Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của độ cao mầm củ đến năng suất, chất lượng hoa lily Sorbonne trồng chậu vụ Đông Xuân 2010 2011 tại Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.83 KB, 55 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Từ ngàn xưa cha ông ta đó yờu hoa, chơi hoa và coi nó như món ăn tinh
thần vô giá, là người bạn tâm giao. Hoa tượng trưng cho cái đẹp, mỗi loài
mang một ý nghĩa khác nhau, chứa đựng một tính cách riêng. Dưới thời
phong kiến nó được dùng như một tiêu chí đánh giá địa vị của con người
trong xã hội “vua chơi lan, quan thưởng trà, bậc thế gia chơi cảnh” cho thấy
ngay từ xa xưa hoa, cây cảnh có vị trí lớn đến nhường nào trong đời sống.
Ngày nay cùng với sự tiến bộ và phát triển của xã hội, hoa tiếp tục được
khai thác sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực phục vụ con người như trong y học
dùng làm thuốc, nghiên cứu khoa học, chế xuất nước hoa, trang trí cảnh
quan do vậy được khai thác sản xuất, kinh doanh thương mại đem lại giá trị
kinh tế rất lớn.
Cùng với đời sống con người ngày càng cao thì nhu cầu về hoa cũng
tăng lên. Thị hiếu cũng vậy, song song các loại hoa truyền thống như cúc,
hồng, cẩm chướng thì các loại hoa cao cấp như lan, lily đang rất được ưa
chuộng trên thế giới và ở Việt Nam. Trong các loại hoa cao cấp thì hoa lily là
một trong những loại hoa có giá trị rất cao và rất được ưa chuộng hiện nay bởi
vẻ đẹp lạ, chất lượng cao, hương thơm quyến rũ, màu sắc quý phái.
Thỏi Nguyên là một trung tâm về kinh tế, chính trị, xã hội và khoa học –
giáo dục của khu vực Trung Du Miền Núi phía Bắc, có vị trí địa lý thuận lợi,
có đất đai rộng, nên hội tụ nhiều điều kiện tốt để phát triển sản xuất kinh
doanh hoa truyền thống và hoa cao cấp trong đó có hoa lily.
Hiện nay, kỹ thuật trồng hoa lily phổ biến trồng bằng củ song chưa xác
định được các độ cao mầm thích hợp khi sản xuất nên chưa khai thác được
chất lượng tốt nhất của giống. Nắm bắt được điều đó, chúng tôi tiến hành đề
tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của độ cao mầm củ đến năng suất, chất lượng
hoa lily Sorbonne trồng chậu vụ Đông Xuân 2010 - 2011 tại Thỏi
Nguyờn”.
1


1.2. Mục đích nghiên cứu
- Xác định độ cao mầm củ hoa lily Sorbonne trồng trong chậu cho chất
lượng hoa tốt nhất.
1.3. Yêu cầu nghiên cứu
- Theo dõi sự sinh trưởng, phát triển của hoa lily trồng trong chậu ở các
độ cao mầm củ.
- Theo dõi khả năng chống chịu sâu bệnh hại và điều kiện ngoại cảnh.
- Theo dõi các chỉ tiêu năng suất, chất lượng của hoa lily trồng trong
chậu ở các độ cao mầm củ.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa trong công tác học tập và nghiên cứu khoa học: Thu thập được
những kinh nghiệm và kiến thức thực tế, củng cố lý thuyết đã học, biết cách
thực hiện một đề tài khoa học.
- í nghĩa trong thực tiễn sản xuất: Xác định độ cao mầm củ tốt nhất của
giống hoa lily Sorbonne trồng chậu, góp phần khai thác tốt hơn nguồn củ
giống nhập nội hiện nay.
2
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Nguồn gốc
Trung Quốc là nước trồng hoa lily sớm nhất. Theo tài liệu cổ Thần nông
bản thảo thì củ lily có tác dụng thanh phế, nhuận táo, tư âm thanh nhiệt. Vì
vậy, củ lily ngoài tác dụng làm giống còn được dùng để ăn, làm thuốc chữa
bệnh…
Những nghiờn cứu cho rằng việc trồng hoa lily để lấy củ ăn làm thuốc
bắt đầu từ thời Đường (Trung Quốc), nhưng trước đó cũng đó cú nhiều bài
thơ ca ngợi về hoa lily. Vì vậy, chẳng những người ta thích ăn củ mà còn
thích thưởng thức vẻ đẹp của hoa lily.
Đến thế kỷ XIII, ít nhất có ba loại lily được ghi chép lại. Loại thứ nhất là

lily Trắng, dùng làm thuốc chữa bệnh được gọi là loại hoang dược
(L.Braxnu), loại thứ hai là Quyển Đan (L.Lancipilium), loại thứ ba là Sơn
Đan (L.Taralium).
Đến cuối thế kỷ XVI các nhà thực vật người Anh đã phát hiện và đặt tên
cho các giống lily. Đến đầu thế kỷ XVII, lily được di thực từ châu Âu sang
châu Mỹ và đến thế kỷ XVIII các giống lily của Trung Quốc di thực sang
châu Âu, nhờ vẻ đẹp và hương thơm của hoa lily nờn đó nhanh chóng phát
triển và được coi là cây quan trọng ở châu Âu và châu Mỹ.
Sau đại chiến thế giới II, các nước châu Âu có cao trào tạo giống lily, rất
nhiều giống lily hoang dại đã được sử dụng làm giống bố mẹ và người ta đã
tạo ra nhiều giống mới quý, có giá trị đến ngày nay (Đặng Văn Đông – Đinh
Thế Lộc) [8].
2.1.2. Phân loại giống
* Phân loại theo nguồn gốc nơi sinh và bố mẹ.
Do sự mua bán lily trên thế giới phát triển nên công tác tạo giống được
mở rộng, giống mới ngày càng nhiều. Để tiện cho việc giới thiệu buôn bán,
3
hiệp hội làm vườn Hoàng gia Anh (Royal Horticulturral Society
Lylicommittie) năm 1963 đưa ra hệ thống phân loại. Hệ thống này chủ yếu
dựa vào bố mẹ, con lai, người tạo giống và năm tạo giống chia giống trồng
trọt ra làm 5 nhóm:
Nhóm 1: Gồm L.Auratum, L.Spucicsum, L.Faponicum, L.Rubellum chủ
yếu là các giống lai có nguồn gốc khác nhau, nhóm này được hệ thống phân
loại quy về dòng tạp giao lily Phương Đông.
Nhóm 2: Gồm L.Lancipollium, L.Lechttini var Maximwicgi,
L.Caculamabel, L.Pumilum, L.Pulboerem var Ckoceum, L.Dacidu,
L.Wiblanottiac, nhóm này chủ yếu giống Carotiuoid là chính, hệ thống này
phân loại quy về dòng lily châu Á tạp giao.
Nhóm 3: Gồm lily Thơm (L.Langiflorcum), lily Đài Loan
(L.Sulyhureum), lily Trắng (L.Candidum), lily Vương (L.Regala) là chính, hệ

thống này phân loại quy về dòng lily lai châu Á và dòng lai Phương Đông
Nhóm 4: Gồm lily Hỏn Lõm (L.Hansoni), lily Tinh Diệp (L.Martagou)
là chính, cùng với L.Chalcudonicum, lily Ốc Đan, lai tạo chọn lọc ra, hệ
thống này phân loại quy về dòng lily tạp giao, lily Tinh Diệp.
Nhóm 5: Gồm lily lông (L.Coruum), lily Hồ Bắc lai tạo chọn ra, nhóm
này được quy về giống thuộc dòng lai châu Á và dòng lai Phương Đông.
Năm 1982 hội hoa lily quốc tế đề ra hệ thống phân loại trên cơ sở hệ
thống phân loại của Anh năm 1963. Hệ thống này đưa ra nơi nguyên sản của
bố mẹ, quan hệ huyết thống, đặc trương hình thái và màu sắc hoa quy các
giống lily vào 8 nhóm:
Nhóm 1: Dòng lai lily châu Á (Asiation tuybrias)
Nhúm 2: Dòng lai lily Tinh Diệp (Martagon tybrids)
Nhúm 3: Dòng lai lily hoa Trắng (Condidumhybrads)
Nhóm 4: Dòng lai lily châu Mỹ (Amarican hybrids)
Nhóm 5: Dòng lai lily Loa Kèn (Trunpethybrids)
Nhóm 6: Dòng lai lily Thơm (Longiplorum hybrids)
Nhóm 7: Dòng lai lily Phương Đông (Orienggal hybrids)
Nhóm 8: Các loại hình khác (Miscellaneous hybrids)
4
* Phân loại theo thời gian ra hoa
- Loại hoa ra sớm: Từ trồng tới ra hoa 60 – 80 ngày, chủ yếu nhóm lai
châu Á, thường gặp là Kinhs, Lotus, Sanciro, Lavocaro, Orango, Mountain.
- Loại hoa ra vừa: Từ trồng đến ra hoa 85 – 100 ngày, chủ yếu thuộc
dòng lai châu Á, một số giống thường thấy là: Avigon, Enchantmemt.
- Loại ra hoa ra muộn: Từ trồng tới ra hoa 105 – 120 ngày, các giống chủ
yếu thuộc dòng lai Phương Đông và lily Thơm, các giống thường gặp là:
Olmypicstar, Stargazer…
- Loại hoa ra cực muộn: Từ trồng tới ra hoa 120 – 140 ngày, các giống
chủ yếu thuộc dòng lai Phương Đông và lily Thơm, các giống thường gặp là:
Diablanca, Contesse, Casablanca.

* Phân loại theo mầu sắc hoa
Chia ra dòng hoa đỏ (R2D), phấn hồng (Pinca), trắng (White), vàng mơ
(Apricot), và nhiều mầu (Mutiple – color) 6 loại.
2.1.3. Đặc tính sinh vật học hoa lily
* Đặc điểm thực vật học hoa lily.
- Củ con và mầm hạt: Đại bộ phận hoa lily có nhiều củ con ở phần thân rễ,
chu vi mỗi củ 0,5 – 3 cm, số lượng củ tùy thuộc vào giống. Một số giống như Đan
Quyển và các giống tạp giao ở nách lá có mầm hạt chu vi 0,5 – 1,5 cm.
- Rễ: Rễ gồm hai phần là rễ thân và rễ gốc, rễ thõn cũn gọi là rễ trên mọc
ở phần thõn dưới đất sinh ra có nhiệm vụ nâng đỡ thân, hút nước và dinh
dưỡng. Rễ gốc còn gọi là rễ dưới mọc ra từ gốc thân vảy, chủ yếu là hút nước
và dinh dưỡng.
- Thân vảy: Là phần phình to của thân có hình cầu dẹt, hình trứng, hình
trứng dài, hình elip… Thân vảy không có vỏ bao bọc, màu sắc phụ thuộc vào
giống: Có màu trắng, vàng, cam, tớm… Kích thước củ to nhỏ phụ thuộc vào
giống, độ lớn của thân vảy tỉ lệ với số hoa ở trên cành. Vảy thì có hình kim
xòe ra, hoặc hình elip, có đốt hoặc không có đốt. Mầm vảy to ở ngoài và nhỏ
ở trong là nơi dự trữ chất dinh dưỡng và nước cho thân vảy.
- Hoa: Mọc đơn lẻ hoặc xếp đặt trên trục hoa, hoa chúc xuống, vươn ngang
hoặc hướng lên, cánh đài cùng màu với cánh tràng, hoa có nhiều màu như đỏ, hồng,
hồng đậm, vàng, trắng… có hoặc không có hương thơm.
5
- Quả: Hình trứng dài, mỗi quả có vài trăm hạt, bên trong có cánh mỏng
hình bán cầu hoặc ba gúc vuông dài, trong điều kiện khô lạnh có thể bảo quản
được 3 năm.
* Đặc điểm sinh trưởng, phát dục:
- Đặc điểm sinh trưởng:
Thân vảy được coi như là mầm dinh dưỡng, thân vảy vùi trong đất
khoảng hai tuần sẽ nảy mầm, tuy nhiên còn phụ thuộc vào nhiệt độ, ẩm độ…
Các giống khác nhau có sự chênh lệch nhau khá lớn về thời gian sinh trưởng

của cây, chiều cao cây là một trong những yếu tố cấu thành chất lượng của
cành hoa nó được quyết định bởi số lá và chiều của đốt, số lá chịu ảnh hưởng
của chất lượng củ giống do vậy mà số lá đã được quyết định trước khi trồng,
chiều cao cây vẫn chịu ảnh hưởng lớn của chiều dài đốt, trong điều kiện ánh
sáng yếu ngày dài, nhiệt độ thấp và sử lý trước khi bảo quản lạnh lâu đều cú
tỏc dụng kéo dài đốt thân và ngược lại.
- Đặc điểm phát dục:
Trong điều kiện miền bắc Việt Nam hoa lily được trồng vào tháng 9,
tháng 10 và bắt đầu phân hóa mầm hoa vào tháng 11, 12. Quá trình phân hóa
mầm hoa kéo dài 40 – 60 ngày, khi cây bắt đầu nảy mầm cũng là lỳc cõy phân
hóa mầm hoa, một số giống thuộc nhóm lai phương Đông và lily thơm thì sau
khi cây nảy mầm một tháng mới bắt đầu phân hóa mầm hoa. Sự phân hóa hoa
và số lượng mầm hoa chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện sau khi trồng. Thời
gian quả chín phụ thuộc vào giống dao động trong khoảng 60 – 150 ngày.
* Sự ngủ nghỉ của hoa lily và biện pháp phá ngủ nghỉ:
Kỹ thuật quan trọng trong trồng lily phải phá ngủ nghỉ của củ, nếu trồng mà
không qua giai đoạn phá ngủ nghỉ sẽ cho tỷ lệ nảy mầm thấp, xuất hiện hiện
tượng hoa mù. Thường sử dụng nhiệt độ thấp để phá ngủ nghỉ, đây là biện pháp
hữu hiệu nhất, hầu hết các giống bảo quản lạnh ở 5
0
C thì sau 4 – 6 tuần là phá
được ngủ của củ song nhiều giống yêu cầu thời gian dài hơn: giống Yellow
Blage cần 8 tuần, Stargazer cần ít nhất 10 tuần, từ các đặc điểm này ta có thể xác
định thời gian ra hoa, sắp xếp lịch thời vụ theo ý muốn (Đặng Văn Đông - Đinh
Thế Lộc) [8].
6
* Đặc tính thực vật học hoa lily Sorbonne.
Giống Sorbonne: Là giống trồng phổ biến ở Việt Nam, chiều cao cây từ
85 – 90 cm, thời gian sinh trưởng ở các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng 90 –
95 ngày, các tỉnh miền núi phía Bắc 108 – 115 ngày. Lá to, dài, nhọn (dài 10

– 12 cm, rộng 3 – 4 cm), có 5 – 7 nụ hướng lên trên, màu hoa hồng đậm, mùi
rất thơm. [1]
2.1.4. Yêu cầu sinh thái của hoa lily
* Nhiệt độ:
Lily là cây chịu rột khỏ chịu nóng kém, nhiệt độ thích hợp chung là ban
ngày 20 – 25
0
C còn ban đêm là 12
0
C, ngoài ra một số giống có nhiệt độ thích
hợp cao hơn: ban ngày 25 – 28
0
C còn ban đêm là 18 - 20
0
C. Nhiệt độ ảnh
hưởng lớn tới sự nảy mầm của củ, sự phát dục của thân và sự sinh trưởng của
lá. Thời gian xử lý củ ở các nhiệt độ khác nhau ảnh hưởng lớn tới khả năng
sinh trưởng phát dục sau này của cây, nhiệt độ còn ảnh hưởng tới sự phân hóa
mầm hoa, thời gian ra hoa, nở hoa, độ bền hoa… hoa lily là cây phụ thuộc rất
lớn vào nhiệt độ môi trường. Trồng hoa lily trong điều kiện nhà ấm có chiếu
sáng có thể sản xuất hoa cắt cành quanh năm (Trần Thế Truyền) [12].
* Ánh sáng:
Lily ưa cường độ chiếu sáng trung bình, là cây ngày dài. Việc chiếu sáng
không đủ khiến cây còi cọc, đồng thời gây ra hiện tượng rụng nụ, cây trở nên
yếu, màu lá nhạt, cuối cùng là rút ngắn thời gian cắm bình của hoa. Hoa lily
đặc biệt cần lượng ánh sáng đầy đủ để đáp ứng nhu cầu phát dục của nụ hoa,
việc thay đổi thời gian chiếu sáng cũng có thể rút ngắn hoặc cũng có thể kéo
dài thời kỳ thu hoạch hoa. Khi mầm hoa của lily phát dục vào mùa đông cần
cung cấp đủ ánh sáng, nếu thiếu ánh sáng vào giai đoạn mầm hoa nhú ra đến
khi cắt hoa, hoa sẽ trắng và rụng.

Thông thường ánh sáng dùng cho tác dụng quang hợp là cứ 10m
2
lắp đặt
hệ thống đèn 400Wh/m
2
cú kèm tấm phản quang để cung cấp. Một số nghiên
cứu chung cho thấy, sự ra hoa của cỏc nhúm giống không những có nhu cầu
khác nhau về số ngày có thời gian chiếu sáng ngắn mà cũn cú sự khác nhau về
số giờ của từng giai đoạn như giai đoạn phân hóa hoa, giai đoạn hình thành và
phát triển của hoa. Nhà sinh lý học Burchi (Burchi, G và cộng sự, 1995) [8],
7
đã sớm nhận thấy những giống có thời gian sinh trưởng ngắn, yêu cầu thời
gian chiếu sáng trong ngày cũng ngắn hơn giống có thời gian sinh trưởng dài.
Choosak (1998) đã kiểm nghiệm bằng cách dựng cỏc giống khác nhau, trồng
trong điều kiện nhiệt độ ban đêm là 15,5
o
C sau đó đo thời gian chiếu sáng
trong ngày suốt thời kì từ lúc phân hóa mầm hoa cho đến lúc phát dục hoàn
toàn và cũng đưa ra kết luận tương tự (Choosak Jompuk) [13].
Thời gian chiếu sáng ảnh hưởng đến việc nở hoa lily. Thông thường
trồng vào vụ xuân, trong thời kỳ chiếu sáng ngắn việc kéo dài thời lượng nhân
tạo có thể giúp cho một số giống hoa lily nở sớm. Từ lúc số nụ đạt 50% thời
lượng chiếu sáng cho hoa lily cần tăng lên đến 16 giờ, kéo dài liên tục đến 6
tuần hoặc đến tận khi thấy nụ hoa, cần bật bóng đèn (khoảng 20W/m
2
) trước
lúc ánh sáng mặt trời xuất hiện hoặc sau khi tắt nắng để kéo dài được thời
gian chiếu sáng.
* Nước và không khí:
Thời kỳ đầu cây cần nhiều nước, thời kỳ ra hoa nhu cầu nước của cây

giảm dần vì thừa nước lúc này sẽ làm rụng nụ, củ dễ bị thối. Lily thích không
khí ẩm ướt, độ ẩm thích hợp nhất là 80 – 85%, độ ẩm không được thay đổi
đột ngột sẽ dẫn đến tác hại cho cây, ức chế sinh trưởng chỏy lỏ… Việc che
râm thông gió kịp thời và tưới nước có thể phòng chống được vấn đề này (Bùi
Bảo Hoàn) [11]. Hoa lily rất mẫn cảm với khí Ethylen, tuy nhiên tùy vào
giống mà độ mẫn cảm không giống nhau.
Trong nhà lưới, sự thông gió kém, nhất vào vụ Đụng, nờn thông gió để
điều tiết không khí, đồng thời giảm nhiệt độ và ẩm độ. Cỏch thụng gió với
nhà kính là mở cửa, còn nhà nilon thì mở mái cho không khí trong và ngoài
nhà lưu thông.
Bổ sung CO
2
: Nồng độ duy trì ở mức 1000 – 2000mg/g, nếu cao quá sẽ
hại cho cây và người chăm sóc.
* Đất và dinh dưỡng:
Lily có thể trồng trên mọi loại đất, tuy nhiên đất trồng tốt nhất là đất
nhiều mùn và đất thịt nhẹ, đất có lớp mựn trờn mặt khoảng 30 cm có thể chấp
nhận được. Lily có bộ rễ ăn nụng nờn cần thoát nước tốt. Lily rất mẫn cảm
với muối, đất nhiều muối cõy khụng hút được nước, ảnh hưởng đến sinh
8
trưởng, phân hóa hoa và ra hoa. Nói chung hàm lượng muối không được vượt
quá 15 mg/cm
2
, chất ôxy hóa không cao quá 1,5 mmol/l.
Đất quá chua cõy hỳt I-on sắt, nhụm, magiờ nhiều gây hại cho cây, đất
kiềm quá lượng hút sắt, magiờ, lõn không đủ sẽ dẫn tới thiếu các sắc tố. Các
giống thuộc nhóm tạp giao châu Á và lily thơm yêu cầu pH là 6 – 7, còn với
nhóm phương Đông là 5,5 – 6,5.
Về dinh dưỡng lily yêu cầu phân bón cao nhất ở 3 tuần đầu kể từ khi
trồng, tuy nhiên rễ non dễ bị ngộ độc muối. Muối trong đất do 3 nguồn là

phân bón, nước và hàm lượng phân bón của cây trồng vụ trước. Vì vậy, để
biết tác hại của muối trong đất trước khi trồng 6 tuần phải phân tích đất để biết hàm
lượng muối. Lily cũng mẫm cảm với Clo và Flo. Yêu cầu Clo trong đất không vượt
quá 1,5 mmol/l nếu không sẽ hại rễ, hàm lượng Flo trong không khí cao dễ gõy
chỏy lỏ.
2.1.5. Nhân giống hoa lily
Có thể nhân giống hoa lily bằng cách cắm vảy, tách củ, nuôi cấy mụ,
nhõn bằng hạt, mầm hạt.
* Giâm vảy (cắm vảy)
Đây là phương pháp nhân giống cổ truyền đối với lily. Trờn thõn vảy
(củ) có rất nhiều vảy, mỗi vảy có thể sinh ra vài vảy nhỏ ở gốc, mỗi thân vảy
nhỏ sẽ hình thành một cơ thể mới. Vì vậy, cách nhân giống này có hệ số nhân
giống tương đối cao.
* Nhân giống bằng cách tách củ.
Tách củ là phương pháp nhân giống bằng tách củ con được sinh ra từ củ
mẹ. Trồng cõy chuyờn để nhân giống, cũng có thể kết hợp với sản xuất hoa
vụ Hè để nhân giống, nhưng do khí hậu núng nờn chất lượng củ loại này kém.
* Nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào (Invitro)
Lily nhân bằng củ có hệ số nhân giống thấp, mặt khác nếu nhân liên tục nhiều
năm, vi rút tích lũy lại và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, làm cho cây sinh
trưởng yếu, hoa nhỏ. Để khắc phục nhược điểm trên người ta đã sử dụng phương
pháp nuôi cấy mô tế bào. Cho đến nay, kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào đã trở nên quen
thuộc và được ứng dụng rộng rói trong sản xuất củ hoa lily.
9
* Nhân giống bằng hạt.
Ưu điểm: Dễ làm, giá thành thấp, thu được nhiều cây khỏe, không bị
bệnh, ngoài ra do đặc điểm của thụ phấn chéo vì vậy có thể thu được những
dòng biến dị làm vật liệu cho công tác chọn tạo giống mới.
Nhược điểm: Mất nhiều thời gian, từ gieo hạt đến cây ra hoa có chất lượng
tốt phải 3 – 4 năm, vì vậy phương pháp nhân giống này ít được áp dụng.

2.2. Tình hình sản xuất, tiêu thụ hoa trên thế giới và ở Việt Nam
2.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hoa trên thế giới
* Tình hình sản xuất hoa trên thế giới.
Ngày nay sản xuất hoa trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ và trở
thành một ngành thương mại cao. Sản xuất hoa mang lại lợi ích to lớn cho nền
kinh tế các nước trồng hoa, cây cảnh, trong đó cú cỏc nước châu Á. Sản xuất
hoa ở các nước châu Á đang phát triển mạnh và cạnh tranh quyết liệt để
chiếm lĩnh thị trường hoa trên thế giới và đang trở thành trung tâm sản xuất
hoa lớn của thế giới.
Nghề trồng hoa ở châu Á có từ lâu đời nhưng trồng hoa tăng mạnh từ
những năm 80 của thế kỉ XX. Khi các nước châu Á mở cửa tăng cường đầu
tư, đời sống của người dân được nâng cao, yêu cầu hoa cho khách sạn du lịch
lớn nờn cỏc thị trường hoa phát triển.
Các loài hoa được trồng ở châu Á chủ yếu 2 nhóm giống hoa có nguồn
gốc nhiệt đới và ôn đới. Nhóm giống hoa có nguồn gốc nhiệt đới và ôn đới
gồm các loài hoa lan (Orchidacea), hoa đồng tiền (Gerbera) Nhúm cú nguồn
gốc từ ôn đới như hoa hồng (Rosa sp), cúc (Chrysanthemum sp), layơn
(Gladiolus),… Đặc biệt hoa lan là sản phẩm hoa nhiệt đới, đặc sản hoa châu Á
được thị trường châu Âu và châu Mỹ ưa chuộng.
Cùng với chất lượng cuộc sống người dân cao hơn, nhu cầu thưởng thức
hoa cũng cao hơn nên sản lượng và giá trị hoa trên thế giới không ngừng
tăng lên theo thời gian. Theo thống kê của Viện Rau Hoa Quả thì giỏ trị
sản lượng hoa trên thế giới năm 1997 đạt 27 tỷ USD, đầu thế kỷ 21 đạt 40
tỷ USD, trong đó Nhật Bản đạt 3,731 tỷ USD, Hà Lan 3,558 tỷ USD, Mỹ
3,270 tỷ USD… [5].
10
Giỏ trị do sản xuất hoa đem lại là rất to lớn nên diện tích trồng và sản
lượng hoa trên thế giới tăng đang tăng mạnh. Theo Nguyễn Xuân Linh (2002)
[6], châu Á là trung tâm sản xuất hoa lớn của thế giới, gồm các nước: Nhật
Bản, Israel, Ấn Độ, Thái Lan, Malaisia, Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam.

Tổng diện tích trồng khoảng 15.500 ha, diện tích có mái che khoảng 8.000 ha
được trồng trong nhà kính, che phủ nilon hoặc các loại che chắn khác. Một số
nước đã xuất khẩu hoa sang châu Âu và các nước lân cận khác như Nhật Bản,
Israel, Thái Lan, Trung Quốc Tuy nhiên số lượng hoa xuất khẩu còn rất
khiêm tốn. Thống kê từ năm 1982 đến 1998 trong 16 năm diện tích trồng hoa
của Trung Quốc từ 8.000 ha tăng lên đến 90.000 ha, tăng trên 11 lần. Giá trị
năm 1982 là 13.000 USD, đến 1998 là 100 triệu đôla Mỹ tăng trên 130 lần
[5]. Diện tích, sản lượng và một số loại hoa chính mà các nước sản xuất hoa
lớn ở châu Á thể hiện cụ thể ở bảng 2.1.
Bảng 2.1: Sản xuất hoa ở các nước châu Á
STT Tên nước
Diện
tích
(ha)
Sản lượng
( giá trị/ năm)
Các loại hoa chính
1 Trung Quốc 3000
2 tỷ cành/năm
2000
hồng, phăng, cúc, lay ơn,
đồng tiền
2 Ấn Độ 65.000
2.050 triệu
RS/năm
anthurium, huệ, gypsophila,
xuxi, nhài, hồng, cúc, lay ơn,
phăng, lan.
3 Malayxia 1.218
3.370 triệu

RM/năm
lan, các loại hoa ôn đới.
4 Srilanca 500
phăng, hồng, cúc, huệ,
gypsophila, statics.
5 Thái Lan 5.452
1.667 triệu
cành/ năm
lan, hồng, cúc, anthurium,
đồng tiền, phăng, nhài
6 Việt Nam 3.500
hồng, cúc, lay ơn, huệ, lan,
đồng tiền
7 Philippin lan, hồng, lay ơn, helicolia
8 Inđụnờxia lan, hồng, huệ, nhài
( Nguồn Nguyễn Xuân Linh, 2002) [5].
11
Sản xuất hoa thế giới tiếp tục phát triển mạnh mẽ ở các nước châu Á,
châu Phi, châu Mỹ. Hướng sản xuất hoa trên thế giới là tăng năng suất hoa,
giảm chi phí lao động, giảm giá thành hoa. Mục tiêu sản xuất hoa cần hướng
tới là giống hoa đẹp, chất lượng cao và giá thành thấp.
* Tình hình tiêu thụ hoa trên thế giới.
Theo Hoàng Ngọc Thuận (2005) [6], trên thế giới việc tiêu thụ hoa cắt
cành tập trung vào ba khu vực chủ yếu là Tây Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản,
lượng tiêu thụ tăng rất nhanh. Năm 1995, lượng tiêu thụ là 31 tỷ USD. Do sự
tiến bộ của sản xuất, sự nhập khẩu và kinh tế tăng trưởng mạnh, dự kiến thị
trường tiêu thụ hoa cắt trên thế giới là 80 tỉ USD năm 2005.
Bên cạnh đó, lượng tiêu thụ hoa trồng chậu cũng không ngừng gia tăng,
tổng lượng tiêu thụ hoa năm 1990 khoảng 14,2 tỉ USD, năm 2005 là khoảng
25- 30 tỉ USD. Sự phát triển trong lĩnh vực này có nhiều hứa hẹn do mức tiêu

thụ và nhu cầu tiêu thụ ở nhiều khu vực trên thế giới tăng nhanh. Mỹ chiếm
khoảng 30% tổng lượng tiêu thụ trên thế giới, Đức là nước tiêu thụ nhiều thứ
2, khoảng 20%, tiếp theo là Italia và Pháp.
Theo Nguyễn Xuân Linh (2002) [9], Đức và Mỹ là 2 quốc gia chiếm
trên 50% thị trường nhập khẩu hoa với các loài hoa phổ biến là cẩm chướng,
cúc, hồng, layơn, lan… điều này thể hiện qua bảng dưới đây.
Bảng 2.3 Tỡnh hình nhập khẩu hoa một số nước trên thế giới.
STT Nước
Thị trường
(%)
Loại hoa
1 Đức 36,0 cẩm chướng, cúc, hồng, lay ơn, lan
2 Mỹ 21,9 cẩm chướng, cúc, hồng
3 Pháp 7,4 cẩm chướng, cúc, hồng, lay ơn, đồng tiền
4 Anh 7,0 cẩm chướng, cúc, hồng, lay ơn, đồng tiền
5 Thụy Điển 4,9 cẩm chướng, cúc, hồng.
6 Hà Lan 4,0 hồng, lay ơn, lan…
7 Italia 2,9 cúc, hồng, lay ơn, đồng tiền
8 Các nước khác 15,9
(Nguồn Nguyễn Xuân Linh, 2002) [5]
12
Nguyễn Thị Kim Lý (2005) [7], dự đoán trong những năm tới, nhu cầu
tiêu thụ hoa sẽ lên tới 35 tỉ USD. Các thị trường lớn gồm có Tây Âu, Bắc Mỹ
và Nhật Bản. Trong đó, thị trường Nhật Bản tăng mạnh nhất, thị trường Bắc
Mỹ và Tây Âu được coi là bão hòa, thị trường các nước châu Á tăng do thu
nhập của người dân ngày càng tăng.
2.2.2. Tình hình sản xuất, tiêu thụ hoa ở Việt Nam
Việt Nam có diện tích đất tự nhiên là 33 triệu ha nhưng diện tích trồng
hoa ở Việt Nam chỉ chiếm 0,02% diện tích đất đai, với điều kiện khí hậu nhiệt
đới gió mùa nên cây hoa ở nước ta có thể gieo trồng quanh năm, sở hữu sự đa

dạng về các loại hoa và đặc biệt là có nhiều giống hoa quý như hoa lan, hoa trà.
Hoa được trồng lâu đời và tập trung một số vùng trồng hoa truyền thống
như Ngọc Hà, Quảng An, Tây Tựu (Hà Nội), Đằng Hải, Đằng Lâm (Hải
Phòng), Hoành Bồ, Hạ Long (Quảng Ninh), Triệu Sơn (Thanh hoỏ), Gũ Vấp,
Húc Mụn (TP. Hồ Chí Minh) với tổng diện lích trồng khoảng 3.500 ha.
Phong trào trồng hoa ở Việt Nam trong những năm gần đõy đã được chú
ý phát triển, diện tích hoa tăng nhanh. Hiện nay, diện tích hoa cây cảnh có
khoảng 16.000 ha, tăng gấp đôi so với năm 2001. Điều này thể hiện qua bảng
dưới đây:
Bảng 2.4 Diễn biến diện tích trồng hoa ở Việt Nam
Năm Diện tích (ha)
2001 8.002
2002 8.520
2003 8.960
2004 9.500
2005 13.000
2010 16.000 (ước tính)
(Viện Nghiên Cứu Rau Quả, 2006) [5]
Điều kiện khí hậu và đất đai đa dạng đã tạo điều kiện để trồng nhiều loại
hoa, trong đó phát triển hệ thống trồng hoa thâm canh đã được nhà nước quan
tâm và hỗ trợ.
13
Thu nhập từ trồng hoa là rất cao từ đó đã góp phần chuyển dịch cơ cấu
cây trồng ở các địa phương, thay đổi cuộc sống của người trồng hoa. Theo số
liệu điều tra của Viện Di truyền Nông nghiệp, tại một số địa phương, hoa là
cây trồng cho thu nhập khá. Chẳng hạn, cú vựng ở Hà Nội, so với sản xuất 2
lúa 1 màu trong cùng thời điểm, trên cùng một đơn vị diện tích thì trồng hoa
có lợi nhuận cao hơn gần 12 lần. Ở Thái Bình, có doanh nghiệp trồng hoa đã
thu lãi tới 160 triệu đồng ha/năm, hay ở Lâm Đồng, bình quân cho mức lãi
250 - 300 triệu đồng/ha/năm từ sản xuất hoa.

Theo Viện Nghiên Cứu Rau Quả thì hiện nay lợi nhuận thu được từ 1 ha
trồng hoa cao hơn 10 - 15 lần so với trồng lúa và 7 - 8 lần so với trồng rau.
Gần 90% các loài hoa được trồng nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ở trong
nước, tuy nhiên thị trường xuất khẩu cũng đang tăng nhanh với 1 số loại hoa
đặc thù của Việt Nam (hoa sen, hoa nhài và một số loài hoa mà các nước ôn
đới trồng khó khăn trong mùa Đông như hồng, cúc ).
Ngành hoa Việt Nam trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả
trong sản xuất, thị trường hoa tiêu thụ ngoài đáp ứng được nhu cầu ngày càng
tăng trong nước mà còn đạt được giá trị xuất khẩu. Riêng lượng hoa xuất khẩu
của công ty sản xuất hoa Hasfarm 100% vốn nước ngoài ở Đà Lạt đã đem lại
doanh thu trên 4 triệu USD/năm. Theo phân tích của các chuyên gia, nhu cầu
tiêu thụ hoa sẽ ngày càng tăng cả ở thị trường trong nước lẫn quốc tế. Nhằm
đáp ứng nhu cầu của thị trường, Việt Nam có kế hoạch phát triển diện tích
trồng hoa lên khoảng 10.000 ha, với sản lượng 3,5 tỷ cành và đạt kim ngạch
xuất khẩu khoảng 60 triệu USD vào năm 2010. Theo đó, một số vùng sản
xuất chính đã được quy hoạch, gồm Hà Nội, TP.HCM, Sapa (Lào Cai), Đà
Lạt, Đức Trọng (Lâm Đồng), Hải Phòng, Vĩnh Phỳc, Thỏi Bỡnh…
2.3. Tình hình sản xuất hoa lily trên thế giới và Việt Nam
2.3.1. Tình hình sản xuất hoa lily trên thế giới
Hoa lily là một trong những loại hoa được ưa chộng nhất thế giới và là
một trong 6 loại hoa cắt phổ biến và có giá trị nhất là hoa hồng, cúc, phăng,
lay ơn, đồng tiền và lily.
14
Theo Đặng Văn Đông – Đinh Thế Lộc (2003) [8], Hà Lan là nước xuất
khẩu hoa lớn nhất thế giới, chiếm tới 64,8% thị trường, trong các loài hoa nổi
tiếng được xuất khẩu từ Hà Lan có hoa lily. Năm 1997, Hà Lan có 356 ha hoa
lily, đứng thứ hai sau hoa tuylip về tổng diện tích hoa cắt trồng bằng củ. Hiện
nay mỗi năm trồng 18.000 ha hoa lily trong đó xuất khẩu 70%.
Những năm gần đây Hàn Quốc là một trong những nước phát triển nghề
trồng hoa mạnh, lượng xuất khẩu lớn nhất khu vực Đông Bắc Á. Theo thống

kê năm 2002 Hàn Quốc có 15.000 ha trồng hoa giá trị sản lượng đạt 700 triệu
USD, gấp 8 lần năm 1989. Trong đó, lily là loại cây có hiệu quả kinh tế cao
nhất trong các loại hoa ở hàn Quốc.
Công nghệ sản xuất hoa lily cắt cành ở Đài Loan rất tiên tiến, năm 2001
nước này đó cú 490 ha trồng hoa lily, trong đó xuất khẩu đạt 7,4 triệu USD.
Ở châu Phi, Kenia là nước xuất khẩu hoa lớn nhất, hiện nay nước này có
3 vạn nông trường với 2 triệu người trồng hoa, chủ yếu là hoa phăng và lily.
Ngoài các nước kể trờn còn có nhiều nước trồng hoa lily lớn như khác
như Ý, Mỹ, Đức, Mờhicụ, Cụlụmbia, Israel…
2.3.2. Tình hình sản xuất hoa lily ở Việt Nam
Lily là một trong các loại hoa cắt cành có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên
hiện nay ta vẫn chưa chủ động sản xuất được củ giống, hầu hết các giống lily
trồng ở Việt Nam chủ yếu được nhập từ Hà Lan, Đài Loan hoặc Trung Quốc.
Theo Đặng Văn Đông - Đinh Thế Lộc (2003) [8], Đà Lạt là nơi hiện
đang có diện tích trồng lily nhiều nhất so với các địa phương khỏc trờn cả
nước chiếm khoảng 8% trong tổng diện tích trồng hoa, còn ở Hà Nội, Hải
Phòng chỉ mới trồng mang tính chất thử nghiệm. Tình hình phát triển hoa lily
ở Đà Lạt khá thuận lợi, một phần do thiên nhiên ưu đãi cho sự phát triển của
các giống hoa nói chung và cho hoa lily nói riêng, một phần do kỹ thuật trồng
hoa ở Đà Lạt tương đối cao nên sinh trưởng phát triển khá tốt. Hiện nay lily
đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho một số công ty hoa ở Đà Lạt.
* Hiệu quả của trồng hoa lily Sorbonne đối với sản xuất hiện nay.
- Hiệu quả kinh tế trực tiếp
Theo kết quả thu thập của Viện Nghiên cứu Rau quả, hiệu quả kinh tế
15
trực tiếp đem lại cho các hộ nụng dân, doanh nghiệp từ trồng lily là rất cao.
Lãi thuần thu được từ trồng lily trung bình đạt khoảng 250 triệu/1.000
m
2
/năm, như vậy chỉ tính trong năm 2009, người dân và doanh nghiệp ở miền

Bắc Việt Nam đã thu lãi được từ trồng hoa lily (chủ yếu là giống Sorbonne)
khoảng 20 tỷ đồng.
- Hiệu quả gián tiếp
+ Từ chỗ ở miền Bắc Việt Nam năm 2002 trở về trước chưa trồng được
hoa lily, phải nhập hoàn toàn từ Trung Quốc hoặc từ Đà Lạt, đến nay đã tự sản
xuất và cung cấp được số lớn hoa lily cho nhu cầu thị trường, bên cạnh đú cú
thời điểm hoa lily trồng tại miền Bắc Việt Nam còn xuất khẩu sang Trung Quốc.
+ Góp phần nâng cao nhận thức về sản xuất nông nghiệp theo phương
thức công nghiệp, giúp người dân thay đổi dần phương thức canh tác lạc hậu,
nhanh chóng tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến để sản xuất các
chủng loại hoa có giá trị cao.
+ Thông qua các mô hình sản xuất hoa lily, đã tạo công ăn việc làm, tăng
thu nhập cho người lao động, doanh nghiệp và góp phần thực hiện có kết quả
chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng của Đảng và Nhà nước [1].
* Triển vọng nghề trồng hoa lily
Ngày nay, đời sống người dân đã được nâng cao, nhu cầu hoa tươi ngày
càng lớn. Ở Hà Lan bình quân mỗi người mỗi năm tiêu thụ 150 cành hoa các
loại. Pháp 80 cành, Anh 50 cành, Mỹ 60 cành, Việt Nam chỉ có 4,5 cành. Như
vậy tiềm năng thị trường hoa ở Việt Nam còn rất lớn
Hoa lily cắt cành mới phát triển gần đây nhưng có dáng đẹp, mùi thơm
quý phái, mầu sắc hấp dẫn quanh năm có hoa, được rất nhiều người ưa
chuộng do vậy nhu cầu tiêu dùng sẽ ngày càng cao. Hiện nay, ở Việt Nam hoa
lily được xếp vào loại hoa cao cấp, thường đắt gấp 10 – 15 lần so với các loại
hoa cúc, hồng, cẩm chướng, hồng môn, chỉ sau phong lan, địa lan. Vì bán
được giá cao nên việc trồng lily đang thu hút lớn các nhà đầu tư cả trong và
ngoài nước, chính vì thế nghề này rất có triển vọng phát triển (Đặng Văn
Đông - Đinh Thế Lộc, 2003) [8].
16
2.4. Tình hình nghiên cứu hoa lily trên thế giới và ở Việt Nam
2.4.1. Tình hình nghiên cứu hoa lily trên thế giới

Năm 1960 Suker đã nghiên cứu ảnh hưởng của ánh sáng lam, đỏ, hồng
ngoại đến sự hình thành củ con của giống lily CasaBalanca, kết quả cho thấy
tia hồng ngoại (FR) làm tăng số lượng củ con, tia đỏ (R) và tia tử ngoại có thể
dẫn đến sự ngủ nghỉ của một số giống thuộc nhóm châu Á [5].
Beatic (1993) [15], đã nghiên cứu bảo quản lạnh của hoa lily trước khi
trồng trong nhà lưới. Kết quả đối với các giống Asiatic hybrids cần bảo quản
ở nhiệt độ 2 – 5
0
C trong 6 – 10 tuần, cũn cỏc giống Oriental hybrids cần bảo
quản ở nhiệt độ 2 – 4
0
C trong 8 – 10 tuần.
Joong Suklee, Young A Kim và Huyn Jin Wang (1996) [14], đã tiến
hành xử lí lạnh củ hoa lily trong thời gian 2, 4, 6, 10 tuần ở nhiệt độ 5
0
C đem
trồng trong chậu và duy trì nhiệt độ ban đêm là 15
0
C. Kết quả cho thấy củ
giống sử lý trên 4 tuần làm củ nảy mầm nhanh hơn và cho ra hoa sớm hơn,
100% ra hoa và tăng số bụng trờn một cây.
Theo Chen và cộng sự (2002) [16], thống kê gần 60 loài và 18 giống
phân bố ở Trung Quốc, chiếm 50% tổng số giống hoa lily của thế giới, gần
đây họ nghiên cứu 12 loài có sức chống chịu tốt với điều kiện bất lợi của
Trung Quốc để phục vụ sản xuất.
Hiện nay trên thế giới, Hà lan là nước có công nghệ tạo giống và trồng
lily tiên tiến nhất, mỗi năm tạo ra 15 – 20 giống mới và sản xuất 1,315 triệu
củ giống lily cung cấp cho 35 nước khác nhau trên thế giới. Ở châu Á, công
nghệ sản xuất hoa lily cắt cành ở Đài Loan cũng rất tiên tiến, trình độ canh tác
còn cao hơn Hàn Quốc, chỉ kém Nhật Bản [8].

2.4.2. Tình hình nghiên cứu hoa lily ở Việt Nam
Ở Việt Nam, hoa lily được xếp vào loại hoa cao cấp, nhu cầu tiêu dùng
loại hoa này ngày càng cao trong những năm gần đây. Hầu hết các giống hoa
lily trồng ở Việt Nam chủ yếu được nhập từ Hà Lan, Đài Loan và Trung
Quốc. Từ năm 2002 đến 2005, một số giống lily nhập nội từ Hà Lan đã được
Viện Nghiên cứu Rau quả và Viện Di truyền Nông nghiệp trồng khảo nghiệm.
Kết quả đã tuyển chọn được giống hoa lily Sorbonne phù hợp với điều kiện
17
vụ Đông miền Bắc Việt Nam. Giống hoa lily Sorbonne đã được Bộ
NN&PTNT công nhận là giống tạm thời. Giống này có đặc điểm: chiều cao
cây trung bình từ 80 – 90 cm, số nụ hoa/cõy 5 – 7 nụ, cây sinh trưởng phát
triển tốt, màu sắc hoa đẹp, cành cứng, ít sâu bệnh gây hại.
Song song với việc khảo nghiệm sản xuất các giống hoa lily, Viện Rau Quả
đã nghiên cứu ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật thâm canh sản xuất hoa
thương phẩm và cho kết quả:
- Mật độ thích hợp trồng lily là 25 củ/m2 (khoảng cách 20 x 20 cm) và
20 củ/m2 (khoảng cách 25 x 20 cm).
- Trong điều kiện miền Bắc Việt Nam nên áp dụng phương pháp xử lý
mát củ giống trước khi trồng, trong đó thời gian xử lý mát trong kho lạnh ở
nhiệt độ 12
0
C – 13
0
C trong 15 ngày giỳp cõy sinh trưởng, phát triển tốt, giảm
hiện tượng chỏy lỏ và nụ hoa bị biến dạng.
- Sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt để tưới nước cho lily trong nhà có mái
che với chế độ tưới 30 phỳt/ngày là thích hợp nhất [1].
2.4.2.1. Thời vụ trồng hoa lily
Hoa lily là cây ôn đới, chủ yếu trồng ở các nước xứ lạnh nên với cỏc
vựng cú khí hậu mát mẻ như SaPa, Mộc Châu, Tam Đảo, Đà Lạt… có thể

trồng và cho thu hoạch quanh năm. Đối với các tỉnh vùng Đồng Bằng Sông
Hồng chỉ nên trồng hoa lily vào vụ thu đông là thuận tiện nhất và sẽ cho hoa
trong khoảng thời gian từ 20/11 đến 15/3 năm sau, tốt nhất trồng lily để thu
hoạch vào dịp Tết nguyên đán (trồng trước Tết từ 95 - 97 ngày) và trồng để
thu hoa vào dịp 8/3 (trồng trước 8/3 từ 105 – 107 ngày). Một số tỉnh miền núi
phía Bắc, để thu hoạch vào dịp Tết nguyên đán thì trồng trước Tết 108 - 117
ngày và để thu hoa vào dịp 20/11 thì trồng trước từ 86 - 92 ngày (Đỗ Thị Lợi,
2009) [3].
2.4.2.2. Giỏ thể và chậu trồng hoa Lily
- Giá thể phải tơi xốp và có khả năng thoát nước tốt. Có thể phối trộn
theo công thức gồm: 1 phần đất phù sa + 1 phần phân chuồng đã được ủ hoai
mục và 2 phần xơ dừa đã được xử lý loại bỏ ta nanh trộn đều trước khi vào
18
chậu hoặc tỉ lệ 1:1:1 gồm than bùn: chất mùn: nham thạch hay là đất vườn:
than bùn: phân hoai mục trộn đều.
- Chậu trồng có thể sử dụng các loại chậu gốm, chậu đất nung hoặc chậu
nhựa với các kích cỡ khác nhau tùy theo cách chơi 1 cây, 3 cây, 5 cây hay 7
cây để lựa chọn cho phù hợp. Thông thường kích thước chậu có đường kính
25 cm, chiều cao 30 cm, đáy đục lỗ để thoát nước dễ dàng nhưng đường kính
lỗ đáy không quá 3 cm (Đỗ Thị Lợi, 2009) [3].
2.4.2.3 Kỹ thuật trồng, chăm sóc
* Xử lý củ giống:
Phân loại củ theo kích thước để trồng nhằm đảm bảo tính đồng đều của
vườn lily sau này. Chọn những củ to (đường kính củ 12-15cm), đó lờn mầm
sau khi đã qua xử lý lạnh để phá ngủ, cắt bớt rễ, chỉ chừa lại khoảng 1cm để
kích thích cho củ nhanh ra rễ mới. Ngâm củ giống từ 5 - 10 phút trong dung
dịch thuốc Daconil 75WP (pha 1 gói 10g trong 8 lít nước sạch) để trừ nấm
bệnh, vớt ra để ráo nước rồi đem trồng vào chậu.
* Cách trồng:
Cho 1/2 giá thể vào chậu, đặt các củ ngay ngắn, mầm hướng lên trên.

Tùy theo kích thước của chậu mà đặt củ cho phù hợp (chậu có đường kính 20
cm trồng 3 củ/chậu, 30 cm trồng 5 củ/chậu và 40 cm trồng 7 củ/chậu). Phủ
tiếp giá thể cho kín mầm và tưới nhẹ cho đất nén giữ cố định vị trí củ rồi xếp
các chậu thành hàng trên luống để tiện chăm sóc sau này.
* Chăm sóc:
Tùy theo độ ẩm trong nhà lưới, trong giá thể mà có chế độ tưới nước cho
phù hợp. Lúc mới trồng tưới nhiều hơn sau đó giảm dần. Cứ 10 ngày bón
thúc 1 lần bằng cách hòa 0,05kg phân NPK tổng hợp + 0,1kg phân lân
trong 10 lít nước để tưới cho 40 chậu (loại 3 cây) hoặc 20 chậu (loại 5
cõy). Khụng bún rải trực tiếp phân gần gốc cây, tưới nước ngay sau khi bón
để phân ngấm đều trong chậu hoặc phun nước nhằm rửa sạch phõn cũn
bỏm trờn lỏ. Chú ý phòng trừ các đối tượng sâu bệnh hại kịp thời để đảm
bảo năng suất và chất lượng hoa.
19
Điều tiết nở hoa: Kết hợp giữa điều chỉnh nhiệt độ và ánh sáng cho phù
hợp. Ngay sau trồng cần tiến hành che 1 lớp lưới đen ở phía trên để hạn chế
ánh sáng trực xạ của mặt trời chiếu vào mầm. Khi cây xuất hiện nụ, bỏ lớp
lưới đen để cây hấp thụ nhiều ánh sáng sẽ cho hoa to và màu đẹp. Khi trồng
trong vụ đông, những ngày âm u, giá rét thì bỏ lớp lưới đen đồng thời quây
nilon để giúp làm tăng nhiệt độ trong nhà trồng. Nếu cây phát triển chậm cần
tăng nhiệt độ bằng cách quây nilon và thắp điện 4 giờ vào ban đêm cho đến
khi thấy nụ hoa đủ tiêu chuẩn là được. Nếu cây phát dục sớm thì hạn chế bằng
cách hạ nhiệt như cuốn nilon lên, tiến hành che lưới đen (Đỗ Thị Lợi) [3].
Biện pháp thúc hoa nở sớm vào mùa đông:
Trong điều kiện vụ Đông ở miền Bắc Việt Nam, có thể áp dụng biện pháp
tăng nhiệt độ (dùng nilon quõy kớn và thắp đèn vào ban đêm) hoặc phun chế phẩm
Đầu Trâu 902 có tác dụng kích thích nở hoa sớm hơn từ 3 – 6 ngày, đồng thời giảm
tỷ lệ hoa bị thui, nếu kết hợp cả tăng nhiệt độ và phun chế phẩm Đầu Trâu 902 có
thể rút ngắn thời gian sinh trưởng của lily khoảng 8 ngày (Đặng Văn Đông và cộng
sự, 2010) [1].

2.4.2.4 Sâu bệnh hại hoa lily
Theo Nguyễn Văn Tỉnh, 2008 [4], lily thường bị các loại sâu bệnh sau:
• Sâu hại.
+ Rệp: Chủ yếu là rệp xanh đen, rệp bông.
- Triệu chứng: Thường làm cho cây còi cọc, ngọn quăn queo, nụ bị thui,
hoa không nở được hoặc dị dạng, thường gây hại nặng ở vụ Xuân Hè và Đụng
Xuõn.
- Phòng trừ: Sử dụng Karate 2,5 EC liều lượng 10 - 15 ml/bình 10 lít,
Ofatox 400EC hoặc Supracide 40ND liều lượng 10 – 15 ml/bình 10 lít.
+ Sâu đục rễ, củ
- Triệu trứng: Sõu ký sinh mặt ngoài rễ, củ, hút dịch rễ, ảnh hưởng tới
sinh trưởng của cây làm lá vàng, nghiêm trọng hơn là làm cho cây chết khô,
gây hại chủ yếu vào lúc cây đang sinh trưởng hoặc cất trữ khô.
20
- Phòng trừ: Không trồng lily liên tục trên một mảnh đất, cải tạo độ chua
đất, khụng bún quá nhiều phân đạm, dùng thuốc Basudin rắc vào đất 1kg/sào
Bắc Bộ.
+ Sâu hại bộ cánh vẩy (sâu khoang, sâu xanh, sõu sỏm)
- Triệu trứng: Sâu tuổi nhỏ ăn phần thịt lá để lại lớp biểu bì phía trên.
Sâu tuổi lớn ăn khuyết lá non, ngọn non, mầm non, khi cõy cú nụ sâu ăn đến
nụ và làm hỏng nụ, hoa. Sâu chỉ phá hoại ở thời kỳ cây non.
- Phòng trừ: Bắt thủ công bằng tay, thường xuyên vệ sinh đồng ruộng, sử
dụng Supracide 40 ND liều lượng 10 – 15 ml/bỡnh 8 lít, Pegasus 500 SC liều
lượng 7 – 10 ml/bỡnh 8 lít, Ofatox 40 EC liều lượng 8 – 10 ml/bỡnh 8 lít.
* Bệnh hại: Có hai nhóm bệnh gây hại cho hoa lily là bệnh truyền nhiễm
và bệnh không truyền nhiễm.
• Bệnh truyền nhiễm:
+ Bệnh thối gốc, rễ
- Triệu trứng: Gốc cây bị mềm, thối, có màu xanh tối, màu tro đen, rồi
lan lên phía trên lá bị vàng, có khi lan tới thân làm thân bị cong queo, dũn góy.

- Phòng trừ: Khử trùng, tiêu độc đất, dùng thuốc sát khuẩn phun vào đất
lúc trồng, giữ cho đất thoát nước tốt, không được để cho đất ẩm ướt lâu.
+ Bệnh mốc tro
- Triệu trứng: Bệnh nặng làm mất hoàn toàn giá trị của hoa, bệnh có ở lá
nụ, hoa. Trờn lỏ thường thấy các đốm tròn, bầu dục, to nhỏ không đều màu
nâu trong suốt, trời ẩm ướt sẽ lan rộng ra thành những vòng.
- Phòng trừ: Không được tưới đẫm nước, không tưới lờn lỏ và để nước
đọng ở rónh, dựng thuốc phun phòng: Fungaran 50 WP, Champion 75 WP
liều lượng 15 – 20g/bỡnh 10 lít, phun 3 bình cho một sào Bắc Bộ.
• Bệnh không truyền nhiễm:
+ Bệnh chỏy lá.
- Triệu trứng: Xuất hiện khi nụ hoa chưa nở, những lá non xoăn lại về
phía trong và sau đó một vài ngày, những nốt xanh, vàng, trắng xuất hiện làm
giảm khả năng quang hợp. Nếu bệnh nặng thỡ cõy có thể bị chết.
21
- Phòng trừ: Đảm bảo độ ẩm đất, trồng sâu vừa phải, lấy đất dày 4 – 5
cm, ở giai đoạn phân hóa hoa là giai đoạn mẫm cảm nhất, giữ cho nhiệt độ và
ẩm độ không biến động lớn, tốt nhất là duy trì ẩm độ 75%, che nắng để giảm
thoát hơi nước và tạo sự thông thông thoáng.
+Bệnh rụng nụ và hoa bị mù.
- Triệu trứng: Trong quá trình phát triển mầm hoa tự nhiên bị teo lại, khô
và rụng.
- Phòng trừ: Nguyên nhân chủ yếu là do dinh dưỡng không đủ, thiếu ánh
sáng, độ ẩm không khí cao, pH không thích hợp và thiếu vi lượng, vì vậy cải
thiện chiếu sáng, bổ sung dinh dưỡng, cải tạo đất dùng chế phẩm STS để
làm giảm rụng nụ. Phun vào lúc nụ dài 3 cm với nồng độ 0,1 mol/l. Phun kép
1 – 2 lần trong 1 tuần, Khắc phục hoàn toàn được rụng nụ và khô mầm hoa.
2.4.2.5 Bảo quản hoa
* Thời gian thu hái.
Thu hái tốt nhất khi nụ dưới cùng phình to và bắt đầu có mầu (nếu cành

cú trờn 6 nụ thì nụ thứ 2 dưới cùng phình to và có màu).
Dùng dao và kéo để cắt và cắt cách mặt đất 10 - 15cm. Sau khi cắt ngâm
ngay cành hoa vào nước sạch khỏi bị mất nước.
* Phân loại.
Căn cứ vào độ dài cành, số nụ mà phân cấp cho phù hợp. Sau khi phân
cấp thì bó lại, cứ 10 cành thỡ bú vào một bó, bỏ lỏ sỏt gốc khoảng 10 cm,
dùng dao sắc cắt bằng gốc và ngâm trong nước.
* Bảo quản: Có hai phương pháp bảo quản hoa.
- Bảo quản hóa chất: Sử dụng các dung dịch glucoza, sacaroza 3-5%,
AgNO3, Chrysal RVB.
- Bảo quản trong kho lạnh: Hình thức này hiện đại và hiệu quả nhưng chỉ
có những cơ sở lớn mới có điều kiện áp dụng vì chi phí cho hệ thống bảo
quản này là rất lớn. Cho các bó hoa vào thùng catton có đục lỗ thông khí. Nếu
vận chuyển đi xa nờn dựng xe lạnh giữ ở mức 5 – 10
0
C.
22
2.4.2.6. Kết quả nghiên cứu về độ cao mầm củ hoa lily
Theo Triệu Tường Vân (2005) [2], nhiệt độ tốt nhất để trồng hoa lily
trong giai đoạn đầu là 12 – 13
0
C khi mầm dài khoảng 15 cm, rễ lúc này mới
xuất hiện hoặc mới nhú dài 0,5 – 1 mm là đủ tiêu chuẩn trồng.
Theo sự khuyến cáo của một số công ty sản xuất giống hoa lily, nhiệt độ
thích hợp nhất của hoa lily trong giai đoạn đầu dao động trong khoảng từ 12 –
13
0
C cho đến khi các bộ phận rễ đã thành thục. Nếu nhiệt độ thấp hơn trong
thời gian đầu nó sẽ kéo dài thời gian sinh trưởng không cần thiết và nếu nhiệt
độ cao hơn 15

0
C sẽ làm giảm chất lượng của củ giống.
Theo Đặng Văn Đông - Đinh Thế Lộc [8], cũng trong cùng một giống
thời gian xử lý lạnh khác nhau thì thời gian ra hoa cũng khác nhau: Giống
Prominence xử lý 3 tuần thời gian cần cho ra hoa là 104 ngày, xử lý 6 tuần
thời gian cần cho ra hoa là 88 ngày.
23
PHẦN 3
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiờn cứu
- Đối tượng nghiên cứu : Giống hoa lily Sorbonne được nhập nội từ Hà Lan.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
- Địa điểm thí nghiệm: Tại khu công nghệ cao khoa Nông học, Trường
ĐH Nông lâm Thỏi Nguyờn
- Thời gian : Từ 01/7– 30/12/2010.
3.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Nội dung
Nghiên cứu ảnh hưởng của độ cao mầm củ đến năng suất, chất lượng
hoa lily Sorbonne trồng chậu tại Thỏi Nguyờn.
3.2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm bố trí theo kiểu khối
ngẫu nhiên hoàn chỉnh (RCBD). Thí nghiệm có 4 công thức, mỗi công thức
có 3 lần nhắc lại. Mỗi ô thí nghiệm theo dõi 10 cây/1 lần nhắc lại.
- Công thức thí nghiệm:
Công thức 1: mầm cao 1 cm (đối chứng)
Công thức 2: mầm cao 5 cm
Công thức 3: mầm cao 10 cm
Công thức 4: mầm cao 15 cm
Sơ đồ bố trí thí nghiệm.

1 2 3 4
4 1 2 3
3 4 1 2
- Mật độ 30 củ/m
2
- Diện tích 1 m
2
/ô thí nghiệm
24
2.2.3. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi
2.2.3.1 Các chỉ tiêu sinh trưởng.
Mỗi công thức thí nghiệm theo dõi 10 cây/lần nhắc lại, 10 ngày theo
dõi một lần, gồm các chỉ tiêu sau:
- Tỷ lệ mọc mầm của các công thức: Theo dõi toàn bộ số củ trên từng
công thức thí nghiệm (%).
Tỷ lệ mọc mầm =
Số củ mọc mầm
ì 100
Tổng số củ trồng
- Thời gian mọc mầm (ngày): Theo dõi từ trồng tới 10%, 50% và 80%
số củ mỗi công thức mọc mầm lên khỏi mặt giá thể trồng.
- Thời gian từ trồng đến cõy cú nụ 10%, 50%, 80% (ngày)
- Thời gian từ trồng đến cây có hoa thứ nhất có mầu (ngày): Từ trồng
đến 10%, 50%, 80% số cây có hoa thứ nhất có mầu của từng công thức.
- Ngày hoa hé nở (ngày): Theo dõi từ trồng đến 10%, 50%, 80% số cây
có hoa hé nở trên từng công thức.
- Ngày hoa thứ nhất nở hoàn toàn (ngày): Theo dõi từ trồng đến 10%,
50%, 80% số cây có hoa nở hoàn toàn của từng công thức.
- Động thái tăng trưởng chiều cao của cây (cm): Đo từ mặt đất đến đỉnh
sinh trưởng cao nhất.

- Chiều cao cây ra nụ (cm): Đo từ mặt đất đến nụ đầu tiên của cây.
- Động thái ra lỏ (lỏ/cõy): Đếm số lỏ trờn thân cây.
- Đường kính thân (cm): Đo ở vị trí cách mặt đất 20 cm
2.2.3.2 Các chỉ tiêu về năng suất, chất lượng hoa
- Số nụ/cây (nụ/cây)
- Tỷ lệ nụ nở hoa/cõy ( % ):
Tỷ lệ nụ nở hoa/cõy =
Số hoa nở trờn cõy
ì 100
Tổng số nụ trên cây
- Năng suất thực thu (cành/m
2
): Số cành thu được của mỗi công
thức/diện tích thí nghiệm của mỗi công thức.
- Chiều cao cây hoa cuối cùng (cm): Đo từ phần thõn sỏt mặt đất đến
đỉnh sinh trưởng cao nhất cây hoa khi thu hoạch.
- Theo dõi độ bền hoa tự nhiên: khi hoa đầu tiên hé nở, xác định số
ngày một hoa tồn tại (nở, héo, tàn), số ngày cả cành hoa tàn, mỗi lần nhắc lại
theo dõi 3 cành.
25

×