B GIO DC V O TO B Y T
TRNG I HC Y THI BèNH
NG TH HIN
đặc điểm dịch tễ học và véc-tơ truyền bệnh
sốt xuất huyết Dengue tại tỉnh Bình Định
trong 5 năm (2008 2012)
LUN VN THC S Y T CễNG CNG
Mó s: 60 72 03 01
Ngi hng dn khoa hc:
1. TS. Nguyn c Thanh
2. TS. ng Vn Nghim
THI BèNH - 2013
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám hiệu,
Phòng Quan lý Đào tạo Sau đại học, Khoa Y tế công cộng Trường Đại học Y
Thái Bình cùng các thầy cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới
TS. Nguyễn Đức Thanh –TS. Đặng Văn Nghiễm là hai người thầy đã
dành nhiều tâm huyết và trách nhiệm của mình giúp đỡ tôi trong quá trình
học tập và nghiên cứu để tôi hoàn thành bản luận văn này một cách tốt nhất.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo và toàn thể cán bộ trung tâm y tế
dự phòng tỉnh Bình Định cùng bạn bè đồng nghiệp nơi tôi đang làm việc đã
luôn động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập và
nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn Lãnh đạo và cán bộ viện Pasteur Nha Trang đã hỗ trợ
tôi rất nhiều trong thời gian triển khai thực hiện nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn tới gia đình và bạn bè thân thiết
của tôi - những người đã luôn động viên, khích lệ tôi trong suốt cả quá trình
học tập và nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn!
Đặng Thể Hiện
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BN Bệnh nhân
GB Bọ gậy
CSMĐM Chỉ số mật độ muỗi
CSNCM Chỉ số nhà có muỗi
CSNCBG Chỉ số nhà có bọ gậy
CSDCBG Chỉ số dụng cụ có bọ gậy
CSBI Chỉ số Breteau
CSMĐBG Chỉ số mật độ bọ gậy
CTV Cộng tác viên
DCCN Dụng cụ chứa nước
SD Sốt Dengue
SXH Sốt xuất huyết
SXHD Sốt xuất huyết Dengue
TCYTTG Tổ chức Y tế thế giới
YTDP Y tế dự phòng
TT Thứ tự
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Một số khái niệm 3
1.2. Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết 4
1.2.1. Dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết 4
1.2.2. Tình hình dịch bệnh trên thế giới 9
1.2.3. Tình hình dịch bệnh trong nước 10
1.3. Phân bố và đặc điểm của véc-tơ truyền bệnh sốt xuất huyết 12
1.3.1.Phân bố véc-tơ [46], [58] 12
1.3.2. Đặc điểm sinh học, sinh thái học của véc-tơ 13
1.4. Giám sát dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết 17
1.4.1. Giám sát bệnh nhân và huyết thanh vi rút 17
1.4.2. Giám sát vec tơ [5] 18
1.4.3. Một số mô hình phòng chống dịch 21
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
2.1. Đối tượng nghiên cứu 25
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 25
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu 25
2.1.3. Thời gian nghiên cứu 26
2.2. Phương pháp nghiên cứu 27
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu 27
2.2.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu nghiên cứu 28
2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu 29
2.2.4. Các biến số, chỉ số nghiên cứu 30
2.2.5. Phương pháp phân tích và sử lý số liệu 31
2.2.6. Đạo đức trong nghiên cứu 33
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 34
3.1. Đặc điểm dịch tễ học SXHD giai đoạn 2008 – 2012 34
3.1.1. Đặc điểm ca bệnh giai đoạn 2008 – 2012 34
3.1.2. Đặc điểm ca bệnh phân theo độ tuổi, giới và lâm sàng 35
3.1.3. Diễn biến của véc-tơ truyền bệnh giai đoạn 2008 – 2012 42
3.2. Thực trạng nguồn gây bệnh sốt xuất huyết Dengue năm 2012 44
Chương 4
BÀN LUẬN 54
4.1. Đặc điểm dịch tễ học SXHD giai đoạn 2008 – 2012 54
4.1.1. Đặc điểm ca bệnh giai đoạn 2008 – 2012 54
4.1.2. Diễn biến của véc-tơ truyền bệnh giai đoạn 2008 – 2012 62
4.2. Thực trạng nguồn gây bệnh SXHD năm 2012 69
KẾT LUẬN 73
KHUYẾN NGHỊ 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng Tên bảng Trang
Bảng 3.1. Tỷ lệ mắc SXHD / 100.000 dân và tỷ lệ chết 34
Bảng 3.2. Tỷ lệ mắc bệnh sốt xuất huyết Dengue phân theo độ tuổi 35
Bảng 3.3. Tỷ lệ mắc bệnh SXH phân theo mức độ lâm sàng 37
Bảng 3.4. Chỉ số côn trùng trung bình trong 5 năm theo vùng sinh thái.37
Bảng 3.5. Số bệnh nhân mắc bệnh SXHD trung bình trong 5 năm theo
vùng sinh thái 38
Bảng 3.6.Tình hình mắc bệnh SXHD giữa thành thị và nông thôn 39
Bảng 3.7. Số muỗi Aedes aegypti và Aedes albopictus bắt được trong 5
năm 42
Bảng 3.8. Chỉ số côn trùng, số bệnh nhân theo các tháng trung bình trong
5 năm (2008 – 2012) 43
Bảng 3.9. Các loại dụng cụ chứa nước tại hộ gia đình 44
Bảng 3.10. Số lượng bọ gậy có trong các loại dụng cụ chứa nước tại các
hộ gia đình 45
Bảng 3.11. Tỷ lệ bọ gậy có trong các loại dụng cụ chứa nước ngoài trời
tại các hộ gia đình 46
Bảng 3.12. Tỷ lệ bọ gậy có trong các loại dụng cụ chứa nước trong nhà
tại các hộ gia đình 47
Bảng 3.13. Các chỉ số côn trùng giám sát được trong năm 2012 49
Bảng 3.14. Kết quả phân lập vi-rút năm 2012 49
Bảng 3.15. Chỉ số côn trùng, bệnh nhân theo các tháng trong năm 2012 52
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu Tên biểu Trang
Biểu đồ 3.1. Diễn biến số bệnh nhân mắc và chết do sốt xuất huyết
Dengue qua các năm 35
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ mắc bệnh sốt xuất huyết Dengue phân theo độ tuổi 36
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ mắc bệnh sốt xuất huyết Dengue giữa nam và nữ 36
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ mắc bệnh sốt xuất huyết Dengue trung bình trong 5
năm phân theo mức độ lâm sàng 37
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ mắc sốt xuất huyết trung bình trong 5 năm theo vùng
sinh thái 39
Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ mắc bệnh/100.000 dân giữa thành thị, nông thôn 40
Biểu đồ 3.7. Số mắc SXHD phân bố theo huyện (2008-2012) 40
Biểu đồ 3.8. Diễn biến số mắc SXHD theo tháng (2008 – 2012) 41
Biểu đồ 3.9. Tỷ lệ các loại dụng cụ chứa nước trong nhà và ngoài trời 45
Biểu đồ 3.10. So sánh số lượng bọ gậy có trong các loại dụng cụ chứa
nước trong nhà và ngoài trời 48
Biểu đồ 3.11. Tỷ lệ các hộ gia đình có thả cá diệt bọ gậy trong các dụng cụ
chứa nước 48
Biểu đồ 3.12. Diễn biến côn trùng và bệnh nhân theo các tháng 50
Biểu đồ 3.13. Diễn biến côn trùng với lượng mưa theo các tháng trong
năm 2012 50
Biểu đồ 3.14. Số muỗi Aedes aegypti và Aedes albopictus bắt được trong
năm 2012 51
Biểu đồ 3.15. Chỉ số côn trùng, bệnh nhân theo mùa trong năm 2012 53
Biểu đồ 3.16. Diễn biến côn trùng với lượng mưa trong năm 2012 53
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh sốt xuất huyết do vi-rút Dengue được biết đến từ năm 1913 tại
miền Bắc và miền Trung Việt Nam, nhưng đến năm 1958 mới có một vụ dịch
nhỏ đầu tiên xảy ra tại Hà Nội [1] và từ đó cho đến nay, sốt xuất huyết đã trở
thành dịch bệnh lưu hành địa phương. Trong những năm qua, dịch sốt
Dengue/sốt xuất huyết Dengue (Gọi chung là sốt xuất huyết) thường xuyên
xuất hiện ở nước ta gây ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe của mọi người và đời
sống kinh tế của toàn xã hội.
Tại khu vực miền Trung, số lượng mắc/chết từ năm 2006 đến 2010 có
xu hướng ngày càng tăng (Năm 2006: 6.349/4, 2007: 12.921/4, 2008: 8.755/6,
2009: 11.519/8 và năm 2010: 35.865/24), kết hợp với sự biến đổi về thời tiết
khí hậu và sự lưu hành các tuýp vi-rút đã làm thay đổi một số yếu tố liên quan
đến dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết [46].
Bình Định là một tỉnh thuộc khu vực duyên hải miền Trung, nơi có
vùng khí hậu nhiệt đới thường chia làm hai mùa, mùa khô và mùa mưa. Từ
năm 2006 đến năm 2010, số ca mắc/chết do sốt xuất huyết cũng tăng (Năm
2006: 264/0, 2007: 1148/3, 2008: 617/0, 2009: 1121/1 và năm 2010: 3935/6)
và dịch sốt sốt xuất huyết thường xuyên xảy ra không những ở vùng đồng
bằng, thành phố, thị trấn mà còn có nhiều ở vùng trung du, miền núi, nông
thôn, gây tổn hại cho nhân dân và chính quyền địa phương.
Đặc điểm của của các vụ dịch những năm gần đây diễn biến phức tạp,
các ca mắc không tập trung mà rải rác ở nhiều điểm và phân bố trên diện rất
rộng, trên một xã/phường nhiều thời điểm số ca mắc tăng nhưng lại rải rác
không thành dịch và đến khi xuất hiện dịch thì đồng thời cùng lúc xuất hiện
nhiều ổ dịch. Chính vì vậy việc xử lý rất vất vả, tốn kém, khi xử lý dập tắt ổ
dịch này thì lại xuất hiện ổ dịch khác. Bên cạnh đó luôn có sự biến đổi về dân
-1-
cư, giao lưu giữa các vùng, miền, gia tăng các dụng cụ chứa nước ở các hộ gia
đình, thời tiết khí hậu và các tuýp vi-rút gây bệnh, kết hợp với sự xuất hiện
véc-tơ phụ Aedes albopictus ngày càng nhiều ở hầu hết các vụ dịch nên công
tác phòng chống dịch vẫn còn không ít khó khăn và chưa đạt hiệu quả [35]
Để có kế hoạch phòng chống bệnh sốt xuất huyết có hiệu quả thì phải
xác định một số yếu tố dịch tễ tại địa phương nhằm cải tạo hoặc thay đổi một
số yếu tố liên quan đến sự sinh trưởng của véc-tơ, phong tục tập quán trữ
nước của người dân, cải tiến vấn đề cung cấp nước sạch … từ đó phòng trừ
hoặc giảm bớt sự tiếp xúc giữa người – véc-tơ – mầm bệnh.
Xuất phát từ yêu cầu trên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên
cứu một số đặc điểm dịch tễ học và véc-tơ truyền bệnh sốt xuất huyết
Dengue tại tỉnh Bình Định trong 5 năm (2008 – 2012)”, nhằm đề xuất
những giải pháp thích hợp cho công tác phòng chống sốt xuất huyết trong thời
gian đến có hiệu quả với mục tiêu như sau:
1) Mô tả một số đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue tại
tỉnh Bình Định trong 5 năm (2008 – 2012).
2) Xác định thực trạng ổ bọ gậy nguồn sốt xuất huyết Dengue trên địa
bàn tỉnh Bình Định năm 2012.
-2-
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số khái niệm
Dịch tễ học: là một khoa học nghiên cứu sự phân bố số mắc hoặc chết
đối với các bệnh trạng cùng với những yếu tố quy định sự phân bố của các
yếu tố đó [1]
Giám sát dịch tễ học: là việc thu thập một cách có hệ thống liên tục,
phân tích, giải thích và phân phát những dữ liệu sức khỏe, sử dụng những dữ
liệu giám sát để mô tả và theo dõi những sự kiện sức khỏe, xác định ưu tiên
và giúp cho việc lập kế hoạch, thực hiện, đánh giá những chương trình can
thiệp [4].
Giám sát chủ động: là giám sát mà các cơ quan y tế công cộng chủ
động tìm kiếm, báo cáo thông tin từ các tuyến trong hệ thống giám sát
một cách đều đặn thay vì chờ đợi các báo cáo (ví dụ gọi điện xuống cơ sở
hàng tháng) [4].
Giám sát thụ động: là giám sát mà ở đó các thông tin được báo cáo thụ
động và không có sự chủ động, cố gắng tìm kiếm thông tin từ các đơn vị
trong hệ thống giám sát [4].
Định nghĩa ca bệnh sốt xuất huyết [4].
Ca bệnh giám sát: Bệnh nhân sốt cao đột ngột kéo dài từ 2 đến 7 ngày
kèm các triệu chứng đau đầu, đau hốc mắt, đau cơ, đau khớp, phát ban, có
biểu hiện xuất huyết (dấu hiệu dây thắt dương tính).
Ca bệnh nặng: Có biểu hiện xuất huyết ở các mức độ khác nhau: dưới
da, niêm mạc, xuất huyết nội tạng, gan to và có thể tiến triển đến hội chứng
sốc Dengue (HCSD) dẫn đến tử vong.
-3-
Xét nghiệm thấy giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu (<100.000/mm
3
),
hematocrit tăng (>20% giá trị bình thường theo tuổi và giới).
Ổ dịch sốt xuất huyết[4]: Một nơi (xóm, tổ dân phố, cụm dân cư…)
được xác định dịch là ổ dịch sốt xuất huyết có các ca bệnh lâm sàng xảy ra
trong vòng 1 tuần hoặc 1 ca bệnh sốt xuất huyết được xét nghiệm dương tính
phòng xét nghiệm, đồng thời phát hiện có bọ gậy/lăng quăng hoặc muỗi
truyền bệnh.
1.2. Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết
1.2.1. Dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết
Nguồn gây bệnh [6].
Trứng Aedes có kích thước nhỏ, khác với trứng muỗi Anopheles, Culex,
trứng muỗi Aedes không có phao, không dính thành bè nổi trên mặt nước mà
rời từng cái bám trên thành các dụng cụ chứa nước.
Cơ thể bọ gậy chia ra làm ba phần: đầu, ngực và bụng. Đặc điểm đặc
trưng của bọ gậy Aedes là có một chùm lông nằm ở giữa ống thở. Tỷ lệ giữa
chiều dài và chiều rộng của ống thở gọi là chỉ số ống thở được sử dụng để
định loại.
Quăng Aedes giống như một dấu hỏi, bên ngoài quăng được bao bọc
một lớp vỏ màu xẫm nhưng có thể nhận thấy mầm của những phần phụ của
muỗi trưởng thành sau này. Cơ thể quăng được chia làm hai phần: đầu ngực
và bụng.
Bọ gậy phát triển qua 4 giai đoạn. Các giai đoạn này phụ thuộc vào
nhiệt độ, thức ăn và mật độ bọ gậy trong dụng cụ chứa nước. Trong điều kiện
tối ưu, thời gian cần để trứng phát triển thành muỗi chỉ khoảng 7 ngày, kể cả
2 ngày của giai đoạn quăng. Tuy nhiên ở nhiệt độ thấp, thời gian này có thể là
vài tuần. Tại khu vực Đông Nam Á Aedes hầu như chỉ đẻ trứng ở những dụng
cụ chứa nước do con người làm ra ở chung quanh nhà. Những dụng cụ này
-4-
được tìm thấy ở khu vực đô thị hay những vùng lân cận như trong gia đình,
công trường xây dựng và các nhà máy, bao gồm nhiều loại khác nhau như
chum vại, lọ hoa, chậu rửa, bể xây, bể cảnh, xô thùng, lốp xe, túi nilon, chai
lọ, vỏ đồ hộp, cốc nhựa, bình ắc quy hỏng, và bát kê chân chạn. Sinh cảnh tự
nhiên của bọ gậy thì hiếm hơn, nhưng các hốc cây, kẽ lá và vỏ dừa đều có thể
là ổ bọ gậy. Ở những vùng nóng và khô, các bể treo, bể chứa nước ngầm và
bể đựng chất thải có thể là những nơi sinh cảnh chính. Còn ở những khu vực
được cấp nước thất thường, dụng cụ chứa nước dự trữ trong các hộ gia đình là
những ổ bọ gậy phổ biến.
Sự thay đổi dịch tể học bệnh SXH
Dịch tễ học bệnh SXH thay đổi cùng với sự thay đổi về sinh thái tại
khu vực Đông Nam Á xảy ra trong và sau chiến tranh thế giới lần thứ II [56].
Hệ thống cung cấp nước dùng cho sinh hoạt cũng như cứu hỏa đã bị phá hủy
trong thời kỳ chiến tranh. Các phương tiện chiến trường di chuyển qua các
miền quê và thành thị rồi bị để tại đó với số lượng cũng tương đối lớn để rồi
được sử dụng làm vật chứa nước, là nơi lý tưởng cho các ấu trùng của muỗi
Ae.aegypti và di chuyển muỗi, trứng muỗi đi đến các khu vực mới khác. Kết
quả của sự thay đổi này là quần thể muỗi Aedes aegypti gia tăng và lan rộng.
Thêm vào đó hàng trăm ngàn lính Nhật Bản và lực lượng quân đội đồng minh
thường xuyên di chuyển từ khu vực này sang khu vực khác. Hậu quả của
những thay đổi trên là sự lan truyền của vi-rút Dengue gia tăng và sốt xuất
huyết xảy ra trầm trọng [62].
Phân bố mùa dịch
Do đặc điểm địa lý, thời tiết, khí hậu khác nhau: Miền Nam và Miền
Trung bệnh xuất hiện quanh năm, riêng Miền Bắc bệnh xảy ra từ tháng 4 đến
tháng 11 hàng năm, còn những tháng khác bệnh ít xảy ra vì thời tiết lạnh, ít
mưa, không thích hợp cho sự sinh sản và hoạt động của Aedes aegypti [10],
-5-
[11]. Tính chung trên toàn quốc, bệnh SD/Sốt xuất huyết Dengue phát triển
nhiều nhất vào các tháng 7, 8, 9, 10 hàng năm và dịch cũng thường bùng phát
vào các tháng này [12], [13].
Dịch SXH chủ yếu tập trung ở những thành phố đông dân (Hà Nội, Hải
Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh). Thực tế cho thấy những vụ dịch lớn trên
toàn quốc đều bắt nguồn từ những thành phố lớn: vụ dịch năm 1960 ở Miền
Bắc khởi phát và phát triển mạnh nhất ở Hà Nội với 80.000 bệnh nhân, chiếm
44% tổng số bệnh nhân của cả Miền Bắc, rồi đến Hải Phòng (40.000 bệnh
nhân), sau lan ra 29 tỉnh. Vụ dịch năm 1969 cũng khởi phát và phát triển
mạnh nhất ở Hà nội (25.294 BN, chiếm 54% tổng số BN của cả Miền Bắc).
Vụ dịch năm 1973 ở Miền Nam cũng bắt nguồn và phát triển mạnh ở thành
phố Huế và thành phố Hồ Chí Minh với 9.177 BN, chiếm 64% tổng số bệnh
nhân của cả Miền Nam [7].
Miền Bắc là khí hậu á nhiệt đới, Miền Nam là khí hậu nhiệt đới vì vậy
số lượng BN mắc bệnh khác nhau theo mùa. Ở Miền Bắc, SXH xuất hiện từ
tháng 4 và kết thúc vào cuối năm, với số mắc cao từ tháng 6 đến tháng 10,
đỉnh cao vào các tháng 7, 8, 9, 10. Ở Miền Nam, bệnh xuất hiện quanh năm,
nhưng đỉnh cao cũng vào các tháng 7, 8, 9, 10 [15].
Diễn biến của dịch SXH từ 1976 đến 1991 cho thấy ở Miền Bắc chu kỳ
của năm có số mắc và chết tăng cao là khoảng 2 năm, ở Miền Nam có chu kỳ
là 3- 4 năm [7], [38].
Mầm bệnh
Virut Dengue thuộc nhóm Flavivi-rút gồm Dengue tuýp 1, Dengue
tuýp 2, Dengue tuýp 3, Dengue tuýp 4. Cả 4 tuýp đều có khả năng gây bệnh
SXH. Nhiễm bất kỳ một tuýp nào trong 4 tuýp ấy đều được miễn dịch lâu dài
với tuýp đó. Mặc dù cả 4 tuýp huyết thanh đều tương tự nhau về mặt kháng
nguyên, nhưng sự khác nhau giữa 4 tuýp này vẫn đủ tạo ra khả năng miễn
-6-
dịch chéo, nhưng thời gian ngắn chỉ vài tháng. Như vậy, miễn dịch chéo xảy
ra trong thời gian rất ngắn. Sau thời kỳ ủ bệnh 4-6 ngày (tối đa là 10 ngày)
virut sẽ có mặt trong máu bệnh nhân trong giai đoạn cấp của bệnh [24].
Ở Miền Bắc, các vụ dịch từ năm 1990 đến 1996 đều có mặt của 4 tuýp
huyết thanh, nhưng từ năm 1990 đến 1992, các vụ dịch chủ yếu do vi-rút
Dengue tuýp 2 (60%) và từ năm 1993 đến 1996 có mặt thêm Dengue tuýp 1
(16%) và Dengue tuýp 3 (23%) [41].
Ở khu vực phía Nam, Dengue tuýp 1 (12%-59%) hoạt động từ 1990
đến 1995, Dengue tuýp 2 (30%-90%) hoạt động từ 1987 đến 1997, Dengue
tuýp 3 (10%-74%) hoạt động từ 1996 đến 1998, Dengue tuýp 4 còn đang tiềm
ẩn, sự có mặt trong các vụ dịch chiếm tỷ lệ ít (2%-11%0. Như vậy, thời gian
lưu hành của Dengue tuýp 2 kéo dài nhiều năm và chiếm tỷ lệ cao [11].
Ở khu vực Miền Trung từ 1995 đến 2001, tuýp vi-rút lưu hành và chu
kỳ hoạt động cũng khác nhau: từ năm 1995 – 1997, xuất hiện Dengue tuýp 2
là chủ yếu, năm 1998 – 2000 xuất hiện Dengue tuýp 3 là chủ yếu. Trong suốt
5 năm (1996-2000) đều có sự hiện diện của Dengue tuýp 2, đây là điều đáng
quan tâm vì tuýp vi-rút này được xem là chủng vi-rút thường gây ra hội chứng
lâm sàng nặng [24].
Yếu tố lan truyền (Véc-tơ)
Véc-tơ truyền bệnh chính đã được TCYTTG khẳng định là Aedes
aegypti và Aedes albopictus, trong đó Aedes aegypti đóng vai trò chủ yếu và
có mặt hầu hết trong các vụ dịch, loại muỗi này thường sinh sản trong nhà,
trong các dụng cụ chứa nước sạch như: vại, lọ hoa, lon sữa bò, hoặc chung
quanh nhà: trong lớp xe, gáo dừa, thố nước sạch,….Muỗi Aedes aegypti sau
khi hút máu người bị nhiễm virut có thể truyền bệnh sau thời gian ủ bệnh (3–
10 ngày), trong thời kỳ này virut nhân lên trong tuyến nước bọt của muỗi
hoặc có thể truyền bệnh ngay cho người khác [32].
-7-
Lê Viết Lô nghiên cứu vai trò của Aedes aegypti và Aedes albopictus
trong sự lây truyền bệnh dịch SD/Sốt xuất huyết Dengue tại Miền Trung cho
rằng Aedes aegypti nhậy cảm gấp 2 lần với vi-rút Dengue so với Aedes
albopictus. Hầu hết các mẫu Aedes aegypti thu thập được đều ở những DCCN
sinh hoạt trong và ngoài nhà. Sự hợp tác của mọi người trong việc ngăn ngừa
muỗi đẻ trứng khó thực hiện, người dân rất ngại khi phải thả cá hoặc một vài
hóa chất khác vào các DCCN dùng để sinh hoạt. Hai tác giả cũng đã nghiên
cứu ứng dụng Mesocyclops tại một số tỉnh Miền Trung nhận thấy
Mesocyclops phân bố rộng rãi và có mặt trong các thủy vực của địa phương,
một số loài có thể diệt bọ gậy tuổi 1, tuổi 2, khả năng thích ứng và tồn tại
trong môi trường của chúng rất tốt. Do đó chúng ta có thể sử dụng chúng như
là một tác nhân sinh học để khống chế các loài muỗi véc-tơ [28], [33].
Khối cảm thụ và hiện tượng tảng băng trong sốt xuất huyết
Người có khả năng cảm nhiễm với cả 4 tuýp virut Dengue. Người đã bị
nhiễm virut Dengue thì tùy theo mức độ cảm nhiễm, có thể chỉ là nhiễm trùng
không triệu chứng, hoặc SD, hoặc Sốt xuất huyết Dengue.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Đức Huệ, Nguyễn Đình Sơn và cộng sự
về dịch tễ học SXH tại Thừa Thiên Huế cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ em dưới
15 tuổi ở vị trí trung gian giữa Miền Bắc và Miền Nam (năm 1983 là 58%,
năm 1994 là 76,2%). Trong khi đó tỷ lệ này ở Miền Bắc là 20%, Miền Nam là
95,7%, Tây Nguyên là 62,3%. Còn về giới không có sự khác biệt giữa nam và
nữ (Vụ dịch năm 1998 tỷ lệ nam mắc bệnh là 50,9%; nữ là 49,9%) [21].
Đây là vấn đề quan trọng, mấu chốt trong dịch tễ học bệnh Dengue xuất
huyết, để áp dụng vào việc lập kế hoạch giám sát phòng chống. Tức là có
nhiều trường hợp nhiễm trùng Dengue lặng lẽ trước khi xảy ra một vụ dịch
Dengue xuất huyết. Người ta ước tính rằng trong một vụ dịch đã có khoảng
-8-
50 – 100 ca nhiễm trùng Dengue lặng lẽ khi có một ca bị choáng xuất huyết
nằm ở bệnh viện [32].
Sự giám sát này cần tiến hành sớm từ những tháng trước khi bắt đầu
bước vào mùa dịch song song với sự giám sát chủ động về mặt côn trùng ở
giai đoạn sớm (các ổ bọ gậy) để có một tiên lượng với căn cứ khoa học
đảm bảo [7].
1.2.2. Tình hình dịch bệnh trên thế giới
Bệnh sốt xuất huyết (SXH) là bệnh nhiễm vi-rút do muỗi Aedes truyền.
Trong 2 thập kỷ qua, mức độ xuất hiện của bệnh sốt xuất huyết và Hội chứng
sốc Dengue cùng vời những vụ dịch tăng lên đáng lo ngại. Bệnh có những
biểu hiện chính là sốt cấp tính, nhức đầu, đau khớp, đau cơ và đã được nhận
biết hơn ½ thế kỷ qua ở các nước thuộc khu vực Đông Nam Châu Á và Tây
Thái Bình Dương [36].
Ở khu vực Châu Á, vụ dịch SXH đầu tiên được phát hiện vào năm
1954 tại Manila - Phi lippin, rồi sau đó dịch SXH tiếp tục phát triển và lan
rộng ở nhiều nước khác thuộc vùng Đông- Nam Á và Tây Thái Bình Dương.
Thời gian về sau, (1981) dịch SXH lan sang châu Mỹ và đã bùng phát thành
dịch lớn ở Lahabana và 3 thành phố khác của Cuba. Đây là vụ dịch đầu tiên
của châu Mỹ [36], [58].
Dịch sốt xuất huyết được biết đến cách đây 3 thế kỷ, ở các khu vực có
khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới. Dịch sốt xuất huyết được ghi nhận
đầu tiên vào năm 1635 ở những vùng Tây Ấn Độ. Tổ chức Y tế thế giới ước
tính có khoảng 2,5-3 tỷ người trên toàn cầu có nguy cơ nhiễm bệnh, phần lớn
trong số này sống trong khu vực đô thị có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Hàng năm ít nhất 100 triệu trường hợp mắc sốt Dengue và 500.000 trường
hợp sốt xuất huyết Dengue cần nhập viện, 90% là trẻ em <15 tuổi, 25.000
trường hợp tử vong mỗi năm [64].
-9-
Sự phân bố của SXH từ 1975 đến 1995 xảy ra ở 102 nước, trong đó có
20 nước châu Phi, 42 nước châu Mỹ, 7 nước Đông Nam Á, 4 nước phía Đông
Địa Trung Hải và 29 nước thuộc khu vực Tây Thái Bình Dương [36], [60].
1.2.3. Tình hình dịch bệnh trong nước
Từ năm 1913, Gaidé đã thông báo về SD tại Miền Bắc và Miền Trung.
Năm1958 có một vụ dịch nhỏ SXH xảy ra tại Hà Nội, sau đó từng vụ dịch
nhỏ đã phát triển và lan rộng ra các khu vực trong cả nước, từ thành phố đông
dân lan về các thị trấn nông thôn, phát ra các vụ dịch lớn dần [7]
Sự phân bố SXH không đều: lưu hành nặng quanh năm ở các tỉnh đồng
bằng Nam Bộ và ven biển Miền Trung; lưu hành nặng nhưng theo mùa ở các
tỉnh đồng bằng sông Hồng; lưu hành nhẹ và ngắn ở các tỉnh Tây Nguyên và
một số tỉnh ở biên giới phía Bắc.Thời gian mắc bệnh hầu như quanh năm, có
những nơi theo mùa. Ở miền Bắc bệnh thường xảy ra nhiều từ tháng 7 đến
tháng 9; ở miền Trung và miền Nam bệnh xuất hiện quanh năm, tần số cao
nhất từ tháng 6 – 11, và dịch cũng phát triển nhất là tháng 6 - 11 hàng năm.
Năm 1998, dịch SXH xảy ra với cường độ cao trên phạm vi rộng toàn quốc
với số mắc 234.920 người, chết 377 người [15].
Trong những năm của thập kỷ 80- 90, dịch SXH đã xảy ra ở hầu hết
các tỉnh trong cả nước số lượng bệnh nhân mắc và chết tăng rất nhiều. Ngành
y tế đã phối hợp với các ban ngành khác trong công tác phòng chống tích cực
nhưng hiệu quả chưa cao. Sốt xuất huyết có mặt ở miền Trung từ hơn 30 năm
qua. Từ năm 1995 đến 1998, tỷ lệ mắc bệnh tăng gấp đôi so với giai đoạn
1991 đến 1994 với ca mắc chiếm 30% so với cả nước, trong khi đó dân số chỉ
chiếm khoảng 13% dân số cả nước (mắc/chết năm 1995: 22.065/34; năm
1997: 27.350/41), riêng năm 1998, số bệnh nhân mắc/chết tăng rất cao
(71.631/76) [40].
-10-
Theo Niên giám thống kê bệnh truyền nhiễm, Cục Y tế dự phòng,
(2009) [11]: Cả nước vào Năm 2003 có 49.710 ca mắc, 35 ca chết. Trong đó,
ở Bắc có 1.876 ca mắc không có ca nào chết. Miềm Trung có 1.257 ca mắc, 3
ca chết. Miền Nam có 40.543 ca mắc có 32 ca chết. Tây Nguyên có 908 ca
mắc, không có ca nào chết. Vào năm 2009, cả nước có 105.370 ca mắc, 87 ca
chết. Trong đó ở Bắc có 18.485 ca mắc, 4 ca chết. Miềm Trung có 11.519 ca
mắc, 8 ca chết. Miền Nam có 73.890 ca mắc, 74 ca chết. Tây Nguyên có
1.476 ca mắc, 1 ca chết.
Giới thiệu về địa bàn nghiên cứu
Bình Định là tỉnh thuộc vùng duyên hải miền Trung, có diện tích tự
nhiên 6.039,56 km
2
, dân số 1.489.900 người, mật độ dân số 247 người/km2
(số liệu năm 2009 - Website UBND tỉnh Bình Định), có 11 đơn vị hành
chính: thành phố Quy Nhơn là tỉnh lỵ, đô thị loại 1 và 10 huyện gồm An Lão,
Vĩnh Thạnh, Vân Canh (miền núi), Tây Sơn, Hoài Ân (trung du), Hoài Nhơn,
Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước (đồng bằng). Toàn tỉnh có 159 xã,
phường, thị trấn (Trong đó: có 129 xã, 14 Thị trấn; 16 phường)
Từ năm 1999, Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống SXH đã
triển khai, với mục tiêu giảm chết, giảm mắc, khống chế không để dịch bùng
phát và xã hội hóa hoạt động phòng chống SXH dựa vào cộng đồng. Trong đó
chiến lược giảm mắc chủ yếu là diệt véc-tơ truyền bệnh thông qua các hoạt
động của mạng lưới cộng tác viên, chiến dịch diệt bọ gậy dựa vào cộng đồng
và hoạt động xử lý ổ dịch nhỏ quy mô thôn/xóm/tổ dân phố.
Từ năm 1999 đến nay, số mắc và chết hàng năm tương đối cao, đứng
thứ 5/11 tỉnh thuộc khu vực miền Trung, bệnh nhân tăng cao ở thành phố Qui
Nhơn và các huyện An Nhơn, Tây Sơn, Phù Cát, Phù Mỹ, Hoài Nhơn, Tuy
Phước, số ca mắc tăng cao bắt đầu từ tháng 6 và kéo dài cho đến tháng 11, 12.
-11-
Riêng các huyện Vân Canh, Vĩnh Thạnh, An Lão, Hoài Ân từ năm 1999 đến
năm 2003 số ca mắc bệnh ít và không có dịch, nhưng từ 2004 đến 2010, do
điều kiện phát triển kinh tế xã hội nên sinh hoạt của người dân sống tại trung
tâm của các huyện miền núi với mức cao hơn, mật độ dân cư ngày càng đông,
sự giao lưu giữa các địa phương gia tăng nên dịch bệnh cũng thường xảy ra
hàng năm. Cũng như các địa phương khác, dụng cụ chứa nước thường tập
trung bọ gậy cao là bể chứa nước, chum, vại, lọ hoa, bát kê chân chạn và các
dụng cụ phế thải. Loài muỗi gây bệnh chính bắt được trong các vụ dịch chủ
yếu vẫn là Aedes aegypty, tuy nhiên có một vài vụ dịch tìm thấy sự có mặt của
cả muỗi Aedes albopictus ở ngoài vườn. Tính trung bình 5 năm (Từ 2006 –
2010) thì thời điểm mắc bệnh cao nhất là vào tháng 7 hàng năm [39].
Theo các báo cáo tổng kết của Trung tâm y tế dự phòng tỉnh, tình hình
mắc/chết sốt xuất huyết các huyện, thành phố từ 2005 - 2010 như sau
- Số ca mắc/chết trong năm 2005 có 268/1ca.
- Số ca mắc/chết trong năm 2006 có 264 ca.
- Số ca mắc/chết trong năm 2007 có 1148/3ca.
- Số ca mắc/chết trong năm 2008 có 617 ca.
- Số ca mắc/chết trong năm 2009 có 1121/1ca.
- Số ca ca mắc/chết trong năm 2010 có 3935/6ca.
1.3. Phân bố và đặc điểm của véc-tơ truyền bệnh sốt xuất huyết
1.3.1.Phân bố véc-tơ [46], [58].
Tại khu vực Đông Nam Á, Aedes aegypti phân bố rộng ở những vùng
có khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới, chúng trở thành loài phổ biến ở hầu hết
các đô thị. Sự lan truyền của Aedes aegypti ở vùng nông thôn gần đây có liên
quan đến sự phát triển của hệ thống cấp nước và hệ thống giao thông [57].
-12-
Tại những vùng bán khô hạn như An Độ, Aedes aegypti là vectơ truyền
bệnh ở khu vực đô thị và các quần thể muỗi biến động rõ rệt theo lượng mưa
và thói quen dự trữ nước. Tại các nước Đông Nam Á khác có lượng mưa hàng
năm >200 mm, quần thể Aedes aegypti ổn định hơn và có mặt ở các khu vực
đô thị, bán đô thị và nông thôn. Ở In-đô-nê-xi-a, My-an-ma và Thái lan, do
tập quán dự trữ nước nên mật độ muỗi ở khu vực bán đô thị cao hơn khu vực
đô thị [58].
Tình trạng đô thị hóa có xu hướng làm tăng các sinh cảnh thích hợp cho
Aedes aegypty. Ở một số thành phố có hệ thực vật phong phú, cả Aedes
aegypti và Aedes albopictus cùng có mặt, nhưng nói chung, tùy thuộc vào
kiểu sinh cảnh của bọ gậy và mức độ đô thị hóa, Aedes aegypti thường là loài
chiếm ưu thế. Ví dụ tại Xin - ga - po, chỉ số nhà có Aedes aegypti cao nhất ở
những khu nhà ổ chuột, các cửa hàng và những khu nhà cao tầng. Trong khi
đó Aedes albopictus dường như không liên quan đến tình trạng nhà ở, nhưng
lại phổ biến ở những nơi thoáng và nhiều cây cối [56], [65].
Độ cao là một yếu tố quan trọng làm hạn chế sự phân bố của Aedes
aegypty. Ở An Độ phạm vi thích hợp cho Aedes aegypti sinh sống là nơi có độ
cao từ 0 – 1.000m so với mực nước biển. Trong khoảng dưới 500m, mật độ
muỗi là lớn hoặc vừa, c̣n ở vùng núi có độ cao trên 500m thì mật độ muỗi
thấp. Ở các nước Đông Nam Á, độ cao 1.000 – 1.500m là ngưỡng hạn chế sự
có mặt của Aedes aegypti. Tại các khu vực khác trên thế giới, có thể tìm thấy
Aedes aegypti ở độ cao lớn hơn, như ở Colombia tới 2.200m [55], [59].
1.3.2. Đặc điểm sinh học, sinh thái học của véc-tơ
Trứng muỗi: Trứng được đẻ trên thành vật chứa, sát ngay phía trên
ngấn nước. Hầu hết muỗi cái Aedes aegypti ở vài nơi trong chu kỳ sinh thực.
Phôi của trứng phát triển hoàn thiện trong vòng 48 giờ trong điều kiện môi
trường ấm và ẩm. Khi phôi đã phát triển hoàn thiện thì trứng có thể chịu đựng
-13-
được khô hạn trong thời gian dài (khoảng 1 năm). Trứng muỗi nở ngay khi
ngập nước trở lại, nhưng không phải tất cả các trứng đều nở cùng một lúc.
Khả năng chịu đựng khô hạn của trứng giúp cho Aedes aegypti có thể tồn tại
trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt) [8]
+ Bọ gậy: Bọ gậy phát triển qua 4 giai đoạn. Các giai đoạn này phụ
thuộc vào nhiệt độ, thức ăn và mật độ bọ gậy trong dụng cụ chứa nước. Trong
điều kiện tối ưu, thời gian cần để trứng phát triển thành muỗi chỉ khoảng 7
ngày, kể cả 2 ngày của giai đoạn quăng. Tuy nhiên ở nhiệt độ thấp, thời gian
này có thể là vài tuần. Tại khu vực Đông Nam Á Aedes aegypti hầu như chỉ
đẻ trứng ở những dụng cụ chứa nước do con người làm ra ở chung quanh nhà.
Những dụng cụ này được tìm thấy ở khu vực đô thị hay những vùng lân cận
như trong gia đình, công trường xây dựng và các nhà máy, bao gồm nhiều
loại khác nhau như chum vại, lọ hoa, chậu rửa, bể xây, bể cảnh, xô thùng, lốp
xe, túi nilon, chai lọ, vỏ đồ hộp, cốc nhựa, bình ắc quy hỏng, chén đựng nước
thờ và bát kê chân chạn. Sinh cảnh tự nhiên của bọ gậy thì hiếm hơn, nhưng
các hốc cây, kẽ lá và vỏ dừa đều có thể là ổ bọ gậy. Ở những vùng nóng và
khô, các bể treo, bể chứa nước ngầm và bể đựng chất thải có thể là những nơi
sinh cảnh chính. Còn ở những khu vực được cấp nước thất thường, dụng cụ
chứa nước dự trử trong các hộ gia đình là những ổ bọ gậy phổ biến [8].
+ Muỗi Aedes aegypti [8]:
- Hình dáng: Muỗi Aedes aegypti có kích thước trung bình, thân có
màu đen bóng và có nhiều vảy trắng bạc tập trung thành từng cụm hay từng
đường trên mình muỗi.
-14-
Hình Muỗi Aedes aegypti
- Tập tính hút máu: Aedes aegypti là loài ưa hút máu người, mặc dù có
thể hút máu các động vật máu nóng khác. Là loài hoạt động ban ngày, muỗi
cái Aedes aegypti có hai thời kỳ hút máu chủ yếu, vào buổi sáng sớm khi bình
minh, và trong vòng vài giờ trước khi trời tối. Thời điểm hoạt động hút máu
mạnh nhất có thể thay đổi theo khu vực và theo mùa. Nếu bữa hút máu bị gián
đoạn, Aedes aegypti có thể hút máu nhiều người khác. Tập tính này làm tăng
đáng kể nguy cơ lây lan dịch. Vì vậy có thể nhiều người trong một gia đình
cùng khởi phát bệnh trong vòng 24 giờ.
- Tập tính đậu nghỉ: Aedes aegypti ưa đậu ở những nơi tối, ẩm, kín đáo
trong nhà như phòng ngủ, nhà vệ sinh, phòng tắm và bếp. Hiếm khi chúng
đậu nghỉ ngoài nhà ở các lùm cây hoặc những nơi được quây kín. Những nơi
đậu nghỉ ưa thích trong nhà là mặt dưới của đồ gỗ, quần áo treo, rèm cửa và
bề mặt tường.
- Phạm vi phát tán: Phạm vi hoạt động của muỗi cái Aedes aegypti bị
ảnh hưởng bởi một số yếu tố như nơi đẻ trứng và bữa hút máu, nhưng thường
không quá 100m xung quanh nơi muỗi nở. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần
-15-
đây ở Pueto Rico cho thấy rằng chúng có thể bay xa hơn 400m để tìm nơi đẻ
trứng. Phát tán thụ động có thể xảy ra thông qua trứng và bọ gậy có trong
dụng cụ chứa nước [62].
- Tuổi thọ: Tuổi thọ trung bình của Aedes aegypti trưởng thành chỉ
khoảng 8 ngày. Vào mùa mưa, khả năng sống sót dài hơn nên nguy cơ lan
truyền vi-rút cũng lớn hơn. Cần có thêm những nghiên cứu về tuổi thọ tự
nhiên của Aedes aegypti trong những điều kiện môi trường khác nhau.
- Khả năng truyền vi rút: Muỗi vec tơ bị nhiễm vi-rút khi đốt người
đang trong giai đoạn nhiễm vi-rút huyết.Với SXH, giai đoạn này có thể xảy
ra 1 – 2 ngày trước khi khởi phát sốt và kéo dài khoảng 5 ngày sau khi bắt đầu
có sốt. Sau giai đoạn ủ bệnh khoảng 10 – 12 ngày, vi-rút phát triển xâm nhập
từ dạ dày sang các tổ chức khác và tuyến nước bọt của muỗi. Muỗi này sẽ
truyền vi-rút Dengue sang những người mẫn cảm với vi-rút theo nước bọt của
chúng qua vết đốt.
+ Muỗi Aedes albopictus:
- Muỗi Aedes albopictus thuộc cùng giống phụ (Stegomia) với Aedes
aegypty. Loài muỗi này phân bố rộng rãi ở Châu Á, từ các nước nhiệt đới đến
các nước ôn đới. Trong vòng 2 thập kỷ gần đây, phạm vi phân bố của Aedes
albopictus đã mở rộng sang Bắc và Nam Mỹ, khu vực Ca ri bê, Châu Phi,
Nam Âu và một số đảo ở Thái Bình Dương [63], [66].
- Đầu tiên, Aedes albopictus là loài muỗi sống trong rừng đã thích nghi
với môi trường sống của con người ở vùng nông thôn, bán đô thị, đô thị. Ổ
sinh sản của chúng ở trong rừng là những hốc cây, ống tre nứa và kẻ lá, thêm
vào đó là những dụng cụ chứa nước nhân tạo ở khu vực đô thị, Aedes
albopictus là loài hút máu tạp, ưa máu động vật hơn so với Aedes aegypty.
Phạm vi bay của Aedes albopictus có thể xa tới 500m. Không giống với
-16-
Aedes aegypty, một số chủng Aedes albopictus thích nghi với khí hậu lạnh ở
vùng Bắc Á và Bắc Mỹ nhờ trứng qua đông trong trạng thái “nghỉ” [61].
Ở một số khu vực của Châu Á và ở Seychelles, Aedes albopictus đôi
khi được coi là vec tơ trong các vụ dịch SXH, cho dù vai trò của nó ít quan
trọng hơn Aedes aegypty. Trong phòng thí nghiệm, cả 2 loài đều có thể truyền
vi-rút Dengue trực hệ từ muỗi cái qua trứng sang thế hệ sau, tuy nhiên, hình
thức này phổ biến hơn ở Aedes albopictus [35].
1.4. Giám sát dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết
Giám sát dịch tễ học sốt xuất huyết bao gồm giám sát bệnh nhân (ca
bệnh), giám sát côn trùng (vec tơ) và giám sát huyết thanh vi rút.
1.4.1. Giám sát bệnh nhân và huyết thanh vi rút
Giám sát có hiệu quả nhiễm ca bệnh nhiễm vi-rút Dengue là cần thiết
để theo dõi sự lan truyền dịch và phát hiện dịch sớm. Điều này phụ thuộc vào
sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận dịch tể,lâm sàng và phòng xét nghiệm
cũng như hệ thống báo cáo hiệu quả.
+ Giám sát thụ động:
Các quốc gia có dịch sốt xuất huyết lưu hành địa phương cần có hệ
thống giám sát dựa vào định nghĩa ca bệnh chuẩn và các mẫu báo cáo bắt
buộc. Mặc dù hệ thống giám sát thụ động không nhạy và ít đặc hiệu do ca
bệnh không được chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm huyết thanh học
nhưng vẫn giúp ích cho việc theo dõi xu hướng sốt xuất huyết trong khoảng
thời gian dài.
+ Giám sát chủ động:
Mục đích của giám sát chủ động là giúp cán bộ y tế theo dõi sự lây
truyền sốt xuất huyết ở một cộng đồng, có thể chỉ ra vào bất kỳ thời điểm nào
-17-
nơi xảy ra dịch, tuýp vi-rút đang lưu hành, bệnh cảnh lâm sàng. Để thực hiện
điều đó, cần phải có hệ thống giám sát chủ động và phối hợp tốt với chẩn
đoán trong phòng thí nghiệm. Nếu hoạt động hiệu quả hệ thống giám sát chủ
động có thể phát hiện sớm khả năng lây lan của dịch và có thể ngăn chận
được dịch xãy ra.
1.4.2. Giám sát vec tơ [5]
Giám sát véc-tơ nhằm xác định nguồn sinh sản chủ yếu của muỗi truyền
bệnh, sự biến động theo mùa của véc-tơ, tính nhạy cảm của véc-tơ với các hoá
chất diệt côn trùng. Điểm giám sát véc-tơ được lựa chọn tại nơi có điều kiện
thuận lợi cho sự sinh sản và phát triển của Aedes aegypty, Aedes albopictus.
Giám sát muỗi trưởng thành
Giám sát muỗi trưởng thành bằng phương pháp soi bắt muỗi đậu nghỉ
trong nhà, dùng để đánh giá quần thể muỗi. Người điều tra chia thành nhóm,
mỗi nhóm hai người soi bắt muỗi cái đậu nghỉ trên quần áo, chăn màn, các đồ
vật trong nhà vào buổi sáng, mỗi nhà soi bắt muỗi trong 15 phút. Sau khi bắt
muỗi, tiến hành điều tra bọ gậy (lăng quăng) bằng quan sát, ghi nhận ở toàn
bộ dụng cụ chứa nước trong và quanh nhà. Số nhà điều tra cho một đơn vị
huyện là 50, điều tra 1 lần/tháng (phân bổ trong các xã, phường trọng điểm)
Giám sát bọ gậy
Giám sát thường xuyên: 1 tháng 1 lần cùng với giám sát muỗi trưởng thành.
Giám sát ổ bọ gậy (lăng quăng) nguồn: Phương pháp này dựa vào kết
quả đếm toàn bộ số lượng bọ gậy (lăng quăng) Aedes trong các chủng loại
dụng cụ chứa nước khác nhau để xác định nguồn cung cấp muỗi Aedes chủ
yếu của từng địa phương theo mùa trong năm hoặc theo từng giai đoạn để
điều chỉnh, bổ sung các biện pháp tuyên truyền và phòng chống véc-tơ
thích hợp.
-18-