Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các cấp hội phụ nữ thái bình trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.79 KB, 74 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
***********
BÙI THỊ HƯƠNG
ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC CẤP HỘI PHỤ NỮ THÁI BÌNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
Thái Bình, tháng 8/2014
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI NỘI DUNG,
PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LHPN VIỆT NAM
5
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vị trí, vai trò của phụ
nữ và công tác vận động phụ nữ.
5
2. Sự cần thiết phải đổi mới nội dung phương thức hoạt động
của Hội LHPN.
11
3. Chỉ đạo của TW hội LHPN Việt Nam về đổi mới nội dung
và phương thức hoạt động của hội.
13
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC HOẠT
ĐỘNG CỦA HỘI LHPN TỈNH THÁI BÌNH GIAI ĐOẠN 2007 ĐẾN NAY
21
1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế, văn hoá,
xã hội của tỉnh Thái Bình.


21
2. Thực trạng nội dung và phương thức hoạt động của hội
LHPN tỉnh Thái Bình.
2
3. Đánh giá chung về những thành tựu đạt được, những hạn chế
và nguyên nhân.
41
4. Bài học kinh nghiệm. 44
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG
THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LHPN TỈNH THÁI BÌNH TRONG THỜI
GIAN TỚI
46
1. Mục tiêu công tác hội và phong trào phụ nữ 46
2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động của hội LHPN tỉnh Thái Bình trong thời gian tới:
48
3. Kiến nghị 59
PHẦN KẾT LUẬN 62
PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
ii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá phụ nữ Việt Nam, qua
bức thư gửi phụ nữ nhân kỷ niệm Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế phụ nữ
8/3/1952: "Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ, trẻ cũng như già, ra sức
dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ".
Gần 40 năm đất nước độc lập, thống nhất, phụ nữ Việt Nam đang hòa
mình cùng dân tộc vững vàng trên con đường hội nhập. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, các tầng lớp phụ nữ trên khắp mọi miền đất nước

đã và đang đoàn kết phấn đấu, năng động, sáng tạo, tự tin phát huy sức mạnh
nội lực, giá trị truyền thống, phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam, hoàn
thành trọn vẹn thiên chức người phụ nữ, viết tiếp những trang sử vàng của đất
nước, của dân tộc đóng góp quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội,
góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, quốc
phòng, an ninh của đất nước.
Phụ nữ Việt Nam ngày càng trưởng thành về mọi mặt. Trình độ học
vấn, kỹ năng nghề nghiệp, địa vị của phụ nữ trong gia đình và xã hội được
nâng lên. Quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng được thực hiện đầy đủ hơn. Đời
sống vật chất, tinh thần và sức khoẻ của đại bộ phận chị em được cải thiện.
Hội Liên hiệp phụ nữ (LHPN) Việt Nam đã giữ vững vai trò nòng cốt
trong phong trào phụ nữ, phát huy vai trò đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng cho phụ nữ. Các cấp Hội đã không ngừng đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động, chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành
những chính sách, luật pháp có ý nghĩa chiến lược về công tác phụ nữ, cán bộ
nữ và bình đẳng giới. Với phương châm hướng về cơ sở, tập trung cho các
vùng trọng điểm, vùng dân tộc, tôn giáo, vùng sâu, vùng xa, nơi còn nhiều
khó khăn, các cấp Hội đã xây dựng được nhiều mô hình mới, tổ chức nhiều
hoạt động thiết thực chăm lo, bảo vệ phụ nữ, phù hợp với nhu cầu, tình cảm,
nguyện vọng của đông đảo hội viên.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN
Việt Nam còn không ít những khó khăn, thách thức:
Phong trào phụ nữ phát triển chưa đồng đều ở các vùng miền. Trình độ
của phụ nữ còn thấp; cơ hội có việc làm còn hạn chế. Đời sống và sức khoẻ
của một bộ phận phụ nữ còn nhiều khó khăn. Tình trạng nghèo đói, bất bình
đẳng giới và bạo lực gia đình đối với phụ nữ còn diễn ra ở nhiều nơi. Phẩm
chất đạo đức và một số giá trị truyền thống tốt đẹp có phần bị mai một. Tỉ lệ
nữ tham gia lãnh đạo, quản lý, tham gia các cơ quan dân cử còn thấp, chưa
tương xứng với tiềm năng và lực lượng lao động nữ.

Công tác giáo dục đạo đức, lối sống, vận động, hướng dẫn phụ nữ xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc còn hạn chế. Chất lượng
tham gia xây dựng pháp luật, chính sách, công tác giám sát việc thực hiện chế
độ, chính sách liên quan đến phụ nữ-trẻ em gặp nhiều khó khăn về cơ chế
phối hợp. Hiệu quả hoạt động hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình "No ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc" chưa đạt được mong muốn. Công tác đào tạo, bồi
dưỡng chuẩn hoá cán bộ Hội theo chức danh còn hạn chế.
Những khó khăn, hạn chế nêu trên có rất nhiều nguyên nhân và một
trong những nguyên nhân của những hạn chế trên đó là: Việc đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của Hội chưa đáp ứng yêu cầu giải quyết
hiệu quả một số vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là những vấn đề xã hội bức
xúc liên quan tới phụ nữ. Chỉ đạo của Hội ở một số nơi chưa chú trọng
đúng mức việc lựa chọn vấn đề ưu tiên, còn thiếu các giải pháp cụ thể phù
hợp với đặc thù đối tượng, vùng miền. Trình độ, năng lực, tư duy của một
bộ phận cán bộ Hội chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của công tác vận động
phụ nữ trong tình hình mới.
Hội LHPN tỉnh Thái Bình cũng có những thành tựu và còn những hạn
chế như trên. Ngoài ra với đặc thù là một tỉnh nông nghiệp, công tác hội phụ
nữ tỉnh Thái Bình còn có những hạn chế như: Công tác tuyên truyền giáo dục
mới quan tâm đến bề rộng, thiếu chiều sâu, hình thức tuyên truyền chưa đa
dạng; nội dung sinh hoạt chi, tổ phụ nữ chưa thiết thực; các hoạt động đem lại
quyền lợi thiết thực cho phụ nữ chưa đáp ứng được mong muốn của đông đảo
hội viên; tác phong, lề lối làm việc của một bộ phận cán bộ đặc biệt cán bộ
hội cơ sở chưa thực hiện nghiêm túc; việc chỉ đạo điểm để rút kinh nghiệm và
nhân diện còn hạn chế Nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế trên là do cấp
hội chưa mạnh dạn, chưa chủ động đổi mới nội dung, phương thức hoạt động
để đáp ứng với nguyện vọng của hội viên, phụ nữ.
Bởi vậy việc nghiên cứu và đề ra các giải pháp nhằm đổi mới nội dung
và phương thức hoạt động của hội LHPN tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện
nay là hết sức quan trọng để duy trì và phát triển hoạt động hội theo hướng

vận động phát triển phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã
hội của địa phương trên tinh thần cụ thể hoá nghị quyết Đại hội Đảng, nghị
quyết Đại hội phụ nữ các cấp đề ra.
Với tinh thần trách nhiệm, sự tâm huyết với công tác hội phụ nữ, cùng
với kiến thức được học và sự tích luỹ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của
bản thân, tôi chọn đề tài “Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của
các cấp hội phụ nữ Thái Bình trong giai đoạn hiện nay ” làm luận văn tốt
nghiệp chương trình Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính khóa 6 (2012-2014).
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
2.1. Mục tiêu của đề tài:
Trên cơ sở lý luận của vấn đề đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động của Hội LHPN trong tình hình hiện nay, đề tài sẽ phân tích, đánh giá
thực trạng về nội dung và phương thức hoạt động của hội LHPN tỉnh Thái
Bình, từ đó đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới nội dung và phương
3
thức hoạt động của Hội LHPN tỉnh Thái Bình để đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ
công tác phụ nữ trong giai đoạn mới.
2.2. Nhiệm vụ của đề tài:
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động của Hội LHPN.
- Đánh giá thực trạng nội dung, phương thức hoạt động của Hội LHPN
tỉnh Thái Bình.
- Đề ra một số giải pháp cơ bản đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động của Hội LHPN tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay.
3. Giới hạn của đề tài:
Do hạn chế về mặt thời gian và khả năng nên tôi chỉ chọn:
- Phạm vi về địa bàn: Tỉnh Thái Bình.
- Nội dung: vấn đề đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội
LHPN tỉnh Thái Bình.
- Thời gian: năm 2007 đến nay (trọng tâm 2011 – 2013).

4. Phương pháp nghiên cứu:
- Về phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp duy vật lịch sử và
phương pháp duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với việc
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước
về vai trò, vị trí công tác phụ nữ.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Đề tài này sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp thống kê, phân tích tài liệu, điều tra khảo sát,
phân tích tổng hợp, thống kê so sánh để làm nổi bật vấn đề nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài được kết cấu làm 3 chương:
- Chương I: Một số vấn đề lý luận về đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của Hội LHPN Việt Nam.
- Chương II: Thực trạng nội dung, phương thức hoạt động của Hội
LHPN tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2013.
- Chương III: Một số giải pháp đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động của Hội LHPN tỉnh Thái Bình trong giai đoạn tới.
4
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI
NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI LHPN VIỆT NAM
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vị trí, vai trò của phụ nữ và công
tác vận động phụ nữ.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về phụ nữ và giải phóng
phụ nữ.
Lý luận và thực tiễn đã khẳng định: Trong xã hội loài người, người phụ nữ
là cái nôi nối tiếp cho sự sống muôn đời, là người thầy đầu tiên của con người, là
một trong những nguồn lực chính để thúc đẩy phát triển mỗi quốc gia, dân tộc
cũng như toàn xã hội. Đánh giá về vị trí, vai trò của phụ nữ, lịch sử đã đúc kết

rằng: Sẽ không có nhân loại, không có hạnh phúc nếu không có phụ nữ.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã đặc biệt quan tâm đến vai trò, vị thế của phụ
nữ và vấn đề giải phóng phụ nữ trong xã hội. Với tư tưởng tiến bộ biện chứng
và hết sức nhân văn khi nghiên cứu luận giải chỉ ra nguồn gốc tình cảnh người
phụ nữ bị áp bức bóc lột, nguồn gốc của sự bất bình đẳng nam nữ, Các Mác
đã đánh giá cao vai trò của phụ nữ và cho rằng: “Mức độ giải phóng phụ nữ
là một trong những thước đo đánh giá trình độ văn minh của xã hội”
1
. Khi
chỉ ra điều kiện, biện pháp để giải phóng phụ nữ, nhằm động viên lực lượng
lao động nữ tham gia vào sự nghiệp cách mạng, Ăng ghen viết: “ Sự nghiệp
giải phóng phụ nữ, quyền bình đẳng giữa nam và nữ đều không thể có được
chừng nào mà phụ nữ vẫn còn bị gạt ra ngoài lao động sản xuất xã hội và
còn phải bị bó hẹp trong việc riêng tư gia đình.”
2
. “ Điều kiện tiên quyết để
giải phóng phụ nữ là làm cho toàn bộ nữ giới trở lại tham gia nền sản xuất xã
hội”
3
.
1,2
Các Mác, - Ăng ghen tuyển tập, tập 6-NXB sự thật HN 1984, Tr248
2
3
Các Mác và Ăng ghen (2006) tuyển tập, tập 6-NXB chính trị quốc gia Hà Nội, Tr115
5
Làm thế nào để giải phóng được người phụ nữ cả trong gia đình lẫn
ngoài xã hội? Theo Mác và Ăng ghen, chẳng có con đường nào khác ngoài việc
xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thủ tiêu sự lệ thuộc kinh tế
của người phụ nữ đối với nam giới. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản,

Mác và Ăng ghen chỉ ra là phải “Kéo người đàn bà thoát khỏi vai trò hiện nay
của họ là: vai trò một công cụ sản xuất giản đơn” và “Với sự xóa bỏ chế độ
sản xuất hiện đại ( tức là chế độ tư bản) thì dĩ nhiên chế độ cộng thê do chế độ
sản xuất ấy đẻ ra sẽ biến mất”. Bên cạnh đó, phải làm cho toàn bộ nữ giới
trở lại tham gia nền sản xuất xã hội, không cột chặt họ vào công việc gia đình nữa.
Lênin - Nhà lãnh đạo tiêu biểu của Cách mạng Xã hội chủ nghĩa
( XHCN) đã phát triển quan điểm giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình
đẳng trong thời đại mới. Lênin đã chỉ ra “ dưới chế độ tư bản thì phụ nữ,
tức một nửa nhân loại, phải chịu hai tầng áp bức. Nữ công nhân và nữ nông
dân đều bị tư bản áp bức và ngoài ra, họ còn bị giam hãm trong cảnh “nô
lệ gia đình”
4
.
“ Chừng nào mà phụ nữ không những chưa được quyền tự do tham gia
đời sống chính trị nói chung mà cũng chưa được quyền gánh vác một công
việc thường xuyên và chung cho cả mọi người, thì chừng ấy chưa thể nói đến
chủ nghĩa xã hội được mà cũng chưa thể nói đến ngay cả một chế độ dân chủ
toàn vẹn và bền vững được”
5
. “ Không thể nào đảm bảo được tự do thực sự,
không thể nào xây dựng được ngay cả chế độ dân chủ – chứ đừng nói chủ
nghĩa xã hội , - nếu phụ nữ không tham gia công tác xã hội, đội dân cảnh,
sinh hoạt chính trị, nếu không giải thoát phụ nữ khỏi tình cảnh làm cho người
ta mụ mẫm đi, tức là công việc nội trợ và bếp núc”. Lênin đã kêu gọi phụ nữ
4
Vấn đề giải phóng phụ nữ: Mác - Ăng ghen – Lênin – Xtalin, NXB Sự thật, Hà nội 1967, tr.38-39.
5
Lênin toàn tập, tập 24-NXB sự thật Matxơcơva-1976, Tr73, 74
6
đứng lên làm cách mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và tự giải

phóng mình.
Bằng thực tiễn và hành động cách mạng xã hội các nhà sáng lập ra Chủ
nghĩa xã hội (CNXH) khoa học, sáng lập và phát triển Chủ nghĩa Mác- Lênin
chân chính đều quan tâm tìm kiếm, phân tích, lý giải và chỉ ra những biện
pháp, con đường tiến tới giải phóng phụ nữ. Các ông đã gặp nhau ở một điểm
cơ bản, cho rằng phụ nữ muốn khẳng định được mình, muốn bình đẳng với
nam giới họ cần phải trở thành lực lượng lao động xã hội để có được vị thế
kinh tế, từ đó họ mới có điều kiện để cải thiện địa vị của mình trong gia đình
và ngoài xã hội. Bên cạnh đó còn phải có những điều kiện tiên quyết là xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ, giảm bớt các gánh nặng công
việc gia đình cho họ, có như vậy công cuộc giải phóng phụ nữ mới có khả
năng trở thành hiện thực.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ và giải phóng phụ nữ.
Với quan điểm cách mạng và tư tưởng nhân văn sâu sắc, Hồ Chí Minh
đã sớm nhận thấy vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam trong gia đình và ngoài
xã hội. Người đã từng nói: “ Xem trong lịch sử cách mạng chẳng có lần nào
là chẳng có đàn bà con gái tham gia”
6
. Vì vậy theo Người, đối với Việt Nam
“ Cách mạng cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công”
7

Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh đã viết rất
nhiều, nói rất nhiều đến phụ nữ và đề ra những cách thức hữu hiệu để giải
phóng người phụ nữ Việt Nam. Người khẳng định: “Phụ nữ Việt Nam là một
lực lượng xã hội to lớn, chiếm phần nửa xã hội”; “Trong cuộc kháng chiến to
lớn của dân tộc ta, phụ nữ gánh vác một phần quan trọng ”; “ Non sông
gấm vóc Việt Nam do phụ nữ trẻ cũng như già ra sức thêu dệt mà thêm tốt
6,5
HCM toàn tập, tập 2-NXB sự thật HN-1984, Tr217,219

7
7
đẹp, rực rỡ”
8
. Người nói " Như thế là từ xưa đến nay, từ Nam chí Bắc, từ trẻ
đến già, phụ nữ Việt Nam ta thật anh hùng". Vậy nên trong đường lối lãnh
đạo của mình, Người luôn quan tâm đến vấn đề giải phóng phụ nữ, bởi theo
Người: " Nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ là
chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa"
9

Khi cách mạng thành công, với tư cách là Chủ tịch nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà, trong Hiến pháp năm 1946 do Người soạn thảo đã ghi rõ: “Phụ
nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông, được hưởng chung mọi
quyền tự do của một công dân”
10
Sắc lệnh 02/LSL do Hồ Chí Minh ký ngày 13/01/1960 công bố Luật hôn
nhân gia đình cũng khẳng định: Luật lấy vợ, lấy chồng là nhằm giải phóng phần
nửa xã hội và xác định “Đây là cuộc cách mạng, một bộ phận không thể của
XHCN” và là “cuộc cách mạng to lớn” nhưng “ dù to và khó nhất định phải
thành công”. Phương thức cơ bản để giúp phụ nữ phát triển, theo Người là động
viên, tạo điều kiện cho chị em nâng cao trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật và
tay nghề chuyên môn, quan tâm đến công tác phát triển Đảng trong quần chúng
phụ nữ, bồi dưỡng, đào tạo, đề bạt phụ nữ vào các chức vụ lãnh đạo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, xã hội Việt Nam đã có những bước tiến
dài nhưng tư tưởng rất khoa học và cũng rất nhân văn của Người mãi mãi là
bó đuốc sáng ấm áp, soi đường sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Hồ Chí Minh
coi cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ nằm trong cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và khẳng định vai trò, sức
mạnh to lớn của phụ nữ, Hồ Chí Minh nhắc lại nhiều lần Đảng, Chính phủ

phải quan tâm tạo điều kiện để phụ nữ được bình đẳng, bình quyền với nam
giới góp sức vào công cuộc xây dựng nước nhà nhưng điều căn bản nhất, cốt
lõi nhất là phụ nữ phải luôn phấn đấu, không ngừng vươn lên tự khẳng định
8,7
HCM toàn tập, tập 6-NXB Chính trị Quốc gia-1995, Tr97,431
9
10
HCM toàn tập, tập 4-NXB Chính trị Quốc gia-1995, Tr440
8
vai trò, vị thế của mình và đấu tranh không ngừng để tự giải phóng mình. Là
chủ tịch nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chính là người đầu tiên đặt nền
móng cho việc giải phóng phụ nữ Việt Nam thành hiện thực.
1.3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vị trí, vai trò của phụ nữ,
công tác vận động phụ nữ và đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới.
Đảng ta luôn xác định sự nghiệp giải phóng phụ nữ gắn liền với sự
nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở Việt Nam. Vì vậy ngay từ
khi ra đời Đảng đã quan tâm chỉ đạo thành lập tổ chức hội LHPN Việt Nam.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng xây dựng đất nước, Đảng luôn quan
tâm chăm lo đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ, chăm lo đào tạo phát triển cán
bộ nữ, cán bộ hội, chăm lo đến công tác kiện toàn xây dựng củng cố các cấp
hội, điều đó được thể hiện rất nhiều trên các văn bản, chỉ thị, nghị quyết, hiến
pháp, các văn kiện đại hội Đảng thông qua các nhiệm kỳ đại hội Đảng.
Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến
pháp năm 1992 đều khẳng định rằng: phụ nữ được hưởng mọi quyền bình
đẳng với nam giới trong tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội Trong từng thời kỳ cách mạng, các quan điểm đó được thể chế
thành các văn bản, hệ thống pháp luật và các cơ chế, chính sách, tăng tỷ lệ nữ
tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Đó là điều kiện quan trọng để phụ
nữ phấn đấu vươn lên phát huy vai trò vị trí của mình trong sự nghiệp xây

dựng, phát triển đất nước và là điều kiện để thực hiện tốt quyền bình đẳng,
dân chủ của phụ nữ. Bộ luật lao động được Quốc hội thông qua năm 1994 đã
dành riêng một chương quy định các chế độ chính sách về lao động nữ. Trong
từng giai đoạn và các nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc, Đảng đều có các chỉ
thị, nghị quyết về công tác phụ vận như: Chỉ thị 44-CT/TW ngày 07/6/1984
của Bộ chính trị về “ Một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ”; Nghị
9
quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ chính trị về "Đổi mới và tăng
cường vận động phụ nữ trong tình hình mới”; Chỉ thị 37-CT/TW ngày
16/5/1994 của Bộ chính trị về “ Một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình
hình mới” và gần đây nhất là Nghị quyết số 11- NQ/TW ngày 27/4/2007 của
Bộ chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Nghị quyết đưa ra 4 quan điểm về công tác phụ nữ và đề ra mục
tiêu, 5 nhiệm vụ và giải pháp thực hiện công tác phụ nữ.
Ngày 29/11/2006 Quốc hội đã ban hành Luật Bình đẳng giới nhằm tiếp
tục thể chế hoá các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta đồng thời
góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình đẳng giới và tiến bộ phụ nữ,
xoá bỏ tình trạng phân biệt đối xử về giới cũng như thu hẹp khoảng cách giới
trên thực tế. Sự ra đời của luật bình đẳng giới còn thể hiện quyết tâm của
Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện cam kết quốc tế mà Việt Nam là
thành viên trong đó có công ước CEDAW, cương lĩnh hành động toàn cầu vì
sự tiến bộ của phụ nữ và các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.
Luật phòng chống bạo lực gia đình được Quốc hội nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam khoá XII thông qua ngày 21/11/2007 với một trong những
quan điểm là bảo đảm quyền con người, nhất là đối tượng yếu thế như phụ
nữ, trẻ em và để đảm bảo thực hiện cam kết quốc tế nhất là công ước về
chống mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ - công ước CEDAW.
Chính phủ đã ban hành Nghị định 19/2003/NĐ-CP quy định trách
nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho các
cấp hội LHPN Việt Nam tham gia quản lý Nhà nước

Trong giai đoạn cách mạng mới - giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến phát huy dân
chủ trong xã hội, đó chính là điều kiện thuận lợi để thực hiện quyền bình đẳng
nam - nữ, đồng thời tổ chức thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị, pháp luật,
10
chính sách có liên quan đến phụ nữ có tác dụng thực hiện mục tiêu vì sự
bình đẳng và phát triển của phụ nữ.
2. Sự cần thiết phải đổi mới nội dung phương thức hoạt động của
Hội LHPN.
2.1. Vị trí, vai trò, chức năng của Hội LHPN Việt Nam
Hội LHPN Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội, tập hợp rộng rãi các
tầng lớp phụ nữ Việt Nam. Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
thành viên của Liên đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế và Liên đoàn các tổ chức
phụ nữ ASEAN (Hiệp Hội các nước Đông Nam á). Hội tham gia tích cực
trong các hoạt động vì hoà bình, đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc và tiến bộ
xã hội trên toàn thế giới.
Mục đích của Hội là hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển của phụ
nữ, chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ.
Từ những tổ chức tiền thân cho đến Hội LHPN Việt Nam ngày nay,
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Hội đoàn kết các tầng lớp phụ
nữ, phát huy truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm
đang, tài năng, trí tuệ góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hội LHPN Việt Nam có chức năng: Đại diện cho quyền bình đẳng,
dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ, tham gia quản lý Nhà
nước, tham gia xây dựng Đảng; Đoàn kết, vận động các tầng lớp phụ nữ thực
hiện đường lối của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước, góp phần xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hội LHPN Việt Nam có nhiệm vụ:
+ Tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về công tác vận động phụ

nữ, cán bộ nữ; tham gia xây dựng và giám sát thực hiện luật pháp, chính sách
liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ nhằm thực hiện
quyền bình đẳng và phát triển.
11
+ Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức cho phụ nữ; vận động, tạo
điều kiện để phụ nữ nâng cao nhận thức, trình độ, năng lực về mọi mặt, tích
cực thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng,
xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
+ Xây dựng Hội vững mạnh về tổ chức, phát triển và nâng cao chất
lượng cán bộ, hội viên, đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
2.2. Yêu cầu khách quan đòi hỏi phải đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của hội LHPN.
- Xuất phát từ đường lối đổi mới của Đảng và sự chỉ đạo của Đảng.
Từ nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VI ( năm 1986) đến nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng đã không ngừng đề ra các chủ trương
đổi mới. Trong nghị quyết số 04/NQ-TW năm 1993 của Bộ chính trị về đổi mới
và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, một trong sáu công
tác lớn của công tác vận động phụ nữ được Đảng xác định là " Đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động của Hội LHPN Việt Nam". Trong nghị quyết số 11-
NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước đã nhấn mạnh " …Các cấp hội LHPN Việt Nam cần
đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương thức hoạt động….".
- Xuất phát từ Chính phủ đã tiến hành đổi mới quản lý Nhà nước,
quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc, tăng cường vai trò tham gia quản lý
Nhà nước của các tổ chức chính trị xã hội.(Chính phủ đã ban hành Nghị định
19/2003/NĐ-CP quy định trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các
cấp trong việc bảo đảm cho các cấp hội LHPN Việt Nam tham gia quản lý
Nhà nước.)
- Từ yêu cầu đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, yêu cầu của hội nhập

kinh tế quốc tế đòi hỏi nguồn nhân lực mới có trình độ chuyên môn, tay nghề
cao, có trình độ quản lý kinh tế giỏi, quản lý gia đình tốt… đang là thách thức
quyết liệt mà mọi người dân trong đó có phụ nữ phải đối mặt.
12
2.3. Yêu cầu chủ quan của tổ chức Hội đòi hỏi phải đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của Hội LHPN.
Hội LHPN Việt Nam là một tổ chức Chính trị xã hội trong hệ thống
chính trị, vì vậy hội phải đổi mới để làm tốt chức năng, nhiệm vụ đoàn kết,
vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước; tham gia quản lý Nhà nước; tham gia xây dựng, kiểm tra
giám sát việc thực hiện chính sách, tham gia xây dựng Đảng.
Xu thế hội nhập quốc tế, hội nhập của phong trào phụ nữ trên thế giới
ngày càng tác động vào các tầng lớp phụ nữ, hoạt động của hội cũng phải kịp
thời đổi mới để hoà với xu thế phát triển chung.
Xã hội phát triển, điều kiện khách quan của kinh tế xã hội thay đổi, đặc
biệt nền kinh tế hàng hoá, với cơ chế thị trường đã tạo nên sự phát triển đa dạng.
Đối tượng phụ nữ ngày càng đa dạng về ngành nghề, tầng lớp xã hội, về
trình độ, năng lực. Phụ nữ năng động hơn trong cách làm ăn, phụ nữ quan tâm
hơn đến thu nhập, lợi ích kinh tế. Nhu cầu và lợi ích của phụ nữ vì thế cũng
đa dạng và yêu cầu cao hơn so với trước. Quần chúng phụ nữ không chấp
nhận những hoạt động mang tính hình thức, kém hiệu quả. Vì vậy muốn tập
hợp, thu hút được đông đảo phụ nữ tham gia phong trào cách mạng thì tổ
chức hội phải liên tục đổi mới, liên tục tìm ra những nội dung phương thức
hoạt động phù hợp, hấp dẫn và phải đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của phụ nữ, đem lại lợi ích thiết thực cho phụ nữ.
Thực tế từ 1987 đến nay, Hội LHPN Việt Nam đã không ngừng đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động và trở thành tổ chức chính trị xã hội đóng
góp tích cực cho công cuộc đổi mới đất nước.
3. Chỉ đạo của TW hội LHPN Việt Nam về đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động của hội.

3.1. Những căn cứ để Hội LHPN Việt Nam tiến hành đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động của hội.
- Trước hết phải khẳng định đổi mới nội dung phương thức của hội phải
dựa trên quan điểm của Đảng về xây dựng đất nước và đổi mới tổ chức, hoạt
động của Mặt trận và các tổ chức quần chúng trong đó có hội phụ nữ:
13
Đổi mới của hội phải phục vụ cho nhiệm vụ xây dựng nước Việt Nam “
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị- xã hội ổn
định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được
nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn
sau”(Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI)
Đổi mới của hội phải bám sát các bài học kinh nghiệm từ quá trình đổi
mới của Đảng và Nhà nước trong hai mươi lăm năm qua:
" Một là, trongbất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực
hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận, phát triển chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội
Hai là, coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền
vững. Phát triển lực lượng sản xuất phải đồng thời với xây dựng, hoàn thiện
quan hệ sản xuất
Ba là, coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội
Bốn là, chăm lo, củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Năm là, trong công tác lãnh đọa, chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết,
sáng tạo, bám sát thực tiến đất nước, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với
tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền tạo sự đồng thuậncao, phát

huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội.(Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI).
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nhận định: " Việc tuyên
truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các phong trào của Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân còn hạn chế. Hoạt động của Mặt trận Tổ
14
quốc và các đoàn thể nhân dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở,"
và yêu cầu " Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục tăng cường
tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng hành
chính hóa, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ
sở chính trị của chính quền nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản
biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; tổ
chức các phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực
hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh,
đối ngoại".
Nghị định số 8B-NĐ/HNTWƯ của Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá VI về đổi mới công tác quần chúng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng
và nhân dân khẳng định: " Đổi mới nội dung hoạt động của các tổ chức quần
chúng vào việc đoàn kết đoàn viên, hội viên, cùng nhau chăm lo lợi ích thiết
thực của mình và góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước, xây dựng và
bảo vệ chính quyền cách mạng. Từ việc đáp ứng lợi ích thiết thực về vất chất
và tinh thần, bảo vệ những quyền lợi chính đáng của quần chúng mà tạo nên
sự gắn bó trong tổ chức, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và
trình độ mọi mặt của đoàn viên, hội viên, động viên mọi người làm tròn nghĩa
vụ đối với đất nước".
Về công tác tổ chức và hoạt động: " Thực hiện nguyên tắc tự quản, tự
lựa chọn cán bộ cho mình", " Hoạt động đúng hướng, đúng pháp luật và có
hiệu quả cao". Yêu cầu " cán bộ của Đoàn thể phải được lựa chọn từ phong
trào, có năng lực và có uy tín với quần chúng. Cần tích cực tinh giản bộ máy
chuyên trách của đoàn thể, coi trọng sử dụng cán bộ không chuyên trách.

Cán bộ đoàn thể ở các cấp cần dành nhiều thời gian đi sát cơ sở, thực hiện
chế độ luân phiên làm việc ở cơ sở dài ngày. Khuyến khích cán bộ chuyên
trách công tác hẳn ở cơ sở. Chăm lo đời sống và đảm bảo điều kiện hoạt
động của cán bộ đoàn thể. Cấp trên cần hết sức chú ý giúp đỡ cơ sở, chú ý
đào tạo, bồi dưỡng chăm sóc cán bộ cơ sở của các đoàn thể".
15
- Yêu cầu đổi mới của Hội cũng phải: Đổi mới toàn diện, có kế thừa, có
bước đi, hình thức và cách thức phù hợp. Phải vì lợi ích của các tầng lớp phụ
nữ, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của phụ nữ, xuất phát từ thực tiễn, nhạy
bén với cái mới. Phải biết phát huy cao độ năng lực cán bộ, hội viên phụ nữ,
đồng thời biết khai thác sự hỗ trợ của cá nhân, các ban, ngành, đoàn thể trong
nước cũng như ngoài nước để tạo nên sức mạnh trong điều kiện mới nhất.
3.2. Đổi mới nội dung hoạt động của Hội LHPN Việt Nam.
- Đổi mới hoạt động trên các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hoá-
xã hội.
Nội dung hoạt động của Hội LHPN các cấp luôn đổi mới, sáng tạo, vừa
thực hiện được nhiệm vụ chính trị đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, vừa đáp ứng nhu cầu, đem lại lợi ích thiết thực cho quần chúng phụ nữ.
+ Đổi mới hoạt động chính trị:
Hoạt động mang tính chính trị của hội LHPN Việt Nam nhằm bồi
dưỡng kiến thức về đường lối, luật pháp, chính sách; nâng cao ý thức, phẩm
chất chính trị của cán bộ, hội viên, phụ nữ, hỗ trợ phụ nữ thực hiện quyền lợi
và nghĩa vụ chính trị. Những hoạt động cần thiết phải đổi mới:
Giúp nâng cao nhận thức chính trị: Chủ động tổ chức cho hội viên học
tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tuyên truyền vận động bầu cử phụ nữ vào các cơ quan dân cử. Vận động phụ
nữ thực hiện quyền bầu cử, ứng cử vào cơ quan dân cử.
Hỗ trợ để phụ nữ thực hiện quyền chính trị: Tổ chức tập huấn nâng cao
kiến thức, kỹ năng về bầu cử cho nữ ứng cử viên đại biểu quốc hội, nữ ứng cử
viên đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; tham gia xây dựng, kiểm tra giám

sát việc thực hiện luật pháp, chính sách, bình đẳng giới, thực hiện vai trò phản
biện xã hội; tổ chức các đợt vận động phụ nữ tham gia thực hiện quyền quản
lý nhà nước: bầu cử, ứng cử vào cơ quan dân cử; tăng cường bồi dưỡng kiến
thức, phẩm chất chính trị của cán bộ, hội viên; giới thiệu phụ nữ ưu tú để phát
triển Đảng viên; tham mưu quy hoạch đội ngũ cán bộ nữ.
16
+ Đổi mới hoạt động kinh tế:
Hoạt động kinh tế của hội LHPN Việt Nam cũng luôn đổi mới nhằm
thiết thực đem lại lợi ích kinh tế, chăm lo đời sống vật chất cho phụ nữ, từ đó
thu hút hội viên để tiếp tục tuyên truyền giáo dục. Hoạt động kinh tế đang là
hoạt động đổi mới mạnh, hiệu quả của hội LHPN Việt Nam hiện nay.
Cần tổ chức tốt các hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế như: Hỗ
trợ vốn, hướng dẫn sử dụng quay vòng vốn hiệu quả; dạy nghề, tạo việc làm ;
chuyển giao khoa học kỹ thuật trong sản xuất; hỗ trợ phát triển doanh nghiệp
nhỏ và cực nhỏ do phụ nữ làm chủ; phối hợp các ngành hỗ trợ phụ nữ xoá đói,
giảm nghèo; thực hiện các phong trào, các cuộc vận động giúp phụ nữ nghèo
thoát nghèo.
+ Đổi mới hoạt động văn hoá- xã hội:
Hoạt động văn hóa xã hội nhằm tập hợp phụ nữ đáp ứng nhu cầu đa
dạng theo sở thích, lứa tuổi của hội viên, phụ nữ. Nội dung hoạt động văn hóa
bao gồm các hoạt động góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
tham gia tuyên truyền, quảng bá văn hóa dân tộc.
Các cấp hội cần thực hiện tốt các hoạt động: Vận động phụ nữ tích cực
học tập nâng cao kiến thức về mọi mặt; vận động phụ nữ tham gia các hoạt
động: giữ gìn, bảo vệ môi trường xanh - sạch - đẹp; xây dựng gia đình văn
hóa, chăm sóc sức khỏe cộng đồng; phòng chống các dịch bệnh; phòng chống
tội phạm, tệ nạn xã hội, phòng chống bạo lực trong gia đình; phòng chống
buôn bán phụ nữ, trẻ em; tham gia xây dựng các nơi vui chơi giải trí công
cộng, trạm xá, trường học ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình; tham gia hòa
giải, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính

đáng cho phụ nữ; tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện.
Hình thức hoạt động theo các mô hình: Sinh hoạt câu lạc bộ, sinh hoạt
chuyên đề, giao lưu văn hoá, hội diễn, hội thi, tham quan, du lịch; thể dục thể
thao. Sử dụng đa dạng các phương tiện thông tin đại chúng: đài, tivi, sách, báo
17
- Đổi mới nội dung công tác chăm lo quyền, lợi ích hợp pháp và
chính đáng của phụ nữ:
Công tác chăm lo quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ
phải thiết thực cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho phụ nữ trên cơ sở đi
sâu đi sát nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, đời sống, việc làm, thu nhập, sức
khoẻ phụ nữ … làm căn cứ đề ra nội dung và kế hoạch hoạt động.
Cần chủ động nghiên cứu, tham mưu, đề xuất, tham gia xây dựng các
văn bản pháp luật có liên quan đến bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ,
đồng thời thực hiện tốt chức năng giám sát việc thực hiện chính sách, pháp
luật đó. Vận động các tầng lớp phụ nữ và toàn xã hội, thực hiện xã hội hoá
công tác chăm lo quyền lợi, đời sống cho phụ nữ; đặc biệt chú trọng đến nội
dung chăm lo cho quyền bình đẳng, quyền dân chủ của phụ nữ thông qua
chức năng phản biện xã hội của tổ chức chính trị xã hội; chức năng đại diện
tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách của
Nhà nước, tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng.
- Đổi mới nội dung công tác tuyên truyền giáo dục, vận động phụ nữ:
Chú trọng công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao kiến thức về mọi
mặt cho phụ nữ; giữ gìn phẩm chất đạo đức, truyền thống phụ nữ Việt Nam,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam
" có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống
văn hoá, có lòng nhân hậu".
Nội dung tuyên truyền giáo dục phong phú, đa dạng, phù hợp với các
đối tượng. Giáo dục nâng cao kiến thức về: Các chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; Kiến thức về kinh tế-xã hội, khoa học kỹ
thuật công nghệ mới

Thực hiện xã hội hóa công tác tuyên truyền giáo dục vận động phụ nữ.
Vận động các ngành, các cấp tham gia các hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ
và bình đẳng giới.
18
- Đổi mới công tác tổ chức cán bộ:
Các cấp hội cần chủ động tham mưu cấp uỷ về công tác cán bộ: Xây
dựng quy hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ, cán bộ hội; tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng, đề bạt cán bộ nữ, cán bộ hội theo quy hoạch; tích cực tham
mưu quy hoạch cán bộ nữ và phát triển đảng viên nữ với cấp uỷ.
Hệ thống hội cần tăng cường mở rộng tính liên hiệp, phát triển hội viên,
củng cố cơ sở hội vững mạnh; rà soát, sắp xếp đảm bảo bộ máy tổ chức tinh
gọn, hiệu quả.
3.3. Đổi mới phương thức hoạt động của Hội LHPN Việt Nam.
- Hoạt động chỉ đạo trong hệ thống Hội LHPN Việt Nam :
Mọi hoạt động của tổ chức Hội LHPN Việt Nam được chỉ đạo nhịp
nhàng, đảm bảo thông tin hai chiều từ Trung ương xuống cơ sở và ngược lại
từ cơ sở lên Trung ương.
Trung ương Hội LHPN Việt Nam có nhiệm vụ: Định hướng chủ trương,
lãnh đạo, chỉ đạo phong trào phụ nữ và công tác hội của các cấp hội; nhận thông
tin phản hồi, kiểm tra, giám sát từ hội phụ nữ cấp dưới; nghiên cứu tổng kết rút
kinh nghiệm, tiếp tục định hướng chỉ đạo phong trào phụ nữ và công tác hội.
Hội phụ nữ cơ sở có nhiệm vụ: Nghiên cứu định hướng Hội cấp trên và
nhu cầu phụ nữ ở địa phương để đề ra kế hoạch hoạt động phù hợp; tổ chức
thực hiện các hoạt động hội; tổng hợp, báo cáo cách làm, kết quả, bài học
kinh nghiệm với hội phụ nữ cấp trên.
- Phối hợp với các lực lượng xã hội:
Thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác vận động phụ nữ của đảng,
công tác vận động phụ nữ là trách nhiệm của toàn xã hội.
Hội phụ nữ cần phối hợp chặt chẽ chính quyền, các ban, ngành, đoàn
thể để xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục, chăm lo,

bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của phụ nữ.
Cần hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan chức năng để lựa
chọn nội dung, biện pháp phối hợp hiệu quả; trong hoạt động phối hợp có sự
19
phân công trách nhiệm, kiểm tra, giám sát, sơ, tổng kết, đánh giá cụ thể, kịp
thời; hội phụ nữ cần chủ động hợp tác và hợp tác có hiệu quả.
- Chỉ đạo hoạt động theo các mô hình lồng ghép:
Mô hình lồng ghép là kết quả tổng kết các kinh nghiệm từ thực tiễn hoạt
động phong trào. Đây là phương thức đang hoạt động rất hiệu quả ở các cấp
hội, đặc biệt ở cấp cơ sở.
Trong hoạt động theo mô hình lồng ghép cần phải lựa chọn các nội
dung hoạt động ở các chương trình có liên quan mật thiết, hỗ trợ tác động lẫn
nhau để lồng ghép với nhau. Cần xây dựng kế hoạch cụ thể khi thực hiện các
hoạt động lồng ghép, đặc biệt là phân công cán bộ có năng lực kiêm nhiệm,
có trách nhiệm cao, có khả năng tổng hợp phụ trách hoạt động lồng ghép. Cần
kiểm tra, giám sát, sơ tổng kết, đánh giá kịp thời để điều chỉnh và hỗ trợ các
hoạt động lồng ghép.
- Chỉ đạo theo các chương trình, nhiệm vụ, phong trào:
Phong trào thi đua và 6 nhiệm vụ trọng tâm do Đại hội phụ nữ các cấp
đề ra. Các tổ chức hội, căn cứ vào đặc thù địa phương và tùy từng thời điểm
để lựa chọn thực hiện nhiệm vụ cần ưu tiên cho phù hợp.
Trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ công tác hội cần lập kế hoạch
hoạt động cụ thể, chỉ đạo sâu sát, đầu tư nguồn lực cần thiết thực hiện và sơ,
tổng kết, đánh giá theo chỉ đạo của hội cấp trên.
- Phương thức chỉ đạo điểm:
Chỉ đạo điểm là hoạt động cần thiết để các cấp hội rút kinh nghiệm
nhân ra diện.
Trong chỉ đạo điểm cần: Phân công cán bộ phụ trách điểm; theo dõi
kiểm tra, giám sát việc thực hiện điểm; kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hỗ trợ
cho việc chỉ đạo điểm; sơ, tổng kết, đánh giá, rút bài học từ chỉ đạo điểm và

triển khai ra diện rộng.
20
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI LHPN TỈNH THÁI BÌNH
GIAI ĐOẠN 2007 ĐẾN NAY
1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế, văn hoá, xã
hội của tỉnh Thái Bình.
Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp thuộc châu thổ sông Hồng, có diện
tích là 1.546 km2, với ba mặt giáp sông ( sông Hồng, sông Luộc, sông Hóa)
và một mặt giáp biển. Bờ biển Thái Bình chạy dài trên 50 km là môi trường
thuận lợi để phát triển kinh tế biển và du lịch. Đất đai Thái Bình phì nhiêu,
tươi tốt, hệ sinh thái đa dạng, phong phú, trong lòng đất lại có nhiều tiềm
năng về dầu mỏ, khí đốt. Thái Bình là mảnh đất giàu truyền thống văn hiến,
khoa bảng, có truyền thống lao động sản xuất giỏi và truyền thống chống giặc
ngoại xâm. Nơi đây không phải chỉ là chiếc nôi của làn điệu Chèo, múa rối
nước mà còn là đất của những anh hùng, hào kiệt làm rạng danh quê hương
đất Việt: từ Lý Bí đuổi giặc Lương, dựng lên nước Vạn Xuân, đến Trần Thủ
Độ cùng các vua đầu triều sáng lập ra triều Trần, hay chiến sỹ cộng sản trung
kiên Nguyễn Đức Cảnh. Là mảnh đất có tới 130 người con đỗ tiến sỹ đại khoa
trong hơn tám trăm năm khoa cử thời phong kiến, với nhà bác học Lê Quý
Đôn mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc.
Năm 1966, Thái Bình đã nổi tiếng với phong trào thâm canh, là tỉnh đầu
tiên đạt 5 tấn thóc/ha, trở thành quê hương Năm tấn anh hùng trong những
năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đây cũng là nơi đi tiên phong trong
phong trào diệt “ giặc đói” diệt “ giặc dốt” của cả nước.
Thái Bình ngày nay với trên 1,9 triệu dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng
bộ, phát huy truyền thống vẻ vang của quê hương, nhân dân đồng lòng ra sức
thi đua, nỗ lực phấn đấu, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
21

đất nước. Thái Bình được chọn làm điểm của cả nước về xây dựng nông thôn
mới. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm(2005-2010) là 12,02%. Sản
xuất, nông, lâm, ngư nghiệp phát triển toàn diện cả về trồng trọt, chăn nuôi và
thuỷ hải sản theo hướng nâng cao giá trị, hiệu quả, từng bước chuyển sang sản
xuất hàng hoá. Năng suất lúa đạt 130 tạ/ha/năm; diện tích vụ đông chiếm 45%
diện tích canh tác.
Sản xuất công nghiệp, xây dựng có bước phát triển nhanh, đã hình
thành một số khu, cụm công nghiệp và mở rộng nghề, làng nghề làm thay đổi
diện mạo công nghiệp của tỉnh. Toàn tỉnh đã có 219 làng nghề được công
nhận đạt tiêu chuẩn, 100% số xã trong tỉnh có nghề giải quyết việc làm cho
175 nghìn lao động.
Dịch vụ có bước phát triển, từng bước nâng cao chất lượng, đáp ứng
yêu cầu sản xuất và đời sống nhân dân.
Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế, tình hình chính trị ổn định, quốc
phòng, an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, hoạt
động văn hoá xã hội có tiến bộ. Ngành giáo dục đã góp phần quan trọng đưa
tỉnh Thái Bình hoàn thành phổ cập giáo dục Trung học cơ sở và là tỉnh có hệ
thống trung tâm học tập cộng đồng điển hình cả nước. Ngành giáo dục cùng
các ngành khác triển khai thực hiện nhiều chương trình đào tạo nghề, giải
quyết việc làm cho người lao động. Ngành y tế đã đảm bảo tốt công tác chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe toàn dân. 100% thôn, tổ dân phố có nhân viên y tế,
208(72,7%) cơ sở đạt chuẩn quốc gia về Y tế xã, phường, thị trấn. 90%
dân cư đô thị sử dụng nước máy, 80% dân cư nông thôn sử dụng nước hợp vệ
sinh. Các hoạt động văn hóa thể thao được tổ chức thường xuyên góp phần
giáo dục, phát huy truyền thống một vùng quê lúa hơn 2000 năm lịch sử.
Tuy nhiên bên cạnh những truyền thống tốt đẹp và những điều kiện
thuận lợi cũng như những thành tựu mà đảng bộ và nhân dân Thái Bình đã đạt
22
được thì Thái Bình vẫn còn có những khó khăn và những tồn tại: Là tỉnh nông
nghiệp nên việc thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước còn gặp rất

nhiều khó khăn; kinh tế phát triển chưa vững chắc, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh thấp; sản xuất nông nghiệp bước đầu đã chuyển sang sản xuất hàng
hóa nhưng chưa mạnh, chưa tạo được các vùng sản xuất hàng hóa lớn, tập
trung; người lao động thiếu việc làm còn nhiều, thu nhập thấp, tỷ lệ hộ cận
nghèo còn cao; tội phạm, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; các hoạt
động văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế cũng còn những hạn chế cần khắc phục…
2. Thực trạng nội dung và phương thức hoạt động của hội LHPN
tỉnh Thái Bình.
2.1. Phong trào phụ nữ và thực trạng cơ cấu tổ chức hội phụ nữ các
cấp tỉnh Thái Bình.
a. Phong trào phụ nữ Thái Bình:
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước cũng như trong thời kỳ
xây dựng CNXH và thực hiện công cuộc đổi mới, phụ nữ Thái Bình đã thể
hiện những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam: Yêu nước, lao
động cần cù, quả cảm, sáng tạo và giàu lòng nhân hậu. Ở thời kỳ nào cũng có
những tấm gương phụ nữ tiêu biểu trong chiến đấu, công tác, học tập, lao
động sản xuất. Hình ảnh nữ tướng Bát Nạn tướng quân Vũ Thị Thục Nương
đứng lên chiêu binh hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, hình ảnh “
cô gái Thái Bình, cô gái Việt Nam” , “ Chị Hai 5 tấn quê ở Thái Bình” đã đi
vào lịch sử và sống mãi với thời gian.
Chiếm 53% dân số, 65% lao động của tỉnh, ngày nay trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là công nghiệp hóa hiện đại
nông nghiệp, nông thôn, vai trò phụ nữ lại càng có vị trí đặc biệt quan trọng
đối với việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu văn hóa, xã hội.
Trên lĩnh vực phát triển kinh tế
Trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp: phụ nữ là lực lượng quan trọng
góp phần nâng cao năng suất, sản lượng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp của
23

×