Mở đầu
B
Bảo hiểm là một dịch vụ tài chính rất phát triển trong nền kinh tế thị trờng,
ngành kinh doanh bảo hiểm đã có vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
ở các nớc kinh tế phát triển ngành kinh doanh bảo hiểm đóng góp từ 5% tới 10%
GDP của các nớc đó.
Từ khi nền kinh tế nớc ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế
thị trờng, ngành kinh doanh bảo hiểm cũng có sự phát triển vợt bậc. Sự tăng trởng
của ngành bảo hiểm đạt bình quân 40%/ năm trong những năm 1990 - 1995 và từ
1996 - 2000 đạt mức độ tăng trởng 25%. Cũng từ khi chuyển đổi nền kinh tế ở nớc
ta, các công ty, doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất từ đợc bao cấp chuyển thành tự túc,
tự chịu trách nhiệm về tài sản và quá trình kinh doanh của mình do đó nếu xảy ra sự
tổn thất lớn có thể đi đến phá sản.
Trong đời sống, lao động cũng nh sản xuất kinh doanh dù đã chú ý ngăn ngừa
đề phòng và hạn chế rủi ro tổn thất nhng rủi ro có thể xảy ra bất kỳ lúc nào và bất cứ
ở đâu. Hoả hoạn cũng là một rủi ro có tác hại ghê gớm đến con ngời. Con ngời cũng
đã tìm ra nhiều biện pháp khắc phục những thiệt hại do hoả hoạn gây ra nh: lập đội
cứu hoả, lắp đặt hệ thống bình chống cháy, tham gia Bảo hiểm hoả hoạn... trong đó
bảo hiểm đợc xem là biện pháp hữu hiệu nhất. Bảo hiểm ra đời cùng với sự phát triển
của xã hội, đã trở thành tập quán phục vụ cho các nhu cầu của con ngời và ngày
càng trở nên đa dạng hơn về các nghiệp vụ bảo hiểm, một trong số đó có nghiệp vụ
Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh.
ở Việt Nam bảo hiểm hoả hoạn là nghiệp vụ khá mới mẻ đợc triển khai từ cuối
năm 1989 nhng nó đã sớm chứng tỏ đợc tầm quan trọng của mình trong các hoạt
1
động bảo hiểm. Đây là loại hình hết sức phong phú và phức tạp do đối tợng áp dụng
của loại hình này rất phong phú, đa dạng và là những tài sản có giá trị lớn. Vì vậy,
nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn cần phải áp dụng những nguyên tắc cơ bản chính xác
đối với từng loại tài sản, từng đơn vị rủi ro và đòi hỏi tính kỹ thuật cao trong các
công đoạn và trong cách tính phí.
Đây cũng là mối quan tâm lớn đến các doanh nghiệp Việt Nam. Vấn đề nghiên
cứu, cải tiến, áp dụng và triển khai các loại hình bảo hiểm mới đang trở thành một
trong những chiến lợc quan trọng mà các công ty bảo hiểm sử dụng để cạnh tranh
trên thị trờng.
Đối với những cán bộ bảo hiểm cũng nh những ai đang nghiên cứu, học tập trên
lĩnh vực này, nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh đã
không còn xa lạ. Tuy nhiên làm thế nào để hiểu thấu đáo tờng tận cơ sở lý luận và
thực tế triển khai loại hình này cho phù hợp với điều kiện Việt Nam mà vẫn đáp ứng
nhu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của các doanh nghiệp và mọi ngời dân là câu
hỏi lớn đặt ra với tất cả các công ty bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam. Chính vì vậy,
em lựa chọn vấn đề Bảo hiểm hoả hoạn và Gián đoạn kinh doanh làm đề tài
nghiên cứu. Mục đích của đề tài nhằm tập hợp hệ thống hoá các nguyên tắc lý luận
đợc áp dụng chung trong hai loại hình Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh
sau cháy.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu đề tài đợc chia thành 4 chơng bao gồm:
Chơng I: Sự cần thiết và lịch sử phát triển của Bảo hiểm hoả hoạn và gián
đoạn kinh doanh.
Chơng II: Những vấn đề cơ bản của Bảo hiểm hoả hoạn
Chơng III: Một số vấn đề cơ bản của bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh
2
Chơng IV: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lợng và hiệu quả hoạt
động kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh ở Công ty Bảo
hiểm Hà Nội
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đề tài này em nhận đợc sự giúp đỡ tận
tình thiết thực của thầy giáo PGS -TS Hồ Sỹ Sà và một số cán bộ công tác tại phòng
Bảo hiểm hoả hoạn và phòng Rủi ro kỹ thuật thuộc công ty bảo hiểm Hà Nội. Em
xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn về sự giúp đỡ quý báu đó.
Bài viết chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những khiếm khuyết trong biên tập
cũng nh trong trình bày. Rất mong sự góp ý và phê bình của những ai quan tâm đến
đề tài này.
3
Chơng I.
Sự cần thiết và lịch sử phát triển của Bảo hiểm hoả
hoạn và gián đoạn kinh doanh
I. Sự cần thiết của Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh
Trong cuộc sống lao động cũng nh sản xuất kinh doanh con ngời ta đã chú ý
ngăn ngừa đề phòng hạn chế tổn thất nhng rủi ro vẫn xảy ra ở bất kỳ lúc nào và bất
kỳ ở đâu. Hoả hoạn có tác hại ghê gớm đối với con ngời, do vậy con ngời đã nghiên
cứu và tìm ra nhiều biện pháp để đề phòng, ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục những
hậu quả đó. Tuy nhiên, rủi ro hoả hoạn nằm ngoài sự kiểm soát của con ngời, mỗi
khi xảy ra rủi ro hoả hoạn nó để lại hậu quả rất lớn ảnh hởng rất xấu đến quá trình
sản xuất kinh doanh và cả tính mạng con ngời mà các biện pháp hạn chế, ngăn ngừa
thông thờng không thể khắc phục nỗi. Một trong những biện pháp hữu hiệu là bảo
hiểm, cụ thể hơn nửa là bảo hiểm hoả hoạn, nó san sẽ rủi ro cho nhiều ngời do đó, từ
rủi ro lớn có thể biến thành những rủi ro nhỏ giúp cho các doanh nghiệp chẳng may
gặp rủi ro tổn thất giảm đợc gánh nặng.
Hoả hoạn xảy ra là do nhiều nguyên nhân. Các nguyên nhân cháy có thể là: Sơ
suất khi dùng lửa, sự cố điện, vi phạm nội quy phòng cháy, trẻ em nghịch lửa gây
cháy, sự cố thiết bị kỹ thuật, đốt do mâu thuẫn cá nhân, tai nạn giao thông, đốt phá
hoại, say rợu đốt... Trong các nguyên nhân đó phần lớn là do con ngời gây nên và
hậu quả của nó để lại không chỉ là những thiệt hại về ngời và tài sản mà còn làm mất
ổn định trật tự xã hội. Hàng năm theo thống kê thế giới có khoảng 5 triệu vụ cháy
lớn nhỏ gây thiệt hại hàng trăm tỷ đô la. Các vụ hoả hoạn không chỉ xảy ra ở các nớc
có nền kinh tế chậm phát triển mà còn ở cả những nớc có nền công nghiệp phát triển
nh: Anh, Pháp, Mỷ...
Nớc ta là một nớc nghèo, song các vụ cháy xảy ra cũng nhiều gây thiệt hại lớn
đến con ngời, tài sản, quá trình sản xuất kinh doanh và cả sự phát triển của đất nớc.
4
Hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển thì nhu cầu tập trung vật t,
hàng hoá ngày càng lớn, quy trình công nghệ ngày càng phức tạp và những loại máy
móc hiện đại sẽ đợc phổ biến hơn. Trong khi đó, khoa học kỹ thuật về an toàn thờng
đi sau, nguồn vốn sử dụng cho các biện pháp an toàn thờng rất thấp so với đầu t phát
triển sản xuất, thêm vào đó điều kiện tự nhiên ngày càng khắc nghiệt đã khiến cho
khả năng xảy ra rủi ro đã cao lại càng cao hơn, mức độ thiệt hại về ngời và của càng
nghiêm trọng hơn.
Chỉ tính riêng hoả hoạn, mỗi năm ở nớc ta đã xảy ra hàng nghìn vụ, làm chết và
bị thơng hàng trăm ngời, thiệt hại về tài sản hàng chục tỷ đồng. Có những vụ cháy đã
làm thiêu huỷ hàng trăm nóc nhà, toàn bộ khu chợ hoặc cả một cơ sở sản xuất kinh
doanh hàng chục tỷ đồng làm cho hàng nghìn ngời không có nhà ở, hàng nghìn hộ
kinh doanh phải điêu đứng vì mất hết hàng hoá, tiền của không còn chổ để kinh
doanh hoặc làm cho hàng trăm công nhân không có nơi để làm việc. Một số vụ cháy
trong những năm gần đây gây thiệt hại lớn nh:
Ngày 05/02/1993: Công ty Dệt Nha Trang bị cháy làm thiêu huỷ 3700m
2
Nhà
xởng, kho tàng, 350 tấn bông, 46 tấn vải và 11039 chiếc áo.
Ngày22/07/1993: Công ty liên doanh sản xuất giầy Hiệp Hng thành phố Hồ Chí
Minh bị cháy, thiệt hại 14 tỷ đồng.
Ngày 14/07/1994: Cháy chợ Đồng Xuân, thiệt hại ớc tính 147 tỷ đồng.
Ngày 18/01/1996: Cháy Công ty Giầy Thái Bình ở Sông Bé thiệt hại ớc tính 7
tỷ đồng.
Ngày 09/07/1997: cháy xí nghiệp sản xuất lông vũ thành phố Hồ Chí Minh
thiệt hại ớc tính 8 tỷ đồng.
Ngày 15/09/1998: cháy nhà máy Giày Đồng Nai thiệt hại ớc tính 12 tỷ đồng...
Chính vì vậy, phải có các biện pháp hữu hiệu để hạn chế thiệt hại do hoả hoạn
gây ra. Rủi ro hoả hoạn gây ra là không lờng trớc đợc. Nếu xảy ra cháy lớn thì đơn
5
vị phải đơng đầu với rất nhiều khó khăn để xây dựng, khôi phục lại kinh tế và thậm
chí có thể phá sản.
Làm sao để có thể đảm bảo đợc vốn sản xuất kinh doanh, đảm bảo đời sống
công ăn, việc làm cho ngời lao động, làm sao để ổn định đợc nhanh chóng và tiếp
tục hoạt động sau khi xảy ra hoả hoạn? Thực tế đã có nhiều biện pháp đợc sử dụng
nh: áp dụng các biện pháp an toàn trong sản xuất và sinh hoạt tuân thủ những nội
quy, quy định về an toàn; thành lập quỹ dự trữ để đề phòng hoả hoạn; sử dụng bình
chống cháy ở các công ty, khu công cộng... Trớc đây ở nớc ta có một vài công ty bảo
hiểm hoả hoạn hoạt động tại miền nam trong thời kỳ Pháp thuộc song sau năm 1975
do cơ chế bao cấp, Nhà nớc đứng ra bù đắp mọi thiệt hại, đảm bảo tài chính cho các
doanh nghiệp khi không may gặp rủi ro nên bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hoả
hoạn nói riêng không có cơ hội để phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế chuyển
sang nền kinh tế thị trờng các doanh nghiệp phải tự chủ về tài chính, thì tham gia
bảo hiểm tài sản mà cụ thể là Bảo hiểm hoả hoạn vẫn là phơng án tối u.
Theo quy tắc Bảo hiểm hoả hoạn đợc sử dụng hiện nay ở các công ty bảo hiểm
trong nớc, ngời tham gia bảo hiểm có thể đăng ký bảo hiểm cho những tài sản nh:
nhà cửa, trang thiết bị, hàng hoá, nguyên vật liệu của mình... ngoài cháy là rủi ro
chính họ còn có thể đăng ký cho các rủi ro phụ nh nổ, giông bão, động đất, lũ lụt, n-
ớc chảy hay rò rỉ, tràn từ bể chứa đờng ống hoặc thiết bị chửa cháy, xe cộ hay các
súc vật đâm vào... trong trờng hợp xảy ra tổn thất, các công ty bảo hiểm sẽ bồi thờng
cho những thiệt hại trực tiếp bởi các nguyên nhân kể trên và cả những chi phí cần
thiết hợp lý nhằm hạn chế tổn thất tài sản đợc bảo hiểm trong và sau khi cháy.
Tuy nhiên, cháy không chỉ gây thiệt hại trực tiếp đến con ngời và tài sản mà
còn để lại những tổn thất hậu quả khổng lồ cho các doanh nghiệp. Trên thực tế sau
khi cháy hoạt động sản xuất không thể phát triển theo kế hoạch kinh doanh đặt ra,
các doanh nghiệp sẽ mất khoản lợi nhuận do nhà xởng hay máy móc thiết bị h hại,
để tránh bị phá sản họ phải tiến hành các biện pháp khôi phục lại sản xuất, bên cạnh
việc chi trả tiền lơng cho cán bộ công nhân và các khoản chi phí cố định nh tiền thuê
nhà xởng, khấu hao, điện nớc, lãi suất ngân hàng... các doanh nghiệp còn phải chi
6
phí cho việc thuê thêm công nhân, làm việc thêm giờ để hoàn tất các đơn đặt hàng
còn tồn đọng... Rõ ràng các khoản chi phí này không đợc bồi thờng theo Đơn bảo
hiểm hoả hoạn.
7
Để đáp ứng đợc các khoản chi phí kể trên, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng các
quỹ dự trữ hoặc vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức cho vay khác, song các phơng
pháp này hoàn toàn bị thụ động. Một biện pháp hiện nay đang đợc áp dụng có hiệu
quả đó là tham gia bảo hiểm, cụ thể là bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Với loại
hình bảo hiểm này, các doanh nghiệp không chỉ đợc bồi thờng tài chính cho các
khoản chi nói trên mà còn đợc bù đắp phần lợi nhuận ròng bị mất mà lẽ ra họ đạt đ-
ợc nếu họ không xảy ra rủi ro tổn thất.
Nh vậy, có thể nói rằng cùng với Bảo hiểm hoả hoạn, bảo hiểm Gián đoạn kinh
doanh đã góp phần làm hạn chế tới mức tối thiểu những hậu quả ảnh hởng của các
rủi ro tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Bằng việc đóng những khoản phí rất nhỏ, thờng là một vài phần nghìn của giá
trị tài sản, ngời đợc bảo hiểm có thể đầu t tối đa và triệt để vốn nhàn rỗi cho phát
triển hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi họ không phải trích lập quỹ dự phòng trong
trờng hợp xảy ra rủi ro. Và quan trọng hơn, bên cạnh việc đợc bồi thờng khi xảy ra
rủi ro tổn thất, họ có đợc một tâm lý an tâm khi họ tiến hành công việc kinh doanh
của mình. Tham gia bảo hiểm các doanh nghiệp còn đợc các công ty bảo hiểm t vấn
về các biện pháp phòng tránh tổn thất, tăng cờng phòng cháy chữa cháy và thực hiện
các chính sách quản lý rủi ro nhằm đảm bảo sự an toàn cao nhất.
Bên cạnh việc mang lại lợi ích trên cho các doanh nghiệp, Bảo hiểm hoả hoạn
và gián đoạn kinh doanh cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát
triển nền kinh tế xã hội. Bởi vì thông qua việc hớng dẫn các doanh nghiệp thực hiện
các biện pháp an toàn, các công ty bảo hiểm đã góp phần hạn chế những tổn thất, tai
nạn giúp cho các khách hàng của họ có điều kiện thúc đẩy mỡ rộng sản xuất nh
mong muốn. Mặt khác, một phần không nhỏ nguồn phí bảo hiểm thu đợc từ hai loại
hình này đợc các công ty bảo hiểm đóng góp vào ngân sách Nhà nớc để chính phủ sử
dụng vào các mục đích phục vụ xã hội.
8
Qua đó ta thấy, bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh có tác
dụng rất to lớn đối với đời sống kinh tế của mọi ngời dân và quá trình phát triển đất
nớc. Nó có tác dụng đề phòng hạn chế các rủi ro xảy ra, tránh gây thiệt hại lớn. Bảo
hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh còn góp phần vào việc bảo vệ trật
tự an toàn xã hội và sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá phát triển đất nớc.
II. Lịch sử phát triển của Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh.
Hiệp hội Bảo hiểm hoả hoạn đầu tiên ra đời ở Đức năm 1591 có tên là
Feuercasse sau đó một thời gian ngắn đã xuất hiện một vài tổ chức khác nhng không
để lại dấu ấn gì lớn.
Mãi đến năm 1666, sau khi chứng kiến một đám cháy ở thủ đô London, ngời
dân Anh mới nhận thức đợc tầm quan trọng của việc thiết lập hệ thống phòng cháy
chữa cháy và bồi thờng cho những ngời bị thiệt hại. đám cháy lớn kéo dài 7 ngày 8
đêm đã để lại một tổn thất rất lớn, thiêu huỷ toàn bộ 13200 ngôi nhà, 87 nhà thờ
trong đó có cả trụ sở của Lloys và nhà thờ Saint Paul, thiêu huỷ gần nh toàn bộ
thành phố, đã kích thích sự ra đời của bảo hiểm cháy đầu tiên ở nớc Anh.
Đến năm 1667, văn phòng Bảo hiểm hoả hoạn đầu tiên ở nớc Anh đợc thành
lập với tên gọi rất đơn giản là: The Fire office. Ba năm sau đó một văn phòng cạnh
tranh khác là: The Friendly Societty cũng đợc thành lập. Hai văn phòng này đều
do t nhân sáng lập ra để bảo vệ nhà cửa, tài sản thoát khỏi thảm hoạ cháy. một số
công ty khác cũng theo đó ra đời, đáng chú ý là công ty: Hand in hand năm 1696
và Sun Fire office năm 1710 và vẫn hoạt động cho đến nay.
ở Mỹ, công ty bảo hiểm đầu tiên tiến hành thành công Bảo hiểm hoả hoạn là
một công ty tơng hỗ do Benjamim Frankin và một số thành viên khác sáng lập năm
1752, mang tên là: Philadelphia Contribution chuyên Bảo hiểm hoả hoạn cho nhà
cửa. Công ty bảo hiểm cổ phần đầu tiên ở Mỹ là công ty The Insuarance Company of
North American thành lập năm 1792.
9
Đến nay trên khắp thế giới, Bảo hiểm hoả hoạn đã phát triển mạnh mẽ và đã trở
thành nghiệp vụ truyền thống với số phí thu đợc hàng năm rất cao. ở Nhật doanh thu
phí bảo hiểm là1017008 triệu yên, chiếm khoảng 15,5% doanh thu phí bảo hiểm phi
nhân thọ.
Bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh ra đời muộn hơn nhiều so với Bảo hiểm hoả
hoạn. Cho đến những năm đầu thế kỷ 20, ở nớc Anh các công ty bảo hiểm mặc dù bị
sự thúc ép của Chính Phủ và yêu cầu của các nhà sản xuất, vẫn cha tiến hành bất cứ
loại hình bảo hiểm tổn thất hậu quả nào. Đó là do sự phức tạp trong việc phân tích
các chi phí tài chính, xác định phạm vị bảo hiểm trong điều kiện kinh tế chính trị cha
ổn định. Mãi tới hơn 80 năm sau sự ra đời của hai nguyên tắc: Herry Booth and
Commercial Union(1923) và Polikoff Ltd v.North British and Mercantile(1936) 55
LIL Rep.279 mới thực sự đặt nền móng cho bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh hình
thành và phát triển. Năm 1985, Giao dịch của bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh mới
xuát hiện ở Uỷ ban tổn thất do hậu quả, một bộ phận trong Uỷ ban của Bảo hiểm hoả
hoạn. Uỷ ban này là nơi đầu tiên cho ra đời bản mẫu về Đơn bảo hiểm Gián đoạn
kinh doanh. Mẫu đơn này đợc thông qua bởi tất cả các nhà bảo hiểm và đã đợc sử
dụng thử nghiệm ở một số nớc. Vào tháng 10/1989, hiệp hội những nhà bảo hiểm n-
ớc Anh (ABI) đã xem xét lại mẫu Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh nhng chỉ sửa
chữa nhỏ trong nội dung đơn và cách trình bày, không thay đổi về phạm vi bảo hiểm.
Sau khi thay đổi, tháng 3/1991, Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh đợc chính thức
phát hành. Mẫu Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh đã đợc sử dụng trong vài năm,
nó đã khẳng định đợc những điểm tích cực của nó, mẫu đơn này đã cung cấp một l-
ợng thông tin lớn về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, xác định đợc thời hạn
bồi thờng cũng nh nêu rõ về quyền hạn, trách nhiệm của ngời đợc bảo hiểm và ngời
bảo hiểm. Sự sửa chữa đó gần nh không ảnh hởng gì về mẫu đơn.
ở Việt Nam, nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn đợc triển khai từ cuối năm 1989,
theo quyết định số 06/TC-QĐ ngày 17/01/1989 của Bộ tài chính. Bảo hiểm hoả hoạn
đã đợc tiến hành ở hầu hết 61 tỉnh thành trong cả nớc. Tuy nhiên tài sản đợc tham
gia bảo hiểm mới chỉ là con số nhỏ bé của cả nớc. Và Bảo Việt cũng chỉ mới bảo
hiểm chủ yếu là các kho xăng, dầu, còn phần lớn các tài sản của các nhà máy, xí
nghiệp khách sạn, chợ... trị giá hàng tỷ đồng vẫn cha đợc bảo hiểm hết.
10
Thông t số 82/TC-CN ngày 31/12/1991 của Bộ tài chính hớng dẫn thực hiện chỉ
thị 332 HĐBT, về việc bảo toàn vốn kinh doanh đối với các doanh nghiệp Nhà nớc
ghi rõ: các doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm tài sản để tạo nguồn bù đắp cho
các thiệt hại ở các công ty bảo hiểm tại Việt Nam. Khoản chi về bảo hiểm ( phí bảo
hiểm) đợc hạch toán vào giá thành hoặc chi phí lu thông của doanh nghiệp. Nhà nớc
sẻ không ghi giảm vốn cho trờng hợp tài sản bị tổn thất vì những rủi ro mà các công
ty bảo hiểm trong nớc đã tiến hành triển khai những loại hình bảo hiểm tơng tự...
Nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm và cũng tạo ra sự cạnh tranh
lành mạnh tích cực trong thị trờng bảo hiểm và đồng thời tăng cờng sự quản lý của
Nhà nớc đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm để thúc đẩy sự nghiệp phát triển
kinh tế xã hội, Chính Phủ đã có nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 về việc kinh
doanh bảo hiểm theo đó hàng loạt công ty bảo hiểm đã đợc Bộ tài chính cho phép
thành lập tạo ra sự cạnh tranh gay gắt trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Thị tr-
ờng bảo hiểm nớc ta hiện nay đã có sự biến động lớn, sự cạnh tranh ngày càng diễn
ra gay gắt hơn cả đối với các công ty bảo hiểm trong và ngoài nớc. Nghiệp vụ Bảo
hiểm hoả hoạn sẽ là một trong những lĩnh vực dịch vụ mà các nhà bảo hiểm trong và
ngoài nớc đặc biệt quan tâm.
Khi mới triển khai nghiệp vụ, các công ty bảo hiểm chỉ bảo hiểm cho hậu quả
do cháy gây ra. Nhng do yêu cầu của ngời tham gia bảo hiểm, các công ty bảo hiểm
có thể bảo hiểm cho những thiệt hại gián tiếp gây nên từ những rủi ro đợc bảo hiểm
thông qua hợp đồng bảo hiểm phối hợp.
11
Chơng II
Những vấn đề cơ bản của Bảo hiểm hoả hoạn
I. Nội dung cơ bản của Bảo hiểm hoả hoạn
1. Những khái niêm cơ bản của Bảo hiểm hoả hoạn
Để thấy đợc các vấn đề của Bảo hiểm hoả hoạn, trớc hết cần phải hiểu đợc một
số khái niệm có liên quan theo quy định chung của quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và
các rủi ro đặc biệt của bộ tài chính ban hành theo quyết định 142/TCQB ngày
2/5/1991 sau đây:
a. Bảo hiểm hoả hoạn: là một loại hình bảo hiểm tài sản nhằm áp dụng đối với các
đơn vị xí nghiệp, các nhà máy,... thuộc mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế
Quốc dân. Giá trị Bảo hiểm hoả hoạn thờng rất lớn, khi rủi ro xảy ra tổn thất không
chỉ là một đơn vị nhỏ mà có khi là đối với toàn bộ tài sản.
b. Cháy: là phản ứng hoá học có toả nhiệt và phát ra ánh sáng.
c. Hoả hoạn: là cháy xảy ra không kiểm soát đợc ngoài nguồn lửa chuyên dùng gây
thiệt hại cho tài sản và ngời ở xung quanh.
d. Đơn vị rủi ro: là nhóm tài sản tách biệt khỏi nhóm tài sản khác với khoảng cách
không cho phép lửa từ nhóm này lan sang nhóm khác (tuy nhiên khoảng cách gần
nhất không dới 12m ).
Đơn vị rủi ro có thể là một hay một nhóm ngôi nhà hoặc kho bãi ngoài trời
trong một khu vực không bị tách rời nhau bởi các khoảng trống hoặc các cấu trúc
xây dựng, chống cháy nhng lại tách rời các ngôi nhà khác về không gian.
Ngôi nhà đợc coi là rời nhau về không gian khi khoảng trống phân cách giữa
hai khối nhà ít nhất bằng chiều cao của ngôi nhà cao hơn khoảng cách tối thiểu quy
định.
12
Khoảng cách tối thiểu quy định mà các công ty bảo hiểm thờng dùng để triển
khai nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn nh sau:
- Giữa các kho bãi ngoài trời có chứa nguyên vật liệu dễ cháy là 20m.
- Giữa các ngôi nhà trong đó có chứa hay gia công các vật liệu dễ cháy với các
ngôi nhà khác là 15m.
- Các đối tợng khác là 10m.
Tờng ngăn cách đơn vị rủi ro là cấu trúc xây dựng để phân chia ngôi nhà thành
từng đơn vị rủi ro. Do ý nghĩa về mặt kỹ thuật chống cháy và kỹ thuật bảo hiểm đặt
ra đối với các loại tờng này cao hơn so với tờng chống cháy. Các tờng ngăn cách này
phải là tờng chịu cháy cấp F 180A và chịu đợc 4.000Nm với nhiệt độ lớn hơn 1000
độ C.
e. Tổn thất toàn bộ:
- Tổn thất toàn bộ thực tế: là tài sản đợc bảo hiểm bị phá huỷ hoặc bị h hỏng hoàn
toàn hoặc số lợng còn nguyên nhng giá trị không còn gì.
- Tổn thất toàn bộ ớc tính: là tài sản đợc bảo hiểm bị phá huỷ hoặc h hỏng đến mức
nếu sửa chữa phục hồi thì chi phí sửa chữa phục hồi bằng hoặc lớn hơn số tiền bảo
hiểm.
2. Đặc điểm của cháy và Bảo hiểm hoả hoạn
Bảo hiểm hoả hoạn thuộc loại hình bảo hiểm tài sản nhằm áp dụng đối với các
nhà máy, xí nghiệp khách sạn thuộc mọi thành phần kinh tế, giá trị đợc bảo hiểm th-
ờng rất lớn khi rủi ro xảy ra thì tổn thất không chỉ là một đơn vị nhỏ mà có khi là
toàn bộ tài sản.
Do đó bảo hiểm hoả hoạn có các đặc điểm sau:
- Hoả hoạn là cháy xảy ra không kiểm soát đợc ngoài ngọn lửa chuyên dùng và gây
thiệt hại về tài sản và những ngời xung quanh.
13
- Hoả hoạn lan rất nhanh, hoả hoạn thực chất là phản ứng hoá học có toả nhiệt và
phát sáng.
- Hoả hoạn có thể kiểm soát đợc nếu con ngời có biện pháp đề phòng và nhanh
chóng xử lý bằng các biện pháp hữu hiệu khác nhau. Chính vì vậy mà công tác đề
phòng và hạn chế tổn thất trong nghiệp vụ này rất quan trọng.
- Các loại tài sản khác nhau có thể xảy ra hoả hoạn ở mức độ khác nhau và thời
điểm khác nhau.
- Hoạt động của nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn mang tính kỹ thuạt cao, đặc điểm
này đợc thể hiện rõ qua cách xác định và phân chia các đơn vị rủi ro, cách tính phí
công tác giám định, đề phòng hạn chế tổn thất.
Vì bảo hiểm hoả hoạn có các đặc điểm nh trên nên việc các đơn vị sản xuất
kinh doanh tham gia bảo hiểm là tất yếu, có nh vậy mới ổn định đợc kinh doanh và
bảo toàn đồng vốn.
Bảo hiểm hoả hoạn chính là sự bảo trợ cho những tổn thất trực tiếp do hoả hoạn
gây nên. Ngoài ra trong thực tế khi xảy ra hoả hoạn có thể phát sinh các tổn thất gián
tiếp, các tổn thất gây ra cho tài sản của ngời thứ ba và thuộc trách nhiệm của ngời
bảo hiểm nh thiệt hại về kinh doanh, thiệt hại gây ra cho ngời thứ ba...
3. Đối tợng của Bảo hiểm hoả hoạn
Đối tợng của Bảo hiểm hoả hoạn bao gồm những tài sản có khả năng gặp rủi ro
cháy, thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp pháp của các đơn vị sản xuất kinh doanh,
dịch vụ, các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội.
Các công ty bảo hiểm thờng chia các đối tợng của bảo hiểm hoả hoạn ra nh
sau:
- Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đa vào sử dụng (trừ đất đai).
- Máy móc thiết bị, phơng tiện lao động phục vụ sản xuất kinh doanh.
- Sản xuất vật t, hàng hoá dự trữ trong kho.
- Nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm và thành phẩm trên dây chuyền
sản xuất.
14
- Nhà cửa dân dụng
- Các nhà hàng, khách sạn
- Chợ và siêu thị
- Các hệ thống kho tàng
- Tài sản của hai ngành nông nghiệp và lâm nghiệp. Đối với đối tợng này thờng các
công ty bảo hiểm rất hiểm khi nhận bảo hiểm vì rất khó có thể quản lý và kiểm soát
rủi ro.
Việc phân loại nh trên giúp cho các công ty bảo hiểm đánh giá và quản lý rủi ro
đợc chính xác hơn, tính phí bảo hiểm chính xác và phù hợp hơn. đặc biệt giúp cho
chủ tài sản và các công ty bảo hiểm xác định phơng án phòng cháy chữa cháy có
hiệu quả.
4. Những rủi ro đợc Bảo hiểm hoả hoạn và những rủi ro loại trừ
4.1. Rủi ro đợc bảo hiểm
Rủi ro là những sự cố không chắc chắn xảy ra nhng có thể gây h hỏng, thiệt hại
cho đối tợng đợc bảo hiểm. Trong Bảo hiểm hoả hoạn, rủi ro đợc bảo hiểm bao gồm:
a. Rủi ro cơ bản
Rủi ro cơ bản bao gồm: cháy, nổ, sét.
- Cháy: đợc quy định có gây ra tổn thất, có ngọn lửa, có sự tự phá huỷ nhng ngoại
trừ nguyên nhân gây ra cháy là động đất, núi lửa phun hoặc các biến động khác của
thiên nhiên và các thiệt hại gây ra do tài sản tự toả nhiệt hoặc chịu tác động của quá
trình xử lý có dùng nhiệt. Ngoài ra, bất kỳ thiệt hại nào gây nên bởi hoặc do hậu quả
của việc đốt rừng, bụi cây, đồng cỏ, hoặc đốt cháy với mục đích làm sạch ruộng
đồng, đất đai dù là ngẫu nhiên gây ra cũng không đợc bồi thờng.
- Sét: chỉ có tác động của tia chớp và tài sản đợc bảo hiểm. Chỉ có những thiệt hại
trực tiếp do tia sét gây ra hoặc làm biến dạng hoặc gây ra hoả hoạn cho tài sản đó
mới đợc bồi thờng.
15
- Nổ: là hiên tợng cháy xảy ra cực nhanh, tạo ra hoặc giải phóng một áp lực lớn
kèm theo một tiếng động mạnh, phát sinh bởi sự giản nở nhanh và mạnh của các
chất lỏng, chất rắn và chất khí. Các rủi ro này chỉ đợc bảo hiểm trong trờng hợp nổ
nồi hơi và hơi đốt phục vụ sinh hoạt.
Ngoài ra, còn các thiệt hại vật chất không phải do cháy trực tiếp gây nên nh:
+ Thiệt hại tài sản đợc bảo hiểm do phơng tiện hoặc do biện pháp cứu cháy gây ra
nh đổ tờng hoặc rào chắn do đội cứu hoả hoặc các phơng tiện của họ gây ra trong
quá trình chữa cháy.
+ Thiệt hại tài sản do mất cắp trong khi hoả hoạn mà ngời bảo hiểm không minh
chứng đợc là mất cắp.
Những rủi ro này đợc gọi là rủi ro mở rộng không tính phí.
b. Rủi ro phụ
Bên cạnh các rủi ro cơ bản, còn có các rủi ro đặc biệt, độc lập không nằm trong
rủi ro cháy nhng có thể lựa chọn để bảo hiểm cùng với Bảo hiểm hoả hoạn nhờ việc
mở rộng đối tợng bảo hiểm. Chỉ có bảo hiểm cho những rủi ro cơ bản mới có thể bảo
hiểm cho những rủi ro phụ. Những rủi ro phụ bao gồm:
- Máy bay và các phơng tiện hàng không hoặc các tài sản của các phơng tiện đó rơi.
- Động đất núi lửa phun bao gồm cả lụt và nớc biển tràn do hậu quả của động đất và
núi lửa phun.
- Giông bão, lũ lụt, ma đá.
- Vỡ hay tràn nớc từ bể chứa nớc, thiết bị chứa nớc hay đờng ống dẫn nớc nhng loại
trừ tài sản bị phá huỷ hay h hại do nớc chảy, rò rỉ từ hệ thống thiết bị phòng cháy
chữa cháy tự động.
- Gây rối, đình công, bãi công, sa thải.
16
4.2. Những rủi ro không đợc bảo hiểm
Đây là loại rủi ro phải đợc cụ thể hoá trong văn bản, hợp đồng vì phần loại trừ
thờng hay gây ra tranh chấp giữa ngời tham gia với ngời bảo hiểm do liên quan đến
quyền lợi của mỗi bên. Những rủi ro loại trừ đợc các công ty bảo hiểm quy định nh
sau:
- Các thiệt hai do nổi loạn, lao động dân sự, quần chúng nổi dậy, bãi công, sa thải
công nhân viên chức, chiến tranh xâm lợc, các hành động thù địch của nớc ngoài,
chiến sự nổi loạn, nội chiến khởi nghĩa, cách mạng binh biến, bạo động, đảo chính,
khủng bố...
- Những rủi ro do hoạt động cố ý hoặc đồng loã của ngời đợc bảo hiểm.
- Bất kỳ tổn thất nào trực tiếp hay gián tiếp mà nguyên nhân gây ra có liên quan đến
phóng xạ và các tính chất thuộc phóng xạ.
- Những thiệt hại về tiền bạc, kim loại quý, đá quý, chứng khoán, th bảo lãnh, tem
phiếu, tài liệu, bản thảo sổ sách kinh doanh, bản mẫu, văn bằng, khuôn mẫu, bản vẽ,
tài liệu thiết kế... trừ khi đợc xác định cụ thể là chúng đợc bảo hiểm theo Đơn bảo
hiểm hoả hoạn.
- Những tổn thất hàng hoá nhận uỷ thác hay ký gửi trừ khi những hàng hoá này đợc
xác nhận trong Giấy chứng nhận là đợc bảo hiểm và nộp thêm phí theo tỷ lệ quy
định.
- Những thiệt hại về ngời, động vật hay thực vật sống.
- Những thiệt hại có tính chất hậu quả xảy ra sau hoả hoạn dới bất kỳ hình thức nào,
cụ thể: gián đoạn kinh doanh, mất thu nhập, ô nhiễm môi trờng.
- Những thiệt hại do chất nổ trừ xăng dầu.
- Những tài sản bị mất cắp, bị cớp trong khi xảy ra hoả hoạn.
- Những thiệt hại gây ra cho ngời thứ ba.
17
- Những thiệt hại thuộc phạm vi mức miễn thờng. Mức miễn thờng đợc các công ty
bảo hiểm trên thế giới quy định nh sau: mức miễn bồi thờng bắt buộc là 2% so với
tiền bảo hiểm nhng tối thiểu không dới 1000$/vụ, tối đa không quá 2000$/vụ.
Tuy vậy, những thiệt hại về thuê nhà cũng đợc bảo hiểm hoả hoạn bồi thờng
nhng phải có giấy tờ hợp lệ.
5. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
5.1. Giá trị bảo hiểm
Để xác định đợc số tiền bảo hiểm trớc hết cần phải xác định đợc giá trị bảo
hiểm. Giá trị bảo hiểm là giá trị của tài sản cần đợc bảo hiểm. Giá trị này có thể là
giá trị thực tế hoặc giá trị mua mới của tài sản.
Giá trị mua mới của tài sản đợc xác định tại thời điểm khi tài sản đó bắt đầu đa
vào sử dụng, hoạt động.
Giá trị thực tế của tài sản bảo hiểm là giá trị đợc xác định, đánh giá tại thời
điểm mua bảo hiểm.
Đối tợng bảo hiểm hoả hoạn rất rộng và phức tạp, mỗi đối tợng tại một thời
điểm có giá trị khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn tài sản đợc bảo hiểm hoả hoạn có giá
trị rất lớn nh: Nhà cửa, công trình, máy móc thiết bị, phơng tiện vận tải, hàng hoá vật
t trong kho, thiết bị văn phòng, các trạm xăng dầu, cây xăng ...cho nên khi xác đinh
giá trị bảo hiểm phải tuỳ thuộc vào từng loại tài sản, thông thờng ngời ta sử dụng các
loại giá trị sau đây:
- Giá trị mới (giá trị ban đầu): là giá trị của tài sản tại thời điểm mua mới hoặc tại
thời điểm bắt đầu đem vào sử dụng . Giá trị mới bao gồm: nguyên giá + chi phí vận
chuyển + chi phí lắp đặt chạy thử.
- Giá trị thực tế: giá trị thực tế của tài sản đợc đánh giá tại thời điểm ngời sử dụng,
ngời sở hữu tham gia tham gia cho tài sản đó.
Tuy nhiên, trong bảo hiểm hoả hoạn thờng chỉ bảo hiểm theo giá trị còn lại.
18
Khi tính giá trị bảo hiểm trong bảo hiểm hoả hoạn có nhiều loại tài sản không
thực hiện đợc bởi vì nó là vô giá, ví dụ nh: công trình kiến trúc, viện bảo tàng, vật kỷ
niệm, vật chứng lịch sử... Đặc biệt có một số loại tài sản là hàng hoá lu trử trong các
kho biến động liên tục theo thời gian.
Tuy vậy, có thể xác định giá trị của một số tài sản nh sau:
- Giá trị bảo hiểm của ngôi nhà ( nhà xởng, văn phòng, nhà ở) đợc xác định theo giá
trị mới hoặc giá trị còn lại.
+ Giá trị mới: là giá trị mới xây của ngôi nhà bao gồm cả chi phí khảo sát thiết kế để
xây dựng ngôi nhà đó.
+ Giá trị còn lại: là giá trị mới trừ đi hao mòn do sử dụng theo thời gian.
- Giá trị bảo hiểm của máy móc thiết bị và các loại tài sản cố định khác đợc xác
định trên cơ sở mua mới ( bao gồm cả chi phí vân chuyển lắp đặt nếu có) hoặc giá trị
còn lại của máy móc thiêt bị hoặc tài sản cố định đó.
Thông thờng các công ty bảo hiểm sử dụng giá trị còn lại khi máy móc thiêt bị
hoặc tài sản cố định đợc bảo hiểm đã đem sử dụng trong một thời gian nhất định.
- Giá trị bảo hiểm của thành phẩm và bán thành phẩm đợc xác định trên cơ sở giá
thành sản xuất.
- Giá trị bảo hiểm của hàng hoá mua về đang để trong kho, cửa hàng đợc xác định
theo giá mua cộng với chi phí vận chuyển.
5.2. Số tiền bảo hiểm
Trong hoạt động công ty bảo hiểm chỉ bồi thờng bằng tiền mà không bồi thờng
bằng hiện vật. Vì vậy, đối với mỗi đơn vị bảo hiểm đều phải ghi số tiền bảo
hiểm,trong mỗi hợp đồng bảo hiểm cũng không thể không đề cập đến số tiền bảo
hiểm, đây là yếu tố cơ bản để tính phí và là cơ sở cho việc bồi thờng của ngời bảo
hiểm khi xẩy ra tổn thất.
19
Số tiền bảo hiểm là giới hạn bồi thờng tối đa của ngời bảo hiểm trong trờng hợp
tài sản đợc bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ. Vì vậy, xác định chính xác số tiền bảo hiểm
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cơ sở xác định số tiền bảo hiểm là giá trị bảo hiểm.
Nói chung, số tiền bảo hiểm do công ty bảo hiểm và ngời tham gia bảo bảo
hiểm thoả thuận với nhau. Tuy nhiên, phải dựa trên cơ sở kiểm tra đối tợng bảo hiểm
của ngời đợc bảo hiểm và các giấy tờ sổ sách có liên quan.
Số tiền bảo hiểm có thể cao thấp khác nhau tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố, số
tiền bảo hiểm có thể cao hơn hoặc bằng hoặc thấp hơn giá trị tài sản nhng về nguyên
tắc, khi xác định số tiền bảo hiểm phải căn cứ vào giá trị bảo hiểm. Tuy vậy, các
công ty bảo hiểm thờng quy định: số tiền bảo hiểm không đợc vợt quá 10% giá trị
bảo hiểm. Còn nếu bảo hiểm theo sự thoả thuận thì phải ghi rõ trong hợp đồng số
tiền bảo hiểm bằng bao nhiêu % giá trị của tài sản để khi bồi thờng tổn thất bộ phận
thì áp dụng nguyên tắc bồi thờng theo tỷ lệ.
Trong bảo hiểm hoả hoạn cần lu ý rằng khi nhận bảo hiểm thì không chấp nhận
theo kiểu chọn điểm, không chấp nhận chỉ bảo hiểm cho những bộ phận tài sản,
những công đoạn sản xuất có nhiều rủi ro nhất vì điều đó thơng gây bất lợi cho ngời
bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm thờng bảo hiểm toàn bộ giá trị tài sản song cũng có
thể bảo hiểm 50% giá trị tài sản đó.
Trong nền kinh tế thị trờng, quy mô sản xuất kinh doanh có xu hớng ngày càng
mở rộng do đó số lợng hàng và giá trị tài sản cũng đợc tăng lên. Mặt khác, tài sản
của mỗi nhóm thờng xuyên biến động hoặc có những loại tài sản rất khó xác định
giá trị. Nh vậy, việc xác định giá trị bảo hiểm trong trờng hợp này rất phức tạp. Vì
vậy, khi xác định số tiền bảo hiểm có thể sử dụng hai chỉ tiêu đó là: bảo hiểm theo
giá trị trung bình hoặc bảo hiểm theo giá trị tối đa.
Nếu bảo hiểm theo giá trị trung bình: Ngời đợc bảo hiểm phải ớc tính và thông
báo cho ngời bảo hiểm biết giá trị số hàng hoá trung bình có trong kho, trong cửa
hàng. Trong thời gian bảo hiểm giá trị trung bình này đợc coi là số tiền bảo hiểm.
20
Khi tổn thất xảy ra thuộc phạm vị bảo hiểm, ngời bảo hiểm bồi thờng thiệt hại
thực tế nhng không vợt quá giá trị trung bình đã đợc khai báo.
Nếu bảo hiểm theo giá trị tối đa: thì ngời đợc bảo hiểm ớc tính và thông báo cho
ngời bảo hiểm biết giá trị số lợng hàng hoá tối đa có thể đạt vào một thời điểm nào
đó trong thời gian bảo hiểm. Phí bảo hiểm đợc tính trên cơ sở giá trị tối đa nhng chỉ
thu trớc 75% . Khi tổn thất xảy ra thuộc phạm vị bảo hiểm, ngời bảo hiểm bồi thờng
thiệt hại thực tế nhng không vợt quá giá trị tối đa đã khai báo. Đầu mỗi tháng, mỗi
quý( tuỳ theo thoả thuận của mỗi bên), ngời đợc bảo hiểm thông báo cho ngời bảo
hiểm số hàng hoá tối đa thực có trong tháng, trong quý trớc đó để ngời bảo hiểm tiện
theo giỏi giám sát. Cuối thời hạn bảo hiểm trên cơ sở các giá trị đã đợc thông báo,
ngời bảo hiểm tính giá trị số hàng hoá tối đa bình quân của cả thời hạn bảo hiểm và
tính lại phí bảo hiểm. Nếu phí bảo hiểm tính đợc trên cơ sở số giá trị tối đa bình
quân của cả thời hạn bảo hiểm lớn hơn số phí đã nộp thì ngời đợc bảo hiểm trả thêm
cho ngời bảo hiểm số phí còn thiếu.
Trong thời gian bảo hiểm, tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm đợc ngời bảo hiểm
bồi thờng và số tiền bồi thờng vợt quá giá trị tối đa bình quân thì phí bảo hiểm đợc
tính dựa vào số tiền bồi thờng đã trả( trong trờng hợp này số tiền bồi thờng đợc coi là
số tiền bảo hiểm).
Việc áp dụng bảo hiểm theo giá trị tối đa rất phức tạp đòi hỏi ngời bảo hiểm
phải biết giá trị hàng hoá tham gia bảo hiểm, theo giỏi chặt chẽ số hàng hoá đó trong
suốt thời gian bảo hiểm. Những tài sản có giá trị lớn ngời bảo hiểm khó có thể tái
bảo hiểm vì tính phí phức tạp và khó khăn.
Ngợc lại, bảo hiểm theo giá trị trung bình lại đơn giản dể theo dõi đồng thời có
lợi về tính phí bảo hiểm. Nếu một loại hàng hoá đợc bảo hiểm giá trị ít biến động
trên thị trờng thì áp dụng phơng pháp này rất thuận tiện.
21
Nếu tham gia bảo hiểm đã nhiều năm, thì việc xác định giá trị tối đa căn cứ vào
số liệu của nhiều năm trớc đó. Việc ngời đợc bảo hiểm tham gia với số tiền nào là do
hai bên thoả thuận nhng tuỳ theo loại tài sản mà ngời bảo hiểm hớng dẫn cho ngời
tham gia cùng xác định để họ thấy đợc cách tính toán và tính hợp lý mà mình tham
gia, tránh hiện tợng tranh cãi phiền hà.
Nh vậy, hai chỉ tiêu trên đợc thoả thuận trớc khi ký kết hợp đồng. Ngời tham
gia bảo hiểm có thể la chọn một trong hai chỉ tiêu làm số tiền bảo hiểm, thế nhng
việc chọn chỉ tiêu nào cũng đều liên quan đến phí bảo hiểm, và ngời tham gia phải
chấp nhận tính phí theo từng chỉ tiêu này. Tuy vậy, các công ty bảo hiểm thờng bảo
hiểm theo giá trị trung bình, do cách tính đơn giản, ít phải theo dõi, thuận lợi cho
việc tính phí và thu phí. Còn bảo hiểm theo giá trị tối đa rất phức tạp trong việc điều
chỉnh và thu, trả lại phí ở đầu, cuối tháng, quý, đòi hỏi nhà bảo hiểm phải thờng
xuyên theo dõi giá trị hàng hoá trong suốt thời gian bảo hiểm. Do vậy ngời bảo hiểm
thờng khuyến khích bảo hiểm theo giá trị trung bình.
Cần lu ý rằng, dù bảo hiểm theo hình thức nào thì số tiền bồi thờng cũng không
vợt quá số tiền bảo hiểm. Nếu phải bồi thờng làm nhiều lần thì tổng số tiền bồi thờng
trong tất cả các lần không đợc vợt quá số tiền bảo hiểm. Mỗi lần bồi thờng số tiền
bảo hiểm lại giảm đi một ít ngang bằng với số tiền bảo hiểm đã trả. Muốn khôi phục
lại số tiền bảo hiểm lên ngang bằng số tiền bảo hiểm ban đầu, ngời đợc bảo hiểm
phải nộp phí bổ sung tơng ứng với số tiền bảo hiểm tăng thêm và tỷ lệ với khoảng
thời gian còn lại của bảo hiểm. Nếu ngời tham gia không khôi phục lại số tiền bảo
hiểm thì trong mỗi lần tổn thất sau số tiền bảo hiểm tối đa sẽ không vợt quá số tiền
bảo hiểm còn lại sau khi đã trừ đị tất cả các khoản bồi thờng đã trả cho đến thời
điểm đó.
22
6. Nguyên tắc chung, các yếu tố ảnh hởng và phơng pháp tính phí Bảo hiểm
hoả hoạn
6.1. Nguyên tắc chung
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà ngời tham gia bảo hiểm nộp cho cơ qua bảo
hiểm để bảo hiểm cho những rủi ro mà họ tham gia. Phí bảo hiểm chính là giá cả
dịch vụ bảo hiểm. Do vậy, việc tính toán mức phí phù hợp với yêu cầu khách hàng,
vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh có lãi là một vấn đề không đơn giản. Trớc khi đa
ra mức phí, công ty cần cân nhắc kỷ vì đây là một yếu tố cơ bản của cạch tranh.
Tuỳ theo yêu cầu của ngời đợc bảo hiểm, ngời đợc bảo hiểm nhận bảo hiểm
theo thời hạn một năm hoặc bảo hiểm ngắn hạn. Sau khi kêt thúc thời hạn bảo hiểm,
ngời đợc bảo hiểm có thể đóng phí tiếp hoặc yêu cầu tái tục hợp đồng bảo hiểm.
Thời hạn nộp phí do ngời bảo hiểm và ngời đợc bảo hiểm thoả thuận.
Theo nguyên tắc, phí bảo hiểm đợc xác định trên cơ sở tỷ lệ phí và giá trị bảo
hiểm. Phí bảo hiểm hoả hoạn đợc quy định riêng cho từng loại rủi ro và ngời đợc bảo
hiểm muốn đợc bảo hiểm thêm rủi ro phụ thì phải nộp thêm phí theo quy định.
Trong trờng hợp huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm, tuỳ từng trờng hợp cụ thể mà công
ty bảo hiểm sẽ tính toán hoàn lại phí cho ngời đợc bảo hiểm dựa trên khoảng thời
gian còn lại của hợp đồng.
6.2. Các yếu tố ảnh hởng đến việc xác định phí bảo hiểm
a. Các yếu tố ảnh hởng đến tỷ lệ phí
Khi tính phí bảo hiểm, ngời bảo hiểm thờng dựa trên những khoa học thực tiển
và trên cơ sở nguồn số liệu thống kê của từng công ty bảo hiểm, cơ sở của các công
ty bảo hiểm lớn có nhiều kinh nghiệm... ngoài ra còn phải xem xét các yếu tố thờng
xuyên ảnh hởng đến phí bảo hiểm hoả hoạn.
23
Việc xác định tỷ lệ phí phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ta không thể áp dụng một
tỷ lệ chung cho các loại tài sản có mức độ rủi ro hay khả năng xảy ra hoả hoạn khác
nhau. Để tính toán phí bảo hiểm đợc chính xác ta cần phải xem xét các yếu tố cơ bản
ảnh hởng đến tỷ lệ phí sau:
Loại công trình:
Để phân biệt loại công trình ta phải căn cứ vào các loại vật liệu sử dụng để xây
dựng công trình và các bộ phận chủ yếu của công trình đó. Các công trình xây dựng
đợc chia làm ba loại sau:
- Loại D (Disscount class): là loại đợc giảm tối đa 10% phí và đạt các yêu cầu sau:
+ Bộ phận chịu lực: gồm cột chịu lực, xà, dầm, tờng chịu lực làm bằng vật liệu
không cháy, mái nhà có khả năng chịu lực ít nhất 30 phút.
+ Bộ phận không chịu lực: Gồm tờng ngăn cách bên trong và bên ngoài, trần không
chịu lực... đợc xây dựng bằng vật liệu không cháy ( gạch ngói, bê tông xi măng...).
- Loại N (New tial class): Loại này giữ nguyên tỷ lệ phí trong biểu phí. Các công
trình loại này không đạt tiêu chuẫn nh loại D nhng ít nhất các bộ phận chịu lực và
các cấu kiện phải làm bằng các vật liệu khó cháy.
- Loại L ( Loading class): Loại này phải tính thêm 10% phí bảo hiểm và là loại
công trình không đạt tiêu chuẫn nh hai loại trên.
Các yếu tố làm tăng phí bảo hiểm:
- Các yếu tố làm tăng mức độ rủi ro: Đối với các công trình có thiết bị phụ trợ có
thể làm tăng thêm khả năng xảy ra rủi ro tổn thất. Ví dụ: dây chuyền sơn trong phân
xỡng sản xuất, thiêt bị sấy khô, chiết xuất, chế biến gỗ, gia công vật liệu nhân tạo...
song sẽ không tính thêm phí bảo hiểm nếu các thiết bị đó nằm trong phòng ngăn
cách với bên ngoài bằng tờng chống cháy và chiếm không quá 10% diện tích đơn vị
rủi ro.
24
- Các yếu tố đặc biệt không thuận lợi đối với rủi ro đợc bảo hiểm nh nguồn lửa
không đợc ngăn cách hoàn toàn, có không khí đốt nóng bằng dầu hay khí đốt ở nơi
làm việc, có lò sởi bằng tia hồng ngoại, thiếu các thiết bị phòng cháy chữa cháy
thích hợp, có dây chuyền sản xuất tự động nhng không đợc trang bị các thiết bị báo
cháy đúng tiêu chuẫn, thiết kế không đúng yêu cầu, hoặc công việc sửa chữa không
đảm bảo chất lợng. Thiếu trang thiết bị chữa cháy. tăng phí tuỳ theo từng trờng hợp
cụ thể nhng tối đa không qua 15%.
Có trung tâm máy tính nhng không đợc ngăn cách bằng tờng chống cháy,
không có hệ thống phòng cháy chữa cháy riêng biệt, tăng phí tối đa là 5%.
Có khả năng bị phá hoại, tăng phí tối đa không quá 5%.
Tổn thất trong quá khứ: Nếu 5 năm trớc đó số tiền bồi thờng đã vợt quá 150%
số phí bảo hiểm thì phải tăng ít nhất 10% phí.
Các yếu tố làm giảm phí bảo hiểm hoả hoạn:
Các nhà bảo hiểm cần quan tâm đến các yếu tố làm giảm mức độ rui ro vì các
yếu tố này là cơ sở để giảm mức phí cơ bản. điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc
cạnh tranh trên thị trờng giữa các công ty bảo hiểm hiện nay. Các yếu tố đó bao
gồm:
- Các công trình có các thiết bị phòng cháy báo cháy nh hệ thống báo cháy tự động
nối trực tiếp với các trạm cứu hoả công cộng, nối trực tiếp với phòng thờng trực, đội
cứu hoả của xí nghiệp, trạm công an, các bộ phận báo cháy thuộc hệ thống chữa
cháy tự động đợc lắp đặt cố định, giãm phí từ 5% đến 8% phí.
- Việc trực kiểm tra canh gác đợc tiến hành thờng xuyên 24/24, cứ 2 giờ/ lần có ng-
ời đi kiểm tra, liên lạc ngay bằng điện đài hoặc nút báo cháy, giảm 5% phí.
- Các phơng tiện thiết bị chữa cháy: chỉ giãm phí đối với các phần công trình có các
thiết bị và phơng tiện sau:
+ Có hệ thống chữa cháy tự động Sprinkler giảm tối đa 35%
25