Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

hợp đồng bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.07 KB, 50 trang )

Lời nói đầu
Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội, nhu cầu bảo hiểm cũng ngày
càng cao. Quá trình phát triển mấy trăm năm của bảo hiểm đã ghi nhận vai trò và
những đóng góp to lớn của bảo hiểm trong việc ổn định, thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế xã hội, vị thế của bảo hiểm càng đợc nâng cao trong các ngành kinh tế
quốc dân. Ngày nay, sự phát triển nh vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật,
quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá diễn ra nhanh chóng đã làm thay đổi sâu sắc bộ
mặt của ngành bảo hiểm. Những thách thức của thị trờng bảo hiểm là rất khó kiểm
soát, cạnh tranh ác liệt và những thay đổi lớn về cơ cấu kết hợp với nhau là những nét
đặc trng của hoạt động bảo hiểm.
ở Việt Nam hoạt động bảo hiểm phát triển khá mạnh trong vài năm gần đây từ
khi chúng ta chính thức mở cửa thị trờng bảo hiểm. Các lĩnh vực, các nghiệp vụ và
các sản phẩm bảo hiểm ngày càng đợc mở rộng, các hợp đồng bảo hiểm đợc kí kết
ngày càng nhiều. Tuy vậy, bảo hiểm Việt Nam vẫn cha phát triển tơng xứng qui mô
của nó và cũng cha có một qui chế pháp lý vững chắc, một hệ thống pháp luật hoàn
thiện tạo cơ sở pháp lý cho thị trờng bảo hiểm Việt Nam phát triển lành mạnh và có
hiệu quả. Với mong muốn đợc đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu về
vấn đề bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm, giúp cho các cán bộ pháp lý có thêm cách
nhìn mới và hiểu rõ hơn về bản chất và những vấn đề cơ bản của hợp đồng bảo hiểm
từ đó đề ra những hớng xây dựng luật cũng nh áp dụng các qui phạm pháp luật về
bảo hiểm một cách chính xác và hiệu quả tôi đã chọn đề tài Hợp đồng bảo
hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là đề tài còn rất mới mẻ và có rất nhiều vấn đề phức tạp.
Tuy đây cha phải là một công trình nghiên cứu hoàn thiện song tôi đã cố gắng đề cập
đến những vấn đề chủ yếu, then chốt nhất của hợp đồng bảo hiểm nói chung có gắn
với thực tiễn cho phù hợp.
Với trình độ và sự hiểu biết có hạn nên chắc chắn tôi không thể tránh khỏi
những sơ suất. Rất mong đợc bạn đọc và các thầy cô giáo góp ý để bản Luận văn của
tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
1
Ch ơng I


Lý luận chung về bảo hiểm
A. Lịch sử phát triển của bảo hiểm
I. Vì sao bảo hiểm ra đời
Quá trình tồn tại và phát triển của loài ngời là quá trình đấu tranh để cải tạo và
hoà hợp với thiên nhiên, quá trình đó chịu sự tác động của thiên nhiên theo hai hớng
tích cực và tiêu cực. Sự tác động tiêu cực của thiên nhiên nh bão, lũ lụt, hạn hán,
động đất,... là những thiên tai có thể gây hậu quả thiệt hại về con ngời, tài sản.
Không những thiên tai mà ngay con ngời cũng có thể gây ra những thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ, tài sản cho ngời khác. Những thiệt hại đó gây cho con ngời bao
nhiêu khó khăn, bất hạnh trong cuộc sống và trong sản xuất. Sự tác động của thiên
tai, tai biến đặt ra một nhu cầu nội tại của đời sống cộng đồng là con ngời phải có
các biện pháp phòng ngừa, hạn chế, khắc phục hậu quả có thể bằng các cách nh:
buộc ngời gây thiệt hại phải bồi thờng tổn thất trong trờng hợp tai nạn xảy ra do lỗi
của con ngời.

Biện pháp phòng ngừa: là biện pháp đợc con ngời sử dụng do nhận thức đợc
các qui luật của thiên nhiên để khắc phục và hạn chế thiệt hại nh đắp đê chống lụt,
trồng rừng phòng hộ, phòng cháy,... Mục đích của biện pháp phòng ngừa là nhằm
ngăn ngừa rủi ro hoặc hạn chế hậu quả phát sinh từ rủi ro.

Biện pháp cứu trợ: là biện pháp đợc thực hiện để khắc phục hậu quả phát sinh
từ các rủi ro. Sự cứu tế, trợ giúp của xã hội là một biện pháp tích cực. Nguồn trợ giúp
có thể từ ngân sách Nhà nớc hoặc từ sự đóng góp từ thiện của các cá nhân, tổ chức
mang tính tự nguyện nhằm giúp đỡ các tổ chức cá nhân gặp rủi ro khắc phục các hậu
quả. Biện pháp này rất hữu hiệu trong những trờng hợp thiên tai xảy ra ở phạm vi một
vùng, một bộ phận dân c.

Biện pháp lập ra các quỹ dự phòng để bù đắp kịp thời tổn thất xảy ra.
Trong nhiều trờng hợp các biện pháp trên tỏ ra rất hiệu quả nhng nhiều trờng
hợp khác chúng lại cho thấy những hạn chế trong việc khắc phục hậu quả. Đó là:

Cho dù con ngời có chú ý đến biện pháp phòng ngừa nhng những rủi ro, tai nạn
vẫn có thể xảy ra nh động đất, núi lửa. Những thiệt hại do thiên tai gây ra không thể
buộc cá nhân hay tổ chức nào đó bồi thờng đợc vì không ai có lỗi. Biện pháp cứu trợ
lại kém hiệu quả đối với trờng hợp thiệt hại do thiên tai gây ra quá lớn. Hay trờng
hợp xảy ra thiệt hại nhng không tìm ra thủ phạm hoặc thiệt hại xảy ra do lỗi của
chính ngời bị thiệt hại khiến họ bị đẩy vào thế suy kiệt kinh tế.
2
Trong bối cảnh đó hình thức bảo hiểm ra đời để giải quyết cơ bản những hạn
chế đó. Biện pháp bảo hiểm đợc thực hiện thông qua hoạt động lập và sử dụng quĩ
bảo hiểm nhằm bù đắp thiệt hại, khắc phục hậu quả của các rủi ro. Vậy tại sao bảo
hiểm lại có khả năng khắc phục đợc những thiệt hại to lớn đó. Để trả lời câu hỏi này
ta tìm hiểu vai trò của bảo hiểm.
II. Vai trò của bảo hiểm
1. Bảo hiểm là công cụ để xử lý rủi ro, duy trì đời sống và hoạt động bình thờng
của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Hoạt động bảo hiểm đợc thực hiện theo phơng thức lấy ít của số đông bù cho
số ít đã tập trung đợc một lợng của cải cần thiết có khả năng bù đắp thiệt hại cho
các tổ chức và cá nhân gặp rủi ro thuộc diện đợc bảo hiểm. Chính vậy mà việc tham
gia bảo hiểm tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân trong xã hội có thể duy trì đời
sống và hoạt động bình thờng khi gặp rủi ro. Ngay cả khi thiệt hại quá lớn hay không
tìm thấy ngời gây thiệt hại thì bảo hiểm cũng đảm bảo đợc khả năng bồi thờng thiệt
hại. Và vì một thiệt hại khi xảy ra trong phạm vi bảo hiểm đã đợc chia sẻ cho nhiều
ngời cùng gánh chịu nên tác hại của hiểm hoạ không còn lớn nh khi chỉ có một số ít
ngời phải gánh chịu toàn bộ.
Vai trò to lớn của bảo hiểm trong đời sống, sản xuất kinh doanh thể hiện là:
+ Đem lại tâm lý an tâm về mặt tài chính trớc các nguy cơ xảy ra gây thiệt hại.
+ Nhanh chóng đợc bồi thờng tổn thất khi rủi ro gây thiệt hại.
+ Giúp doanh nghiệp, cá nhân tự tin trong việc mở rộng sản xuất, kinh doanh
hoặc tham gia vào lĩnh vực đầu t mới.
Quĩ bảo hiểm tập trung đợc coi là nguồn bảo đảm tài chính vững chắc cho các

tổ chức kinh tế để khắc phục hậu quả của hiểm hoạ, bảo toàn và phát triển nguồn vốn
của mình. Trong kinh doanh, qui mô đầu t càng lớn thì rủi ro càng cao. Để phân tán
rủi ro, các nhà đầu t thờng tham gia bảo hiểm. Họ lựa chọn và gửi gắm doanh nghiệp
của mình vào các loại hình bảo hiểm về tài sản. Còn các loại hình bảo hiểm về con
ngời thì góp phần ổn định cả sản xuất và đời sống vì nó góp phần bảo toàn sức lao
động, khôi phục sức khoẻ của con ngời sau cơn tai biến.
Không những thế, bảo hiểm còn đóng vai trò trong quản lý Nhà nớc:
+ Giảm gánh nặng cho ngân sách, góp phần tăng tích luỹ cho ngân sách.
+ Tạo công ăn việc làm cho một bộ phận lớn lao động trong xã hội.
+ Góp phần đề phòng hạn chế tổn thất phát sinh.
Bảo hiểm góp phần ổn định sản xuất và đời sống do đó góp phần ổn định
khoản thu cho ngân sách Nhà nớc nh thuế,... Bảo hiểm có thể bổ sung hoặc thay
thế một số khoản thu chính sách (do thiên tai hoặc tai biến xã hội). Do vậy bảo hiểm
góp phần ổn định nền tài chính ngân sách tránh cho Nhà nớc phải chi khoản ngân
3
sách lớn khi có thiên tai, tai nạn xảy ra. Quĩ bảo hiểm ngày càng chiếm một tỉ trọng
lớn trong toàn bộ các quĩ tập trung.
Trong nhiều tác phẩm của mình, Mác đã nhiều lần đề cập đến sự cần thiết
khách quan phải thành lập quĩ bảo hiểm. Mác nhấn mạnh Để đảm bảo quá trình tái
sản xuất mở rộng, trong tổng sản phẩm bên cạnh phần dùng để bù đắp t liệu sản
xuất đã tiêu hao và thặng d để mở rộng sản xuất phải có một phần để làm quĩ dự
phòng hoặc quĩ bảo hiểm để đề phòng tai nạn và thiên tai (C.Mác - Anghen tuyển
tập, tập III, NXB Sự thật, Hà Nội - 10/1, Tr 604).
Bảo hiểm góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội cũng chính
là góp phần lập lại sự cân đối mới cho nền kinh tế xã hội sau khi tổn thất xảy ra. Đặc
biệt quĩ bảo hiểm cùng với quĩ sản xuất đợc coi là đảm bảo tài chính vững chắc cho
sự hình thành và phát triển lâu bền của nền văn minh xã hội. Ănghen đã nói Quĩ
sản xuất và dự phòng của xã hội đã và vẫn còn là cơ sở của mọi tiến bộ xã hội, về
chính trị và trí tuệ (Ph. Ănghen: chống Duyring - NXB Sự thật, Hà Nội - 1959, Tr
957).

2. Bảo hiểm nâng cao khả năng ngăn ngừa rủi ro và hạn chế hậu quả phát
sinh từ rủi ro đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.
Trong nhiều loại hình bảo hiểm nh bảo hiểm thơng mại, lúc đầu là tập quán sau
đó trở thành qui tắc xử sự đợc pháp luật ghi nhận, những ngời tham gia bảo hiểm
(bên mua bảo hiểm) phải thực hiện những biện pháp để phòng ngừa rủi ro và hạn chế
hậu quả khi xảy ra rủi ro. Pháp luật của các nớc đều có các qui định về nghĩa vụ của
ngời tham gia bảo hiểm trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro và hạn
chế hậu quả. Nếu ngời tham gia bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ này thì tuỳ mức độ mà bị
bên bảo hiểm từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi thờng bảo hiểm. Chính vì
vậy, khi tham gia quan hệ bảo hiểm, các tổ chức và cá nhân tích cực thực hiện các
biện pháp phòng tránh, hạn chế hậu quả của rủi ro.
3. Bảo hiểm là công cụ tập trung vốn
Quĩ bảo hiểm đợc hình thành trên cơ sở phí bảo hiểm do các tổ chức và cá nhân
tham gia bảo hiểm đóng và đợc sử dụng chi trả khi có sự kiện bảo hiểm. Do phơng
thức sử dụng quĩ nh vậy nên tạo ra khả năng tạm thời nhàn rỗi của vốn tiền tệ. Số vốn
tiền tệ tạm thời nhàn rỗi này đợc các doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng để tham gia các
quan hệ đầu t. Nh vậy, về phơng diện vốn, các quĩ bảo hiểm là những tụ điểm tài
chính cần đợc khai thác, sử dụng phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế.
Với tốc độ phát triển kinh tế hiện nay, bảo hiểm phải đóng vai trò quan trọng
trong việc hỗ trợ đầu t bằng cách cung cấp những sản phẩm bảo hiểm có chất lợng
cao và an toàn. Nhiều công trình đợc các cơ quan tài chính quốc tế và trong nớc cung
cấp tài chính đến 75-90%. Những ngời cho vay tiền muốn chuyển giao rủi ro càng
nhiều càng tốt và điều đó đòi hỏi bảo hiểm phải có khả năng đáp ứng. Trong tình
4
hình đó vai trò của bảo hiểm hay vai trò của chuyển giao rủi ro và sự phát triển thói
quen quản lý rủi ro trở lên ngày càng quan trọng.
Ngời ta cho rằng nền văn minh Âu Mỹ có thể phát triển mạnh và tồn tại lâu dài
trong điều kiện thiên nhiên và xã hội có nhiều hiểm hoạ nh hiện nay là do nền kinh tế
hàng hoá cùng với bảo hiểm ở đây đã sớm hình thành và phát triển mạnh hơn các nơi
khác. Trong khi ở nhiều nơi trên thế giới khái niệm bảo hiểm còn mới lạ thì ở các n-

ớc tiên tiến bảo hiểm đã trở thành một tập quán, thói quen của dân chúng, là một nhu
cầu của các nhà kinh doanh, một kế sách quản lý của Nhà nớc.
Vai trò của bảo hiểm ngày càng quan trọng do kinh tế càng phát triển, đời sống
càng cao, nhu cầu bảo hiểm càng lớn. Ngợc lại bảo hiểm cũng tác động trở lại thúc
đẩy kinh tế phát triển, ổn định đời sống xã hội. ở Việt Nam năm 1999 tổng số phí
bảo hiểm chiếm 0,5% GDP (số liệu của tạp chí Bảo hiểm số 1/2000). Ngày nay sự
giao lu kinh tế, văn hoá giữa các nớc càng phát triển thì bảo hiểm càng đợc mở rộng.
III. Lịch sử phát triển bảo hiểm trên thế giới.
Bảo hiểm ra đời rất sớm trên thế giới. Hình thức lập quĩ để tự bảo hiểm xuất
hiện rất sớm trong lịch sử. Hơn 4000 năm trớc công nguyên, ở Ai Cập những ngời
thợ thủ công đã lập Quĩ tơng trợ bằng sự đóng góp của các thành viên và giúp đỡ
nạn nhân gặp tai nạn nghề nghiệp. Còn ở Trung Quốc các thơng nhân có hàng vận
chuyển trên tàu, thuyền đã biết cách phân tán hàng của mỗi ngời trên nhiều tàu,
thuyền để tránh tình trạng một ngời gặp rủi ro phải gánh chịu toàn bộ tổn thất.
Bảo hiểm thơng mại, với loại hình đầu tiên là bảo hiểm hàng hải xuất hiện đầu
tiên ở Babylone vào khoảng 1700 năm trớc công nguyên. Đến thế kỷ V trớc công
nguyên, buôn bán rất phát triển kéo theo sự hng thịnh của ngành vận chuyển hàng
hoá bằng đờng biển. Vào thế kỷ XII, giao lu đờng biển đã rất phát triển, tổn thất do
thiên tai, cớp biển gây ra cũng càng nhiều, nên ở thời kỳ này tồn tại một hệ thống tín
dụng kết hợp hoạt động cho vay với hoạt động bảo hiểm đối với hàng hoá đợc mua
và vận chuyển bằng tiền vay. Các nhà kinh doanh đi vay vốn để mua hàng với lãi
suất rất nặng. Nếu chuyến hàng gặp rủi ro tổn thất toàn bộ thì họ không phải trả ngời
cho vay cả vốn và lãi. Lãi suất này có thể coi chính là hình thức sơ khai của phí bảo
hiểm. Sau này số vụ tai nạn ngày càng nhiều, tổn thất ngày càng lớn khiến cho nhiều
nhà kinh doanh vốn lâm vào thế mạo hiểm. Và để đảm bảo an toàn cho hoạt động
kinh doanh này, hình thức bảo hiểm ra đời. Các nguyên tắc của hoạt động bảo hiểm
cùng với hợp đồng bảo hiểm ngày càng hoàn thiện đã đem lại sự đảm bảo an toàn
cao cho hoạt động bảo hiểm. Năm 1182 ở Limbardine (Bắc ý) hợp đồng bảo hiểm sơ
khai đã ra đời với tên gọi Police (đơn mua). Ngời bán đơn này ký tên dới đơn
Coghataire cam kết các nội dung ghi trên đơn của mình để phục vụ ngời mua đơn.

Từ thế kỷ 14, bảo hiểm chính thức ra đời, đầu tiên là ở Phơ lo ren xơ, Genois và
Flauder. Xuất hiện các hợp đồng bảo hiểm mà theo đó một nhà bảo hiểm cam kết với
5
một ngời đợc bảo hiểm qua việc nhận đợc một khoản phí, bồi thờng những thiệt hại
về tài sản mà ngời đợc bảo hiểm phải gánh chịu khi có thiệt hại xảy ra trên biển.
Khi đó ở Gene, vào năm 1336, thống đốc đã ra sắc lệnh về bảo hiểm. ở Bồ Đào
Nha, một chỉ dụ của Vua Ferdinand vào nửa thế kỷ sau thế kỷ 14, thiết lập bảo hiểm
tơng hỗ bắt buộc đối với chủ tàu 500 tấn trở lên. Còn ở Bruge (Bỉ) Uỷ ban
BETHUNE năm 1310, thiết lập phòng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm cổ xa nhất mà
ngời ta tìm thấy ghi ngày 22 tháng 4 năm 1329, hiện còn lu giữ ở Plorenxơ. Sự phát
triển của bảo hiểm hàng hải gắn cùng với sự phát hiện ra ấn Độ Dơng và đơng nhiên
cả việc tìm ra Châu Mĩ.
Vào thế kỷ 17, luật về bảo hiểm hàng hải đã ngày càng phong phú bởi các bộ
luật và sắc lệnh. Đặc biệt là cuốn sắc lệnh về hàng hải xuất bản năm 1680 theo
sáng kiến của Cobert. Tác phẩm này ấn hành vào năm 1680 mà hiện nay ta có thể
tìm thấy đợc, đã đa vào các nguyên tắc lớn của bảo hiểm hàng hải hiện đại, đã có ảnh
hởng rất rộng lớn tới nhiều bộ luật hàng hải.
Thế kỉ XVII, nớc Anh đã chiếm vị trí đáng kể trong buôn bán thế giới và cũng
là nơi hoạt động bảo hiểm phát triển nhất. Tiệm cà phê của Lloyds ở phố Tower
street sau này trở thành nơi giao dịch kinh doanh bảo hiểm, hiện nay vẫn đang là một
trong những hãng bảo hiểm lớn nhất thế giới. Đến thế kỉ 20, các qui định của luật
hàng hải Anh ban hành năm 1906 dới tên gọi Luật bảo hiểm hàng hải đã ngự trị
bảo hiểm hàng hải thế giới.
Và từ bảo hiểm hàng hải, các loại hình bảo hiểm khác kế tiếp nhau ra đời xuất
phát từ nhu cầu đợc bảo hiểm của các thơng gia, ngời sản xuất và các tầng lớp dân c.
Có thể nói, hoạt động bảo hiểm phát triển sang nhiều lĩnh vực khác nhau: bảo hiểm
con ngời, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm tín dụng,... Giai đoạn đầu bảo hiểm hàng hải rất
phát triển, nên thế giới có phân ra hai loại nghiệp vụ bảo hiểm: bảo hiểm hàng hải và
bảo hiểm phi hàng hải. Đến thế kỉ XVII, bảo hiểm nhân thọ ra đời và rất phát triển,
bảo hiểm lại đợc phân chia thành bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Hai

cách phân loại nghiệp vụ bảo hiểm trên hiện nay vẫn đợc áp dụng ở các nớc.
ở Việt Nam, dới thời thuộc địa cũng có vài chế độ bảo hiểm xã hội đối với công
nhân. Sau cách mạng tháng 8, các chế độ về bảo hiểm xã hội đã ra đời và nhiều lần
sửa đổi nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi ngời lao động. Bảo hiểm thơng mại (bảo
hiểm Nhà nớc) đợc thành lập tháng 1 - 1965 theo Quyết định số 179/CP ngày
17/12/1964 của Hội đồng Chính phủ. Phạm vi kinh doanh của bảo hiểm thơng mại
tập trung khoảng 20 nghiệp vụ trên cả ba lĩnh vực: tài sản, con ngời và trách nhiệm
dân sự.
Sau ngày 30-4-1975, tất cả các công ty bảo hiểm ở miền Nam đợc Quốc hữu
hoá thành công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (BAVINA) và đến
năm 1996, BAVINA trở thành chi nhánh của Bảo Việt tại thành phố Hồ Chí Minh.
6
Trong giai đoạn này thị trờng bảo hiểm Việt Nam chịu sự chi phối độc quyền của
Bảo Việt.
Việc ban hành hai Pháp lệnh điều chỉnh quan hệ hợp đồng là Pháp lệnh hợp
đồng dân sự ngày 29-4-1991 và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25-9-1989, Nhà n-
ớc đã bắt đầu thiết lập những cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc điều chỉnh quan hệ hợp
đồng bảo hiểm.
Năm 1990, với sự ra đời của Bộ luật hàng hải, nhà lập pháp đã qui định hẳn một
chơng riêng (chơng 16) dành cho hợp đồng bảo hiểm hàng hải.
Đến ngày 18-12-1993 Chính phủ ban hành Nghị định 100/CP, theo đó thế độc
quyền của Bảo Việt bị phá vỡ và thay vào đó là sự ra đời của hàng loạt doanh nghiệp
bảo hiểm ở nhiều loại hình khác nhau. Và đặc biệt là Bộ luật dân sự đợc Quốc hội
thông qua và có hiệu lực ngày 1-7-1996, giành hẳn Chơng 2 phần 3 mục 11 qui định
về hợp đồng bảo hiểm. Tiếp đó Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành một loạt các
văn bản pháp luật để tạo ra một hành lang pháp lý cần thiết cho quan hệ hợp đồng
bảo hiểm.
B. Khái niệm bảo hiểm
Bảo hiểm là hoạt động phân tán rủi ro theo qui luật số đông. Nghĩa là ngời tham
gia bảo hiểm (ngời mua bảo hiểm) chuyển rủi ro cho công ty bảo hiểm theo cơ chế

ngời tham gia bảo hiểm trả cho công ty bảo hiểm một khoản tiền (gọi là phí bảo
hiểm) để khi có tổn thất do thiên tai hoặc tai nạn gây ra thì họ sẽ đợc công ty bảo
hiểm bồi thờng. Chính vì có nhiều ngời đóng phí bảo hiểm nên sẽ tạo ra một quỹ lớn
và công ty bảo hiểm sẽ lấy số tiền từ quĩ này để bù đắp tổn thất cho một số ít ngời
tham gia bảo hiểm. Rõ ràng nếu chỉ có một số ít ngời tham gia bảo hiểm thì sẽ không
lập đợc thành một quỹ lớn và nếu nh rủi ro xảy ra nhiều quá mức thì cũng sẽ không
thể bù đắp đợc thiệt hại. Nên bảo hiểm bao giờ cũng có rất nhiều ngời tham gia và rủi
ro đó cũng không thể là những rủi ro mang tính khách quan. Bằng cách đóng phí bảo
hiểm để tạo ra quĩ lớn thì tổn thất của một ngời, một nhóm ngời hay một tổ chức sẽ
đợc chia nhỏ ra toàn thể cộng đồng những ngời tham gia bảo hiểm. Vì thế mà một
tổn thất lẽ ra rất nặng nếu chỉ có một ngời gánh chịu sẽ trở lên chịu đựng đợc đối với
ngời bị tổn thất nhờ có sự gánh đỡ của cộng đồng những ngời tham gia bảo hiểm.
Xét trên khía cạnh kinh tế, bảo hiểm là một mối quan hệ hợp đồng còn đứng
trên khía cạnh xã hội, bảo hiểm là hoạt động đảm bảo đời sống kinh tế cho các thành
viên trong xã hội trớc các nguy cơ bị mất an toàn về kinh tế do rủi ro gây ra.
Trong bảo hiểm luôn có ba nhân tố đó là: rủi ro - chuyển giao rủi ro - chia nhỏ
tổn thất.
- Rủi ro: là khả năng xảy ra một tổn thất.
Có nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro nh: do thiên tai, sự phát triển của sản xuất
có thể kéo theo sự thiệt hại lớn hơn khi rủi ro xảy ra; do ảnh hởng của môi trờng xã
7
hội: thất nghiệp,...; do sự phát triển của lực lợng sản xuất, khoa học kỹ thuật,... Bảo
hiểm chỉ xét đến mặt trái của sự phát triển khoa học kỹ thuật, sự phát triển của khoa
học kỹ thuật có thể giúp con ngời hạn chế hoặc kiểm soát một số rủi ro nhất định,
mặt khác nó cũng có thể là nguyên nhân làm cho mức độ tổn thất trở lên trầm trọng
đó là cha kể đến sự bất cẩn của con ngời.
- Chuyển giao rủi ro: có các cách chuyển giao rủi ro:
+ Chuyển giao rủi ro thông qua các biện pháp phi bảo hiểm. Ngời ta có thể thực
hiện thông qua việc ký kết hợp đồng qui định trách nhiệm của mỗi bên khi rủi ro xảy
ra.

+ Chuyển giao rủi ro thông qua bảo hiểm: rủi ro đợc chuyển giao từ ngời tham
gia bảo hiểm sang công ty bảo hiểm. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển các tổ
chức doanh nghiệp, cá nhân thờng có tài sản có giá trị cao, qui mô sản xuất lớn, nhu
cầu trong cuộc sống cao. Mặt khác, sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi họ phải có
sự tự chủ về tài chính. Chính vì vậy việc bỏ ra một chi phí nhất định để có đợc sự
đảm bảo cho tơng lai là nhu cầu của bất cứ tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân nào
mà họ có thể thực hiện thông qua bảo hiểm. Ví dụ, một ngời có chiếc xe Toyota, có
khả năng bị tổn thất lớn về tài chính khi tai nạn giao thông xảy ra. Thông qua việc
mua bảo hiểm, ngời đó chuyển rủi ro cho công ty bảo hiểm.
- Chia sẻ tổn thất:
Rủi ro đợc chuyển từ ngời tham gia bảo hiểm sang công ty bảo hiểm, công ty
bảo hiểm là ngời chịu trách nhiệm bồi thờng tổn thất nhng thực ra tổn thất này đợc
chia sẻ cho tất cả những ngời tham gia bảo hiểm, tổn thất của ngời này đợc chia sẻ
cho nhiều ngời khác hoặc ngợc lại. Bởi vì cộng đồng ngời tham gia bảo hiểm đóng
phí bảo hiểm cho công ty bảo hiểm, công ty bảo hiểm xây dựng lên quĩ bảo hiểm
gồm tập hợp số phí bảo hiểm và bồi thờng thiệt hại từ quĩ đó.
Hoạt động bảo hiểm luôn phải có đủ ba nhân tố trên, thiếu một trong ba nhân tố
đó thì hoạt động đó không phải là hoạt động bảo hiểm.
8
Ch ơng II
khái niệm hợp đồng bảo hiểm
A. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm
I. Khái niệm
Theo điều 571 Bộ Luật dân sự Việt Nam 1996 thì hợp đồng bảo hiểm đợc định
nghĩa là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo
hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên đợc bảo hiểm khi
xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm hiểu theo nghĩa chủ
quan đó là một quan hệ xã hội đợc hình thành từ sự thoả thuận của các bên. Nếu chỉ

có một bên thể hiện ý chí của mình mà không đợc bên kia chấp nhận cũng không thể
hình thành một quan hệ hợp đồng đợc. Do đó, chỉ khi nào có sự thể hiện và thống
nhất ý chí giữa các bên thì hợp đồng bảo hiểm mới hình thành. Cơ sở đầu tiên để
hình thành hợp đồng bảo hiểm là việc thoả thuận bằng ý chí tự nguyện của các bên.
Tuy nhiên hợp đồng đó chỉ có hiệu lực pháp luật (chỉ đợc pháp luật công nhận và bảo
vệ) khi ý chí của các bên phù hợp với ý chí của Nhà nớc. Các bên đợc tự do thoả
thuận để thiết lập hợp đồng, nhng sự tự do ấy phải đợc đặt trong giới hạn bởi lợi
ích của ngời khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công cộng.
Thông thờng trong hợp đồng bảo hiểm có hai bên tham gia: bên bảo hiểm và
bên tham gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm) cũng là bên đợc bảo hiểm. Còn trờng hợp
khác có ba bên tham gia khi hợp đồng đợc kí kết vì lợi ích của ngời thứ ba. Khi đó có
bên bảo hiểm - bên tham gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm) - ngời thứ ba (bên đợc
bảo hiểm). Ngời thứ ba có các quyền và nghĩa vụ của ngời đợc bảo hiểm, trừ nghĩa
vụ đóng phí bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm gồm bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt
buộc.
Với hợp đồng bảo hiểm tự nguyện, các bên tự do thoả thuận về các điều kiện
bảo hiểm và mức phí bảo hiểm. Có thể nói đây là loại hình bảo hiểm mà ý chí của
các bên có quyền định đoạt cao. Còn đối với hợp đồng bảo hiểm bắt buộc, các điều
kiện bảo hiểm và mức phí bảo hiểm do pháp luật qui định.
II. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm
1. Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng có phát sinh nghĩa vụ có điều kiện
Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng phát sinh hay chấm dứt hậu quả pháp lý phụ
thuộc vào sự kiện là điều kiện của hợp đồng. Khi sự kiện đó xảy ra thì hợp đồng phát
sinh hay chấm dứt hiệu lực. Sự kiện đợc coi là điều kiện của hợp đồng do các bên
9
thoả thuận khi xác lập hợp đồng. Nó phải là sự kiện có thể xảy ra nhng không chắc
chắn phải xảy ra trong tơng lai. Điều kiện làm phát sinh hay chấm dứt hợp đồng phải
hợp pháp. Có hai loại hợp đồng có điều kiện: loại thứ nhất là hợp đồng có điều kiện
phát sinh là hợp đồng đã đợc xác lập nhng chỉ phát sinh hiệu lực thật sự khi có sự
kiện đợc coi là điều kiện xảy ra. Hay nói cách khác hợp đồng đã đợc kí kết nhng cha

thực hiện mới hoặc chỉ có một bên phải thực hiện, nếu xuất hiện điều kiện mà các
bên thoả thuận thì hợp đồng mới bắt đầu đợc thực hiện hoặc bên cha phải thực hiện
nghĩa vụ sẽ phải thực hiện, nếu trong thời hạn của hợp đồng mà không xuất hiện điều
kiện thì hợp đồng đơng nhiên chấm dứt. Loại thứ hai là hợp đồng có điều kiện huỷ
bỏ. ở đây hợp đồng đã đợc xác lập và phát sinh hiệu lực, đang đợc thực hiện nhng
khi có sự kiện là điều kiện xảy ra thì hợp đồng bị đình chỉ hiệu lực, các quyền và
nghĩa vụ của các bên chấm dứt. Hợp đồng bảo hiểm thuộc loại thứ nhất, có nghĩa là
chỉ khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra gây thiệt hại cho đối tợng bảo hiểm thì hợp đồng
mới đợc thực hiện.
Do đó, hợp đồng bảo hiểm có thời điểm hiệu lực có sự khác biệt so với các hợp
đồng dân sự thông thờng khác ở chỗ nó có hiệu lực từ khi đợc kí kết nhng chỉ có ý
nghĩa về mặt hình thức vì mới chỉ có bên mua bảo hiểm phải thực hiện hợp đồng. Mà
hiệu lực này chỉ có ý nghĩa rằng hợp đồng đã đợc xác lập và các bên đều sẽ phải có
trách nhiệm với hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm còn có thời điểm hiệu lực khác mang
ý nghĩa thực tế của việc thực hiện hợp đồng. Đó chính là thời điểm mà xuất hiện sự
kiện bảo hiểm và lúc này ngời bảo hiểm bắt đầu có trách nhiệm vật chất đối với ngời
đợc bảo hiểm.
2. Hợp đồng bảo hiểm cũng có thể đợc coi là hợp đồng có lợi cho ngời thứ ba.
Không phải hợp đồng bảo hiểm lúc nào cũng có lợi cho ngời thứ ba mà chỉ khi
hợp đồng có ba bên liên quan đến hợp đồng: bên bảo hiểm - bên mua bảo hiểm - bên
thứ ba (bên đợc bảo hiểm). ở đây việc kí kết hợp đồng chỉ diễn ra giữa hai bên: bên
bảo hiểm và bên mua bảo hiểm và việc kí kết chỉ ra rằng khi có sự kiện bảo hiểm xảy
ra gây tổn thất cho đối tợng bảo hiểm thì ngời thứ ba sẽ là ngời đợc bảo hiểm chứ
không phải là bên mua bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm tham gia bảo hiểm không phải
vì lợi ích của mình mà vì lợi ích của ngời khác (ngời thứ ba). Ví dụ: với loại hình bảo
hiểm tiền gửi, tổ chức tín dụng là bên tham gia bảo hiểm, kí kết hợp đồng bảo hiểm
với bên bảo hiểm để bảo hiểm cho số tiền gửi của khách hàng tại tổ chức mình. Khi
có sự kiện bảo hiểm thì ngời đợc bảo hiểm chính là các khách hàng của tổ chức tín
dụng đó.
Ngời đợc bảo hiểm thờng có mối quan hệ với bên mua bảo hiểm chính vì vậy

mà họ đợc ngời mua bảo hiểm tham gia bảo hiểm vì lợi ích của mình. Nhng giữa ng-
ời đợc bảo hiểm và bên bảo hiểm lại gần nh không có mối quan hệ nào hoặc là có
nhng rất ít. Quan hệ giữa họ với bên bảo hiểm thờng bắt đầu khi bên bảo hiểm thực
hiện trách nhiệm vật chất và kết thúc khi bảo hiểm thanh toán bồi thờng xong cho
ngời đợc bảo hiểm.
10
B. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm
Đối với hợp đồng dân sự chủ thể của hợp đồng là những ngời tham gia vào
quan hệ hợp đồng đó. Phạm vi ngời tham gia vào hợp đồng bao gồm: cá nhân
(công dân Việt Nam, ngời nớc ngoài, ngời không quốc tịch), pháp nhân, hộ gia đình,
tổ hợp tác và trong trờng hợp đặc biệt là Nhà nớc.
Hợp đồng bảo hiểm gồm có hai chủ thể là bên bảo hiểm và ngời tham gia bảo
hiểm (ngời mua bảo hiểm) cũng đồng thời là ngời đợc bảo hiểm. Trong trờng hợp
hợp đồng đợc kí kết vì lợi ích của ngời thứ ba thì có ba bên tham gia hợp đồng là:
bên bảo hiểm - ngời tham gia bảo hiểm (ngời mua bảo hiểm) và ngời thứ ba (ngời đ-
ợc bảo hiểm).
I. Bên bảo hiểm
Bên bảo hiểm là tổ chức tham gia hợp đồng bảo hiểm thu phí bảo hiểm đồng
thời chịu trách nhiệm bồi thờng cho ngời đợc bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy
ra gây tổn thất cho đối tợng bảo hiểm.
Sự phát triển của bảo hiểm ở Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay gắn chặt với sự
lớn mạnh của công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Từ trớc cho đến năm 1993 Bảo
Việt đợc biết đến là bên bảo hiểm duy nhất, là ngời độc quyền về kinh doanh bảo
hiểm. Công ty bảo hiểm Việt Nam - tiền thân của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam
ngày nay ra đời ngày 17 tháng 12 năm 1964 và chính thức đi vào hoạt động ngày
15/1/1965. Ngày đầu Bảo Việt có trụ sở chính tại Hà Nội và một chi nhánh ở Hải
Phòng. Công ty hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất - nhập
khẩu, bảo hiểm tàu biển, làm đại lý giám định và xét bồi thờng cho các công ty bảo
hiểm nớc ngoài về hàng hoá xuất - nhập khẩu.
Từ năm 1975, Bảo Việt bắt đầu mở rộng phạm vi hoạt động xuất các tỉnh, thành

phố phía Nam.
Trong những năm 80, Bảo Việt chính thức có mạng lới cung cấp dịch vụ trên
khắp cả nớc, triển khai các nghiệp vụ mới. Đây cũng là thời kì Bảo Việt bắt đầu cung
cấp dịch vụ bảo hiểm hành khách và bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho chủ xe cơ
giới. Năm 1982, Bảo Việt triển khai thí điểm bảo hiểm cây lúa, đáp ứng cả yêu cầu
kinh tế và nhiệm vụ chính trị.
Cuối năm 1988 cơ cấu tổ chức của Bảo Việt gồm một văn phòng công ty với 12
phòng chức năng, 12 chi nhánh bảo hiểm địa phơng. Đầu năm 1989, theo Quyết định
của Bộ Tài chính, công ty bảo hiểm Việt Nam đợc đổi thành Tổng công ty bảo hiểm
Việt Nam nh ngày nay theo Nghị định số 195/HĐBT ngày 15/10/1989. Cơ cấu ngành
cũng thay đổi: các cơ quan đại diện của Bảo Việt tại các tỉnh chuyển thành các công
ty bảo hiểm tỉnh, Bảo Việt đợc Nhà nớc xếp loại Doanh nghiệp Nhà nớc hạng đặc
biệt, trở thành một trong 25 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam.
11
Hiện tại, Bảo Việt có 92 đơn vị thành viên, trong đó có 29 công ty bảo hiểm
nhân thọ, 61 công ty bảo hiểm phi nhân thọ, 1 trung tâm đào tạo, 1 đại lý ở Anh quốc
và có gần 300 phòng bảo hiểm khu vực. Bảo Việt có số vốn nhiều gấp hơn hai lần
tổng số vốn của tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm khác ở Việt Nam cộng lại, số quĩ
dự phòng bảo hiểm trên 1.600 tỷ đồng, với số nhân viên chiếm khoảng 70% tổng số
lao động toàn ngành. Bảo Việt luôn là doanh nghiệp dẫn đầu thị trờng, với thị phần
toàn quốc hiện tại là 66,9%.
Trong giai đoạn hiện nay, thị trờng bảo hiểm Việt Nam đã khá phát triển với sự
đa dạng về các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Đó là điều tất yếu
của nền kinh tế thị trờng, xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, nó tạo ra môi trờng
khuyến khích và cởi mở đối với các nhà đầu t nớc ngoài. Các vấn đề hỗ trợ đào tạo và
chuyển giao công nghệ cũng nh việc tiếp thu kinh nghiệm quản lý của nớc ngoài
đang là đòi hỏi đối với sự phát triển của bảo hiểm Việt Nam. Nhà nớc ta đã ban hành
rất nhiều văn bản pháp luật tạo nên cơ chế pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo
hiểm. Ngày 18/12/1993 Chính phủ ban hành Nghị định 100/CP, văn bản này đánh
dấu cho sự ra đời một thị trờng bảo hiểm hoạt động theo cơ chế thị trờng, thay cho sự

độc quyền của Bảo Việt là sự cạnh tranh gay gắt giữa nhiều chủ thể.
Các chủ thể đợc phép tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo Nghị định
này bao gồm:
- Các doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm doanh nghiệp Nhà nớc, công ty cổ phần,
công ty bảo hiểm tơng hỗ, công ty liên doanh bảo hiểm, chi nhánh của tổ chức bảo
hiểm nớc ngoài, công ty bảo hiểm 100% vốn nớc ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt
Nam.
- Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE) là doanh nghiệp Nhà nớc,
có t cách pháp nhân, có chức năng chuyên kinh doanh tái bảo hiểm.
- Tổ chức môi giới bảo hiểm.
- Đại lý bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức môi giới bảo hiểm muốn tiến hành hoạt
động kinh doanh bảo hiểm, phải đợc Bộ Tài chính cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn
và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Thống kê về các công ty bảo hiểm tại Việt Nam:
- Từ 1965 đến hết 1993, Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất tại Việt
Nam.
- Năm 1995 công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh và công ty tái bảo hiểm
quốc gia đợc thành lập, thị trờng bảo hiểm Việt Nam bắt đầu có cạnh tranh.
- Từ 1996-1998 có thêm 7 công ty bảo hiểm và môi giới khác đợc thành lập,
trong đó có 3 công ty liên doanh bảo hiểm với nớc ngoài.
12
- Năm 1999, Việt Nam chính thức mở cửa thị trờng bảo hiểm cho các công ty
bảo hiểm 100% vốn nớc ngoài hoạt động tại Việt Nam. Đã có 5 công ty bảo hiểm
mới đợc thành lập trong đó có 3 công ty 100% vốn nớc ngoài, 2 công ty liên doanh.
- Đến hết tháng 6 năm 2000, có tất cả 16 doanh nghiệp bảo hiểm tại thị trờng
Việt Nam (trong đó có 5 công ty hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ (trong
đó Bảo Việt hoạt động trong cả hai lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân
thọ), 1 công ty tái bảo hiểm, 1 công ty môi giới và 10 công ty bảo hiểm phi nhân
thọ):

+ 4 doanh nghiệp Nhà nớc: Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt), công
ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh), công ty bảo hiểm dầu khí (PVIC)
và công ty tái bảo hiểm quốc gia (VINARE).
+ 4 công ty cổ phần trong nớc: công ty cổ phần bảo hiểm Nhà nớc (Bảo Long),
công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), công ty bảo hiểm cổ phần liên hiệp
(VIC), công ty cổ phần bảo hiểm bu điện (PTI).
+ 4 công ty liên doanh với nớc ngoài: công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt
Nam (V.I.A), công ty t vấn dịch vụ bảo hiểm A
0
N - INCHINBROK (AIB), công ty
liên doanh bảo hiểm Việt - úc (BIDV - QBE), công ty liên doanh bảo hiểm Bảo Minh
- CMG.
+ 4 công ty bảo hiểm 100% vốn nớc ngoài mới đợc thành lập là: Alliauz - AGF
(bảo hiểm phi nhân thọ), Chinfon - Munulife (bảo hiểm nhân thọ) và Prudential (bảo
hiểm nhân thọ), AIA (bảo hiểm nhân thọ).
II. Ngời tham gia bảo hiểm
Ngời tham gia bảo hiểm là các tổ chức và cá nhân mua bảo hiểm do có nhu cầu
bảo hiểm hoặc có nghĩa vụ tham gia bảo hiểm theo qui định của pháp luật, là ngời
trực tiếp ký kết hợp đồng bảo hiểm với bên bảo hiểm nhằm đảm bảo sự an toàn cho
các đối tợng là tài sản, tính mạng, sức khoẻ của mình hay của ngời khác.
Trong xã hội có nhiều loại hình tổ chức nh: doanh nghiệp, cơ quan Nhà nớc,
đơn vị thuộc lực lợng vũ trang, tổ chức chính trị,... tất cả các tổ chức này đều có thể
trở thành chủ thể tham gia bảo hiểm mà không phụ thuộc họ có t cách pháp nhân hay
không, là tổ chức trong nớc hay tổ chức nớc ngoài.
Đối với cá nhân để trở thành một bên chủ thể của hợp đồng bảo hiểm thì phải
có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự và phải thoả mãn các điều kiện đợc
qui định trong từng chế độ bảo hiểm cụ thể. Cá nhân là chủ thể giao kết hợp đồng
bảo hiểm có thể là ngời Việt Nam hoặc ngời nớc ngoài.
Đối với hợp đồng mà ngời tham gia bảo hiểm kí kết nhằm bảo vệ lợi ích của
bản thân thì ngời tham gia bảo hiểm cũng đồng thời là ngời đợc bảo hiểm, còn đối

với hợp đồng đợc kí kết vì lợi ích của ngời thứ ba thì ngời đợc bảo hiểm là ngời thứ
ba.
13
III. Ngời thứ ba trong hợp đồng bảo hiểm
Khái niệm ngời thứ ba trong hợp đồng bảo hiểm xuất hiện khi hợp đồng bảo
hiểm đợc kí kết vì lợi ích của ngời thứ ba.
Ngời thứ ba trong hợp đồng bảo hiểm là ngời vì lợi ích, quyền lợi của ngời đó
khiến ngời tham gia bảo hiểm kí kết hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng tạo ra hai mối quan hệ pháp lý: thứ nhất giữa ngời tham gia bảo hiểm
và bên bảo hiểm, thứ hai giữa bên bảo hiểm và ngời thứ ba.
Giao kết hợp đồng bảo hiểm vì lợi ích của ngời thứ ba phải đáp ứng một số điều
kiện khi thì liên quan đến các bên giao kết, khi thì liên quan đến ngời thứ ba.
Trớc hết, giữa các bên giao kết phải có một hợp đồng, trong đó bên tham gia
bảo hiểm đã chuyển tất cả các quyền lợi của mình do hợp đồng mang lại cho ngời
thứ ba.
Đối với ngời thứ ba có hai vấn đề đặt ra:
- Có thể giao kết cho một ngời không xác định đợc không? Trờng hợp này có
thể đợc chấp nhận với điều kiện là ngời thứ ba hởng lợi phải có thể xác định đợc vào
ngày mà sự thực hiện hợp đồng có hiệu lực đối với họ. Vậy điều trở ngại cho sự hữu
hiệu của việc giao kết hợp đồng bảo hiểm vì lợi ích của ngời thứ ba không phải là ng-
ời thứ ba không đợc xác định trong hiện tại mà vì ngời đó không thể xác định trong t-
ơng lai, hay nói cách khác đi không bao giờ có thể xác định đợc. Ví dụ: một tổ chức
xuất khẩu hàng hoá đem bảo hiểm hàng hoá gửi đi cho một thơng gia, nhng thay vì
ghi ngời đợc bảo hiểm là thơng gia nọ, tổ chức này lại ghi rằng ngời đợc bảo hiểm là
chủ sở hữu cuối cùng của hàng hoá với mục đích là để đề phòng khi hàng hoá bị mất
hay h hao dọc đờng thì ngời mua lại hàng hoá đó có thể đợc hởng tiền bồi thờng của
hãng bảo hiểm.
- Có thể thực hiện hợp đồng cho một ngời cha sinh ra đời không?
Sự giao kết cho một ngời thứ bao tơng lai phải coi là sự hữu hiệu nhng hiệu lực
của sự giao kết bị đình chỉ cho tới khi ngời thứ ba ra đời. Trong hợp đồng bảo hiểm

nhân thọ ngời ta có thể giao kết vì quyền lợi của con cháu đã sinh hay sắp sinh ra.
C. Sự kiện bảo hiểm
Bên bảo hiểm chỉ phải thực hiện hợp đồng bảo hiểm tức là thực hiện trách
nhiệm bồi thờng thiệt hại cho ngời đợc bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm. Sự kiện
bảo hiểm có thể hiểu là những rủi ro gây ra tổn thất thiệt hại cho đối tợng đợc bảo
hiểm đã đợc các bên kí kết hợp đồng bảo hiểm thoả thuận.
Điều 575 Luật dân sự định nghĩa: Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do
các bên thoả thuận hoặc pháp luật qui định mà khi có sự kiện đó xảy ra thì bên
bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên đợc bảo hiểm.
14
I. Rủi ro bảo hiểm.
Rủi ro là khả năng có thể gây ra h hỏng, thiệt hại hoặc huỷ hoại cho đối tợng đ-
ợc bảo hiểm. Rủi ro đợc bảo hiểm có thể do thiên tai hoặc do con ngời gây ra và rủi
ro đó phải có khả năng gây ra thiệt hại. Các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm bao giờ
cũng đặc biệt quan tâm đến thoả thuận về sự kiện bảo hiểm trong đó có rủi ro đợc
bảo hiểm vì nó có ý nghĩa quyết định cho vấn đề có bồi thờng hay không bồi thờng.
Quá trình lịch sử phát triển của bảo hiểm đã ngày càng hoàn thiện những nguyên tắc
của hoạt động bảo hiểm trong đó việc xác định những rủi ro đợc bảo hiểm cho từng
nghiệp vụ bảo hiểm có ý nghĩa rất quan trọng vì nó phải làm sao bảo đảm lợi ích của
khách hàng mà lại đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của bên bảo hiểm. Xin đợc nêu
ra một số nguyên tắc bảo hiểm mà đợc coi là nền tảng của hoạt động bảo hiểm:
- Nguyên tắc bảo hiểm đối với rủi ro khách quan: theo nguyên tắc này, chỉ
những rủi ro tham gia bảo hiểm mới có thể đợc bảo hiểm. Những rủi ro do ngời đợc
bảo hiểm cố ý gây ra không thuộc sự kiện bảo hiểm vì rõ ràng hành vi cố ý đó là một
sự gây thiệt hại cho xã hội không đúng với mục đích, ý nghĩa của bảo hiểm. Đây là
một nguyên tắc mà nghiệp vụ bảo hiểm nào cũng ghi nhận. Điều 5 khoản 1 - Qui tắc
bảo hiểm tai nạn con ngời (ban hành kèm theo Quyết định số 391/TCBH ngày
20/9/1991) qui định: Hành động cố ý tự gây ra tai nạn của ngời đợc bảo hiểm
hoặc của ngời thừa kế hợp pháp đều không thuộc phạm vi bảo hiểm. Và ở Điều 11
- Qui tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với ngời thứ ba cũng qui định: Bảo Việt

sẽ không bồi thờng cho ngời đợc bảo hiểm các tổn thất liên quan đến hành động cố
ý của ngời đợc bảo hiểm hay ngời đại diện của họ. Cần hiểu rằng không phải mọi
trách nhiệm đều đổ hết lên công ty bảo hiểm mà ngời tham gia bảo hiểm cũng phải
có trách nhiệm trong việc không để xảy ra rủi ro hoặc hạn chế hậu quả của rủi ro
trong phạm vi khả năng của mình do đó khi họ cố ý gây ra rủi ro để hởng bảo hiểm
thì đó là hành vi trục lợi và họ đã không thực hiện trách nhiệm của mình do vậy mà
chính họ phải gánh chịu rủi ro đó.
- Nguyên tắc bảo hiểm đối với rủi ro có tính ngẫu nhiên: điều đó có nghĩa là
những rủi ro đợc bảo hiểm không phải là những rủi ro xảy ra có tính tất yếu trên thực
tế. Những rủi ro đã biết trớc chắc chắn sẽ gây ra thiệt hại không thuộc sự kiện bảo
hiểm vì bảo hiểm chỉ có thể nhận bảo hiểm những rủi ro mang tính chất bất ngờ
không lờng trớc đợc. Điều 6 - Qui tắc bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự chủ
tàu đối với tàu thuyền hoạt động trên sông hồ, vùng nội thuỷ (ban hành kèm theo
Quyết định 254/TCQD ngày 25/5/1990 của Bộ Tài chính) có qui định: Bảo Việt
không chịu trách nhiệm bồi thờng nếu tổn thất xảy ra do nguyên nhân tàu không đủ
khả năng hoạt động .
Trên thực tế nếu rủi ro phát sinh do hành vi của chính ngời tham gia bảo hiểm
thực hiện thì rủi ro đó phải đợc xem xét trong mối liên hệ với lỗi và động cơ của ngời
thực hiện hành vi mới đợc coi là rủi ro đợc bảo hiểm. Ví dụ, trong hợp đồng bảo
15
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thì Bảo Việt sẽ không chịu trách nhiệm
bồi thờng những tổn thất xảy ra do chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng điều lệ giao
thông đờng bộ nh: xe không có giấy phép lu hành; lái xe không có bằng lái hoặc có
bằng lái không hợp lệ; lái xe uống rợu bia, sử dụng ma tuý hoặc các chất kích thích
khác trong khi điều khiển xe; xe chở chất cháy, chất nổ trái phép; xe chở quá trọng
tải hoặc số hành khách qui định; xe đi vào đờng cấm hoặc đi đêm không có đèn (theo
qui tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ban hành kèm theo Quyết
định 504/TCBH ngày 20/11/1991 của Bộ trởng Bộ Tài chính). Chỉ trong một số loại
bảo hiểm cá biệt, bên bảo hiểm mới chịu trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho ngời đợc
bảo hiểm khi rủi ro do chính hành vi của họ gây ra với lỗi cố ý. Điều này đợc qui

định rõ trong từng hợp đồng bảo hiểm cụ thể, căn cứ vào đặc điểm của loại bảo hiểm
đó, đặc điểm của đối tợng bảo hiểm. Ví dụ: theo chế độ bảo hiểm nhân thọ thời hạn 5
năm và 10 năm thì đối với trờng hợp ngời đợc bảo hiểm chết do tự tử, nhiễm vi rút
HIV, nếu hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên thì bên bảo hiểm sẽ trả
tiền bảo hiểm theo mức qui định.
Sự kiện bảo hiểm là một yếu tố không thể thiếu của hợp đồng bảo hiểm và do
tính chất quan trọng của nó mà các công ty bảo hiểm thờng xây dựng các qui tắc bảo
hiểm cho từng nghiệp vụ bảo hiểm trong đó có hai vấn đề then chốt là phạm vi bảo
hiểm và các điểm loại trừ bảo hiểm. Các khách hàng cũng có thể thoả thuận cùng
doanh nghiệp bảo hiểm về những điểm riêng biệt để đáp ứng nhu cầu đa dạng của
mình.
Phạm vi của bảo hiểm chính là những sự kiện đợc bên bảo hiểm chấp nhận bảo
hiểm. Bên bảo hiểm chỉ chấp nhận bảo hiểm khi và chỉ khi rủi ro xảy ra đó thuộc
phạm vi bảo hiểm. Hay nói đúng hơn là có sự lựa chọn nguyên nhân dẫn đến rủi ro.
Không phải mọi nguyên nhân gây ra rủi ro đều đợc bảo hiểm mà chỉ một số nguyên
nhân nhất định mà gây ra rủi ro mới đợc bên bảo hiểm bồi thờng. Ví dụ phạm vi bảo
hiểm trong bảo hiểm tai nạn con ngời là những trờng hợp ngời đợc bảo hiểm bị chết
hay thơng tật do tai nạn bất ngờ hoặc do có hành vi cứu ngời, tài sản của Nhà nớc,
của cá nhân hoặc tham gia chống các hành động phạm pháp. Trong bảo hiểm hoả
hoạn bên bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thờng nếu tài sản đợc bảo hiểm bị h
hỏng hoặc huỷ hoại do bị cháy. Nếu do những nguyên nhân khác thì bảo hiểm sẽ
không chịu trách nhiệm.
Các điểm loại trừ bảo hiểm (hay còn gọi là những sự kiện không thuộc sự kiện
bảo hiểm) cũng đợc qui định cụ thể trong hợp đồng bảo hiểm nhằm làm rõ ràng hơn
ranh giới trách nhiệm của bên bảo hiểm và để giúp khách hàng hiểu rõ đợc phạm vi
quyền lợi của mình. Nó sẽ chỉ ra những thiệt hại, những nguyên nhân, những lĩnh
vực hoạt động, những vùng địa lý,... mà công ty bảo hiểm không nhận bảo hiểm. Bởi
lẽ những điều này trớc hết để đảm bảo an toàn cho hoạt động quá lớn vợt quá khả
năng thanh toán của công ty bảo hiểm, hay những nguyên nhân mà làm mất đi
nguyên tắc bảo hiểm khách quan, ngẫu nhiên,... Bên cạnh đó nó còn có mục đích

16
nhằm hạn chế bớt những rủi ro tơng đối rộng có thể xảy ra cho đối tợng bảo hiểm từ
đó mà giữ đợc phí bảo hiểm ở mức hợp lý. Bởi lẽ công ty bảo hiểm khi đa ra mức phí
bảo hiểm bao giờ cũng phải tính toán trên cơ sở xác suất xảy ra rủi ro. Nếu rủi ro
càng cao thì phí bảo hiểm càng lớn và khi đó sẽ có rất ít ngời chịu đợc mức phí cao
nh vậy. Những điểm loại trừ làm giảm khả năng xảy ra rủi ro nên tất nhiên phí bảo
hiểm cũng đợc giảm xuống. Trong các hợp đồng bảo hiểm, những rủi ro xảy ra do
các nguyên nhân chiến tranh, bạo loạn thờng đợc liệt vào những điểm loại trừ vì
những rủi ro này có tính chất thảm hoạ tàn khốc và hậu quả rất lớn mà một mình
công ty bảo hiểm không thể gánh chịu (riêng đối với bảo hiểm hàng hải có ngoại lệ
là các rủi ro trên có thể trở thành rủi ro đợc bảo hiểm nếu ngời tham gia bảo hiểm có
thoả thuận bảo hiểm thêm những rủi ro này).
II. Tổn thất
Nhìn chung những rủi ro khi xảy ra đều gây tổn thất nhng cũng có khi rủi ro lại
không dẫn đến tổn thất. Sự kiện bảo hiểm là những rủi ro gây tổn thất cho đối tợng
bảo hiểm. Hơn nữa, tổn thất đó phải là hậu quả của rủi ro, rủi ro là nguyên nhân
chính, trực tiếp của tổn thất.
Tổn thất có thể hiểu là những thiệt hại, sự biến đổi theo chiều hớng tiêu cực của
đối tợng bảo hiểm. Một tổn thất khi muốn đợc bảo hiểm thì phải thoả mãn những
điều kiện chính: sự thiệt hại phải chắc chắn, phải cha đợc bồi thờng và phải là hậu
quả trực tiếp của các rủi ro đợc bảo hiểm.
Sự thiệt hại phải chắc chắn: điều đó không có nghĩa là bắt buộc thiệt hại đó phải
đã xảy ra, một sự thiệt hại tơng lai cũng có tính chắc chắn nếu nhất định sẽ xảy ra và
có thể ớc lợng đợc. Trái lại một sự thiệt hại không chắc chắn sẽ xảy ra hoặc chỉ có
tính cách giả định thì không thể đợc bồi thờng. Ví dụ một ngời kí hợp đồng bảo hiểm
để bảo hiểm tính mạng của mình, khi ngời này bị tai nạn nhng không chết ngay mà
theo kết quả giám định do công ty bảo hiểm tiến hành thì sau một tháng nữa ngời đó
chắc chắn sẽ chết. Trờng hợp này thiệt hại (tính mạng) cha xảy ra nhng cũng chắc
chắn và nh vậy phải đợc bồi thờng.
Sự thiệt hại phải cha đợc bồi thờng hoặc bồi thờng cha đủ. Có ba loại bảo hiểm

là bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm con ngời và bảo hiểm tài sản. Đối với bảo hiểm
trách nhiệm, dĩ nhiên nạn nhân đã đợc công ty bảo hiểm bồi thờng thì không thể kiện
ngời gây ra tai nạn để đòi bồi thờng thêm một lần thứ hai, vì khi bồi thờng cho nạn
nhân, công ty bảo hiểm đã đại diện cho ngời gây ra tai nạn. Hoặc khi ngời gây ra tai
nạn đã bồi thờng đầy đủ cho nạn nhân thì nạn nhân cũng không có quyền đòi công ty
bảo hiểm bồi thờng nữa.
Sự thiệt hại phải là hậu quả trực tiếp của rủi ro đợc bảo hiểm. Nếu thiệt hại là do
những nguyên nhân khác thì cũng không đợc bảo hiểm. Ví dụ: một chủ tàu bảo hiểm
cho tàu của mình, khi đi trên biển gặp bão và tàu bị đắm nhng thiệt hại này không
17
phải do bão gây ra mà là do tàu đã quá cũ không còn khả năng đi biển do vậy sẽ
không đợc bồi thờng.
Việc tính toán mức tổn thất đều phải dựa vào giá trị thiệt hại thực tế của tai nạn,
tổn thất. Trong một số hợp đồng bảo hiểm tài sản, đặc biệt là bảo hiểm hàng hải ngời
ta còn phân biệt tổn thất chung, tổn thất riêng, tổn thất toàn bộ, tổn thất bộ phận.
Việc phân biệt này có ý nghĩa trong giải quyết bồi thờng khi có sự kiện bảo hiểm xảy
ra.
- Căn cứ vào qui mô và mức độ tổn thất: tổn thất đợc chia thành tổn thất toàn bộ
và tổn thất bộ phận.
+ Tổn thất bộ phận: là việc hàng hoá bị mất mát hoặc giảm giá trị và giá trị sử
dụng ở một mức độ nhất định. Các trờng hợp hàng hoá bị mất mát thì dễ xác định giá
trị tổn thất còn sẽ rất khó xác định chính xác đối với hàng hoá bị giảm giá trị và giá
trị sử dụng. Cũng cần phân biệt tổn thất bộ phận với sự hao hụt tự nhiên của hàng
hoá. Có nhiều hàng hoá có đặc tính bị hao hụt một cách tự nhiên. Ví dụ: xăng có thể
bị bay hơi, muối có thể bị chảy nớc,... đó hoàn toàn là do đặc tính tự nhiên của hàng
hoá không phải là rủi ro và do đó không đợc tính số hao hụt tự nhiên vào tổng số tổn
thất để đòi bảo hiểm bồi thờng. Các bên khi bảo hiểm hàng hoá có hao hụt tự nhiên
thờng thoả thuận khấu trừ theo một tỷ lệ nào đó để loại trừ hao hụt tự nhiên ra khỏi
tổn thất đợc bồi thờng.
+ Tổn thất toàn bộ: là hàng hoá bị mất hết hoặc bị phá huỷ hoàn toàn làm cho

mất hẳn giá trị sử dụng. Tổn thất ở đây là mức độ lớn nhất không có khả năng khôi
phục lại. Tổn thất toàn bộ khác tổn thất toàn bộ ớc tính. Tổn thất toàn bộ ớc tính là
dạng tổn thất không thể tránh khỏi tổn thất toàn bộ thực tế hay vì chi phí cứu hàng, tu
bổ lại hàng hoá, tài sản có thể vợt quá giá trị bảo hiểm (giá trị của tài sản, hàng hoá
đó). Trong trờng hợp xác định tổn thất toàn bộ ớc tính thì chủ hàng (ngời đợc bảo
hiểm) có quyền tuyên bố từ bỏ hàng để đợc bồi thờng nh tổn thất toàn bộ. Ngời bảo
hiểm phải bồi thờng toàn bộ giá trị tài sản, hàng hoá đồng thời đợc quyền sở hữu
hàng hoá đó.
- Căn cứ vào các quyền lợi có mặt: có hai loại là tổn thất riêng và tổn thất
chung.
+ Tổn thất riêng: là tổn thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ ngẫu nhiên gây ra chỉ
liên quan đến từng quyền lợi bảo hiểm riêng biệt. Tổn thất riêng chỉ gây ra thiệt hại
cho quyền lợi của một vài chủ hàng, chủ tài sản trong số rất nhiều chủ hàng, chủ tài
sản. Tổn thất riêng có thể là tổn thất bộ phận, có thể là tổn thất toàn bộ. Tổn thất
riêng rơi vào chủ hàng nào thì chủ hàng đó phải gánh chịu. Tổn thất riêng có thể đợc
bảo hiểm hoặc không đợc bảo hiểm tuỳ thuộc vào điều kiện bảo hiểm.
+ Tổn thất chung là những tổn thất về tài sản vật chất và những chi phí phát sinh
do hành động bảo vệ lợi ích chung của con ngời trong những tình huống, điều kiện
18
cấp bách để cứu tàu và hàng hoá. Tổn thất chung đợc phân bổ cho tất cả các quyền
lợi có mặt cùng gánh chịu bao gồm thiệt hại về vật chất và các chi phí có liên quan.
Các yếu tố xác định tổn thất chung:
Tình huống phải đặc biệt cấp bách, có nguy cơ thực sự đe doạ chuyến hàng.
Nguyên nhân của tổn thất phải do hành động hy sinh cố ý để bảo vệ lợi ích
chung của con ngời.
Tổn thất phải nhằm mục đích cứu vãn cả hành trình.
Tổn thất và chi phí bỏ ra phải hợp lý, phải phù hợp với hoàn cảnh.
Ví dụ: nh hành động hy sinh quyền lợi của một số ít để đảm bảo quyền lợi
chung của các chủ hàng trong hành trình.
Trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu những hy sinh dới đây đợc coi là tổn

thất chung:
Tàu gặp bão hay bị địch đuổi phải vứt một số hàng xuống biển làm nhẹ tàu
cho tàu chạnh nhanh thoát nạn, hàng vứt xuống biển là tổn thất chung.
Tàu bị cạn, muốn ra khỏi cạn phải thúc máy chạy quá sức bị nổ nồi hơi đợc
coi là tổn thất chung.
Tàu bị nạn thiếu nhiên liệu phải lấy bàn ghế của tàu để đốt thay nhiên liệu là
tổn thất chung.
Tàu bị cháy phải bơm nớc để dập tắt, hàng bị hỏng do ngấm nớc.
Nguyên nhân dẫn đến tổn thất trong những trờng hợp trên mang tính chủ quan,
hoàn toàn là ý chí tự nguyện của con ngời. Song có thể hiểu rằng việc làm này là rất
cần thiết để cứu cho chuyến hàng khỏi cơn nguy hiểm đe doạ cả tính mạng và hàng
hoá. Nó đợc coi là sự hy sinh chứ không phải là một hành động có hại vì nếu không
hành động nh vậy thì tổn thất sẽ lớn hơn. Những trờng hợp này đợc công ty bảo hiểm
bồi thờng cho ngời đợc bảo hiểm theo mức đóng góp vào tổn thất chung.
D. Đối tợng của hợp đồng bảo hiểm
Khái niệm: đối tợng của hợp đồng bảo hiểm là những thực thể có thể bị rủi ro
xâm hại (con ngời, tài sản) hoặc là trách nhiệm pháp lý do rủi ro mà phát sinh nghĩa
vụ dân sự về đền bù vật chất (trách nhiệm dân sự).
Chính vì sự an toàn hay bảo toàn cho đối tợng này mà các bên kí kết hợp đồng
bảo hiểm.
Điều 573 Bộ Luật dân sự qui định: đối tợng của bảo hiểm bao gồm con ngời,
tài sản, trách nhiệm dân sự và các đối tợng khác theo qui định của pháp luật.
19
1. Đối tợng bảo hiểm là tài sản.
Không phải tất cả các loại tài sản đều có thể là đối tợng đợc bên bảo hiểm nhận
bảo hiểm. Bởi vì trong đời sống xã hội, trong nền kinh tế có nhiều loại tài sản. Đó có
thể là tài sản hữu hình hoặc là tài sản vô hình. Tài sản hữu hình là tài sản có hình thái
vật chất cụ thể, có thể xác định đợc giá trị theo các cách thức thông thờng. Tài sản vô
hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể, đợc biểu hiện dới các hình
thức nh bản quyền nhãn hiệu hàng hoá, các quyền lợi tài chính,... việc xác định giá

trị rất khó khăn, phức tạp. Bởi vậy bên bảo hiểm thờng chỉ nhận bảo hiểm đối với
những tài sản có thể xác định chính xác giá trị. Trong thực tế, các hợp đồng bảo hiểm
tài sản có đối tợng bảo hiểm thờng có giá trị lớn và nguy cơ bị rủi ro xâm hại cao.
Đối với những tài sản có giá trị quá lớn nh tàu biển, máy bay thì ngời ta có thể chỉ
bảo hiểm đối với một bộ phận của vật nh thân tàu, thân máy bay,... vì nh vậy thì
khách hàng mới có thể trả đợc phí bảo hiểm không quá cao và cũng đảm bảo khả
năng bồi thờng của công ty bảo hiểm.
Bảo hiểm tài sản phát triển mạnh trên thế giới và ở Việt Nam, các nghiệp vụ bảo
hiểm tài sản ngày càng đa dạng, mở rộng ứng với sự đa dạng của các đối tợng là tài
sản. Ví dụ trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới thì đối tợng bảo hiểm là chiếc xe cơ
giới.
Hiện nay ở Việt Nam phổ biến là các loại bảo hiểm tài sản sau:
- Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
- Bảo hiểm thân tàu, thuyền.
- Bảo hiểm về đầu t, xây dựng, lắp đặt.
- Bảo hiểm cây trồng, vật nuôi.
- Bảo hiểm về tín dụng.
- Bảo hiểm cháy.
- Bảo hiểm trộm cớp,...
2. Đối tợng bảo hiểm là con ngời
Con ngời là thành phần cơ bản của đời sống xã hội. Chính vì vậy, con ngời là
đối tợng của nhiều loại bảo hiểm và bảo đảm xã hội. Con ngời là đối tợng của bảo
hiểm đợc xem trên các phơng diện: tính mạng, sức khoẻ, khả năng hoạt động của con
ngời.
Vì đối tợng bảo hiểm là tính mạng, sức khoẻ của con ngời nên không thể xác
định đợc giá trị của đối tợng bảo hiểm.
ở Việt Nam hiện nay chỉ riêng Bảo Việt đã có tới 24 sản phẩm bảo hiểm con
ngời và đang có xu hớng mở rộng gồm: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn con ng-
ời, bảo hiểm trợ cấp nằm viện và phẫu thuật. Đặc biệt lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ là
lĩnh vực mới đang phát triển rầm rộ và đợc coi là sản phẩm khai thác chiến lợc, xuất

20

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×