Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Nghiên cứu các yếu tố tác động đến sự nghèo đói của các hộ ngư dân ven đầm nha phu, huyện ninh hòa, tỉnh khánh hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (831.52 KB, 108 trang )



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của luận văn
Nghèo đói là một hiện tượng kinh tế xã hội nóng bỏng và bức xúc của mọi quốc
gia và ngày càng thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế trong việc tìm kiếm giải
pháp xóa đói, giảm nghèo.
Việt Nam luôn coi vấn đề xoá đói giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cũng như Việt Nam đã công bố cam kết
thực hiện các mục tiêu phát triển quốc tế đã được nhất trí tại Hội nghị thượng đỉnh các
quốc gia năm 2000. Công cuộc phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo của Việt
Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể và được quốc tế đánh giá cao. Tỷ lệ nghèo
giảm nhanh từ 58,1% năm 1993 xuống còn 19,5% năm 2004, tương đương 24
triệu người đã thoát nghèo sau 11 năm. Nếu so với mục tiêu phát triển thiên niên
kỷ của Liên hợp quốc là giảm tỷ lệ nghèo đói xuống còn một nửa trong giai đoạn
dài hơn là 1990-2015 thì quả là một thành tích đặc biệt. Tuy vậy, Việt Nam đang
là nước có thu nhập bình quân đầu người thấp và thoát khỏi nghèo đói vẫn còn là
giấc mơ của hàng triệu người dân. Đại bộ phận dân cư có mức thu nhập chỉ trên
ngưỡng nghèo chút ít nên rất dễ bị tái nghèo nếu có những chấn động kinh tế từ bên
ngoài.
Theo GSO (2004), hơn 90% người nghèo sống và làm việc ở nông thôn và 45%
dân nông thôn sống dưới mức nghèo. Họ là những người sản xuất nhỏ, là nông dân
hoặc là ngư dân ven biển. Tối đa hoá lợi ích và giảm thiểu rủi ro; đảm bảo rằng người
nghèo cũng được tiếp cận với các c ơ h ội mới và được hưởng lợi từ quá trình gia
nhập WTO cũng như chống tái nghèo, xuất hiện hình thái nghèo mới là một thách
thức lớn lao cho Việt Nam
Xoá đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội và tăng
trưởng bền vững. Do đó, xoá đói giảm nghèo được coi là một bộ phận cấu thành của
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, các ngành và các địa phương.


Các xã ven đầm Nha Phu bao gồm: Ninh Phú, Ninh Giang, Ninh Hà, Ninh Lộc,
Ninh Ích thuộc huyện Ninh Hoà và xã Vĩnh Lương thuộc thành phố Nha Trang Phân


2

bố dân cư ở các xã ven đầm Nha Phu như sau: Xã Ninh Ích – 8.877 người (1.863 hộ);
xã Ninh Lộc – 8.528 người (1.609 hộ); xã Ninh Hà – 7.831 người (1.539 hộ) ; xã
Ninh Giang 8.399 người (1.623 hộ); Ninh Phú 6.506 người (1.315 hộ) và xã Ninh Vân
1616 người (317 hộ). Như vậy, dân số của các xã ven đầm Nha Phu, huyện Ninh Hoà
là: 41.757 người (8.266 hộ). Tỷ lệ các hộ nghèo theo chuNn của tỉnh Khánh Hoà là
19,52% và theo chuNn Quốc gia là 16,54%
1
. Các hộ ngư dân chủ yếu tiến hành hoạt
động nuôi trồng thuỷ sản và khai thác hải sản nhưng vấn đề đặt ra là trong điều kiện
thiên nhiên thuận lợi, nằm dọc theo trục quốc lộ 1, gần thành phố Nha Trang và thị
trấn Ninh Hoà nhưng vì sao tỷ lệ các hộ nghèo vẫn còn cao.
Để thực hiện mục tiêu giảm nghèo đến năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo còn 2,4% theo
chuNn Quốc gia và 4% theo chuNn mới của tỉnh là một vấn đề rất khó khăn đòi hỏi các
ngành, các cấp và tự mỗi hộ gia đình phải vươn lên thoát nghèo trên cơ sở khoa học
và mang tính bền vững cao.
Xuất phát từ những lý do trên là cơ sở để tác giả chọn đề tài “Nghiên cứu các
yếu tố tác động đến sự nghèo đói của các hộ ngư dân ven đầm Nha Phu, huyện
Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà” làm Luận văn tốt nghiệp của mình.
2- Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự nghèo đói của
các hộ ngư dân ven đầm Nha Phu, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp xoá đói giảm nghèo
cho vùng. Với mục tiêu đã đề ra, luận văn cần phải giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ khái niệm, bản chất của nghèo đói.
- Xác định các yếu tố tác động đến sự nghèo đói của các hộ ngư dân ven đầm

Nha Phu.
- Gợi ý chính sách và đề xuất một số giải pháp xoá đói giảm nghèo cho vùng.
3- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


1
Chương trình mục tiêu giảm nghèo tỉnh Khánh Hoà, giai đoạn 2006-2010, số liệu đến ngày
01.01.2006, trang 137.


3

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề nghèo đói, nguyên nhân của
nghèo đói cũng như tác nhân tố tác động đến nghèo đói.
Phạm vi nghiên cứu. Đề tài tập trung nghiên cứu các hộ ngư dân ven đầm Nha
Phu gồm các xã: Ninh ích; Ninh Lộc; Ninh Hà; Ninh Giang; Ninh Phú và Ninh Vân
thuộc huyện Ninh Hoà trong thời gian từ 2005-2006.
4- Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, các phương pháp chung nghiên cứu khoa
học đã được áp dụng như: phương pháp phân tích kinh tế, phương pháp tổng hợp,
phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp thống kê, các phần mềm thống kê
chuyên dụng: Excel, SPSS…, và các phương pháp khác.
5- Những đóng góp của luận văn
Về ý nghĩa lý thuyết, luận văn góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về nghèo
đói, đồng thời làm rõ bản chất của nghèo đói.
Về ý nghĩa thực tiễn, luận văn làm phong phú thêm thực tế và kinh nghiệm
nghiên cứu vấn đề nghèo đói, đặc biệt là vấn đề nghèo đói của các hộ dân làm nghề
thủy sản. Luận văn cũng có thể làm tài liệu để nghiên cứu và giảng dạy trong các
trường Đại học.
6- Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn được cấu
trúc thành bốn chương như sau:
Chương 1. Tổng quan lý thuyết về nghèo đói
Chương 2. Thiết kế nghiên cứu
Chương 3. Kết quả nghiên cứu
Chương 4. Gợi ý chính sách nhằm giảm nghèo cho các xã ven đầm Nha Phu.



4

Chương 1:
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ NGHÈO ĐÓI
1.1 Khái niệm về nghèo đói
Không tồn tại một khái niệm thống nhất về nghèo đói. Nghèo đói đó là một hiện
tượng nhiều mặt. Nó có nghĩa là không có được sự lựa chọn và khả năng có được
cuộc sống bình thường. Trong báo cáo của chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
(UNDP) về phát triển con người năm 1997 có ba quan điểm khác nhau về nghèo đói:
• Quan điểm thu nhập (hoặc tiêu dùng).
• Quan điểm nhu cầu cơ bản.
• Quan điểm khả năng phát triển tiềm năng con người.
Theo quan điểm thu nhập thì đây là một cách hiểu vấn đề hẹp nhất. Một người
được cho là vô sản nếu như mức thu nhập của anh ta dưới một ngưỡng xác định. Tiếp
cận vấn đề nghèo đói theo quan điểm nhu cầu cơ bản của người dân có cách hiểu rộng
hơn. Quan điểm này không xuất phát từ mức thu nhập, mà xuất phát từ khả năng mà
xã hội có thể cung cấp cho người dân để họ ngăn ngừa nghèo đói. Nghĩa là với thu
nhập không nhiều, người dân có thể tự mình sản xuất một phần sản phNm nào đấy,
còn những nhu cầu khác sẽ được thoả mãn nhờ các dịch vụ miễn phí của Nhà nước
trong các lĩnh vực như chăm sóc sức khoẻ, giáo dục…
Quan điểm thứ ba xem xét vấn đề nghèo đói từ quan điểm khả năng phát triển

tiềm năng con người. Người dân không thể có được khả năng thoả mãn một cách đầy
đủ mọi nhu cầu căn bản của mình như: ăn, mặt, ở Ngoài ra, họ còn bị hạn chế tiếp
cận với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và giáo dục, tham gia vào các hoạt động đoàn
thể và không được thoả mãn cả nhu cầu về văn hoá xã hội… Nói tóm lại, sự lựa chọn
của người dân bị hạn chế. Áp dụng quan điểm tiếp cận này cho phép định nghĩa
nghèo đói như là một sự thiếu vắng hàng loạt nhu cần cơ bản và hạn chế sự lựa chọn
của con người.
Quan điểm này không loại trừ hai quan điểm trên, mà bao trùm lên cả hai quan
điểm ấy. Nghĩa là bao gồm cả mức thu nhập thấp và hạn chế khả năng con người thoả
mãn những nhu cầu cơ bản của mình. Cách nhìn vấn đề từ quan điểm phát triển con


5

người cho phép khảo sát nghèo đói như là một hiện tượng đa chiều, có nguồn gốc sâu
xa.





Một khái niệm về nghèo đói do Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực châu Á - Thái
Bình Dương (tổ chức ở Thái Lan năm 1993) đưa ra tại Hội nghị về chống nghèo đói
và thường được sử dụng ở Việt Nam là: “nghèo đói là tình trạng một bộ phận
dân cư không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà
những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập
quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận.”
Theo nhà kinh tế học người Mỹ, Galbraith: “Con người bị coi là nghèo khổ
khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích đáng để họ tồn tại, rơi xuống rõ rệt dưới
mức thu nhập của cộng đồng. Khi đó, họ không thể có những gì mà đa số trong cộng

đồng coi như là cái cần thiết tối thiểu để sống một cách đúng mức.” (Bộ LĐTBXH,
2003).
Tại hội nghị Thượng đỉnh thế giới và phát triển xã hội tổ chức tại
Copenhagen, Đan Mạch năm 1995: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập
thấp hơn dưới 1 USD một ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua
những sản phNm thiết yếu để tồn tại”.
Theo Ngân hàng thế giới, WB (1990), định nghĩa nghèo là tình trạng “không
có khả năng có mức sống tối thiểu”. Chúng bao gồm tình trạng thiếu thốn các sản
phNm và dịch vụ thiết yếu như giáo dục, y tế, dinh dưỡng. Nghèo còn là tình trạng bị
gạt ra bên lề xã hội hay tình dễ bị tổn thương: “Xét về mặt phúc lợi, nghèo có nghĩa
là khốn cùng. Nghèo có nghĩa là đói, không có nhà cửa, quần áo, ốm đau và không
có ai chăm sóc, mù chữ và không được đến trường. Nhưng đối với người nghèo,
sống trong cảnh bần hàn còn mang nhiều ý nghĩa hơn thế. Người nghèo đặc biệt dễ
Quan đi
ểm nhu
c
ầu c
ơ b
ản

Quan đi
ểm thu nhập


Quan đi
ểm khả năng phát
triển tiềm năng con người

Hình 1.1. Các quan điểm về nghèo đói.



6

bị tổn thương trước những sự kiện bất thường nằm ngoài khả năng kiểm soát của
họ. Họ thường bị các thể chế của Nhà nước và xã hội đối xử tàn tệ, bị gạt ra bên lề
xã h ộ i nên không có tiếng nói và quyền l ự c trong các thể chế đó” (WB 2001).
Tóm lại, tất cả những quan niệm về nghèo đói nêu trên đều phản ánh ba khía
cạnh chủ yếu của người nghèo:
- Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư.
- Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con
người.
- Thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
Nghiên cứu này sử dụng định nghĩa của Ngân hàng thế giới về nghèo, đó là
tình trạng “không có khả năng có mức sống tối thiểu”.
1.2 Các phương pháp tiếp cận đo lường nghèo đói
Theo Sarah Bales (2001), tiêu chí chung nhất để xác định nghèo đói là mức chi
tiêu (hay thu nhập) để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người về: ăn, ở, mặc,
y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác nhau chung nhất thường là
ở chỗ thỏa mãn ở mức cao hay thấp mà thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế - xã hội cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia.
Theo WB (2007), có 3 bước để xác định nghèo đói: (i) định nghĩa phúc lợi
của hộ gia đình / cá nhân, (ii) xác định một giá trị chuNn (tối thiểu) để tách biệt 2
nhóm nghèo và không nghèo (gọi là ngưỡng nghèo) và (iii) tính toán các chỉ số
thống kê tổng hợp dựa trên mối quan hệ giữa phúc lợi kinh tế và ngưỡng nghèo.
Đo lường phúc lợi nói chung thì phức tạp hơn nhiều, nó rộng hơn chỉ số phúc
lợi kinh tế. Bỡi lẽ phúc lợi còn bao gồm tuổi thọ, chế độ dinh dưỡng, điều kiện nhà
ở, tỷ lệ trẻ em đến trường, tỷ suất tử của trẻ em (WB, 2007). Cách tiếp cận phổ biến
nhất trong đo lường phúc lợi (kinh tế) là dựa vào chi tiêu tiêu dùng hay thu nhập của
hộ gia đình. Nếu chúng ta chia đều cho tất cả các thành viên trong hộ thì được chi
tiêu tiêu dùng hay thu nhập bình quân đầu người (chỉ số phúc lợi kinh tế của cá

nhân).
Hầu hết các nước phát triển sử dụng thu nhập (income) để xác định nghèo đói,
trong khi các nước đang phát triển sử dụng chi tiêu (expenditure). Đối với các nước


7

phát triển, thu nhập phần lớn là từ tiền lương nên dễ xác định, trong khi chi tiêu
dùng thì phức tạp và khó xác định. Ngược lại, ở các nước đang phát triển thu nhập
khó tính toán hết bỡi phần lớn thu nhập đến từ công việc tự làm nhưng rất khó tách
biệt, trong khi chi tiêu thì dễ thấy hơn, rõ ràng hơn (WB, 2005 – trang 36).
Theo Glewwe và Twum-Baah (1991), chi tiêu không những ít bị khai thấp hơn
thu nhập mà nó còn ổn định hơn từ năm này qua năm khác. Do đó, có đủ căn cứ lý
thuyết để dùng các thước đo chi tiêu nhằm phản ánh mức sống.
Theo Alderman và Paxson (1994) và Paxson (1993), ở các nước kém phát triển,
thu nhập của hộ thường biến động theo mùa vụ trong khi chi tiêu dùng tương đối ổn
định giữa các tháng trong năm. Vì thế, chi tiêu tiêu dùng phản ánh mức sống của hộ
tốt hơn con số thu nhập.


Nguồn:

WB

(2007)

Hình
1.
2. Đường


thu

nhập



chi

tiêu

trong

năm
c
ủa

hộ

gia

đình.

Phương pháp xác định ngưỡng nghèo theo chuNn quốc tế. Theo WB
(1990), ngưỡng nghèo đói ở mức thấp gọi là ngưỡng nghèo đói lương thực-thực
phNm (LT-TP). Ngưỡng nghèo đói ở mức cao hơn gọi là ngưỡng nghèo đói chung
(bao gồm cả mặt hàng LT-TP và phi LT-TP).
Ngưỡng nghèo đói LT-TP đo lường mức chi tiêu cần thiết để đảm bảo một hộ
gia đình có thể đủ mua được một lượng LT-TP để cung cấp cho mỗi thành viên



8

trong hộ một lượng calo là 2100 calo 1 ngày. Ví dụ, nếu sử dụng chuNn nghèo này
thì Việt Nam có 10,9% người nghèo năm 2002. Nhưng phương pháp này có hạn
chế là nó không tính đến các khoản chi tiêu cho việc tiêu dùng các hàng hóa phi
LT-TP, mặc dù các hàng hóa này cũng cần thiết cho các nhu cầu cơ bản của con
người.
Ngưỡng nghèo chung đo lường chi phí để mua đủ một lượng hàng hóa LT-TP
cung cấp lượng calo là 2100 calo và một số mặt hàng phi LT-TP. Trở ngại ở đây là
việc xác định một cách phù hợp lượng hàng hóa LT-TP. Ví dụ, theo ngưỡng này
Việt Nam có 28,9% người nghèo, cao hơn so với ngưỡng nghèo LT-TP.
Ở Việt Nam, Bộ LĐTBXH dựa trên điều tra gồm những câu hỏi về tài sản và về
thu nhập từ các nguồn khác nhau. Thu nhập từ tất cả các nguồn này được cộng
lại, chia cho số người trong hộ, và so sánh với một trong ba chuNn nghèo tùy theo xã
đó thuộc vùng nào. Năm 2005, chuNn nghèo ở thành thị 260.000 VNĐ/tháng/người;
nông thôn là 200.000 VNĐ. Tỷ lệ nghèo có thể được tính bằng tỷ lệ dân số sống
dưới chuNn nghèo trong xã, huyện, hoặc tỉnh. (Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg,
chuNn nghèo áp dụng ở Việt Nam cho giai đoạn 2006 – 2010). Phương pháp này bị
phê phán vì hai lý do: Thứ nhất, về mặt lý luận, các mốc thu nhập dùng để phân
loại hộ nghèo ở những loại xã khác nhau có tính chủ quan, và chưa chắc đã so sánh
được. Một hộ thành thị có thu nhập đầu người 260.000 VNĐ/tháng có thể nghèo hơn
hoặc giàu hơn một hộ có thu nhập là 200.000 đồng/tháng ở vùng nông thôn.
Sau khi xác định được ngưỡng nghèo, chúng ta tính toán một số chỉ tiêu thống
kê tóm tắt để mô tả quy mô, mức độ và tính nghiêm trọng của đói nghèo. Những
thống kê này bao gồm chỉ số đếm đầu người (xác định tỷ lệ đói nghèo), khoảng
cách đói nghèo (xác định mức độ sâu của đói nghèo), bình phương khoảng cách đói
nghèo (xác định tính nghiêm trọng của đói nghèo). Theo Foster, Greer và Thorbecke
(1984) thì có 3 thước đo xác định
mức độ nghèo đói này có thể tính bằng công thức
sau:

α
α

=







=
P
i
i
z
yz
N
P
1
)(1

Trong đó, y
i
là đại lượng xác định phúc lợi (thường là chi tiêu bình quân đầu
người) cho người thứ i , z là ngưỡng nghèo, N là số người có trong mẫu dân cư, P là


9


số người nghèo và α có thể diễn giải như là đại lượng đo mức độ quan tâm đến sự
bất bình đẳng giữa những người nghèo.
Khi α = 0, đẳng thức trên tương đương P/N, tức là bằng số người nghèo chia
cho tổng số người ở trong mẫu. Thước đo xác định quy mô đói nghèo được sử dụng
rất phổ biến này được gọi là tỷ số đếm đầu người hay chỉ số đếm đầu người khi
chuyển sang tính dưới dạng %. Mặc dù chỉ số đếm đầu người dễ được diễn giải
song nó không nhạy cảm với khoảng cách của những người nghèo so với ngưỡng
nghèo.
Khi α = 1, ta có chỉ số khoảng cách nghèo đói. Chỉ số này cho biết sự thiếu hụt
trong chi tiêu của các hộ nghèo so với ngưỡng nghèo và nó được biểu hiện như mức
trung bình của tất cả mọi người trong tổng thể. Khoảng cách nghèo đói được tính
đơn giản như là tổng của tất cả các khoảng cách nghèo đói ở trong tổng thể, có thể
được sử dụng để xác định chi phí tối thiểu để xoá bỏ nghèo đói trong điều kiện
mọi khoản chuyển nhượng được chuyển đến đúng đối tượng.
Khi α = 2, ta có chỉ số bình phương khoảng cách nghèo đói. Chỉ số này thể
hiện mức độ nghiêm trọng của nghèo đói và làm tăng thêm trọng số cho nhóm người
nghèo nhất trong số những người nghèo (Nghèo, 2000).
1.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến nghèo đói
Theo WB (2007), các nhân tố có thể ảnh hưởng đến tình trạng nghèo đói được
tóm tắt ở bảng 1.1 như sau:
Bảng
1
.1.
Các

nhân

tố

gây


ra

tình

t
r
ạng

nghèo

đói.

Phân theo đặc
tính

Các nhân tố

Cấp độ vùng
(Regional-level
characteristics)
- Sự cách biệt về địa lý/xã hội do thiếu hạ tầng cơ sở; h
ạn
chế trong việc tiếp cận các loại thị trường và các dịch vụ x
ã
hội
- Nguồn lực cơ bản như đất đai và chất lượng đất đai
- Điều kiện tự nhiên (thời tiết…)
-


Q
u
ản lý Nh
à nư

c



10

Cấp độ cộng
đồng
(Community
- Hạ tầng cơ sở (điện, nước, đường giao thông…)
- Phân bổ đất đai
- Khả năng tiếp cận các hàng hóa và d
ịch vụ công (y tế, giáo

Cấp độ hộ gia
đình
(Household
characteristics)


- Quy mô hộ
- Tỷ lệ phụ thuộc (phần trăm số người trưởng thành
không
có hoạt động tạo thu nhập)
- Giới tính của chủ hộ

- Tài sản của hộ gia đình: đất đai, phương tiện sản xuất, nh
à
cửa…
Đặc điểm cá
nhân
(Individual
characteristics)

- Tuổi
- Giáo dục (số năm đi học, bằng cấp cao nhất)
- Việc làm (tình trạng việc làm, loại công việc)
-
Dân tộc (có hay không có thuộc nhóm dân tộc thiểu số).

Nguồn: WB (2007)
1.3.1 Nghề nghiệp và tình trạng việc làm
Theo BCPTVN (2000), nghèo đói là một hiện tượng mang tính đặc thù của
nông thôn, các tính toán về tỷ lệ nghèo theo nghề nghiệp và theo loại chủ lao động
cũng chỉ ra rằng những người sống ở dưới ngưỡng nghèo thường là thành viên của
những hộ có chủ hộ là nông dân tự do. Trong năm 1998, gần 80% người nghèo làm
việc trong nông nghiệp và là những người lao động tự do.
Theo Sarah Bales (2001), tỷ lệ người nghèo năm 1998 trong ngành nông
nghiệp ở mức cao, 47% đối với lao động tự làm trong nông nghiệp và 55,4% đối với
lao động làm thuê trong nông nghiệp. Các ngành có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất là
dịch vụ, đặc biệt là ngành thương mại, khách sạn – nhà hàng và công việc nhà
nước. Các chỉ số về khoảng cách nghèo đói P
1
(biều hiện mức độ thiếu hụt) và chỉ
số bình phương khoảng cách nghèo P
2

(mức độ nghiêm trọng của vấn đề nghèo đói)
cho thấy nghèo đói của những người làm thuê trong nông nghiệp là lớn nhất, kế đến
là những người tự làm nông nghiệp (bảng 1.2). Như vậy, với tỷ trọng lao động trong


11

nông nghiệp chiếm nhiều nhất và có tỷ lệ nghèo cao nhất, người nghèo là nông dân
vẫn chiếm phần lớn người nghèo ở Việt Nam.
Bảng
1
.2. Thay

đổ
i
chỉ

số

nghèo

đói
c
ủa

Việt

Nam

1993-1998.


T


l


nghèo

đói

(%)

1992-1993

1997-1998


Nghề nghiệp
P
0

P
1

P
2

P
0


P
1

P
2

Tự
làm
nông

nghiệp

66,4

19,7

8,3

47,0

12,3

4,7

Làm

thuê

nông


nghiệp

67,6

22,9

10,2

55,4

14,9

5,5

Tự
làm
công

nghiệp,

xây

dựng

39,5

13,7

5,3


21,0

4,2

1,3

Làm

thuê

công

nghiệp,


y
36,4

12,8

4,9

20,6

4,4

1,4

Thương


mạ
i,
khách

sạn



nhà
24,2

8,9

3,3

11,2

1,8

0,5

Chính

phủ,

Đảng


các t



chứ
c
21,0

6,1

2,2

9,1

1,7

05

Dịch

vụ

khác

30,1

10,7

4,2

15,4


3,4

1,2

Cả

nướ
c
53,3

16,6

6,8

34,6

8,7

3,2

Nguồn:

Sarah

Bales

(2001)

Vũ Hoàng Đạt và các tác giả (2006) phát hiện thấy việc chuyển đổi trong nghề
nghiệp của chủ hộ gia đình từ nông nghiệp sang sản xuất phi nông nghiệp hoặc kinh

doanh thương mại làm giảm nguy cơ hộ gia đình rơi vào nghèo đói.
Theo MDPA (2004), nghèo đói có gắn chặt với nông nghiệp và lưu ý rằng
phần lớn các hộ nghèo sống ở nông thôn và chỉ trồng lúa. Một vài nghiên cứu cũng
cho thấy rằng tỷ lệ nghèo đói cấp tỉnh thường có tương quan tỷ lệ thuận với số dân
hoạt động nông nghiệp của tỉnh đó.
1.3.2 Trình độ học vấn
Người nghèo thường có học vấn tương đối thấp, gần 90% người nghèo chỉ có
trình độ phổ thông c ơ s ở hoặc thấp h ơn (BCPTVN, 2000). Trong s ố người nghèo,
tỷ lệ người chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%; phổ
thông cơ sở chiếm 37% (bảng 1.3). Chi phí cho giáo dục đối với người nghèo còn
lớn, gây không ít khó khăn cho họ trong việc tiếp cận với giáo dục nhiều hơn. Học
vấn thấp buộc chặt người nghèo với những công việc có thu nhập thấp trong nông


12

nghiệp và hạn chế khả năng tìm được việc trong các ngành phi nông nghiệp, những
công việc mang lại thu nhập cao hơn hay ít ra là ổn định hơn.
Bảng
1
.3.
Trình

độ

họ
c
vấn
c
ủa


ngườ
i
nghèo



Việt

Nam

1998.


Trình

độ

họ
c
vấn

cao

nhất

Tỷ
l



nghèo,

(%)

T


l


tính

trong

tổng

số

ngườ
i
nghèo
,
(%)

T


l



trong

tổng dân

số,
(%)

Không

đượ
c
đ
i
họ
c
Ti
ểu

họ
c
Phổ

thông
c
ơ

sở

Phổ


thông

trung

họ
c
D
ạy

n
g
h


57

42

38

25

19

12

39

37


8

3

8

35

36

12

6

Tổng
c
ộng 37 100 100
Nguồn:

BCPTVN

(2000)

Các nghiên cứu đói nghèo có sự tham gia của người dân (PPA) cho thấy bản
thân các hộ nghèo cũng hiểu được rằng trình độ học vấn là chìa khóa quan trọng để
thoát khỏi nghèo đói. Các PPA cũng cho thấy những hộ thuộc nhóm khá giả là
những hộ thường xuyên tiếp xúc với cán bộ khuyến nông, quan hệ với những người
ở ngoài cộng đồng, tiếp cận với thông tin và với các phương tiện truyền thông đại
chúng (BCPTVN 2000).
Vũ Hoàng Đạt và các tác giả khác (2006) phát hiện thấy các hộ gia đình có chủ hộ

đạt trình độ giáo dục cấp phổ thông cơ sở có nhiều cơ hội thoát nghèo hơn so với hộ
gia đình có đặc điểm tương tự, song chủ hộ không có trình độ học vấn.
1.3.3 Khả năng tiếp cận các nguồn lực cơ bản

Đất đai
Theo BCPTVN (2000), các hộ nghèo coi diện tích đất và chất lượng đất là
yếu tố quan trọng đến mức sống. Không có đất đai hoặc hầu như không có đất đai
đồng nghĩa với nghèo đói. Các hộ này được mô tả như những hộ đặc biệt dễ bị tổn
thương. Trong năm 1998, 10% hộ ở nông thôn được đánh giá là không có đất.


13

Người nghèo do không có khả năng sản xuất và túng thiếu nên thường
chuyển nhượng quyền sử dụng cho các hộ giàu. Chính vì vậy mà dù người dân
được chia đất một cách bình đẳng thì những hộ nghèo vẫn thường có ít đất hơn so
với các hộ giàu. Bảng 1.4 cho thấy diện tích đất sản xuất của các hộ tăng lên theo
nhóm chi tiêu bình quân đầu người. Trong đó, diện tích đất trồng cây hàng năm của
các hộ thuộc nhóm giàu nhất lớn hơn của các hộ ở nhóm thấp nhất tới 1,4 lần. Sự
khác biệt còn lớn hơn nhiều ở diện tích trồng cây lâu năm tính trên đầu người: 6 lần
(BCPTVN, 2000).
Bảng
1
.4.
Diện

tích

đất


nông

nghiệp
c
ủa

hộ

gia

đình

Việt

Nam

phân

theo

nhóm

chi

tiêu

(m
2
)



Nghèo

Khá
nghèo

Trung
bình

Khá

giàu

Giàu

Tổng

diện
tích
đấ
t
6437

6953

7138

6928

9856


Trong

đó:

Diện
tích
trồng

cây

hàng

năm

3600

3928

4625

4414

5081

Diện
tích
trồng

cây


lâu

năm

613

845

1016

1485

3527

Nguồn:

BCPTVN

(2000)

Theo MDPA (2004), một khi nông dân không còn sở hữu đất, họ dễ rơi vào
cảnh nghèo khó. Hầu hết các nông hộ nghèo bán đất hay cầm cố đất do gặp rủi ro,
trắc trở trong thu hoạch, trong kinh doanh và trong cuộc sống hàng ngày. Những
rủi ro, thất bát này dẫn đến việc thu nhập của gia đình kém đi, chi phí cuộc sống
tăng lên; vì vậy khiến họ dễ bị lâm nợ, buộc họ phải dùng đất đai như cứu cánh cuối
cùng để thanh toán nợ nần và tiếp tục sống.

Tín dụng chính thức
Theo Waheed (1996), thiếu vốn đầu tư dẫn đến năng suất thấp, kéo theo thu

nhập hộ gia đình thấp. Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp. Tiết kiệm thấp lại là
nguyên nhân của sự thiếu hụt vốn đầu tư, và lại dẫn đến thu nhập thấp. Không đủ
vốn, người nghèo không thể làm gì được; từ việc cơ bản nhất là mua giống cây
trồng vật nuôi hay phân thuốc chứ đừng nói đến việc cải tiến sản xuất hay áp dụng
khoa học kỹ thuật mới. Muốn thoát khỏi cái vòng luNn quNn này cần phải có
nguồn vốn từ bên ngoài, trong trường hợp này là nguồn vốn vay hay vốn tín dụng


14

từ các tổ chức tín dụng chính thức và phi chính thức, hay từ các dự án cấp tín dụng
cho người nghèo của chính phủ.
Phạm Vũ Lửa Hạ (2003), ở Việt Nam, người nghèo thường bị hạn chế trong
việc tiếp cận được với các nguồn tín dụng chính thức của Chính phủ trong lúc các
nguồn phi chính thức có ít khả năng giúp hộ gia đình thoát nghèo. Mặc dù hiện
nay có rất nhiều nguồn, nhiều dự án cung cấp tín dụng cho người nghèo thông qua
các chương trình quốc gia về XĐGN nhưng vẫn còn rất nhiều người rất nghèo
không thể tiếp cận được các nguồn tín dụng này. Có nhiều nguyên nhân, loại trừ sự
nhũng nhiễu của người có quyền quyết định thì nguyên nhân còn lại là do người
nghèo thiếu hiểu biết, không có khả năng thế chấp, không biết cách làm ăn dẫn đến
không có khả năng trả nợ. Và rồi họ tiếp tục nghèo hơn.
“Nợ nần làm cho chúng tôi thức trắng đêm - cảm giác nợ nần thật là khủng khiếp. Tôi
cảm thấy khiếp sợ mỗi khi có chủ nợ đến nhà đòi tiền còn bản thân thì không thể trả được.
Tôi cảm thấy xấu hổ vì lúc đó họ rất coi thường tôi.” - PPA tại Trà Vinh, Oxfam Anh.
(Nguồn: BCPTVN,2000).
1.3.4 Những đặc điểm về nhân khu học
1.3.4.1 Quy mô hộ và số người sống phụ thuộc
Quy mô hộ gia đình là “mẫu số” quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu nhập
bình quân của các thành viên trong hộ. Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả
của nghèo đói.

Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo còn rất cao. Năm 1998, số con bình
quân trên 1 phụ nữ của nhóm 20% nghèo nhất là 3,5 con so với mức 2,1 con của
nhóm giàu nhất. Quy mô hộ gia đình lớn làm cho tỷ lệ người ăn theo tăng cao. Tỷ
lệ người ăn theo của nhóm nghèo nhất là 0,95 so với 0,37 của nhóm giàu nhất. Do
đó, những hộ này không những có ít lao động, đồng nghĩa với việc có nhiều người
ăn theo hơn mà còn phải chịu những chi phí lớn hơn như chi cho việc đi học hay chi
cho việc khám chữa bệnh, những khoản chi thường gây bất ổn cho đời sống kinh tế
gia đình (GSO, 2000).
1.3.4.2 Giới tính của chủ hộ
Theo BCPTVN (2000), phần lớn những hộ có chủ hộ là nữ là những hộ
nghèo. Hộ gia đình có chủ hộ là nữ thường bị các cán bộ Nhà nước phân biệt đối


15

xử (Oxfam, 1999). VHLSS (2002) cho thấy phụ nữ ở vùng nông thôn Việt Nam
phải chịu đựng nhiều thiệt hòi. Phụ nữ chủ yếu làm nghề nông. Tiền công của nữ
chỉ bằng 62% của nam giới. Dù chiếm 50% lực lượng lao động, nhưng phụ nữ chỉ
kiếm được 40% tổng tiền công. Phụ nữ ít có tiếng nói hay cơ hội tham gia trong việc
ra quyết định tại địa phương (WB, 2003).
1.3.4.3 Những hạn chế của người dân tộc thiểu số
Theo Dominique van de Walle và Dileni Gunewardena (2000) có bằng chứng
cho thấy có sự khác biệt giữa cộng đồng người dân tộc thiểu số và người Kinh – Hoa
về mối quan hệ giữa đặc điểm hộ với tình trạng nghèo đói. Sự khác biệt này có
thể phần nào tạo nên “những khoảng cách về chất lượng”. Ví dụ, trình độ giáo dục
mà người dân tộc thiểu số nhận được có thể có chất lượng thấp hơn. Nhưng lý do
phần nào có thể do sự khác biệt trong hành vi kể cả về việc sử dụng đất chung
(BCPTVN, 2004).
Theo Báo cáo cập nhật nghèo (2006), nhóm đồng bào các dân tộc thiểu số bị
tụt hậu khá nhiều so với nhóm đồng bào Kinh – Hoa về các chỉ số xã hội. Cụ thể, vào

năm 2004, chỉ có 4% đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận điều kiện vệ sinh so
với 36% người Kinh – Hoa và 19% đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận nước
sạch so với 63% người Kinh – Hoa.
Vũ Hoàng Đạt và các tác giả (2006) cho thấy hộ gia đình thuộc nhóm Kinh –
Hoa dễ có khả năng thoát nghèo hơn hộ gia đình có đặc điểm tương tự thuộc nhóm
dân tộc thiểu số. Nhóm dân tộc thiểu số có tốc độ giảm nghèo chậm hơn so với nhóm
người Kinh – Hoa ở tại tất cả các vùng nơi có người dân tộc thiểu số sinh sống.
Hoàng Thanh Hương và các tác giả (2006) phát hiện thấy ngay cả khi các dân
tộc thiểu số sống cùng với người Kinh – Hoa trong cùng một địa bàn nhỏ, tức là ở
cùng xã, họ vẫn khó theo kịp so với nhóm Kinh – Hoa. Nghiên cứu này cũng phát
hiện thấy rằng nhóm các dân tộc thiểu số sống ở các xã không có người Kinh –
Hoa cùng sinh sống có mức sống thấp hơn đáng kể so với nhóm các dân tộc thiểu số
sống ở các xã có cả người Kinh– Hoa sinh sống.
Hoàng Thanh Hương và các tác giả (2006) và Nguyễn Thị Minh Hòa (2006)
cho thấy có sự khác biệt đáng kể về các đặc tính ở cấp hộ giữa hai nhóm hộ và sự khác
biệt dường như có chiều hướng gia tăng. Năm 2004, sự khác biệt về đặc tính cấp hộ


16

giải thích 18% chênh lệch chi tiêu dùng giữa hai nhóm ở trong toàn bộ vùng nông
thôn Việt Nam, song tạo ra 51% chênh lệch chi tiêu dùng ở những xã có cả đồng
bào dân tộc thiểu số và đồng bào Kinh – Hoa sinh sống.
1.3.5 Khả năng tiếp cận các hạ tầng cơ sở thiết yếu
Hoàng Văn Kình, Bob Baulch và các tác giả (2001) cho thấy những nơi
không có nghề thủ công hoặc chợ họp thường xuyên thì thu nhập theo giờ lao động
thấp hơn đáng kể.
Theo Lê Thúc Dục và các tác giả (2006), có đường ôtô đến các xã là một trong
những yếu tố quan trọng quyết định mức chi tiêu dùng bình quân đầu người của năm
2004.

Wan de Walle và Cratty (2002) cho rằng có tác động tích cực của việc cải tạo
đường giao thông nông thôn đối với người nghèo là rất tích cực. Larsen, Phạm Lan
Hương và Rama (2004) cho thấy tăng thêm 1 điểm phần trăm GDP chi vào cơ sở hạ
tầng đã dẫn đến việc giảm tương ứng tỷ lệ nghèo khoảng 0,5%. Tác động này ở các
tỉnh nghèo sẽ lớn hơn. Đầu tư vào giao thông, nước sạch và hạ tầng vệ sinh có tác động
giảm nghèo lớn hơn.
Vũ Hoàng Đạt và các tác giả (2006) cho thấy rằng tiếp cận đường giao thông,
trường phổ thông cơ sở, trạm xá và đường giao thông thường xuyên ở cấp thôn tăng
khả năng thoát nghèo của hộ gia đình.
1.4 Đề xuất mô hình nghiên cứu
Qua phân tích các nguyên nhân gây ra tình trạng nghèo đói của những lý
thuyết và các nghiên cứu trước, chúng tôi đề nghị mô hình nghiên cứu nghèo đói
cho các hộ ngư dân ven đầm Nha Phu với các nhân tố cơ bản sau:
Nhóm các nhân tố thuộc hộ gia đình:
1. Giới tính của chủ hộ. Hộ có chủ hộ là nữ sẽ có xác suất nghèo cao hơn.
Cũng theo ĐTMSDC và các nghiên cứu khác cho rằng tại các nước Châu Á phụ nữ
nói chung và nhất là phụ nữ ở các khu vực nông thôn ít có điều kiện tiếp cận với giáo
dục do tư tưởng “trọng nam truyền thống” nên hệ quả là phụ nữ có cơ hội ít hơn trong
quá trình tìm kiếm thu nhập, cho dù Việt Nam vấn đề giới chưa thể hiện sự
nghiêm trọng nhưng hiện tượng này rất phổ biến. Nghiên cứu này giả định là chủ hộ


17

là nữ sẽ có khả năng rơi vào ngưỡng nghèo nhiều hơn chủ hộ là nam.
2. Số người sống phụ thuộc. Đó là số người trưởng thành không có hoạt động
tạo thu nhập của hộ. Điều này cũng đương nhiên về mặt lý thuyết và bằng chứng từ
các nhà nghiên cứu nghèo đói. Khi số thành viên trong hộ không có việc làm
càng tăng lên thì càng làm giảm khả năng tích luỹ của gia đình, dẫn đến khả năng
vay tín dụng phi chính thức càng tăng, và hệ quả là dễ rơi vào hoàn cảnh

nghèo. Nghiên cứu này giả định tỉ lệ phụ thuộc của hộ sẽ có mối quan hệ đồng biến
với xác suất rơi vào ngưỡng nghèo.
3. Dân tộc. Cộng đồng người dân tộc thiểu số, ngoài những biệt về tập quán
văn hóa thì hầu hết các chỉ số kinh tế, xã hội của họ đều thua kém hơn so với người
Kinh-Hoa. Trong ĐTMSDC của GSO phối hợp với UNDP có một sự chênh lệch
về thu nhập giữa dân tộc Kinh-Hoa và dân tộc thiểu số và dẫn đến các hộ dân tộc
thiểu số nằm trong diện XĐGN nhiều hơn là dân tộc Kinh- Hoa, điều này xuất phát
từ sự khác biệt các điều kiện tự nhiên, xã hội dẫn đến sự khác biệt thấp về kinh tế
của các hộ gia đình dân tộc. Do vậy chúng tôi giả định là hộ dân tộc thiểu số có
nguy cơ nghèo nhiều hơn các hộ khác.
4. Tình trạng việc làm (có hay không có làm việc) và loại ngành nghề của chủ
hộ. Hộ có việc làm sẽ có nguồn thu nhập lớn hơn so với hộ không có việc làm. Hộ có
việc làm phi nông nghiệp sẽ có công việc ổn định hơn, thu nhập khá hơn so với hộ
làm việc trong ngành nông nghiệp, đặc biệt so với hộ đi làm thuê trong ngành
nông nghiệp. Nghiên cứu này giả định, hộ có việc làm và làm việc trong khu vực
phi nông nghiệp sẽ có xác suất nghèo thấp hơn so với các hộ không có việc làm hay
làm việc trong ngành nông nghiệp.
5. Số năm đi học trung bình của những người trưởng thành trong hộ. Trình độ
học vấn của các thành viên trưởng thành trong hộ càng cao càng có khả năng tiếp
cận với công nghệ, kỹ thuật nông nghiệp, tiếp cận với thị trường lao động và nâng
cao cơ hội cải thiện thu nhập. Nghiên cứu này giả định số năm đi học của những
thành viên đã đến tuổi lao động có mối quan hệ nghịch biến với xác suất rơi vào
ngưỡng nghèo.
Nhóm nhân tố liên quan đến vai trò Chính phủ (trong phân bổ nguồn lực):
6. Phân bổ đất sản xuất đến hộ gia đình. Nông dân ở nông thôn sống chủ yếu


18

dựa vào sản xuất nông nghiệp mà nông nghiệp gắn liền với đất đai. Hộ có nhiều đất

canh
tác thì có nhiều thu nhập từ nông nghiệp hơn. Nếu hộ có ít đất hay mất đất thì
nguy cơ rơi vào nhóm hộ người nghèo là rất lớn. Nghiên cứu này giả định rằng hộ có
nhiều đất sẽ có khả năng làm giảm xác suất nghèo.
7. Tiếp cận nguồn tín dụng chính thức. Trong ĐTMSDC do GSO phối hợp với
UNDP cho thấy rằng khi các hộ gia đình tiếp cận được với các nguồn tín dụng chính
thức để đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh dịch vụ nhằm tăng thu nhập
cho hộ. Như vậy, hộ tiếp cận được với tín dụng chính thức và nhận được giá trị
khoản vay càng lớn thì càng có khả năng giảm xác suất rơi vào ngưỡng nghèo.
8. Tiếp cận hạ tầng cơ sở thiết yếu bao gồm đường giao thông, điện, trạm y tế,
trường học… PPA cũng cho thấy việc đầu tư đáng kể vào cơ sở hạ tầng đã góp phần
tăng phúc lợi của người dân và giảm nghèo. Nghiên cứu giả định hộ gia đình tiếp
cận
dễ dàng các hạ tầng cơ sở thiết yếu trên sẽ có xác xuất rơi vào nghèo đói thấp hơn so
với các hộ khác.
Mô hình nghiên cứu đề nghị được trình bày trong hình 1.3.








19














1.5 Tổng quan về tình hình nghèo đói trên thế giới và Việt Nam
1.5.1 Tình hình nghèo đói trên thế giới
Đói nghèo sâu sắc đang xen lẫn trong sự giàu có (World Development Report
2000/2001). Đó có lẽ là nghịch lý lớn nhất trong một xã hội toàn cầu vốn được xem là
ngày càng văn minh, hiện đại và dân chủ hơn. Trong số 6 tỷ người của thế giới thì có
2,8 tỷ người sống dưới mức 2 USD một ngày và 1,2 tỷ người (tức một phần năm) sống
dưới mức 1 USD một ngày, 44% số này sống ở Nam Á. Trong khi ở các nước giàu,
trung bình trong 100 đứa trẻ có chưa đến một trẻ không sống được đến tuổi thứ 5 thì ở
những nước nghèo nhất tỷ lệ này là một phần năm. Tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng ở
những nước giàu có chưa đến 5% nhưng con số này ở nước nghèo lên tới 50%.
Cảnh khốn cùng vẫn tồn tại cho dù loài người đã không ngừng đạt được những
thành tựu đáng kể để cải tạo cuộc sống, cải tạo thế giới. Các nhà khoa học đã đánh giá
Nghèo đói
Chính phủ
Các đặc tính hộ gia đình
H

t

ng
cơ sở
Ph

â
n b


nguồn lực
Nh
â
n
khNu
Kinh tế Xã hội
Đất đai
Tín dụng
Gi
ới
t
í
nh
của chủ
h


T

l

ph


thuộc
T

ì
nh tr

ng
việc làm
Lo
ại
ng
à
nh
nghề
S

n
ă
m
đi học
trung
bình của
h


Hình
1
.3.


hình

ngh

i
ên
c
ứu

đề

nghị.


Dân tộc


20

rằng hiện nay loài người trên thực tế đã sản xuất đủ lương thực, thực phNm để nuôi
sống toàn bộ dân số trên hành tinh nếu tính lượng Kcalo bình quân đầu người. Nhưng
sự phân chia thành quả toàn cầu này lại hết sức bất công. 20% dân giàu tiêu dùng 87-
90% giá trị sản phNm của toàn thế giới; 6% số người giàu nhất đã tiêu dùng 35-40%
sản phNm của thế giới.
Ở một cách nhìn khác, nếu coi toàn bộ thế giới theo từng chỉ tiêu như GNP, thương
mại thế giới, tích lũy và đầu tư là 100% thì ta có thể thấy 20% dân số giàu nhất thế giới
chiếm dụng 87,5% GNP; 84,2% thương mại thế giới; 85% tích lũy; 85% đầu tư. 20%
dân số nghèo nhất chiếm các chỉ tiêu tương ứng là 1,4%; 0,9%; 0,7% và 0,9% (Lê Xuân
Bá, 2001). Sự phân cực giàu nghèo rõ ràng rất nghiệt ngã, một nhóm người thì có tất cả
còn một nhóm người thì lại hầu như không có gì.
Không chỉ có ở các nước nghèo, nghèo đói cũng tồn tại ở những nước giàu. Tại
các nước công nghiệp phát triển tính đến năm 1998 vẫn còn hơn 100 triệu người nghèo
và hơn 100 triệu người không có nhà ở. Tuy nhiên, cái nghèo ở những nước này là nằm
trong sự so sánh với tầng lớp thượng lưu, nghĩa là nghèo tương đối. Tại Liên minh

châu Âu (EU), có 57 triệu người (chiếm 17% dân số) phải sống trong cảnh nghèo khổ,
cứ 6 người dân thì có 1 người sống trong một gia đình nghèo khó. Châu Mỹ cũng có
364 triệu người nghèo (chiếm 13,3% dân số châu lục này)…
Trên thực tế, nghèo đói và quá trình giảm nghèo đói ở những phần khác nhau của thế
giới thì khác nhau rất xa (Bảng 1.5). Ở Đông Á, số dân sống dưới mức 1 USD một ngày
đã giảm từ khoảng 420 triệu người xuống còn khoảng 280 triệu người từ năm 1987 đến
1998. Nhưng ở Mỹ Latinh, Nam Á và Nam Sahara châu Phi, số người nghèo đang tăng
lên. Tại các nước châu Âu và Trung Á đang chuyển sang nền kinh tế thị trường, số người
sống dưới mức 1 USD một ngày đã tăng hơn 20 lần.






21

Bảng 1.5: Đói nghèo theo thu nhập, phân theo vùng trong một số năm,
giai đoạn 1987-1998.
Số người sống dưới 1 USD một ngày (triệu)
Vùng
1987 1990 1993 1996 1998
a
Đông Á và Thái Bình Dương
Trừ Trung Quốc
Châu Âu và Trung Á
Mỹ Latinh và Caribê
Trung Đông và Bắc Phi
Nam Á
Nam Sahara châu Phi

Tổng
Trừ Trung Quốc
417,5
114,1
1,1
63,7
9,3
474,4
217,2
1.183,2
879,8
452,4
92,0
7,1
73,8
5,7
495,1
242,3
1.276,4
915,9
431,9
83,5
18,3
70,8
5,0
505,1
273,3
1.304,3
955,9
265,1

55,1
23,8
76,0
5,0
531,7
289,0
1,190,6
980,5
287,3
65,1
24,0
78,2
5,5
522,0
290,9
1.198,9
985,7
Số người sống dưới 1 USD một ngày (%)
Vùng
1987 1990 1993 1996 1998
a
Đông Á và Thái Bình Dương
Trừ Trung Quốc
Châu Âu và Trung Á
Mỹ Latinh và Caribê
Trung Đông và Bắc Phi
Nam Á
Nam Sahara châu Phi
Tổng
Trừ Trung Quốc

26,6
23,9
0,2
15,3
4,3
44,9
46,6
28,3
28,5
27,6
18,5
1,6
16,8
2,4
44,0
47,7
29,0
28,1
25,2
15,9
4,0
15,3
1,9
42,4
49,7
28,1
27,7
14,9
10,0
5,1

15,6
1,8
42,3
48,6
24,5
27,0
15,3
11,3
5,1
15,6
1,9
40,0
46,3
24,0
26,2
a. Tính sơ bộ.
Nguồn: Ngân hàng thế giới, 2000
Từ năm 1987 đến năm 1998, tỷ lệ dân số của các nền kinh tế đang phát triển và
đang chuyển đổi sống dưới mức 1 USD một ngày đã giảm từ 28% xuống còn 24%.
Mức giảm này thấp hơn mục tiêu quốc tế đề ra là đến năm 2015 giảm được một nửa số
người nghèo cùng cực theo thu nhập.


22

Do tăng trưởng dân số nên khó thay đổi số người sống trong cảnh đói nghèo.
Nhưng kết quả đạt được cũng khác nhau xa giữa các khu vực. Đơng Á, Trung Đơng và
Bắc Phi đều đã giảm được số người nghèo, giảm mạnh nhất là Đơng Á. Nhưng trong
những khu vực khác thì số người sống dưới 1 USD một ngày lại tăng. Ví dụ như ở
Nam Á, số người nghèo trong thập kỷ vừa qua đã tăng từ 474 triệu người lên 522 triệu,

mặc dù tỷ lệ người nghèo đã giảm từ 45% xuống còn 40%. Ở Mỹ Latinh và Caribê, số
người nghèo đã tăng khoảng 20%.
Có hai khu vực đặc biệt yếu kém. Tại châu Âu và Trung Á, số người trong diện
đói nghèo đã tăng mạnh từ 1,1 triệu lên đến 24 triệu. Tại Nam Sahara châu Phi, số
người nghèo tăng từ mức đã cao là 217 triệu lên đến 291 triệu trong cùng thời gian đó,
khiến gần một nửa số dân của châu lục này là người nghèo.
Những khác biệt về thành tích giảm nghèo của các khu vực đã làm dịch chuyển
sự phân bố giàu nghèo theo khu vực địa lý. Theo đó, vào năm 1998, Nam Á và Nam
Sahara châu Phi chiếm khoảng 70% số dân sống dưới mức 1 USD một ngày, tăng 10
điểm phần trăm so với năm 1987.
Hình 1.4. Đói nghèo ở các nước đang phát triển
đang chuyển sang Nam Á và Nam Sahara Châu Phi.
Nguồn: Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 2000/2001.

Năm 1987
Nam Á
40,1%
Trung
Đông và
Bắc Phi
0,8%
Đông Á
và Thái
Bình
Dương
35,3%
Châu Phi
Hạ Sahara
18,4%
Châu Âu

và Trung
Á
0,1%
Châu Mỹ
Latinh và
vùng
Caribê
5,4%
Năm 1998
Châu Âu
và Trung
Á
2%
Châu Mỹ
Latinh và
vùng
Caribê
6,5%
Châu Phi
Hạ Sahara
24,3%
Đông Á
và Thái
Bình
Dương
23,2%
Trung
Đông và
Bắc Phi
0,5%

Nam Á
43,5%


23

Các chỉ số xã hội ở các nước đang phát triển nói chung đều đã được cải thiện
trong ba thập kỷ qua. Ví dụ như tỷ lệ tử vong ở trẻ em đã giảm từ 107 trẻ trên 1.000 ca
sinh năm 1970 xuống còn 59 năm 1998. Nhưng mức giảm từ năm 1990 đến năm 1998
chỉ còn 10%, trong khi muốn đạt được mục tiêu phát triển quốc tế thì con số này phải
là 30%.
Những con số tổng hợp này cũng khác nhau ở mỗi vùng trên thế giới. Tuổi thọ
bình quân ở Nam Sahara châu Phi vẫn chỉ ở mức 52 năm, ít hơn 13 năm so với mức
trung bình của các nước đang phát triển, ít hơn 25 năm so với mức trung bình của
OECD. Một trong những nguyên nhân chính là tỷ lệ tử vong cao đến mức không chấp
nhận được ở vùng này, 90 trên 1000 dân. Tỷ lệ này ở Nam Á cũng rất cao (77). Các
con số này đều vượt quá mức trung bình của OECD là 6 trên 1000 dân. Đại dịch AIDS
càng làm vấn đề trầm trọng hơn, khiến tỷ lệ tử vong trẻ em tăng mạnh ở nhiều nước
châu Phi. Từ năm 1990 đến năm 1997, tỷ lệ tử vong trẻ em đã tăng từ 62 lên đến 74 ở
Kênia và từ 52 lên đến 69 ở Dimbabuê. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh trong khu vực này
cũng cao bất thường, trong số 12 nước trên thế giới có tỷ lệ này vượt quá 1.000 ca trên
100.000 ca sinh thì 10 nước là ở Nam Sahara châu Phi.
Sự chênh lệch cũng diễn ra tương tự trong các chỉ số về giáo dục. Nam Á đã tăng
được tỷ trọng số học sinh học tiểu học từ 77% lên trên 100% trong giai đoạn 1982-
1996. Nhưng tỷ lệ này của Nam Sahara châu Phi vẫn dừng ở mức 74% (từ năm 1982
đến 1993 thậm chí còn giảm). Các chỉ số khác về giáo dục đã khẳng định mức độ
nghiêm trọng của sự chênh lệch theo vùng. Gần như thành tích giảm được tỷ lệ mù chữ
trong các nước đang phát triển đều tập trung ở Đông Á. Trái lại, số người mù chữ đã
tăng thêm 17 triệu người ở Nam Á và 3 triệu người ở Nam Sahara châu Phi. Đây cũng
là vùng có tỷ lệ học sinh học tiểu học ròng thấp nhất.

1.5.2 Kinh nghiệm của các tổ chức quốc tế và các nước về xóa đói giảm nghèo
1.5.2.1 Kinh nghiệm của các tổ chức quốc tế
Đấu tranh chống nghèo đói hiện đang là vấn đề rất cấp bách không chỉ của riêng
một vùng hay một quốc gia nào mà còn là của toàn thế giới. Điều này xảy ra vì hai nhu
cầu bức thiết chính: Một là, nghèo đói ở từng vùng, từng quốc gia đang ngày ngày đe
dọa đến sự ổn định và an toàn xã hội. Muốn tránh được xung đột xã hội có thể xảy ra,
mỗi vùng hay mỗi quốc gia phải quan tâm đến việc giảm nghèo khổ, điều hòa lợi ích


24

giữa các nhóm dân cư không để khoảng cách giàu nghèo quá lớn, quá sức chịu đựng
của xã hội. Hai là, xu thế toàn cầu hóa đang buộc các quốc gia phải mở rộng tính dân
chủ. KhNu hiệu chung về một xã hội công bằng có trật tự kinh tế và phân phối tiến bộ
khiến cho các quốc gia phải có những chính sách, những hành động cụ thể để hội nhập.
Vì vậy, một mặt việc xóa đói giảm nghèo là trách nhiệm của chính phủ từng
nước; mặt khác, các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF), Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA), chương trình phát triển của Liên hiệp quốc
(UNDP)… giữ vai trò quan trọng giúp các quốc gia giảm bớt gánh nặng nghèo đói.
Biện pháp đầu tiên thường được sử dụng là chu cấp các khoản vay có gắn với các
điều kiện giải ngân theo các chương trình xóa đói giảm nghèo. Đây được đánh giá là một
biện pháp trực tiếp và có nhiều yếu tố tích cực nếu quá trình tổ chức thực hiện hạn chế
được lãng phí và tham nhũng của các quan chức trung gian.
Tiếp theo đó là những nỗ lực của các quốc gia công nghiệp phát triển. Hội nghị
thượng đỉnh Rio năm 1992 đã đề ra một công ước chung, theo đó viện trợ phát triển cho
các quốc gia nghèo thuộc thế giới thứ ba cần phải chiếm 0,7% tổng sản phNm xã hội của
các quốc gia công nghiệp phát triển với mục tiêu đóng góp vào việc giảm số người
nghèo trên thế giới. Tính đến cuối thế kỷ XX, quốc gia dẫn đầu về thực hiện Công ước
này là Hà Lan và Thụy Điển, họ chi tới trên 0,8% GNP. Các nước khác như Anh đã chi
trong năm 1999 là 0,24%, sang năm 2000 tăng lên 0,31%. Sau đó là Thụy Sĩ 0,34%,

Pháp 0,33%. Riêng Cộng hòa liên bang Đức năm 1998 đã chi 0,4% GNP cho viện trợ
phát triển, nhưng đến đầu thế kỷ XXI chính phủ Đức lại giảm xuống mức thấp nhất từ
trước tới nay còn 0,27%.
Biện pháp tiếp theo là gián tiếp, thường tập trung vào các giải pháp dãn nợ, giảm
nợ đối với những quốc gia rơi vào cảnh nghèo đói đến mức mất khả năng trả nợ. Trong
số các sự kiện liên quan đến sự việc này, trước hết phải kể đến các hội nghị thường
niên của WB và IMF về xử lý nợ cho các nước nghèo, các câu lạc bộ như Câu lạc bộ
Pari, Câu lạc bộ Luân Đôn… Chẳng hạn tại hội nghị ở Washington (tháng 10/1996) đã
quyết định giảm ít nhất 5,6 tỷ USD nợ của khoảng 20 nước nghèo nhất trên thế giới, và
đến những năm gần đây con số giảm nợ đã lên đến hàng chục tỷ USD.
Các biện pháp thường tập trung vào giải quyết những vấn đề phát sinh lớn, như
trong lĩnh vực bảo hiểm, thiết lập một hệ thống can thiệp của các công ty bảo hiểm và


25

nhà nước vào những thiệt hại lớn do thiên tai gây ra… Ngoài ra, còn có các hoạt động
của những tổ chức nhân đạo, như Hội chữ thập đỏ quốc tế, UNICEF… cũng thường tổ
chức các hỗ trợ nhân đạo, tiêm chủng mở rộng, cung cấp nước sạch, tóm lại là hướng
vào các hoạt động hỗ trợ người nghèo, lấy người nghèo đói làm trung tâm, đối tượng
để triển khai các dự án hỗ trợ và giúp đỡ.
Tuy vậy trên thực tế, hiệu quả đích thực của các biện pháp mà các nước giàu,
cũng như các tổ chức quốc tế đưa ra để giúp đỡ các nước nghèo thường rất hạn chế và
rất không cơ bản. Chẳng hạn các biện pháp đầu tư phát triển và hỗ trợ thương mại cho
các nước nghèo rút cuộc thường làm cho các nước nghèo chịu nhiều thua thiệt trong
“các luật chơi” của thị trường thế giới. Theo BBC ngày 20/5/2001, một báo cáo do
Oxfam đưa ra cho thấy, những biện pháp hạn chế về thương mại mà các nước giàu áp
dụng đã làm cho các nước nghèo nhất thế giới thiệt hại một khoản thu ngoại tệ lớn là
2,5 tỷ USD/năm. Ví dụ, ở Bangladesh, cứ 1 USD nhận được từ viện trợ của Mỹ thì trên
thực tế lại bị thiệt hại 7 USD do những hạn chế thương mại mà Mỹ áp đặt, và còn bị

thiệt hại gấp 5 lần như thế nếu so với 1 USD viện trợ nhận được từ Canada.
Có thể nói rằng, thời gian qua các nước công nghiệp phát triển nhất chỉ toàn đưa
ra những lời hứa hão với các nước nghèo của thế giới thứ ba về viện trợ, giảm nợ và
thương mại. Lời nói còn cách quá xa so với việc làm cụ thể. Khoảng 11% hàng hóa
xuất khNu của các nước nghèo (LDC) phải chịu mức thuế quan trên 15%, cao gấp ba
lần thuế quan đánh vào hàng hóa cùng loại nhập từ các nước khác. Các nước công
nghiệp phát triển thuộc tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) hứa tăng hỗ trợ
phát triển cho các nước LDC lên 0,2% GNP của họ. Nhưng kể từ đó cho đến nay,
OECD đã giảm 3,5 tỷ USD, và mức viện trợ bình quân đầu người của họ đã giảm.
Trong khi đó họ lại trợ giá nông sản (thường là mặt hàng xuất khNu chủ lực của các
nước nghèo) trong nước lên tới 1 tỷ USD/ngày, tương đương với tổng GDP của tất cả
các nước LDC.
1.5.2.2 Kinh nghiệm giảm nghèo của một số nước
P Hàn Quốc
Trước những năm 60, Hàn Quốc có xuất phát điểm là rất nghèo nàn về tài nguyên
thiên nhiên, vốn và công nghệ khi thực hiện chính sách và chiến lược phát triển kinh tế
theo hướng xuất khNu. Các chính sách và chiến lược ấy đã hứa hẹn rằng nghèo đói sẽ được

×