: Chuyển hóa sắt hằng ngày trong cơ thể




- Trang 23 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Vật liệu
1.1. Nguyên liệu và đối tượng thí nghiệm
1.1.1. Nguyên liệu
Thuốc Fumarat – Acid Folic: 1viên chứa 160mg Fe. Sản xuất tại Việt Nam.
Vừng Senamum indicum DC: 300g, mua tại chợ Kim Biên.
Cám gạo, Bột mì, Bột cá: được mua từ các cửa hàng bán thức ăn gia súc.
1.1.2. Đối tượng thí nghiệm
Chuột nhắt trắng Mus Musculus var.Albino, Viện Pasteur Tp. HCM.

Chuột có trọng lượng khoảng 20g.
1.2. Dụng cụ – hóa chất
1.2.1. Dụng cụ và thiết bò
1.2.1.1. Theo dõi trọng lượng chuột
Hộp nhựa dựng chuột
Cân điện tử
1.2.1.2. Theo dõi hồng cầu – bạch cầu
Kéo
Lamelle
Giá treo chuột
Kim tiêm lấy máu
Becher (50ml, 100ml)
Bình tia
Kính hiển vi
- Trang 24 -
Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Nguyễn Thò Hoàn Mỹ
ng nhốt chuột
ng trộn hồng cầu
ng trộn bạch cầu
Buồng đếm hồng cầu
1.2.1.3. Đo màu bằng phương pháp Drabkin [7]
Pipet
Cuvet nhựa
Eppendorff 1.5ml
Đầu típ (10 - 100µl)
Pipetman (10 - 100µl)
Becher (50ml, 100ml)
ng nghiệm thủy tinh
Máy đo quang phổ
1.2.2. Hóa chất

1.2.2.1. Dung dòch đếm hồng cầu
Dung dòch Marcano:
_ Sodium sulfat 5 g
_ Formalin 40% 1 ml
_ Nước cất vừa đủ 200 ml
1.2.2.2. Dung dòch đếm bạch cầu
Dung dòch đếm Lazarus:
_ Acid acetic 3 ml
_ Methylblue 3 giọt
_ Nước cất vừa đủ 100 ml
- Trang 25 -

×