Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

vai trò của chính sách lãi suất đối với hoạt động doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.14 KB, 19 trang )

Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.

1







ĐỀ TÀI

CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT NGÂN HÀNG VÀ
VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP



GIẢNG VIÊN: PGS – TS TRẦN HUY HOÀNG

THỰC HIỆN NHÓM 4 – NHĐ5 – K 18
1. HUỲNH TRUNG HIẾU
2. NGUYỄN HỮU HOÀN
3. NGUYỄN THÁI BÌNH DƯƠNG
4. PHAN THỊ TUYẾT OANH

Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.

2

MỤC LỤC
CHƯƠNG I - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT 5


I. KHÁI NIỆM : 5
II. CƠ SỞ HÌNH THÀNH LÃI SUẤT : 5

Quan hệ cung cầu về vốn tín dụng trong từng thời kỳ nhất định : 5

Tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế: 5

Hiệu quả hoạt động sản xuất- kinh doanh- dịch vụ của doanh nghiệp: 6

Chính sách động viên và phân phối của nhà nước: 6
III. CÁC LOẠI LÃI SUẤT : 6

Đứng trên góc độ điều hành chính sách tiền tệ : 6

Đứng trên góc độ giao dịch liên ngân hàng : 6

Đứng trên góc độ huy động huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng
thương mại : 6
IV. DIỄN BIẾN CỦA QUÁ TRÌNH ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT : 7
CHƯƠNG II - VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG DOANH NGHIỆP 10
I. ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ CUNG CẦU VỐN CỦA NỀN KINH TẾ NÓI
CHUNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NÓI RIÊNG 10
II. CẦU NỐI GIỮA SẢN PHẨM NGÂN HÀNG - KHÁCH HÀNG : 11
III. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ SỐ LỢI NHUẬN BÌNH QUÂN CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP: 11
IV. TÁC ĐỘNG ĐẾN DOANH LỢI CHỨNG KHOÁN CỦA DOANH NGHIỆP:12
CHƯƠNG III - NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TỒN TẠI
TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT 13
I. CÁC CÁCH QUẢN LÝ LÃI SUẤT: 13

a. Cố định lãi suất : 13
b. Thả nổi lãi suất : 13
Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.

3
II. THUẬN LỢI - KHÓ KHĂN VÀ CÁC MẶT TỒN TẠI TRONG ĐIỀU HÀNH
LÃI SUẤT 14
CHƯƠNG IV - KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH
LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG 16
Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.

4
PHẦN MỞ ĐẦU
Khi nói đến hoạt động của ngân hàng và hoạt động của doanh nghiệp thì chúng ta
không thể không đề cập đến một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan mật thiết giữa ngân
hàng và doanh nghiệp đó chính là lãi suất ngân hàng.
Bất kể một quốc gia nào trên thế giới dù nền kinh tế đang ở trình độ phát triển nào đi
chăng nữa thì chính sách lãi suất của ngân hàng đối với hoạt động doanh nghiệp có một sự
tác động quan trọng. Lãi suất không chỉ đơn giản là khoản giá cả phải trả cho việc sử dụng
một khoản tiền mà còn thể hiện ở tầm cao hơn đó chính là công cụ vĩ mô điều hành chính
sách tiền tệ một quốc gia, tác động trực tiếp đến sự hoạt động và phát triển của doanh nghiệp
nói riêng, sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
Thực tiễn đã chứng minh ở Việt Nam, từ thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
lãi suất còn mang tính bao cấp, nên Ngân hàng nhà nước đã thực thi chính sách lãi suất có sự
phân biệt và áp dụng chi tiết cho từng ngành kinh tế, thành phần kinh tế với mục đích t ác
động sự phát triển của từng ngành, thành phần kinh tế. Đến giai đoạn đầu của thời kỳ đổi
mới (1988-1992) do lạm phát phi mã nên Ngân hàng nhà nước đã thực thi chính sách "lãi
suất âm" với mức lãi suất huy động danh nghĩa rất cao, nhằm thu hút mạnh tiền vào hệ
thống ngân hàng, từ đó giảm bớt tổng phương tiện thanh toán để ổn định và giữ vững giá trị
đồng tiền nội tệ đồng thời duy trì lãi suất cho vay ở mức độ hợp lý, các Doanh nghiệp có thể

chịu đựng được nên đã đưa nền kinh tế thoát khỏi cơn suy thoái trong một hoàn cảnh hết sức
khó khăn. Giai đoạn từ tháng 6/1992 đến cuối năm 1994 sau khi nền kinh tế đã thoát khỏi
lạm phát phi mã, Ngân hàng nhà nước đã điều hành chính sách "lãi suất dương" vừa đảm
bảo lợi ích của ngân hàng, vừa đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp gởi tiền tại ngân hàng và
kích thích doanh nghiệp tiết kiệm, sử dụng vốn có hiệu quả. Giai đoạn 1996 đến tháng
7/2000, Ngân hàng nhà nước điều hành lãi suất theo lãi suất trần và từ tháng 8/2000 đến nay
điều hành lãi suất theo lãi suất cơ bản nhằm giải quyết tốt mối quan hệ cung cầu vốn tín
dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp, thể hiện vai trò tác động và sự ảnh hưởng hết sức
quan trọng đến hoạt động các Doanh nghiệp.
Giải quyết vấn đề này phải có nhiều ngành, nhiều cấp tham gia, trong đó có ngân hàng nhà
nước. Đây cũng là một vấn đề hết sức bức xúc, bài toán khó cho Ngân hàng nhà nước Việt
nam. Bởi vì trong tình hình kinh tế – tài chính hiện nay lạm phát tăng nhanh sẽ gây áp lực
rất lớn đối với lãi suất và tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên trong thực tế cách điều hành chính sách
lãi suất và cách quản lý lãi suất của ngân hàng cũng có những thuận lợi, khó khăn cũng như
những tồn tại nhất định tác động đến hoạt động Doanh nghiệp, chính vì vậy mà cần phải có
những giải pháp tốt để điều hành chính sách lãi suất tốt nhằm đảm bảo và phát huy được
công cụ điều hành tiền tệ vĩ mô của nền kinh tế, đồng thời tác động thúc đẩy hoạt động của
Doanh nghiệp.
Với những kiến thức lý luận được tiếp thu từ Thầy (Cô)- Giảng viên các trường Đại
học, từ bài giãng môn Quản Trị Ngân Hàng của Thầy Trần Huy Hoàng kết hợp nhận thức
thực tiễn từ quá trình công tác, tôi đã chọn đề tài " Vai trò của chính sách lãi suất đối với
hoạt động Doanh nghiệp ".
Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.

5
CHƯƠNG I - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT

I. KHÁI NIỆM :
Lãi suất là một phạm trù quan trọng nhất của hoạt động ngân hàng. Các dịch vụ kinh
doanh ngân hàng cung cấp cho khách hàng rất đa dạng và hoạt động ngân hàng như một

trung gian tài chính: thanh toán lãi suất cho phần tiền gởi của khách hàng và tính lãi suất đối
với tài khoản tiền cho khách hàng vay.
Từ đó có khái niệm về lãi suất (Interest rate): Lãi suất là tỷ lệ % giữa tiền lãi (hay chi
phí phải trả) trên một số lượng tiền mặt nhất định để được sở hữu và sử dụng tiền ấy trong
khoảng thời gian đã thỏa thuận trước.
Mặt khác sự vận động tổng quát của tín dụng là T-T', trong đó T'= T+ T. Với một số lượng
tiền mà ngân hàng đưa ra cho vay sau một thời gian sẽ quay trở về với người sở hữu nó kèm
theo một giá trị tăng thêm đó là lợi tức.
Như vậy lợi tức tín dụng là khoản chênh lệch giữa số vốn thu về và số vốn đã cho
vay; được xem là giá cả của vốn vay, đây là khoản người đi vay phải trả cho người vay sau
một thời gian sử dụng vốn vay. Lợi tức tín dụng được biểu hiện thông qua lãi suất tín dụng.

II. CƠ SỞ HÌNH THÀNH LÃI SUẤT :
Để thấy rõ được tác động của chính sách lãi suất đối với hoạt động doanh nghiệp, cần
nghiên cứu những cơ sở hình thành lãi suất:
Lãi suất là giá cả của vốn tiền tệ, là một chỉ số kinh tế tổng hợp, chịu tác động bởi
nhiều nhân tố kinh tế vĩ mô, tài chính- tiền tệ ở trong nước và ngoài nước. Các ngân hàng
thương mại (NHTM) ấn định lãi suất kinh doanh (huy động và cho vay vốn) dựa trên cơ sở
cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương (NHTW), xu hướng cung – cầu vốn thị
trường, lạm phát, mức độ rủi ro và lãi suất thị trường quốc tế. Trong những thập kỷ gần đây,
thị trường tài chính – tiền tệ thế giới có sự phát triển vượt bậc về quy mô và chiều sâu, cơ
chế điều hành lãi suất của NHTW các nước thay đổi theo hướng tự do hoá.
Quan hệ cung cầu về vốn tín dụng trong từng thời kỳ nhất định :
Nếu cung vốn tín dụng lớn hơn cầu vốn tín dụng, lãi suất tín dụng sẽ giảm; ngược lại
nếu cung nhỏ hơn cầu về vốn tín dụng thì lãi suất tín dụng sẽ tăng.
Cơ sở này rất quan trọng nếu nhu vầu về vốn tín dụng của các doanh nghiệp lớn vượt
cả nguồn cung vốn tín dụng của ngân hàng thì doanh nghiệp sẽ chịu lãi suất tín dụng cao,
như vậy chi phí trả lãi vốn vay cấu thanh trong giá thành sản phẩm của doanh nghiệp sẽ tăng
cao.
Tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế:

Tỷ lệ lạm phát có ảnh hưởng và tác động nhất định đến lãi suất tín dụng. Đây là mối
quan hệ đã được kiểm chứng trong thực tiễn các nước theo hướng lãi suất tín dụng sẽ tăng
cao trong thời kỳ có tốc độ lạm phát tăng cao và ngược lại sẽ giảm khi tốc độ lạm phát giảm.
Ta có công thức: Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát.
Trong cơ cấu lãi suất nếu không tính đến yếu tố này thì cả ngân hàng và khách hàng
đều gặp bất lợi. Bởi vì đối với lãi suất cho vay thì khoản lạm phát này là của người cho vay
(ngân hàng ) mà người đi vay (khách hàng) cũng phải bằng lòng trả khoản đó; ngược lại đối
Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.

6
với lãi suất tiền gửi, khách hàng ký thác cũng được tính thêm tỷ lệ này và rõ ràng đây cũng
là điều hợp lý.
- Tỷ lệ lãi suất = tỷ lệ lạm phát, thì lãi suất thực bằng không.
- Tỷ lệ lãi suất < tỷ lệ lạm phát, thì lãi suất thực là âm.
- Tỷ lệ lãi suất > tỷ lệ lạm phát, thì lãi suất thực là dương.
Hiệu quả hoạt động sản xuất- kinh doanh- dịch vụ của doanh nghiệp:
Nếu xét về góc độ vốn tín dụng phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh dịch vụ của doanh
nghiệp thì về mặt lý thuyết lãi suất tín dụng sẽ nằm trong khoảng giới hạn sau:
0 < lãi suất tín dụng  tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Nếu lãi suất tín dụng thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp thì sẽ khuyến
khích doanh nghiệp sử dụng vốn vay có hiệu quả, ngược lại nếu lãi suất tín dụng lớn hơn tỷ
suất lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp thì không khuyến khích doanh nghiệp sử dụng
vốn vay ngân hàng và như vậy lãi suất sẽ không là đòn bẩy kích thích sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ của doanh nghiệp.
Chính sách động viên và phân phối của nhà nước:
Nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn nhất định hoặc để
phát triển một ngành, một lĩnh vực kinh tế nên nhà nước có chính sách động viên và phân
phối nguồn lực của nhà nước hoặc quy định lãi suất ưu đãi mà các ngân hàng phải cho vay
các doanh nghiệp thực hiện chủ trương đó.


III. CÁC LOẠI LÃI SUẤT :
Tùy theo tính chất và đặc điểm giao dịch vốn mà có nhiều loại lãi suất khác nhau.
Phân loại lãi suất như sau :
Đứng trên góc độ điều hành chính sách tiền tệ :
Lãi suất được ngân hàng nhà nước (ngân hàng trung ương) sử dụng như là một công
cụ điều hành chính sách tiền tệ, do đó ngân hàng trung ương áp dụng đối với các ngân hàng
thương mại với tư cách là người cho vay cuối cùng thông qua các nghiệp vụ tái chiết khấu
các thương phiếu, chứng từ có giá; nghiệp vụ tái cấp vốn. Có các loại lãi suất sau:
- Lãi suất cơ bản
- Lãi suất tái cấp vốn
- Lãi suất tái chiết khấu
- Lãi suất này cũng là cơ sở để các ngân hàng thương mại áp dụng hình thành nên
lãi suất giao dịch với các doanh nghiệp, khách hàng.
Đứng trên góc độ giao dịch liên ngân hàng :
Lãi suất liên ngân hàng là loại lãi suất cho vay lẫn nhau giữa các ngân hàng thương mại
được hình thành trên thị trường liên ngân hàng.
Đứng trên góc độ huy động huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng thương
mại :
a/ Đối với huy động vốn:
Có các loại lãi suất sau:
- Lãi suất tiền gởi có kỳ hạn
- Lãi suất tiền gởi không kỳ hạn
- Lãi suất tiền gởi của các đơn vị tổ chức kinh tế
Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.

7
- Lãi suất tiền gởi tiết kiệm của các tầng lớp dân cư
- Lãi suất của các loại chứng từ có giá như kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu…
b/ Đối với sử dụng vốn cho vay:
Lãi suất cho vay bằng tiền (đồng Việt Nam, ngoại tệ)

+ Lãi suất cho vay ngắn hạn
+ Lãi suất cho vay trung, dài hạn
Lãi suất cho vay cầm cố
Lãi suất chiết khấu các chứng từ có giá
Ngoài ra trong thực tế ngày nay các ngân hàng đã đa dạng hóa các loại hình sản phẩm
dịch vụ, thanh toán phục vụ cho các khách hàng cho nên ngoài kênh thanh toán bằng tiền đã
có phát sinh thêm kênh thanh toán bằng vàng nên ngân hàng nhà nước Việt Nam đã có quyết
định 432/2000/QĐ-NHNN1 ngày 3/10/2000 ban hành quy định về việc huy động và cho vay
bằng vàng hiện vật, cho vay VND bảo đảm giá trị theo vàng nên từ đó cũng đã hình thành
lãi suất huy động và cho vay bằng vàng.

IV. DIỄN BIẾN CỦA QUÁ TRÌNH ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT :
Lãi suất là một trong những công cụ quan trọng hàng đầu trong việc thực thi chính
sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước , chính vì vậy lãi suất đã có vai trò tác động quan trọng
đến hoạt động doanh nghiệp.
Tuy nhiên trong từng thời kỳ phát triển kinh tế khác nhau mà Ngân hàng nhà nước đã
có những chính sách lãi suất khác nhau và có những tác động nhất định đến các doanh
nghiệp.
Từ khi thực hiện đổi mới nền kinh tế đất nước đến nay, diễn biến của chính sách lãi
suất thể hiện qua một số giai đoạn sau :

Đối với lãi suất huy động vốn, NHNN quy định thông qua các lần điều chỉnh
sau:
- Lần nhất: Ấn định mức cố định từ ngày 01/10/1982 theo Nghị định 165/HĐBT ngày
23/9/1982;
Lần hai: Khống chế chênh lệch bình quân giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay là
0,35%/tháng còn mức cụ thể giao cho các NHTM tự quy định theo Quyết định số 381/QĐ-
NH1 ngày 28/12/1995;
Lần 3: Đến ngày 28/6/1997, lãi suất huy động vốn đã thực sự tuân theo quy luật thị trường
khi NHNN hoàn toàn trao quyền cho các NHTM quyết định để phù hợp với thời hạn của

từng loại tiền gửi, địa bàn kinh doanh của từng tổ chức tín dụng;
Và mới đây, ngày 16/5/2008, bằng Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN lãi suất huy động sẽ
chính thức bị khống chế trong hạn mức không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN quy
định.

Đối với lãi suất cho vay, tính đến thời điểm này đã trải qua các giai đoạn chính
sau:
Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.

8
Giai đoạn 1: Lãi suất cho vay được ấn định mức cụ thể (Từ ngày 01/10/1982 –
01/7/1987): Đặt nền tản cho quy định này là Nghị định số 165/HĐBT ngày 23/9/1982. Theo
đó, Nghị định xác định hai chủ thể cho vay là Ngân hàng và Hợp tác xã (HTX) tín dụng.
Đối với Ngân hàng quy định gồm:
Cho vay vốn lưu động
Cho vay vốn cố định;
Đối với HTX Tín dụng chia mức cho vay thành mức ngắn hạn và mức còn lại.

Giai đoạn 2: Áp dụng mức trần và sàn đối với lãi suất cho vay (Từ ngày 01/7/1987–
01/01/1996): Vào ngày 29/6/1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành N ghị định 99-HĐBT quy
định:
Cho vay vốn lưu động trong giới hạn 2,4% đến 6%/tháng
Cho vay vốn cố định từ 2,1% đến 5,4%/tháng.

Giai đoạn 3: Áp dụng mức trần lãi suất cho vay (Từ ngày 01/01/1996 – 05/8/2000):
Với quyết định 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995, NHNN chính thức bỏ mức sàn mà chỉ áp
dụng trần lãi suất cho vay.

Giai đoạn 4: Lãi suất cho vay được vận dụng bằng cơ chế lãi suất cơ bản cộng với
biên độ giao động trong từng thời kỳ (Từ ngày 05/8/2000 – 01/6/2002). Theo quyết định số

241/2000/QĐ-NHNN1 ngày 02/8/2000, lãi suất cho vay của các NHTM không phải tuân
theo mức trần. NHNN chính thức công bố định kỳ lãi suất cơ bản và biên độ giao động.
NHTM sẽ tự mình đưa ra các mức lãi suất cho phù hợp với tình hình hoạt động sản xuất
kinh doanh.

Giai đoạn 5: Lãi suất thỏa thuận (Từ ngày 01/6/2002 – 19/5/2008): Theo quyết định
số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 lãi suất cho vay được hoàn toàn thả nổi theo
nguyên tắc tự do thỏa thuận giữa bên đi vay và NHTM;
Cũng cần nói thêm rằng, trước đó vào ngày 29/5/2001 NHNN đã chính thức thả nổi
lãi suất cho vay bằng USD cho các NHTM theo Quyết định số 718/2001/QĐ-NHNN.

Giai đoạn 6: Áp dụng mức trần lãi suất cho vay (Từ ngày 19/5/2008 đến đầu năm
2010)
Cũng như quy định tại quyết định 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995 về mức trần cho
vay nhưng tại Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 NHNN đưa ra cách xác
định mức trần có khác đó là lãi suất cho vay không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do
NHNN quy định.

Giai đoạn từ tháng 02/2010 đến nay: áp dụng lãi suất cho vay thỏa thuận.
Ngày 26/02/2010NHNN đã có Thông tư 07/2010/TT-NHNN quy định về cho vay
bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Tiếp đó, ngày 9-4, NHNN có Công văn số 2651/NHNN-CSTT yêu cầu các NHTM
cung cấp mức lãi suất cho vay thỏa thuận bằng VND. Hầu hết các ngân hàng thương mại sẽ
Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.

9
áp lãi suất cho vay VND theo cơ chế thỏa thuận tối đa dưới 15%/năm, cá biệt có trường hợp
là 18%/năm.

Ngân hàng nhà nước trung ương sử dụng lãi suất tái chiết khấu để tác động gián tiếp

tới lãi suất tiền gởi, lãi suất tiền vay của các ngân hàng trung gian. Trên cơ sở đó các ngân
hàng trung gian tùy tình hình thị trường mà áp dụng lãi suất tiền gởi, tiền vay đối với các
doanh nghiệp nhưng thường là cao hơn lãi suất chiết khấu. Khi ngân hàng trung ương tăng
lãi suất chiết khấu, điều đó có nghĩa là ngân hàng trung ương muốn hạn chế sự tăng thêm
tiền ra lưu thông.
+ Ở các nước đang phát triển:
Ấn định mức lãi suất tiền gởi, tiền vay ở mức tối đa và giao cho ngân hàng trung
ương quyền điều chỉnh mức lãi suất đó. Lý do không thể cho thị trường quyết định mức lãi
suất là vì thị trường tiền tệ trong nước chưa đủ sức cạnh tranh.
Tuy nhiên qua nghiên cứu thực tế của ngân hàng thế giới cho thấy lãi suất trần cứng
ngắc đã làm cản trở sự tăng trưởng về tiết kiệm tài chính và giảm thiểu hiệu năng của đầu tư.
Do đó nhiều nước đã thực hiện lãi suất chịu sự quản lý của nhà nước có thể có hại, không có
tác động tích cực đối với nền kinh tế nói chung, hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng.
Do đó họ có khuynh hướng để cho thị trường có tiếng nói lớn hơn. Trong điều kiện sự ổn
định kinh tế vĩ mô chưa được thiết lập, nhà nước có thể quản lý lãi suất.
+ Ở Việt Nam chính sách lãi suất hiện đang được cải tiến. Đ ây chính là yếu tố quan
trọng để góp phần cải cách lĩnh vực tài chính. Về nguyên tắc cơ chế thị trường có sự cạnh
tranh thì tốt nhất là lãi suất nên để cho thị trường quyết định thông qua lãi suất cơ bản. Tuy
nhiên ở Việt Nam hiện nay, khi tình hình kinh tế vĩ mô chưa được ổn định và các NHTM
quốc doanh làm chủ thị trường, thì chính phủ không tránh khỏi việc áp dụng chính sách lãi
suất tích cực.
Chính sách lãi suất hiện nay có tác động:
+ Khuyến khích tích lũy và là trung gian tài chính
+ Hướng các nguồn tài chính vào các hoạt động có tỷ suất lợi nhuận cao nhất.
+ Lãi suất tín dụng đươc sử dụng như một công cụ để vận hành cơ chế tạo tiền.
* Nếu muốn hạn chế việc tạo tiền của các ngân hàng thương mại, Ngân hàng nhà
nước sẽ tăng lãi suất tái cấp vốn, từ đó kéo theo lãi suất trên thị trường giữa các ngân hàng
tăng lên, vốn khả dụng giảm, Ngân hàng nhà nước sẽ thận trọng trong việc cấp tín dụng, do
đó tín dụng được cấp cho doanh nghiệp rất ít. Mặt khác về phía các doanh nghiệp khi lãi
suất tín dụng tăng sẽ giảm nhu cầu tín dụng, khối lượng tín dụng cấp ra giảm đi có nghĩa là

nguồn vốn đối ứng tạo tiền cũng sẽ giảm đi.
* Lãi suất trên thị trường tiền tệ luôn tăng nên lãi suất trên thị trường tài chính tăng
lên, thu hút đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư sẽ dùng ngoại tệ mua nội tệ, do đó thu hẹp
lượng nội tệ trong lưu thông. Ngược lại, nếu N gân hàng nhà nước muốn mở rộng việc tạo
tiền (cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế) thì thực hiện ngược lại tức là giảm lãi suất tín
dụng đối với các NHTM.


Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.

10
CHƯƠNG II - VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG DOANH NGHIỆP

Lãi suất ngân hàng trung ương luôn gắn với trình độ của một nền kinh tế và phản ảnh
thực trạng của nền kinh tế đó. Vì vậy nó có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động
doanh nghiệp. Nếu có một chính sách lãi suất tốt phù hợp thì tạo điều kiện phát triển doanh
nghiệp hoạt động tốt, ngược lại thì hoạt động doanh nghiệp sẽ đi vào chiều hướng xấu.

I. ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ CUNG CẦU VỐN CỦA NỀN KINH TẾ NÓI CHUNG
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NÓI RIÊNG

a. Thực chất vai trò lãi suất ở đây là tập trung và phân phối lại vốn tiền t ệ nhằm cân
bằng quan hệ cung cầu vốn trong nền kinh tế và để bảo vệ giá trị thực của tài sản tiền tệ và
khả năng hoạt động của đồng nội tệ. Do đó chính sách lãi suất sẽ tập trung thu hút nguồn
vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp chưa sử dụng vào ngân hàng đồng thời qua đó
sẽ cung ứng vốn cho các doanh nghiệp thiếu vốn để phục vụ cho quá trình sản xuất- kinh
doanh-dịch vụ .
b. Điều chỉnh quan hệ cung cầu vốn, đòi hỏi phải có chính sách lãi suất huy động, lãi
suất cho vay được hiểu là "giá mua" và "giá bán" của vốn. Khi "giá mua" tăng lên tất yếu giá

bán phải tăng lên để đảm bảo có lợi nhuận. Nhưng thực ra, viêc ấn định giá mua và giá bán
như thế nào còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Có thể giá bán thấp để tranh thủ các khách
hàng lớn, có tín nhiệm để t iếp thị thu hút khách hàng. Có thể bán giá cao để làm nản lòng
những khách hàng thiếu tín nhiệm, hoặc để mạo hiểm đầu tư vào những thương vụ có lợi
nhuận siêu ngạch, mặc dù phải chấp nhận rủi ro cao.
c. Thông thường trong thực tế những doanh nghiệp thừa vốn tức là có nguồn cung về
vốn tiền tệ; những doanh nghiệp thiếu vốn - cần có vốn, tức là có cầu về vốn tiền tệ nhưng
họ khó có thể gặp nhau để giải quyết được các quan hệ cung cầu này hoặc họ thiếu thông
tin, nhưng không gặp được nhau, nhưng nếu có thông tin đi chăng nữa nhưng giữa cung và
cầu về vốn không thể đáp ứng cho nhau được nên họ phải cần đến ngân hàng và như vậy
chính sách lãi suất của ngân hàng là cơ sở để giải quyết mối quan hệ cung cầu vốn này là rất
quan trọng.
Những doanh nghiệp tạm thời thừa vốn, chưa sử dụng đền có thể gởi vào ngân hàng
và tùy tính chất nguồn vốn doanh nghiệp có thể gởi có kỳ hạn hoặc không kỳ hạn hoặc đầu
tư vào các tín phiếu ( chứng từ có giá) do ngân hàng phát hành để được hưởng lợi tức thay
vì doanh nghiệp phải đầu tư vào các lĩnh vực khác có nhiều rủi ro.
Ngược lại các doanh nghiệp thiếu vốn, đang có nhu cầu về vốn họ sẵn sàng đến ngân hàng
nơi có nhiều sản phẩm dịch vụ thanh toán đáp ứng được cho nhu cầu của họ. Tùy vào số
lượng nhu cầu vốn, thời gian sử dụng vốn mà họ có thể vay nhiều, ít, vay ngắn hạn, trung
dài hạn; vay VND hoặc vay ngoại tệ. Doanh nghiệp có thể cân nhắc lựa chọn đồng tiền vay,
số lượng vốn vay, thời gian vay để sử dụng sao cho hiệu quả nhất.

Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.

11
II. CẦU NỐI GIỮA SẢN PHẨM NGÂN HÀNG - KHÁCH HÀNG :
a. Lãi suất ngân hàng là yếu tố quan trọng để có thể quyết định được việc nối kết giữa
sản phẩm ngân hàng với khách hàng. Thực vậy, các doanh nghiệp hoạt động không chỉ bằng
nguồn vốn tự có của mình mà thông thường còn phải nhờ vào nguồn vốn đi vay. Nếu lãi
suất tín dụng của ngân hàng quá cao, sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp đi vay để đầu

tư vào sản xuất kinh doanh, do họ thấy rằng chi phí trả lãi đã giảm đi nhiều lợi nhuận của
họ, thậm chí lợi nhuận làm ra không đủ trả lãi vay. Điều này không chỉ gây bất lợi cho từng
doanh nghiệp, mà còn ảnh hưởng đến việc tạo công ăn việc làm cho lực lượng xã hội, cũng
như đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
b. Sản phẩm của ngân hàng rất phong phú đa dạng mhằm tạo tiện ích và đáp ứng nhu
cầu vốn tín dụng, dịch vụ thanh toán cho các doanh nghiệp các khách hàng.
- Về huy động vốn: ngân hàng có các hình thức huy động vốn có thời hạn, không thời
hạn, phát hành kỳ phiếu (VND, ngoại tệ, vàng) với các mức lãi suất khác nhau.
- Về cho vay:
+ Cho vay bổ sung vốn lưu động phục vụ cho quá trình sản xuất -kinh doanh - dịch
vụ như chi phí, thanh toán mua bán hàng hóa trong nước, nguyên vật liệu sản xuất.
+ Cho vay vốn cố định; phục vụ cho việc mua sắm tài sản cố định, đầu tư, đổi mới
trang thiết bị, dây chuyền công nghệ. . .
+ Cho vay thanh toán hàng nhập từ nước ngoài thông qua các phương thức thanh toán
quốc tế như : L/C trả chậm, L/C atsight, thanh toán trực tiếp, thanh toán nhờ thu (D/A, D/P. .
.)…
c. Để các sản phẩm trên đến được với khách hàng và khách hàng chấp nhận được thì
vấn đề lãi suất là yếu tố rất quan trọng và đòi hỏi ngân hàng phải có chính sách lãi suất phù
hợp. Nếu lãi suất của ngân hàng vượt quá lãi suất thực của doanh nghiệp mang lại do hoạt
động sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ, trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế
đất nước thì doanh nghiệp sẽ không đến với ngân hàng; ngược lại lãi suất của ngân hàng
thấp hơn lãi suất thực của doanh nghiệp thì họ sẽ tìm đến ngân hàng.
Lãi suất ngân hàng cũng không nên có khoảng cách quá xa giữa "giá mua vào" và
"giá bán ra", đảm bảo tạo được hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng, đồng thời giá mua
vào của ngân hàng phải phù hợp với thực tế, không quá thấp, bằng hoặc cao hơn chỉ số lạm
phát thì mới khuyến khích các doanh nghiệp gởi tiền vào ngân hàng. Cần phải chú ý đến
những yếu tố tạo nên khoảng cách nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế chịu đựng nổi, nếu
không sẽ đẩy đến tình trạng ngân hàng sẽ không có khách hàng do doanh nghiệp không gởi,
không vay. Doanh nghiệp có gởi nhiều hoặc doanh nghiệp có vay nhiều thì xem như sản
phẩm của ngân hàng được khách hàng chấp nhận và lúc này yếu tố lãi suất thực sự là cầu

nối giữa sản phẩm ngân hàng và khách hàng.

III. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ SỐ LỢI NHUẬN BÌNH QUÂN CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP:
a. Lãi suất ngân hàng cao hay thấp thường được so sánh với lợi tức bình quân của
doanh nghiệp trong từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Những giai đoạn phát triển khác
nhau của nền kinh tế thường kéo theo những lợi tức doanh nghiệp khác nhau.
ẹe taứi : Nhng vn c bn v lói sut Ngõn hng v vai trũ ca nú i vi Doanh nghip.

12
Thc tin kinh nghim ca nhiu nc, trong quỏ trỡnh phỏt trin ó cho thy rng li
tc doanh nghip luụn t l nghch vi trỡnh v mc phỏt trin ca nn kinh t mi
quc gia. M t quc gia ang giai on kộm phỏt trin, dn tng bc tin vo giai on
phỏt trin thỡ li tc doanh nghip thng mc cao v nn kinh t cũn nhiu tim nng
cha c khai thỏc ht. Nhng khi quc gia ú bc vo giai on phỏt trin, ti nguyờn
c khai thỏc mt cỏch y cnh tranh, thỡ li tc doanh nghip s gim dn.
Nh vy li tc doanh nghip l mt i lng bt nh, gim dn theo mc phỏt
trin ca nn kinh t. Vỡ vy chớnh sỏch lói sut l iu ht sc quan trng v iu cn duy
trỡ to s tng trng n nh. Nhng mc lói sut ny cng phi thay i theo tng thi
k tng ng vi s thay i ca li tc doanh nghip.
b. Li nhun rũng ca doanh nghip liờn quan mt thit n lói vay ngõn hng. ng
c kớch thớch doanh nghip m rng sn xut mnh hay khụng hon ton tựy thuc vo li
nhun m h cú th hng. ú l lý do ti sao mt mc lói sut thp luụn l phng sỏch
tt cho sc bt ca nn kinh t.
Thc t cho thy s lói phi tr vay ngõn hng l mt yu t chim t trng khỏ ln
trong tng chi phớ hot ng ca doanh nghip. Do vy nu lói sut cho vay cao, dn n chi
phớ tr lói cao, giỏ thnh sn phm hng húa dch v ca doanh nghip cao, giỏ bỏn s tng
theo, nờn khú bỏn c sn phm, hng húa, dch v; nu cnh tranh c trong c ch
th trng, buc doanh nghip phi h giỏ bỏn xung, t ú lm cho li nhun rũng ca
doanh nghip thp, khụng khuyn khớch doanh nghip u t m rng sn xut, kinh doanh,

dch v. Ngc li nu lói sut cho vay thp, theo quy trỡnh trờn thỡ li nhun rũng ca
doanh nghip tng cao, khuyn khớch h u t m rng sn xut, kinh doanh, dch v.

IV. TC NG N DOANH LI CHNG KHON CA DOANH NGHIP:
Chớnh sỏch lói sut l mt yu t tỏc ng n u t chng khoỏn ca doanh nghip.
Thc t gia lói sut v doanh li chng khoỏn cú mi quan h mt thit vi nhau.
Ngun vn hot ng ca doanh nghip ngoi vn t cú, vn trong thanh toỏn, vn
vay ngõn hng, doanh nghip cũn cú phỏt hnh chng khoỏn ra th trng; v s dng vn
ngoi vn u t hot ng sn xut, kinh doanh, dch v cũn cú u t vo chng khoỏn
trờn th trng chng khoỏn. Do o, lói sut trong chng mc no ú cng s tỏc ng n
doanh li chng khoỏn ca doanh nghip khi th trng chng khoỏn hot ng, vic duy trỡ
mt mc lói sut hp lý, khụng c din bin tng gim quỏ ỏng l iu kin cn thit,
bng khụng nhng bin ng trong chớnh sỏch lói sut ca Ngõn hng nh nc tt yu s
dn n nhng bin ng trong th trng ti chớnh. Lói sut trờn th trng tin t cú nh
hng ln n vic phỏt hnh v mua bỏn chng khoỏn trờn th trng ti chớnh.
Nu lói sut ca ngõn hng tr cho ngun huy ng tin gi tit kim cao, doanh
nghip s thớch gi tin vo ngõn hng hng lói sut cao v ri ro thp hn l u t
mua chng khoỏn vi lói sut thp, nhng ri ro li cao.
Lói sut l giỏ c trờn th trng vn v cú din bin tng gim theo hng cung vn
tng thỡ lói sut gim, nu cu vn tng thỡ lói sut tng. Nhng th trng vn cú hỡnh thc
song hnh: h thng ngõn hng v th trng chng khoỏn. Hai th trng ny b sung cho
nhau, nhng li cú hai yu t khỏc nhau quyt nh: ú l lói sut tớn dng (tin gi v cho
vay) trờn th trng ngõn hng v doanh li trờn th trng chng khoỏn, khi lói sut tng
Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.

13
nhanh hơn doanh lợi, người ta sẽ bán chứng khoán để gởi tiền ký thác vào ngân hàng. Tuy
nhiên, cũng cần phải chú ý là mức doanh lợi ở đây tùy thuộc theo sự đánh giá chủ quan và
sự tiên đoán của từng người, sẽ phản ảnh qua giá cổ phiếu, có thể không đúng với thực tế.
Nên khi nào lãi suất thay đổi ở mức độ đáng kể ( như khi ngân hàng tăng lãi suất để giảm

lạm phát, hay giảm lãi suất để kích cầu đầu tư) thì mới tác động đến thị trường chứng khoán.

CHƯƠNG III - NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TỒN TẠI
TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT

I. CÁC CÁCH QUẢN LÝ LÃI SUẤT:
Trong quá trình điều hành chính sách lãi suất theo từng giai đoạn phát triển của nền
kinh tế, Ngân hàng nhà nước đã thực hiện hai cách quản lý lãi suất :
a. Cố định lãi suất :
Theo cách này, N gân hàng nhà nước đưa ra các thang lãi suất đã lập sẵn để thông báo
cho khách hàng khi có nhu cầu vay vốn từ ngân hàng và khách hàng chỉ chấp nhận khi muốn
vay tiền. Cách này có những ưu, nhược điểm sau :
- Ưu điểm:
+ Giúp ngân hàng tính toán khá chính xác được lợi nhuận từ mỗi khoản vay.
+ Chủ động tính được lãi suất cần đưa ra để huy động tiền gởi và các loại tài sản nợ
khác.
- Nhược điể m:
+ Cố định lãi suất làm cho ngân hàng tự hạn chế về khả năng cho vay đầu tư. N gân
hàng không thể cho vay dưới mức ấn định, do đó có tình trạng nhiều khi ngân hàng thừa vốn
mà không thể hoặc không dám đầu tư do lãi suất không đạt được yêu cầu của doanh nghiệp.
+ Do lãi suất cố định nên không có sự thương lượng giữa ngân hàng và doanh nghiệp,
nếu doanh nghiệp chấp nhận được thì vay, nếu không thì doanh nghiệp không thể vay và
ngân hàng cũng không thể cho vay được.
+ Cố định lãi suất sẽ làm cho ngân hàng khó đầu tư vào chứng khoán, vì hầu hết
chứng khoán ngày nay đều để lãi suất do cung cầu quyết định.
+ Việc quản lý lãi suất cố định trên thế giới chỉ thịnh hành từ thập niên 60 trở về
trước, còn ở Việt Nam vẫn còn áp dụng cho đến đầu năm 1996. Từ đầu năm 1996 đến 1998
Ngân hàng nhà nước đã thay đổi cách điều hành lãi suất từ qui định lãi suất chi tiết tiền gởi,
tiền vay đến việc qui định trần, sàn, chênh lệch lãi suất. Từ cuối năm 1998 đến cuối tháng
7/2000 chỉ còn qui định trần lãi suất.


b. Thả nổi lãi suất :
- Các nước trên thế giới có nền kinh tế phát triển mạnh thực hiện thả nổi lãi suất theo
thị trường. Với cách thả nổi lãi suất này có nhiều ưu điểm.
- Nhiều doanh nghiệp sẽ tìm đến ngân hàng, không tình trạng ngân hàng tìm khách
hàng đơn phương nữa, bởi lẽ cả hai đều thấy có nhiều lợi ích qua việc thực hiện lãi suất thả
nổi trên.
- Lãi suất luôn luôn được hình thành theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường, hạn
chế được rủi ro cho doanh nghiệp cũng như cho ngân hàng .
Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.

14
- Tuy nhiên ở Việt Nam chưa thực hiện cơ chế thả nổi hoàn toàn theo cung cầu thị
trường mà vẫn có sự điều tiết của Ngân hàng nhà nước Việt Nam thông qua lãi suất cơ bản.

II. THUẬN LỢI - KHÓ KHĂN VÀ CÁC MẶT TỒN TẠI TRONG ĐIỀU HÀNH LÃI
SUẤT

NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN

- Nếu điều hành lãi suất theo lãi suất thực âm thì có lợi cho nhà sản xuất, kích thích
doanh nghiệp đầu tư. Tuy nhiên, nó không khuyến khích những người gởi tiền dẫn đến ngân
hàng thiếu vốn để thỏa mãn nhu cầu đầu tư của nền kinh tế, do đó hoạt động kinh tế cũng sẽ
suy giảm.
- Nếu điều hành theo lãi suất thực dương thì có lợi cho người gởi tiền, khuyến
khích họ gởi tiền vào ngân hàng, nguồn cung vốn của ngân hàng tăng, nhưng ngược lại nó
sẽ trở nên cao so với tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, sẽ tác động
hạn chế đầu tư.
- Nếu điều hành lãi suất theo hướng phân biệt lãi suất theo từng loại hình kinh tế,
sở hữu kinh tế về mặt lý thuyết thì sự phân biệt trên dựa theo đặc điểm tính chất hoạt động

của doanh nghiệp, dựa trên tỷ suất lợi nhuận mà loại hình doanh nghiệp đó mang lại nên có
sự công bằng, nhưng thực tế có khó khăn trong điều hành lãi suất của ngân hàng, do có quá
nhiều loại lãi suất; đồng thời về phía khách hàng sẽ thiếu sự năng động do có sự ỷ lại vào
mức lãi suất áp dụng cho mình còn mang tính bao cấp.
- Nếu điều hành lãi suất theo hướng trần, sàn lãi suất có chênh lệch lãi suất đầu vào,
đầu ra. Tuy cách điều hành lãi suất này khắc phục các tồn tại của các điều hành lãi suất như
đã nêu ở trên nhưng vẫn chưa tạo được mặt hoàn toàn chủ động của các ngân hàng trong
việc tự mình án định lãi suất cho vay các doanh nghiệ, các khách hàng; hơn nữa chưa theo
được tín hiệu thị trường về cung cầu vốn tín dụng nên cũng chưa khuyến khích doanh
nghiệp có nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất hoặc doanh nghiệp có nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi gởi vào ngân hàng.
- Điều hành lãi suất theo lãi suất cơ bản: Cách điều hành lãi suất này cho đến nay là
cách điều hành hoàn thiện nhất, phản ảnh được quan hệ cung cầu và theo tín hiệu thị trường.
Khi giao dịch các ngân hàng thương mại được phép cộng hoặc trừ theo một biên độ cho
phép. Nhưng đến nay cách điều hành lãi suất cơ bản này vẫn gặp những khó khăn nhất định.
- Giai đoạn hiện nay nền kinh tế đang tăng trưởng chậm lại, nếu lãi suất cơ bản
được nâng cao lên thì không thể kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng để tăng trưởng kinh tế
được.
- Nếu lãi suất cơ bản giảm xuống thấp, thì lãi suất huy động đầu vào của ngân hàng
cũng giảm thấp, không khuyến khích doanh nghiệp, khách hàng, dân cư gởi tiền vào ngân
hàng, dẫn đến nguồn cung vốn qua ngân hàng bị giảm thấp, trong khi tỷ giá USD luôn biến
động tăng tạo nên sự chuyển dịch từ đồng Việt Nam sang ngoại tệ (USD) làm cho tình trạng
khan hiếm tiền đồng xảy ra ở các ngân hàng.

NHỮNG THÀNH TỰU VÀ TỒN TẠI
a. Thành tựu :
Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.

15
Vào năm 1999 với việc áp dụng công cụ trần lãi suất cho vay thay vì khống chế lãi suất

cho vay của các NHTM là cơ sở để các tổ chức tin dụng tăng lãi suất huy động vốn , tạo
điều kiện cho việc huy động đủ vốn nhằm đáp ứng các yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội ,
đồng thời phù hợp với quan hệ cung - cầu về vốn tín dụng đối với nền kinh tế.
Sau này , với việc từ bỏ lãi suất trần huy động vốn và áp dụng mức lãi suất cơ bản đã tạo
ra một mặt bằng lãi suất ổn định trên thị trường , giúp ngăn ngừa những biến động lớn trên
thị trường tiền tệ và tín dụng . Nó là cơ sở để các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh
doanh của mình và đưa hoạt động tín dụng đi theo đúng khuôn khổ pháp luật. Nó cũng giúp
chấm dứt cuộc đua lãi suất giữa các NHTm diễn ra gay gắt trong thời gian trước đó . Ngoài
ra , cơ chế này còn giúp xua đi những tín hiệu xấu về tình hình tài chính của các NHTM và
phản ánh tình hình tài chính của các NH này.

b. Tồn tại
Chính sách lãi suất như hiện nay chưa khuyến khích được các tổ chức tín dụng cho
vay trung và dài hạn . Thực tế cho thấy , cho vay ngắn hạn vẫn chiếm tỉ trọng rất lớn trong
tổng số nguồn vốn cho vay của các ngân hàng . Do đó các dự án trung và dại hạn thường
gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các nguồn vốn từ Ngân hàng.
Ngoài ra, các chính sách điều chỉnh lãi suất của NHTW còn chưa linh hoạt, thường
chậm hơn so với các diễn biến của nền kinh tế và do đó chưa đạt được hiệu quả như mong
muốn. Lấy ví dụ như tình trạng lạm phát diễn ra trong năm 2007 với mục tiêu kiềm chế tốc
độ lạm phát thấp hơn tăng trưởng kinh tế , tuy nhiên khi tình trạng lạm phát diễn ra ( lên đến
12.63% ) thì NHNN vẫn duy trì mức lãi suất cơ bản như năm 2006 là 8,25% trong khi mức
độ lạm phát năm 2006 chỉ là 6,6% . Tiếp đó vào thời điểm lạm phát được kiểm soát vào
khoảng cuối năm 2008 thì lãi suất cơ bản không những không giảm mà còn tiếp tục tăng lên
( lên đến 14% năm ) , điều này đã đẩy nhiều Doanh nghiệp vào thế khó khi lãi suất quá cao
gây khó khăn cho việc vay vốn trong khi giá sản phẩm đã giảm xuống do tác động của lạm
phát đã được đẩy lùi . Mặt khác , nếu NHNN thi hành ngay việc tăng lãi suất cơ bản vào
cuối năm 2007 thì lạm phát đã không thể bùng phát mạnh mẽ như vậy và kéo dài sang cả
năm 2008.
Thêm nữa , trong ngành nông nghiệp dù được sự quan tâm của Nhà nước thì việc cho
vay đối với từng hộ gia đình là điều cần thiết . Tuy nhiên , thực tế đây lại là một khu vực

nhạy cảm , có mức độ rủi ro cao , nợ gốc khó đòi nên dễ gây thua lỗ cho các Ngân hàng, ảnh
hưởng đến tâm lý đối với các cán bộ tín dụng và làm ảnh hưởng đến các hoạt động của Ngân
hàng. Chính sách hỗ trợ lãi suất của ngân hàng Nhà nước vào năm nay cũng chưa đạt được
hiệu quả mong muốn bởi vì trên thực tế thủ tục cũng khá phức tạp lại không được hướng
dẫn cụ thể từ phía Ngân hàng nhà nước , và các ngân hàng thương mại lo ngại rằng khi đoàn
thanh tra của N gân hàng Nhà nước kết luận họ cho vay không đúng đối tượng sẽ không
nhận được tiền hỗ trợ lãi suất của Ngân hàng nhà nước. Mặt khác, các Doanh nghiệp cũng
không mấy mặn mà bởi hàng tồn trong kho còn nhiều nên họ cũng không mấy hào hứng mở
rộng sản xuất, hơn nữa đối tượng hỗ trợ lãi suất chỉ là các Doanh nghiệp vừa và nhỏ với
lượng vốn vay ít nên mức giảm này cũng không nhiều ý nghĩa đối với chi phí bỏ ra để giải
trừ hàng tồn kho.

Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.

16
CHƯƠNG IV - KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH
LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG

Chính sách lãi suất của ngân hàng thực sự có vai trò rất quan trọng, tác động đến hoạt
động, phát triển và đi lên của doanh nghiệp nói riêng và là công cụ để điều hành chính sách
tiền tệ để phát triển nền kinh tế nói chung. Do đo, chính sách lãi suất phải được điều hành
phù hợp theo từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Lãi suất ngoại tệ hiện nay đã được điều hành theo cơ chế thả nổi theo quan hệ cung
cầu trên thị trường, Do đó vấn đề còn lại phải làm là cơ chế điều hành lãi suất đồng Việt
Nam phải có phương pháp điều hành thích hợp theo từng giai đoạn phát triển của nền kinh
tế.
Từ thực tế thị trường tài chính-ngân hàng và quản lý của NHNN thời gian gần đây
cho phép rút ra ba bài học mới sau:

Thứ nhất, cần mạnh dạn giảm bớt can thiệp mang tính hành chính, đồng thời nâng

cao hơn tính chỉ đạo và kiểm soát vĩ mô của NHNN trong hoạt động quản lý Nhà nước đối
với khu vực ngân hàng, nhất là thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ, như thị trường
mở, lãi suất chiết khấu, dự trữ bắt buộc và các hoạt động thanh, kiểm tra các giám sát từ xa
để điều tiết thị trường và hướng thị trường đến lãi suất mục tiêu. NHNN cũng nên thực hiện
tăng cung tiền một cách có trọng điểm, có điều kiện đối với đối tượng tiếp nhận. Với các
NHTM đã huy động được vốn kỳ hạn ngắn, thì NHNN có thể thực hiện Swaps kỳ hạn đối
với các nguồn vốn huy động, nhằm hỗ trợ cho các NHTM này thực hiện các khoản cho vay
trung và dài hạn đối với các dự án phát triển kinh tế-xã hội được NHNN định hướng lựa
chọn theo mục tiêu của Chính phủ đặt ra.

Thứ hai, tăng cường sự linh hoạt và đồng bộ của các công cụ chính sách và các cơ
quan quản lý Nhà nước có liên quan trong sự đồng thuận và dựa trên luật pháp. Nhất là lựa
chọn đúng các mục tiêu ưu tiên phù hợp cho từng thời kỳ chính sách, không khiên cưỡng áp
đặt mục tiêu bằng mọi giá, đồng thời không kỳ vọng vào quá nhiều mục tiêu cho một chính
sách đang triển khai. Đặc biệt, sự đồng bộ về chính sách lãi suất với tỷ giá và quản lý ngoại
tệ trong thời gian qua đã giúp ổn định hoá và giảm áp lực cân đối cả vốn ngoại tệ và nội tệ
trên thị trường tài chính trong nước đã là minh chứng tốt cho cho bài học này, cũng như cho
thấy rõ hơn những thành công trong hoạt động điều hành của NHNN. Tuy nhiên cần nhấn
mạnh rằng, tính đồng thuận và các nguyên tắc thị trường trong kinh doanh ngân hàng không
mâu thuẫn nhau, mà có thể hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình hoạt động của các
ngân hàng trên cơ sở hài hoà các lợi ích trong hoạt động ngân hàng, nhất là lợi ích trong
quản lý vĩ mô Nhà nước với lợi ích kinh doanh của NHTM, lợi ích của các ngân hàng, người
gửi tiền với lợi ích doanh nghiệp.
Tôn trọng thị trường là việc phải làm để tránh méo mó thị trường, để cung cầu vốn
gặp nhau theo các kênh và điều kiện hợp lý và thuận lợi nhất, các lợi ích sẽ tự dung hoà và
góp phần kiềm chế lãi suất một cách hợp lý, và lãi suất tất yếu sẽ giảm. Đồng thời, việc ra
quyết định quyết đoán dựa trên các thông tin nghiệp vụ và thị trường đầy đủ, chính xác, cập
nhật và xem xét các ý kiến phản biện đa chiều, nhất là của các NHTM, doanh nghiệp và các
Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.


17
nhà khoa học, là cần thiết cho hoạt động điều hàng của NHNN, cho phép nâng cao dần tính
đúng đắn và hiệu quả của NHNN trong kinh tế thị trường ở nước ta.

Thứ ba, cần cân nhắc đầy đủ tính hai mặt của quản lý theo trần lãi suất ngân hàng.
Ngoài ra, để sớm hoàn thiện cơ chế thị trường trong quản lý khu vực ngân hàng, trong đó có
quản lý lãi suất, cần sớm có sự hoàn thiện hơn cơ sở luật pháp cho hoạt động này. Thực tế
cho thấy, việc áp dụng lãi suất cho vay thoả thuận, việc linh hoạt điều chỉnh trần LSHĐ sẽ
có những tác động tích cực đến thị trường tài chính-ngân hàng nói riêng, nền kinh tế nói
chung, nhất là tạo thuận lợi cho việc tăng huy động vốn cho đầu tư xã hội thông qua hệ
thống ngân hàng và nâng cao vị thế ngân hàng trong nền kinh tế; Bỏ trần LSHĐ sẽ giúp các
cơ quan quản lý có thông tin về các động thái, diễn biến của thị trường chính xác, minh
bạch, rõ ràng hơn và ra các quyết định quản lý thích hợp, hiệu quả hơn. Cơ chế thị trường sẽ
sớm xác lập và hoàn thiện hơn, và do đó tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước
với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; Gia tăng cơ hội và lợi ích cho doanh nghiệp
trong tiếp cận nguồn vốn ngân hàng và trong đầu tư xã hội. Nguồn vốn ngân hàng huy động
được dồi dào hơn và có tính thanh khoản cao hơn; các doanh nghiệp sẽ có thể nhận được lãi
suất cho vay của các ngân hàng thấp dần nhờ hệ quả của áp lực quy luật cung - cầu thị
trường và áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàngcũng như sự hỗ trợ thích hợp của NHNN như
đã nêu trên.
Việc gỡ bỏ đồng bộ trần lãi suất ngân hàng cả đầu vào và đầu ra còn giúp loại bỏ
những loại bỏ các doanh nghiệp kinh doanh yếu kém, các dự án vay không mang tính thị
trường hay có tính đầu cơ cao; đồng thời tăng nguồn vốn đầu tư cho những dự án kinh
doanh sản xuất hiệu quả; Gia tăng lợi ích của người gửi tiền vào ngân hàng và kích thích tiết
kiệm chi tiêu xã hội, giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, hạn chế đầu cơ không có lợi vào
các hoạt động kinh doanh khác, như chứng khoán, bất động sản, góp phần giảm lạm phát,
tăng luông vốn đổ vào trong nước trong nước từ các nguồn vốn rẻ trên thế giới… Ngoài ra,
việc bãi bỏ trần LSHĐ bất chấp những điều kiện chưa chín muồi cũng có thể phát sinh
những hệ quả bất lợi khó lường định, như có thể gia tăng các hoạt động cạnh tranh không
lành mạnh, lừa đảo và quá trình dịch chuyển nguồn vốn bất thường, nếu kiểm soát không tốt

lại có thể t ạo những làn sóng rút tiền và gửi tiền theo tâm lý đám đông, tạo vòng xoáy xáo
trộn luồng vốn, cơ cấu vốn và các kế hoạch kinh doanh của các ngân hàng, cũng như của
vốn đầu tư xã hội.
Để sớm thực hiện và góp phần kiềm toả những mặt trái, phát huy những tác động tích
cực của việc bãi bỏ trần LSHĐ, cần thực hiện điều chỉnh thường xuyên hơn việc mềm hoá
biên độ trần LSHĐ theo sát với lãi suất cho vay thoả thuận và cân đối cung-cầu, cũng như
bảo đảm tính thanh khoản trong hoạt động của các ngân hàng. Đồng thời, cần thúc đẩy
chuẩn hoá và lành mạnh hoá các ngân hàng theo kế hoạch tái cơ cấu và yêu cầu chung, sát
nhập các các ngân hàng không đủ vốn điều lệ theo pháp định và kiên quyết loại bỏ các cá
thể yếu, cũng như thúc đẩy hoàn thiện cơ chế giám sát, kiểm soát, xử lý các rủi ro tài chính-
ngân hàng; tăng cường các hoạt động thanh tra, các hoạt động thông tin, chủ động phòng
ngừa và xử lý các yếu tố tâm lý và tin đồn, đầu cơ, lũng đoạn và gây nhiễu, cạnh tranh
không lành mạnh trong nội bộ ngành ngân hàng; cũng như tăng cường giáo dục cho các bên
kiến thức và trách nhiệm cá nhân và xã hội khi vay và cho vay. Tăng cường hoàn thiện hơn
Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.

18
các công cụ quản lý khác như mức vốn điều lệ, hạn mức tín dụng, mức dự trữ, tỷ lệ nợ quá
hạn, quy mô và cơ cấu huy động và cho vay, các báo cáo giám sát bắt buộc, hệ thống kế
toán và năng lực quản trị và các tiêu chí an toàn thích hợp trong hoạt động ngân hàng. Việc
tham khảo các kinh nghiệm của các tổ chức tế và quốc gia khác về quản lý các hoạt động
ngân hàng nói chung là rất hữu ích, trong cả trước mắt và lâu dài.
Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp.

19

KẾT LUẬN
Nền kinh tế Việt Nam phát triển theo kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì sự hoạt động và phát triển của Doanh nghiệp đã góp
phần quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế. M ặt khác sự thành công của Doanh nghiệp

cũng chính là sự thành công của ngân hàng; sự thành công của ngân hàng càng tạo điều kiện
góp phần tốt hơn cho sự phát triển của Doanh nghiệp. Mối quan hệ này được thực hiện cũng
nhờ thông qua chính sách lãi suất của ngân hàng. Vì vậy chính sách lãi suất đã có một vai
trò tác động hết sức quan trọng không thể thiếu được đối với hoạt động Doanh nghiệp trong
việc điều chỉnh quan hệ cung cầu vốn của Doanh nghiệp, là cầu nối giữa sản phẩm ngân
hàng, là nhân tố ảnh hưởng đến tỷ số lợi nhuận bình quân của các Doanh nghiệp tác động
đến doanh thu và lợi nhuận.
Do đó Ngân hàng nhà nước điều hành lãi suất phải đảm bảo phù hợp với trình độ phát
triển nền kinh tế ở giai đoạn đó và phải đạt được mục tiêu phát triển doanh nghiệp nói riêng
và của toàn nền kinh tế Việt Nam nói chung.











×