Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

khủng hoảng nợ thế chấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.2 KB, 30 trang )

Nợ thế chấp dưới chuẩn ở Mỹ
bài học từ cuộc khủng hoảng
những kiến nghị cho sự thay đổi

Bài viết này sử dụng khủng hoảng nợ thế chấp dưới chuẩn trong hệ thống tài chính tồn
cầu như một ví dụ về tầm quan trọng của quản trị rủi ro trong các tổ chức tài chính. Cũng
như Oxy, con người quan tâm đến sự thiếu vắng quản trị rủi ro chỉ khi thiếu nó.Thơng
thường, khi nó hoat động, chúng ta thường xem nhẹ nó. Khi nó ngừng hoạt động, hệ
thống “chuyển động” chậm lại và dừng hẳn

I. GIỚI THIỆU

Vào tháng 8/2007, cuộc khủng hoảng vay thế chấp dưới chuẩn đột nhiên nổi lên trên thị
trường tài chính Mỹ mà khơng có bất kì dấu hiệu cảnh báo nào. Nó đã lan đến những
trung tâm tài chính khác như: London, Tokyo, Paris, Frankfurt. Đây lần đầu tiên nhiều
ngân hàng lớn rơi vào cuộc khủng hoảng này
Một vài dấu hiệu đầu tiên của “tai hoạ” :
1. Ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mĩ – Bear Stearns, đã thơng báo rằng 2 trong
nhiều quỹ bảo hiểm của nó đã mất hơn ½ tài sản do sự sụt giảm mạnh giá trị của
danh mục đầu tư vay thế chấp của nó. Các khách hàng thì khơng thể rút tiền lại và
trở nên vơ vọng khi mà những khoản đầu tư của họ tiếp tục bị “bay hơi”.
2. Banque Nationale Paribas (BNP), ngân hàng lớn nhất của Pháp đã đình chỉ hoạt
động đối với các quỹ bảo hiểm của nó vì thị trừơng chứng khốn cầm cố trở nên
kém lỏng
3. Hai trong năm ngân hàng lớn nhất của Trung Hoa ( Ngân hàng Trung hoa và
Ngân hàng Thương Mại và Cơng Nghiệp Trung hoa) đã thơng báo những khoản
lỗ trị giá 11 tỷ đơ la vì các khoản vay cầm cố trở nên nguy hiểm
4. Ở Anh, lần đầu tiên kể từ sau cuộc đại khủng hoảng, dân chúng đã xếp hàng trước
cửa ngân hàng Northern Rock để rút tiền của họ trước khi q trễ. Những bức ảnh
về sự kiện này đã tạo ra những cú sốc đến tồn cầu


THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Khng hong ti chớnh bt ngun t khu vc vay th chp di chun M. Vo thỏng
8/2007, t l thanh toỏn tr ó tng 36%, t k lc cao nht trong 16 nm qua. Trong khi
y, nhng ngi s hu nh khỏc ó thy rng ti sn ca h gim t vic thanh toỏn
chm tr n vic tch thu ti sn th n vi t l tng gp ụi so vi nm 2006. Xem
xột k lng hn thỡ ú l cỏc khon vay th chp di chun, chim 16% qu vn vay
th chp, nhng chim khong 50% cỏc khon v n.

II. NGUN GC CA CUC KHNG HONG

1. Lói sut thp

Cui nm 2001, khi nn kinh t M ri vo suy thoỏi. Fed ó phn ng bng cỏch liờn
tc ct gim lói sut. Chớnh sỏch tin t m rng ó khuyn khớch cỏc hot ng kinh t.
V n gia nm 2002, nn kinh t phc hi. Lo s rng, tỡnh hỡnh suy thoỏi s tr li.
Ch tch FED Alan Greenspan v nhng ng nghip ó quyt nh gi lói sut Fed
mc 1% trong sut 2 nm 2003 v 2004
Cn c vo tớn hiu ca ngõn hng Trung ng, nhng th trng ti chớnh cng ó
h lói sut trờn mt phm vi rng. c bit, lói sut i vi mt khon vay c nh 30
nm l t 4 n 5%, thp nht trong vũng 40 nm qua.

2. Mt ngun cung phong phỳ v tớnh thanh khon

ỏp li vi chớnh sỏch tin t ni lng ca Fed, cung tin trong nn kinh t M tng
mnh.Tt c cỏc loi hỡnh cho vay ca ngõn hng ó tng t bin v mt khi lng, do
vy cng gúp phn m rng tin t
Khi lng cho vay tớn dng cng tng khi m cú dũng vn vo u n. Fed ó
khụng cú bt kỡ n lc no kh trựng nhng tỏc ng ca tin t vỡ h tin rng nn
kinh t thỡ ang trong giai on phc hi. Vo cui nm 2002, vi s tng trng ca
nn kinh t ,thu nhp cỏ nhõn v li nhun ca cụng ty u tng lờn ỏng k


3. Giỏ nh tng liờn tc
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN

Cuối năm 2002, thị trường nhà ở diễn ra sơi động do: thu nhập cá nhân tăng, lãi suất
vay thế chấp thấp và các khoản vay tín dụng ln sẵn có. Điều này làm cho tất cả những
người tham gia trên thị trường này đều muốn tranh thủ để kiếm lời
Người dân thì đổ xơ đi mua nhà trước khi giá tăng cao hơn. Nhiều nhà đầu cơ cũng đã
thành cơng khi lợi dụng cơ hội này để mua các danh sách đăng kí nhà sau đó bán lại
quyền sở hữu để thu lời , thậm chí trước khi chúng được xây dựng và chuyển giao.Những
nhà mơ giới vay thế chấp lo lắng để dừng các giao dịch, thu về các khoản phí và chuyển
đến giao dịch kế tiếp. Q trễ để nhận ra rằng đáng lẽ nhiều người mua nhà được xếp vào
nợ thế chấp trả đều đặn thì lại được hướng vào đối tương vay nợ dưới chuẩn bởi vì phí
của loại này cao hơn.
Những người cho vay cảm thấy an tồn vì rủi ro vỡ nợ thì đang giảm theo thời gian
khi mà giá nhà tăng liên tục. Và Giá trị tài sản của họ cũng tăng theo tương ứng
Hầu hết các khoản vay dưới chuẩn đều theo hình thức vay thế chấp lãi suất có thể tự
điều chỉnh (ARM). Theo truyền thống, những người mua thích lãi suất cố định hơn -
những khoản phải thanh tốn hàng tháng khơng đổi trong suốt 30 năm . Tuy nhiên, lãi
suất ARM rất thấp trong 3 đến 5 năm. Vì vậy, nó đã thu hút được những người mua có
thu nhập thấp. Các khoản trả hàng tháng này bắt đầu tăng dần theo thời gian khi mà giá
trị hợp đồng điều chỉnh đến mức cao hơn

4. Nhận thức sai lầm về rủi ro

Nhìn lại, tất cả các chủ thể tham gia thị trường đã đánh giá sai về mức rủi ro thực.
Cho đến khi họ nhận ra thì rủi ro đã lớn hơn rất nhiều
Những người mua nhà cảm thấy họ có sự nắm giữ khá chắc khi mà giá nhà tăng cho
phép họ một lối thốt dễ dàng bằng cách vay thêm lần nữa. Những người cho vay thì bán
lại các khoản nợ cho các ngân hàng đầu tư để bao gói lại thành các chứng khốn hóa và

bán cho các nhà đầu tư.Do vậy,người cho vay thế chấp đã nắm tiền mặt và tiếp tục tạo ra
các khoản nợ tương tự, đẩy giá nhà lên cao hơn và một chu trình mới lại bắt đầu

5. Rạn nứt xuất hiện
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Tuy nhiờn, vo u nm 2006, khi m giỏ nh xut hin nhng du hiu h nhit thỡ
vic bỏn nhng ngụi nh mi ó ngng li. Kt qu l, s tng giỏ bt u gim xung rừ
rt. Nguyờn do l t vic o ngc chớnh sỏch tin t ca Fed. Chớnh sỏch tin t m
rng liờn tc trong nhng nm qua ó lm xut hin nhng du hiu ca lm phỏt. V Fed
ó phn ng li bng cỏch tng lói sut.
Chớnh sỏch tin t tht cht ca Fed ó lm cho lói sut ARM bt u tng cao hn.
Lói sut tng ó gõy bt ng i vi cỏc ch s hu di chun (sub prime owners). Do
tỡnh trng ti chớnh quỏ eo hp nờn nhiu ngi ó khụng cú kh nng thanh toỏn.
T l n quỏ hn v v n tng t bin. Chớnh iu ny ó i nghch vi nhng iu
kin m bo nn kinh t n nh bi vỡ lói sut mc dự cú khuynh hng tng nhng vn
mc thp do nhng tiờu chun cú tớnh lch s

III. C CH CHO VAY TH CHP
Mt khon vay th chp ỳng chun l mt khon vay cú cht lng cao. Nú c
quyt nh mt cỏch cn thn bi mt nhõn viờn tớn dng v c th chp bng nhng
giy t ca ngi i vay chng minh kh nng thanh toỏn cho ngõn hng, bao gm :
thu nhp hng nm, tiu s ngh nghip, h s vay mn trc õy, ti sn v cỏc khon
n.
Mt khon vay th chp di chun l mt khon vay y tớnh ri ro, cú cht
lng thp. Nú thỡ khụng c xem xột k lng v thng c bo m bi ớt hoc
khụng cú giy t chng minh kh nng ti chớnh ca ngi i vay cú th tr lói
hng thỏng v thanh toỏn khon vay. Theo truyn thng, mt ngi i vay phi trỡnh
ngõn hng n xin vay vn. Nú c xem xột bi mt nhõn viờn tớn dng v phi c
chng minh rừ rng. ng thi, Ngi vay phi a ra giy t liờn quan n thu nhp,

tiu s ngh nghip, ti sn v cỏc khon n. Ngõn hng cú th ng ý cho vay th chp
vi lói sut c nh trong sut 30 nm hoc cho vay th chp theo lói sut cú th t iu
chnh (ARM). a s ngi i vay chn hỡnh thc vay theo lói sut c nh.
Vo thp niờn 80, khi m s lng cỏc doanh nghip tng lờn nhanh chúng, cỏc ngõn
hng cho rng th tc cho vay theo kiu truyn thng thỡ quỏ cng knh v khụng hiu
qu. Do vy, H ó bt u s dng im tớn dng (credit score) ca khỏch hng
THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
quyết định mức tín dụng thích hợp. Mỗi cơng dân Mỹ đều có một điểm tín dụng, một con
số từ 300 đến 850, nhằm phản ánh lịch sử thanh tốn của cá nhân ấy. Có 3 cơ quan thu
nhập thơng tin về các hồ sơ thanh tốn của khách hàng, Các ngân hàng lấy trung bình của
3 điểm này để quyết định mức tín dụng phù hợp. Tuy nhiên, Những người cho vay vẫn
phải có những giấy tờ về thu nhập, tiểu sử nghề nghiệp, tài sản nhưng có thể đơn giản
hơn. Cuối cùng, Những nhân viên cho vay thực hiện các quyết định cho vay trước hết là
dựa trên điểm tín dụng
Vào thập kỉ đầu của những năm 2000, khi mà sự bùng nổ nhà đất trở nên đầy hấp dẫn,
thì tất cả những giấy tờ đều được tổ chức hợp lý đến mức có thể nhất. Những khoản vay
này còn được gọi là “những khoản vay khơng giấy tờ” bởi vì chúng thì hầu như khơng
được bảo đảm bởi bất kì giấy tờ nào. Điểm tín dụng trở thành tiêu chuẩn duy nhất. Nếu
điểm tín dụng của một cá nhân thấp thì khoản vay dành cho cá nhân ấy được xếp vào
hình thức vay dưới chuẩn. Đây là một khoản vay có rủi ro cao, do vậy nó đi kèm với một
lãi suất cao tương ứng. Tuy nhiên, người đi vay thì được dành cho một sự ưu đãi theo
kiểu ARM, với lãi suất xuất phát điểm thấp. Sau đó, nó sẽ được điều chỉnh dần dần đến
những mức cao hơn
Những nhà mơi giới, người mà đã dàn xếp các khoản vay đầy rủi ro này cũng u cầu
những khoản phí cao hơn. Do vậy, tồn hệ thống thì được điều khiển bởi những khối
lượng vay lớn, tiêu chuẩn thấp, lãi suất cao và phí cao. Hầu hết những người cho vay đều
khơng nhận ra cái bẫy mà họ đang bước vào. Cũng vào thời gian này, nhiều người đi vay
đã lợi dụng sự dễ dãi của mơi trường cho vay để đầu cơ. Họ khơng dự định mua nhà để ở
mà để giữ một thời gian đủ dài rồi bán lại cho một người mua khác để kiếm lời.


IV. SỨC MẠNH THẦN BÍ CỦA “TÀI CHÍNH”

1. Mơ hình kinh doanh “Tạo ra và nắm giữ” (The originate-and-hold business
model)

Theo truyền thống, một ngân hàng giữ khoản vay trong tài khoản của nó để tổng hợp
các khoản thanh tốn hàng tháng và vốn gốc khi đến kì hạn thanh tốn. Trường hợp, gặp
khó khăn tài chính, khách hàng có thể đến ngân hàng để đăng kí gia hạn. Do vậy tránh
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
được sự vỡ nợ hoặc bị tịch thu tài sản. Điều này mang đến sự đồng ý cho cả hai bên.
Người đi vay tránh được việc mất nhà. Ngân hàng cũng khơng muốn trở thành chủ nhà
trong bất kì tình huống nào vì đây khơng phải là hình thức kinh doanh của họ. Sau đó,
Hầu hết các ngân hàng bán một phần xác định danh mục cho vay của họ cho Hiệp hội thế
chấp quốc gia Fed (Fannie Mae) hoặc Hiệp hội thế chấp quốc gia của chính phủ (Ginnie
Mae). Đây là 2 cơ quan được bảo trợ bởi chính phủ (GSE) có nhiệm vụ làm tăng tính
lỏng của thị trường vay thế chấp. Bằng cách bán lại này, các ngân hàng có thể có thêm
vốn để cho vay nhiều hơn, do vậy đáp ứng mục đích của chính phủ về việc khuyến khích
sở hữu nhà của nhân dân

2. Mơ hình “Tạo ra và phân phối" (The originate-and distribute model.)

Vào thập niên 90,một hình thức tài chính mới đã xuất hiện: Đó là chứng khốn
hóa được bảo đảm bởi khoản vay thế chấp (The Mortgage Backed Securities or MBS).
Một nhóm gồm nhân viên các ngân hàng đầu tư đã tổ chức hình thức này theo đề nghị
của FNMA. Nhóm này làm việc như sau: Một số lượng lớn các khoản vay thế chấp sẽ
được gói lại cùng nhau và được thay đổi nhằm tạo niềm tin để ban hành. Các ngân hàng
sử dụng quỹ góp vốn cho vay thế chấp để bảo đảm cho MBS. Mỗi MBS đều tham gia vào
“chu kì tiền mặt” được tạo bởi quỹ chung .Hầu hết các khoản vay cầm cố như vậy thì
được xếp vào loại có chất lượng tốt. Và các chứng khốn này thì được bán cho các nhà
đầu tư tồn cầu


3. Trái khốn nợ có thế chấp có bảo đảm (The Collateral Mortgage Obligations
(CMO)).

Chính các MBS đã gây ra tình trạng bủng nổ trên thị trường nhà ở. Trong bảng cân
đối kế tốn của các ngân hàng, Các khoản nợ lỏng thấp đó đột nhiên được gói thành các
chứng khốn hóa để có thể giao dịch trên thị trường vốn. Đây là một phát minh có tính
lịch sử. Nó tương tự với phát minh trái phiếu phân vụn (the junk bond concept ) của
Michael Milken vào những năm 1980
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
+ Khi mà số lượng các khoản vay thế chấp được gói tăng theo hàm số mũ, thì số
lượng các khoản vay dưới chuẩn trong số ấy chiếm khá cao. Do vậy, quỹ chung bao gồm
các phần có chất lượng khơng như nhau.Có những phần thì an tồn tuyệt đối.Một vài
phần thì có chất lượng trung bình. Phần Còn lại thì đầy rủi ro
+ Vì các nhà đầu tư trên thị trường có những sở thích rủi ro khơng giống nhau. Các
quy định về bảo hiểm bắt buộc các quỹ tương hỗ, quỹ lương chỉ được mua những tài sản
có chất lượng cao. Đối với các nhà đầu tư khác, như các quỹ bảo hiểm, họ có khả năng
linh hoạt về tín dụng nhiều hơn. Do vậy, các khoản vay thế chấp thì được gói thành các
nợ có thế chấp được bảo đảm theo 3 gói khác nhau:
+ Gói cao cấp (The super tranche): Nó thì được xếp vào loại AAA và có thứ
tự đầu tiên để nhận tiền mặt từ các khoản thanh tốn thế chấp
+ Gói mezzanine (The mezzanine tranche): Nó có điểm tín dụng thấp hơn,
do vậy nó nằm ở vị trí tiếp theo để nhận các khoản thanh tốn
+Gói equity (The equity tranche): Đây là gói có rủi ro cao nhất và xếp vị trí
cuối cùng trong chuỗi thanh tốn, sau 2 gói trên.

Do có những mức độ rủi ro khác nhau nên mỗi gói có những mức độ hưởng lợi khác
nhau. Gói equity co rủi ro cao nhất nên sẽ hưởng nhiều lợi nhuận nhất và ngước lại, gói
super có rủi ro thấp nhất nên sẽ hưởng ít lợi nhuận hơn các gói còn lại


4. Trái khốn nợ có bảo đảm (The Collateralized Debt Obligations (CDO))

CMO thỏa mãn được nhu cầu cơ bản của nhóm đầu tư với những khả năng chịu đựng
rủi ro khác nhau. Cùng vào thời gian này, khoa học tài chính tiếp tục phát triển hết sức
phức tạp. Cùng với những khoản nợ có thế chấp, bây giờ nhóm các tài sản bảo đảm cũng
bao gồm một số lượng lớn những khoản vay của cơng ty, những khoản vay mua ơ tơ, thẻ
tín dụng , thậm chí là cả các khoản nợ LBO. Các khoản vay này còn được gọi là CDO.
Cấu trúc của nó hết sức phức tạp. Các khoản bảo đảm thì khơng đồng nhất. Các gói được
chia nhỏ theo một sắp xếp phức tạp các tiêu chuẩn thanh tốn. Mỗi gói có những đặc
điểm và những rủi ro khác nhau.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Chính sự phức tạp này đòi hỏi việc cấu trúc cần phải được thực hiện. Và nhiệm vụ
này khơng chỉ thuộc về những nhân viên ngân hàng mà còn là nhóm các chun gia, tiến
sĩ Tốn học, thống kê và các kĩ sư tài chính. Một sự thiết lập cấu trúc đã được chạy trên
một máy chủ trong suốt cuối tuần để hồn thành

V. BÚNG NỔ KHỦNG HOẢNG VAY DƯỚI CHUẨN

Các ngân hàng thương mại và những nhà mơi giới vay dưới chuẩn đã thực hiện các
khoản cho vay ban đầu, sau đó đưa chúng đến các ngân hàng đầu tư để chuyển hóa thành
MBS, CMO, CDO
Các ngân hàng thương mại thì vui mừng khi đưa các tài sản ra ngồi bảng cân đối kế
tốn bằng cách bán các khoản vay. Họ tránh được gánh nặng vì nắm giữ lượng dự trữ vốn
theo điều khoản của Hiệp ước Basel I. Do vậy, đối với các quỹ đã thực hiện theo đấy có
thể được sử dụng để tiến hành cho vay hay đầu tư nhiều hơn. Một vài ngân hàng đã giữ
lại phần lời để trả lãi các chứng khốn vay thế chấp, do vậy có thể thu được những khoản
phí dịch vụ đáng kể.
Phần lớn các CMO và CDO được bán cho các quỹ bảo hiểm. Vì đội ngũ khách hàng
khá phức tạp nên các quỹ bảo hiểm được quy định một cách khá lỏng. Họ khơng phải đưa
ra các báo cáo tài chính và ít người thì biết về các chiến lược đầu tư của họ. Nhưng khách

hàng của hình thức tài chính kỳ lạ này trải rộng khắp tồn cầu, ở cả Châu Âu, Châu Á
(đặc biệt là Trung Quốc) và cả ở Trung Đơng
Vào tháng 8/2007, giá nhà đã ngừng tăng và bắt đầu giảm. Một lý do chính là do
chính sách tiền tệ thắt chặt đã đẩy lãi suất cao lên. Như một quy luật trong tài chính
doanh nghiệp, khi lãi suất thị trường tăng, giá trị của các chứng khốn thu nhập cố định
sẽ giảm đáng kể. Trong khi đấy, Các danh mục đầu tư của các quỹ bảo hiểm được lấp
đầy bởi các CMO và CDO và Giá trị của chúng bắt đầu giảm. Điều này khiến Các nhà
đầu tư u cầu trả lại tiền cho họ. Các quỹ bảo hiểm thiếu sự thanh khoản và phải tạm
ngưng các đặc lợi. Một tâm lý hoang mang bao trùm kháp thị trường. Giá trị của những
danh mục đầu tư này càng giảm mạnh
Các ngân hàng đầu tư đã nhận thấy việc kinh doanh chứng khốn hóa đang “trở nên
cạn dần” vì sự giảm sút khối lượng các khoản vay thế chấp mới. Chính bản thân họ cũng
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
đã thực hiện những vụ đầu tư lớn vào các chứng khốn này trong suốt thời kì bùng nổ khi
mà lợi nhuận rất lớn. Bây giờ, các vụ đầu tư này đã giảm giá trị gây ra những thua lỗ
trong bảng cân đối kế tốn.
Khi mà thị trường trở nên ngày càng yếu, nhiều tổ chức đã cố gắng để tháo gỡ.Những
khó khăn đẫn đến các vấn đề liên quan đến tính thanh khỏan . Thiếu tính lỏng đồng nghĩa
với việc có ít hoặc khơng tồn tại người mua. Theo ngơn ngữ của thương mại thì thị
trường thưa thớt. Hơn nữa, trong một thị trường thưa thớt, ít giao dịch được thực hiện và
giá trị thị trường của nhiều chứng khốn khơng thể được xác định một cách khách quan.
Do vậy, thất bại trong việc định giá. Sự khơng chắc chắn này dẫn đến một sự đóng băng
các giao dịch và thị trường bị tê liệt
Theo dõi những gì đã diễn ra thì tồn bộ q trình từ việc cho vay thế chấp ban đầu
đến đóng gói, phân phối và thu lời chỉ có thể được thực hiện trong một mơi trường lãi
suất thấp, tính lỏng cao và một niềm tin mãnh liệt vào thị trường. Sẽ có một dòng người
mua khơng ngớt đổ vào thị trường để lái nó tiến lên. Sau đó, Những người bán có thể kết
thúc với một khoản lợi nhuận để quay lại một chu trình giao dịch khác.
Tương tự như trong trò chơi “music chairs”, nhạc dừng là một thời gian nguy hiểm.
Vào tháng 8/2007, nhạc đã dừng (hoặc ít nhất đã yếu hơn) trên thị trường nhà ở. Những

nghi ngờ về giá trị của tât cả các khoản bảo đảm ưu đãi (underlying collateral )bắt đầu
xuất hiện. Q trình định giá tài sản sụp đổ. Thị trường mất phương hướng và khả năng
vận hành

VI. NHỮNG TÁC ĐỘNG BẤT LỢI TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

1. Quỹ Bảo hiểm

Điều đầu tiên có thể nhận thấy là sự thắt chặt tín dụng. Các quỹ này nắm lượng lớn
các CMO và CDO. Hơn nữa, chúng có tính chất như 1 lực đòn bẩy. Với mỗi đơ la nhận
từ những nhà đầu tư của nó, một quỹ bảo hiểm có thể mượn thêm 29 đơ la để đầu tư, kết
quả là được “đòn bẩy” lên 30 lần. Những khoản vay mượn này (hầu hết là từ các ngân
hàng thương mại và ngân hàng đầu tư) thì được thế chấp bởi các doanh mục đầu tư chứng
khốn của họ. Khi các khoản bảo đảm này bắt đầu giảm giá trị, những lệnh gọi kí quỹ
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
(margin calls) được thực hiện.Đó là lý do tại sao vào đầu tháng 8/ 2007, 2 quỹ bảo hiểm
Bear Stearns đã gặp phải những vấn đế liên quan đến tính thanh khoản. Những khó khăn
tương tự cũng đã xảy ra với các quỹ của BNP (Banque Nationale Paribas) hay Lehman
Brothers
Đầu năm 2008, nhiều quỹ ở Mỹ và EU đã phá sản và “cuốn theo” vốn của các nhà
đầu tư. Sự sụp đổ “nghiêm trọng” nhất là của Carlyle Capital Inc, một cơng ty con của
tập đồn Carlyle.

2. Ngân hàng

Nhiều tổ chức tài chính (gồm có Citigroup, Goldman Sachs, Bank of America) đã
thiết lập các tổ chức gọi là các sản phẩm đầu tư được cấu trúc SIV (Structured Investment
Vehicles). Những tài sản rủi ro (hầu hết liên quan đến vay thế chấp) thì được chuyển giao
đến các SIVs này, sau đó SIVs đã thâm nhập vào thị trường thương phiếu tìm nguồn tài
chính. Khi các chứng khốn thế chấp (mortgage securities) “rơi tự do”, thị trường thương

phiếu đã mất 300 tỷ đơ la vào cuối năm 2007. Nhiều SIVs khơng thể làm mới lại các
thương phiếu của họ ( nợ ngắn hạn, được gia hạn hằng ngày hoặc hàng tuần)
Vào tháng 11/2007, một kế hoạch cứu nguy đã được đưa ra bởi một nhóm hợp tác
giữa các ngân hàng lớn với sự ủng hộ hồn tồn từ Fed. Một quỹ sẽ được thiết lập, với số
vốn là 80 tỷ đơ la. Quỹ này sẽ mua các chứng khốn nợ từ SIV với mức giá thấp hơn, làm
tăng tính thanh khoản và hạn thiểu rủi ro trong bản cân đối kế tốn của họ. Do vậy thị
trường có thể được hồi sinh. Những cuộc đàm phán giữa các ngân hàng kéo dài “lê thê”
hàng tháng trong khi thị trường đã trở nên xấu hơn rất nhiều

Cuối cùng, kế hoạch cứu nguy này đã bị ngừng lại vào cuối năm 2007,và mỗi ngân
hàng tự giải quyết vấn đề theo cách riêng của mình. Đã khơng có sự lựa chọn nào khác
ngồi việc chuyển các tài sản SIV của họ về lại “bảng cân đối kế tốn của họ”. Kết quả là,
từng ngân hàng đã thơng báo những sự thua lỗ nặng khi họ định giá lại các danh mục đầu
tư của họ

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Các ngân hàng đầu tư đã sử dụng những mơ hình máy tính để tính tốn giá trị của các
chứng khốn phức tạp hay khơng được giao dịch thường xun. Những mơ hình như thế
này đã giảm nhẹ các điều kiện thị trường đang tồi tệ hơn

Một câu hỏi được đặt ra là tổng giá trị thua lỗ cuối cùng là bao nhiêu sau khi sự đánh
giá lại đã hồn tất. Nhiều sự phỏng đốn khác nhau đã được đưa ra. Theo IMF thì giá trị
thua lỗ của tất cả các khoản vay cầm cố ở mức 495 tỷ đơ la. Nếu tính thêm cả các hình
thức nợ khác ( vay bất động sản, khoản nợ đồn thể, những khoản vay LBO ) thì con số
này là 945 tỷ đơ la

Dú ít hay nhiều thì các ngân hàng trên thế giới đều bị ảnh hưởng. Trong đó phải kể
đến Citigroup, BofA, Lehman Brothers. Ở châu Âu, UBS (Union des Banques Suisses )
thua lỗ nhiều nhất .Và điều này đã dẫn đến những thay đổi trong hệ thống quản lý ở một
vài ngân hàng. Phải kể đến là việc các giám đốc điều hành của Merrill Lynch (Stanley

O’Neil), Citigroup (Chuck Prince) và UBS (Marcel Ospel) đã phải “rời ghế” ra đi. Ở một
cấp độ thấp hơn thì những nhân viên chịu trách nhiệm về mảng quản trị rủi ro hay về
mảng các chứng khốn nợ cũng bị sa thải hay được u cầu nghỉ hưu sớm

3. Tổ chức tiền tệ có thẩm quyền

Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) hồn tồn ủng hộ kế hoạch cứu nguy được đề cập ở
phần trên bởi vì nó đại diện cho một giải pháp mang tính cá nhân đối với vấn đề của nó.
Tuy nhiên, khi mà kế hoạch thất bại, Fed dường như “bị ép buộc” để phải tự hành động.
Nó đã tiến hành cắt giảm lãi suất nhiều lần, từ 5.25% vào tháng 8/2007 xuống còn 2%
vào tháng 4/2008 . Sau đó, Fed đã tun bố tạm dừng giảm lãi suất, cùng với kiểm sốt
những tác động của nó tới thị trường
Fed đã bơm vào một lượng lớn tiền vào lưu thơng thơng qua nghiệp vụ thị trường mở
của chứng khốn kho bạc
Fed đã tổ chức các chương trình đấu giá cho vay kì hạn (Term Auction Facility) để
các ngân hàng có thể đấu giá các nguồn tài chính một cách bí mật, do vậy tránh được sự
phản đối vì cần q nhiều tiền mặt
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Điều này đã khuyến khích các ngân hàng thương mại vay mượn một cách tùy tiện từ
“Cửa số chiết khấu” bằng cách nới lỏng loại kí quỹ, do vậy cũng bao gồm các chứng
khốn nợ như một hình thức ký quỹ
Vào tháng 3/2008, Fed đã cứu Bear Stearns khỏi bị phá sản và đã sắp xếp để J.P.
Morgan Chase mua lại Bear Stearns. Để giao dịch này diễn ra thuận lợi hơn, Fed cùng
với Bộ trưởng Bộ Tài chính Henry Paulson đã cho Bear Stearns vay 29 tỷ đơ la. Do vậy,
để cứu một ngân hàng tư nhân Fed đã khiến tiền thuế và bảng cân đối kế tốn của nó bị
rủi ro. Fed cũng đã mở “Cửa số chiết khấu” đối với các ngân hàng đầu tư và các cơng ty
mơ giới chứng khốn..Đây là một quyết định chưa từng có bởi vì Fed giới hạn việc cho
vay chỉ đối với những ngân hàng thành viên ( Các ngân hàng thương mại và các tổ chức
huy động tiền gửi khác). Những ngân hàng đầu tư chưa bào giờ là thành viên của Fed kể
từ khi nó thành lập vào năm 1913. Sự thay đổi trong quy định của Fed đòi hỏi một cuộc

bỏ phiếu tàn thành của Hội đồng. Một cuộc họp khẩn cấp đã được triệu tập vào cuối tuần
và chỉ có 5/7 thành viên tham gia, trong đó có 3 phiếu thuận
Sự cứu nguy bất ngờ của Fed đối với Bear Stearns và việc can thiệp sâu của cả Fed và
Bộ Tài Chính ngay lập tức tạo ra sự “bình ổn” trên thị trường
Một mạng lưới an tồn thì đang được thiết lập lại. Chính phủ Mỹ sẽ thực hiện những
“bước đi” cần thiết nhằm ngăn ngừa sự đổ vỡ của hệ thống tài chính Mỹ- “Một sự đổ vỡ
có thể làm suy yếu hệ thống tài chính tồn cầu” . Và Bài học từ cuộc Đại Khủng hủng
1933 đã khơng bị qn lãng. Ngun nhân của thảm họa đó chính là do sự sụp đổ của
tồn hệ thống

4. The SEC

Những tổ chức điều tiết, trước hết là Ủy ban Chứng khốn và Sàn giao dịch.thì bị phê
bình nghiêm khắc vì bỏ qua nhiều dấu hiệu cảnh báo nguy hiểm về tình trạng của các tổ
chức tài chính.
Nhiệm vụ của nó là giám sát các ngân hàng đầu tư, cơng ty mơ giới và các quỹ bảo
hiểm. Nó đã chỉ ra những sự vượt q giới hạn xấu nhất xảy ra trong những tổ chức này.
Các ngân hàng đầu tư đã cung cấp những mơ hình tốn học nhằm cải tiến các sản
phẩm tín dụng càng ngày càng phức tạp hơn. Và đội ngũ các chun gia tốn học của họ
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

×