Marketing quốc tế - Nhóm 7
BÁO CÁO MARKETING QUỐC TẾ
Nền kinh tế Mỹ
Thực hiện nhóm 07 – D07 QT2 – HVCNBCVT
Các thành viên bao gồm:
Vũ Ngọc Anh
Lê Thanh Hoài
Nguyễn Thành Trung
Nguyễn Phương Ngân
Trần Thị Vân Anh
Lê Đức Anh
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 1
Marketing quốc tế - Nhóm 7
MỤC LỤC
I: Đặc thù nền kinh tế Mĩ và những nhận định về cơ hội, thách thức đối với DN
Việt Nam 3
1: Cái nhìn toàn cảnh sự phát triển của kinh tế Mỹ từ năm 1947 đến 2010 11
3.1: Suy thoái kinh tế Mỹ bắt đầu vào tháng 12/2007 và kết thúc vào tháng 6/2009, kéo dài 18
tháng 19
3.3: Suy thoái cuối thập kỷ 90 20
3.4: Suy thoái đầu những năm 1980 20
3.5: Khủng hoảng dầu mỏ những năm 1973 21
3.6: Suy thoái năm 1958 22
3.7: Suy thoái năm 1953 22
3.8: Suy thoái năm 1947 22
3.9: Đại suy thoái năm 1930 23
III: Nền kinh tế Mỹ vận hành như thế nào? 24
1: Chính phủ cố gắng điều ?ết nền kinh tế, nhưng quyền lực quyết định về kinh tế là ở các doanh
nghiệp, các cá nhân 24
IV: Giới thiệu doanh nghiệp cụ thể hoạt động trên nền kinh tế thị trường Mỹ.28
1: JPMorgan Chase (NYSE: JPM): 28
2- General Motors - Sự tồn tại, phá sản và tái cơ cấu 31
I: Đặc thù nền kinh tế Mĩ và những nhận định về cơ hội, thách thức đối với DN Việt
Nam.
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 2
Marketing quốc tế - Nhóm 7
1: Những nhân tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế Mỹ.
1.1: Nhân tố cấu thành đầu tiên của một hệ thống kinh tế quốc gia là nguồn tài
nguyên thiên nhiên của quốc gia đó.
Nước Mỹ rất giàu khoáng sản, đất đai canh tác màu mỡ và được phú cho khí hậu ôn
hoà. Nó còn có đường bờ biển trải dài cả hai bên bờ Đại Tây Dương và Thái Bình Dương
cũng như trên vịnh Mêhicô. Những con sông bắt nguồn từ sâu trong lục địa và hệ thống
Hồ Lớn - gồm năm hồ lớn nội địa dọc theo biên giới của Mỹ với Canada - cung cấp thêm
mạng lưới giao thông đường thuỷ. Những tuyến đường thủy mở rộng này đã giúp nước
Mỹ tạo ra tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm và nối liền 50 bang riêng rẽ thành một
khối kinh tế thống nhất.
1.2: Nhân tố cấu thành thứ hai là lao động, yếu tố chuyển hóa các tài nguyên
thiên nhiên thành hàng hoá.
-So với châu Âu, văn hóa doanh nghiệp nước Mỹ có những điểm khác biệt. Mặc dù
đa số người Mỹ là người Anh và người châu Âu di cư, nhưng khi sang lục địa mới, họ
nuôi dưỡng trong mình chí tiến thủ mạnh mẽ, tinh thần chú trọng thực tế cộng với tinh
thần trách nhiệm nghiêm túc. Tất cả những điều đó đã tạo nên một bản sắc văn hóa mới –
bản sắc văn hóa Mỹ. Người Mỹ cho rằng, ai cũng có quyền lợi hưởng cuộc sống hạnh
phúc tự do bằng sức lao động chính đáng của họ. Bản sắc văn hóa Mỹ làm cho người ta
học được chữ tín trong khế ước và tất cả mọi người đều bình đẳng về cơ hội phát triển: ai
nhanh hơn, thức thời hơn, giỏi cạnh tranh hơn thì người đó giành thắng lợi. Có thể nói, ý
thức suy tôn tự do, chú trọng hiệu quả thực tế, phóng khoáng, khuyến khích phấn đấu cá
nhân đã trở thành nhịp điệu chung của văn hóa doanh nghiệp nước Mỹ. Đây là những bài
học kinh nghiệm hết sức quý báu cho các nước phát triển trong quá trình tạo dựng văn
hóa doanh nghiệp nhằm phát triển đất nước.
-Người Mỹ nói chung là những người có khả năng làm việc độc lập rất cao. Nếu
được giao làm một công việc nào đó theo nhóm, họ họp nhau lại, phân công công việc cụ
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 3
Marketing quốc tế - Nhóm 7
thể cho từng người, khi dự án hoàn thành, mỗi một cá nhân lại trở về công việc của mình,
không hề phụ thuộc vào nhau. Trong quan hệ công việc giữa cấp trên và cấp dưới hình
thành một ranh giới rõ ràng. Các sếp luôn được ưu ái hơn so với nhân viên dưới quyền ở
nhiều điểm: chỗ để xe riêng, phòng ăn riêng, phòng họp riêng, các chế độ đãi ngộ riêng.
Và đó có lẽ cũng là nét đặc trưng của xã hội Mỹ: chức vụ càng cao, anh càng khác biệt
với những người cấp dưới, và lúc này người có chức vụ cao thường hạn chế đến mức tối
đa các mối quan hệ tiếp xúc với người cấp dưới. Trong các công ty Mỹ cơ cấu tổ chức rất
rõ ràng, mỗi nhân viên đều có một chức vụ, vị trí nhất định, và họ không được quên rằng
tất cả mọi vấn đề bàn bạc phải được thống nhất với những người lãnh đạo trực tiếp trước
khi được báo cáo lên cho lãnh đạo cao cấp.
-Số lượng nhân công sẵn có, và điều quan trọng hơn là năng suất lao động của họ, đã
góp phần quyết định tình trạng lành mạnh của nền kinh tế. Xuyên suốt lịch sử của mình,
nước Mỹ đã có sự tăng trưởng liên tục về lực lượng lao động, và chính điều đó lại góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế gần như liên tục. Cho đến ngay sau Chiến tranh thế giới
thứ nhất, hầu hết số lao động là người nhập cư từ châu Âu, con cái họ, hoặc người Mỹ
gốc Phi, những người mà tổ tiên họ bị mang đến Mỹ làm nô lệ. Vào những năm đầu thế
kỷ XX, có một số lượng lớn người châu Á nhập cư vào Mỹ, và rất nhiều người nhập cư
Mỹ Latinh đến vào những năm sau đó.
Mặc dù nước Mỹ đã trải qua một vài thời kỳ thất nghiệp cao và những thời kỳ khác
thiếu cung về lao động, nhưng khi có rất nhiều việc làm thì người nhập cư lại có xu
hướng đến đây. Họ thường sẵn sàng làm việc với mức lương thấp hơn đôi chút so với
lương lao động có văn hoá; và họ nhìn chung đều phát đạt, kiếm được nhiều tiền hơn rất
nhiều so với ở quê hương. Nước Mỹ cũng thịnh vượng làm cho nền kinh tế phát triển
nhanh, đủ sức thu hút nhiều người mới đến hơn nữa.
-Đối với sự thành công về kinh tế của một đất nước, chất lượng lao động sẵn có, mọi
người sẵn sàng làm việc chăm chỉ như thế nào và tay nghề của họ ra sao - ít nhất cũng
quan trọng như số lượng lao động. Trong buổi ban đầu của nước Mỹ, cuộc sống tại vùng
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 4
Marketing quốc tế - Nhóm 7
đất hoang vu rộng lớn này đòi hỏi lao động nặng nhọc, và những gì được xem là nguyên
tắc làm việc của người Tin lành đã củng cố thêm nét đặc biệt này. Sự chú trọng đặc biệt
tới giáo dục, bao gồm cả đào tạo kỹ thuật và dạy nghề, cũng góp phần đưa đến thành
công kinh tế cho nước Mỹ, cũng giống như ý chí sẵn sàng thử nghiệm và thay đổi.
-Tính lưu động của lao động cũng quan trọng như thế đối với khả năng của nền kinh
tế Mỹ để thích nghi với những điều kiện thay đổi. Khi người nhập cư tràn ngập thị trường
lao động ở bờ biển phía Đông, nhiều người lao động đã di chuyển vào sâu trong nội địa,
và thường là đến các vùng đất trang trại đang chờ được canh tác. Tương tự như vậy,
những cơ hội về kinh tế trong các thành phố công nghiệp ở miền Bắc đã thu hút người
Mỹ da đen đến từ các trang trại miền Nam vào nửa đầu thế kỷ XX.
-Chất lượng của lực lượng lao động vẫn tiếp tục là một vấn đề quan trọng. Ngày nay,
người Mỹ coi “vốn nhân lực” là chìa khóa dẫn đến thành công trong nhiều ngành công
nghiệp công nghệ cao, hiện đại. Do đó, các nhà lãnh đạo chính phủ và các quan chức
quản lý kinh doanh ngày càng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo để
phát triển lực lượng lao động có đầu óc nhanh nhạy và kỹ năng thích hợp cần thiết cho
các ngành công nghiệp mới như tin học và viễn thông.
1.3: Quản lý khoa học.
Tuy nhiên, các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động mới chỉ là một phần của hệ
thống kinh tế. Các nguồn lực đó cần phải được tổ chức và quản lý để đạt được hiệu quả
tối đa. Trong nền kinh tế Mỹ, các nhà quản lý, người đáp lại các tín hiệu của thị trường,
đảm nhận chức năng đó. Cấu trúc quản lý truyền thống ở Mỹ dựa trên một chuỗi mệnh
lệnh từ trên xuống; quyền lực bắt đầu từ ban lãnh đạo tối cao, những người bảo đảm cho
hoạt động kinh doanh được thông suốt và hiệu quả, xuống tới các cấp quản lý thấp hơn
khác nhau chịu trách nhiệm điều phối các bộ phận của doanh nghiệp, cho đến người quản
đốc tại phân xưởng. Rất nhiều nhiệm vụ lại được phân công cho các bộ phận khác nhau
và người lao động. Ở nước Mỹ vào đầu thế kỷ XX, tính chuyên môn hóa này, hay sự
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 5
Marketing quốc tế - Nhóm 7
phân công lao động, được coi là phản ánh cách “quản lý khoa học” dựa trên phân tích hệ
thống.
Rất nhiều doanh nghiệp vẫn tiếp tục vận hành với cấu trúc truyền thống, nhưng cũng
có nhiều doanh nghiệp khác đã thay đổi quan điểm quản lý. Đối mặt với tình trạng cạnh
tranh gia tăng trên toàn cầu, các doanh nghiệp Mỹ đang tìm kiếm những cấu trúc tổ chức
linh hoạt hơn, đặc biệt trong các ngành công nghiệp công nghệ cao đòi hỏi tuyển dụng
những lao động tinh xảo và phải phát triển, cải tiến sản phẩm và thậm chí đáp ứng thị
hiếu khách hàng một cách nhanh chóng. Việc phân cấp và phân công lao động quá mức
ngày càng bị coi là ngăn cản sự sáng tạo. Do vậy, nhiều công ty đã “san phẳng” cấu trúc
tổ chức của họ, giảm số lượng các nhà quản lý và trao quyền nhiều hơn cho các nhóm
công nhân thuộc nhiều lĩnh vực.
2: Một nền kinh tế hỗn hợp.
Nước Mỹ được coi là có một nền kinh tế hỗn hợp, bởi vì cả doanh nghiệp sở hữu tư
nhân và chính phủ đều đóng những vai trò quan trọng. Quả thực, một số trong những
cuộc tranh luận kéo dài nhất của lịch sử kinh tế Mỹ tập trung vào vai trò tương đối của
các khu vực nhà nước và tư nhân.
Hệ thống doanh nghiệp tự do của Mỹ nhấn mạnh đến sở hữu tư nhân. Các doanh
nghiệp tư nhân tạo ra phần lớn hàng hóa và dịch vụ, và gần hai phần ba tổng sản lượng
kinh tế của quốc gia là dành cho tiêu dùng cá nhân (một phần ba còn lại được mua bởi
chính phủ và doanh nghiệp). Trên thực tế, vai trò của người tiêu dùng lớn đến mức quốc
gia này thỉnh thoảng được mô tả là có một “nền kinh tế tiêu dùng”.
Sự nhấn mạnh này đối với sở hữu tư nhân xuất phát một phần từ niềm tin của người
Mỹ về tự do cá nhân. Ngay từ thời lập quốc, người Mỹ đã lo sợ quyền lực quá mức của
chính phủ, và họ luôn tìm cách hạn chế uy quyền của chính phủ đối với cá nhân - bao
gồm cả vai trò của chính phủ trong lĩnh vực kinh tế. Hơn nữa, người Mỹ nhìn chung đều
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 6
Marketing quốc tế - Nhóm 7
tin rằng một nền kinh tế được đặc trưng bởi sở hữu tư nhân dường như hoạt động hiệu
quả hơn so với nền kinh tế đặc trưng bởi sở hữu nhà nước.
Tuy vậy, doanh nghiệp tự do cũng có những hạn chế. Người Mỹ luôn tin rằng một số
dịch vụ do nhà nước đảm nhận sẽ tốt hơn các doanh nghiệp tư nhân. Chẳng hạn, Chính
phủ Mỹ chịu trách nhiệm chủ yếu đối với các hoạt động về tư pháp, giáo dục (mặc dù có
rất nhiều trường học và trung tâm đào tạo tư nhân), hệ thống đường giao thông, báo cáo
thống kê xã hội và an ninh quốc phòng. Hơn nữa, chính phủ cũng thường được yêu cầu
can thiệp vào nền kinh tế để điều chỉnh những tình huống mà ở đó hệ thống giá cả không
hoạt động. Ví dụ, chính phủ điều tiết các nhà “độc quyền tự nhiên”, và sử dụng luật
chống độc quyền để kiểm soát hoặc ngăn chặn các tổ hợp kinh doanh trở nên quá mạnh
đến mức chúng có thể chế ngự các lực lượng thị trường. Chính phủ cũng giải quyết
những vấn đề nằm ngoài phạm vi của các lực lượng thị trường. Nó cung cấp phúc lợi và
trợ cấp thất nghiệp cho những người không có khả năng tự trang trải, do họ gặp rủi ro
trong cuộc sống cá nhân hoặc bị mất việc làm bởi biến động kinh tế đột ngột; nó thanh
toán hầu hết chi phí chăm sóc y tế cho người già và những người sống trong cảnh nghèo
nàn; chính phủ điều tiết ngành công nghiệp tư nhân nhằm hạn chế sự ô nhiễm không khí
và nước; nó cung cấp các khoản vay với lãi suất thấp cho những người bị thiệt hại do
thiên tai; và nó đóng vai trò đầu tàu trong việc khám phá vũ trụ, một ngành có chi phí quá
cao đối với bất kỳ doanh nghiệp tư nhân nào.
Nền kinh tế hỗn hợp này chính là sự thể hiện rõ nhất nguyên tắc cơ bản trong
các hoạt động kinh tế của Mỹ:
- Thứ nhất, và là điều quan trọng nhất, nước Mỹ vẫn duy trì một “nền kinh tế thị
trường”. Người Mỹ tiếp tục cho rằng một nền kinh tế nhìn chung vận hành tốt nhất khi
các quyết định về sản xuất cái gì và định giá hàng hóa như thế nào được hình thành thông
qua hoạt động trao đổi qua lại của hàng triệu người mua và người bán độc lập, chứ không
phải bởi chính phủ hay những lợi ích cá nhân có thế lực nào. Người Mỹ tin rằng trong
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 7
Marketing quốc tế - Nhóm 7
một hệ thống thị trường tự do, giá cả gần như phản ánh giá trị thật sự của đồ vật, và bởi
vậy nó có thể là chỉ dẫn tối ưu cho nền kinh tế nên sản xuất cái gì cần thiết nhất.
- Tuy nhiên, niềm tin của người Mỹ vào “doanh nghiệp tự do” không loại bỏ vai trò
quan trọng của chính phủ. Đôi khi người Mỹ vẫn trông cậy vào chính phủ để ngăn chặn
hoặc điều tiết các công ty xuất hiện khuynh hướng phát triển quá nhiều quyền lực đến
mức không tuân theo các lực lượng thị trường. Họ dựa vào chính phủ để giải quyết những
vấn đề mà kinh tế tư nhân bỏ qua, từ giáo dục cho đến bảo vệ môi trường. Và mặc dù ủng
hộ tích cực các nguyên lý thị trường, nhưng thỉnh thoảng họ vẫn sử dụng chính phủ để
nuôi dưỡng các ngành công nghiệp mới, và thậm chí để bảo vệ các công ty Mỹ trong
cạnh tranh.
3: Nền kinh tế thương mại điện tử.
Nói đến Mỹ có lẽ không thể không nói đến thương mại điện tử. Các giao dịch thương
mại trên mạng đang phát triển với tốc độ chóng mặt. Đây là cơ hội nhưng cũng là thách
thức cho tất cả các doanh nghiệp và các quốc gia. Ở Mỹ hiện nay có thể mua hầu hết mọi
thứ trên mạng từ sách vở, DVD, quần áo, thức ăn, máy vi tính và phụ kiện, các tiện nghi
trong gia đình (bàn ghế) đến vé máy bay, mua tour du lịch, đặt phòng khách sạn, thuê xe
hơi, rồi đến tra bản đồ để tìm đường đi đến địa chỉ cần thiết, các thông tin về tình hình
giao thông (kẹt xe) trên các xa lộ. Tất cả đều trên mạng. Thời gian đầu khách hàng đều
rất ngại mua hàng trên mạng vì những lý do an toàn thông tin và cảm giác không yên tâm
khi đối diện với các nhà cung cấp “ảo”. Nhưng càng sử dụng họ càng thấy hệ thống rất
ổn định và đáng tin cậy. Thông thường mua hàng trên mạng giá rẻ hơn và đây là một thị
trường trong suốt về giá. Nghĩa là khi mua một sản phẩm khách hàng trên mạng thường
tìm kiếm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và nguồn nào cho giá rẻ nhất với dịch vụ tốt
nhất thì mua. Trong những cái tên lớn, phải kể đến Amazon.com, không chỉ là nhà cung
cấp rất nhiều chủng loại sản phẩm trên mạng, Amazon còn là một thị trường tập hợp các
nhà cung cấp khác nhau, ai muốn bán sản phẩm thì đăng ký với Amazon và sẽ được đăng
trên mạng này. Khi bán được sản phẩm nhà cung cấp trích phí cho Amazon. Để đảm bảo
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 8
Marketing quốc tế - Nhóm 7
chất lượng cung ứng, sau khi hoàn tất một giao dịch, khách hàng được yêu cầu đánh giá
chất lượng nhà cung cấp và đây là một thông số quan trọng để các khách hàng chọn nhà
cung cấp. Mặt khác, với các giao dịch giá trị lớn khách hàng được khuyến cáo mua bảo
hiểm để tránh rủi ro. Một cái tên lớn khác – E-bay.com lại là một thị trường bán đấu giá,
bán đủ thứ trên trời dưới đất. Sản phẩm và giá cả rất đa dạng và phản ứng rất theo cung
cầu của thị trường. Cần thấy rằng khi các giao dịch trên mạng phát triển thì hàng loạt các
ngành dịch vụ liên đới như vận chuyển, bưu chính, tính dụng – ngân hàng, bảo hiểm cũng
phát triển theo.
4: Nhận định cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam.
Mỹ là một thị trường mở rộng lớn nhiều tiềm năng cho việc tiêu thụ sản phẩm với
mức giá cả cao cho tất cả các doanh nghiệp muốn tham gia vào nó, đây là một cơ hội lớn,
doanh nghiệp nào cũng muốn nắm bắt. Nhưng cũng chính vì vậy, đây cũng là thách thức
lớn với các doanh nghiệp Việt khi hoạt động trong một thị trường tự do canh tranh đầy
khốc liệt này, vốn dĩ đã có rất nhiều nhà cung cấp, đa dạng các chủng loại hàng hóa cung
cấp. Vậy nên, cái khó là chúng ta lựa chọn, DN Việt sẽ bán gì và như thế nào?
Việt Nam có thế mạnh về các mặt hàng truyền thống, các mặt hàng thủy hải sản tươi
sống ngon, giá rẻ và thực tế khách hàng nước ngoài trong đó có Mỹ rất ưa chuộng mặt
hàng mây tre đan cũng như hoa quả, thủy hải sản của ta. Đây là một hướng đi cho các
doanh nghiệp trong nước. Nhưng trong tương lai, Việt Nam cần tìm hiểu nhiều hơn về thị
trường Mỹ để biết được họ vẫn đang thiếu gì, và ta đang có những lợi thế tương đối gì để
khai thác triệt để.
Một cách thức xâm nhập thị trường Mỹ mà các DN Việt có thể ứng dụng chính là E-
Marketing ( Marketing điện tử ) trong một xã hội người dân đã chấp nhận và sử dụng
rộng rãi cách thức giao dịch mua hàng qua mạng. Chúng ta có thể nghĩ đến các cơ hội
xâm nhập thị trường quốc tế cho các doanh nghiệp Việt Nam thông qua việc tham gia là
nhà cung cấp trên Amazon, hay E-bay. Đây là một con đường Marketing phù hợp đối với
doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào nền kinh tế thương mại điện tử như Mỹ. Có
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 9
Marketing quốc tế - Nhóm 7
nhiều vấn đề, thách thức cần giải quyết như vận chuyển quốc tế, thông quan, ngôn ngữ,
độ am hiểu các thủ tục và kỹ thuật giao dịch, giá Tất nhiên là khó nhưng đây là cơ hội,
mà có lẽ sẽ là cơ hội rất quan trọng trong tương lai gần để Việt Nam có thể tiến bước vào
thị trường Mỹ, để hàng Việt Nam được tiếp nhận và biết đến nhanh hơn với người dân
Mỹ, ngoài con đường giao dịch thương mại truyền thống, vốn dĩ bị chính phủ Mỹ hay
gây khó khăn đối với Việt Nam. Mỹ là một nền kinh tế tự do theo định nghĩa cho các
doanh nghiệp nhưng thực tế là một thị trường “khó chơi” và chơi theo luật “cá lớn
nuốt cá bé”. Và đầy là thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam – chủ
yếu là các doanh nghiệp nhỏ.
Điển hình là vụ cá tra cá basa Việt Nam bị kiện bán phá giá. Ngày 17/6/2003 đã
thông báo quyết định cuối cùng về vụ kiện cá tra, cá basa . Theo đó, DOC cho rằng, DN
Việt Nam đã bán phá giá sản phẩm cá tra, cá basa đông lạnh vào thị trường này. Sản
phẩm trên sẽ phải chịu thuế chống bán phá giá 44,66- 63,88%. Đây là mức thuế bất hợp
lý, bất bình đẳng trong xu thế giao dịch thương mại toàn cầu đang được tuân theo các chế
tài của WTO.
Theo thông tin thu thập được , ngày 6/8, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản
Việt NamnVASEP cho biết thêm, ngày 5/8, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đã chính thức
công bố khoản trợ cấp 34 triệu USD của Chính phủ Mỹ hỗ trợ cho các chủ trại cá nheo
Mỹ về các thiệt hại do "thời tiết không thuận và thiên tai" trong các năm 2001-2002. Như
vậy, một mặt trong đơn kiện nộp cho Bộ Thương mại Mỹ (DOC) và Ủy ban Thương mại
quốc tế Hoa Kỳ (ITC), Hiệp hội các chủ trại cá nheo Mỹ (CFA) cố tình che giấu thực tế,
đưa ra các bằng chứng giả, đổ tội cho các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá filet đông
lạnh cá tra, cá basa, gây thiệt hại vật chất cho ngành nuôi cá nheo Mỹ, để các cơ quan này
kết luận sai, áp thuế chống bán phá giá trừng phạt Việt Nam. Mặt khác, CFA lại chứng
minh với USDA rằng thiệt hại của họ là do thiên tai để xin được hưởng tiền trợ cấp của
Chính phủ Mỹ. VASEP cho rằng việc xử lý của các cơ quan chính quyền Mỹ cũng tỏ ra
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 10
Marketing quốc tế - Nhóm 7
không thống nhất, thiếu phối hợp, mang nặng tính bảo hộ sản xuất trong nước, trái với
tinh thần tự do thương mại và cạnh tranh bình đẳng.
Nhìn rộng ra, mức thuế cao trên không chỉ đe doạ trực tiếp đến người nuôi cá tra,
basa, mà các DN đang xuất mặt hàng này có nguy cơ mất thị trường Mỹ, nơi vẫn tiêu thụ
gần 50% lượng cá tra, basa của Việt Nam. Việt Nam làm gì để vừa bảo vệ lợi ích của các
nhà nuôi catfish Mỹ mà vẫn đưa được cá basa sang thị trường này?
Và qua đây, chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam có thêm những bài học về kinh
nghiệm khi tham gia vào nền kinh tế toàn cầu. Một thị trường rộng mở nhưng đầy khó
khăn thách thức, không phải cứ mặt hàng xuất khẩu của ta ngon, rẻ đã là một lợi thế. Sau
sự kiện này, chính phủ Việt Nam, đặc biệt các tham tá thương mại Việt Nam nên cung
cấp cho các doanh nghiệp Việt nhiều thông tin hơn về thị trường quốc tế cũng như những
pháp định của kinh tế nước ngoài, bên cạnh đó có những chính sách hỗ trợ bảo trợ giúp
đỡ các doanh nghiệp Việt xuât khẩu, để trong những tình huống bất ngờ như vụ kiện cá
basa, chúng ta có thể ứng phó kip thời. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt nói chung cần có
sự kết hợp chặt chẽ với các vùng cung cấp nguyên nhiên liệu để đảm bảo quy trình quản
lý tốt, đảm bảo chất lượng và bảo vệ lợi ích người nuôi trồng.
II: Phân tích tiến trình phát triển của nền kinh tế Mỹ thông qua GDP, tỷ lệ lạm
phát, tỷ lệ thất nghiệp.
1: Cái nhìn toàn cảnh sự phát triển của kinh tế Mỹ từ năm 1947 đến 2010.
1.1: Đánh giá chung tiến trình phát triển nền kinh tế Mỹ gần 100 năm qua.
Trong suốt quá trình phát triển của mình trăm năm qua , Nền kinh tế Mỹ biến đổi
theo những cách thức khác nhau. Dân số và lực lượng lao động dịch chuyển mạnh từ các
trang trại ra thành phố, từ các cánh đồng vào nhà máy, và trên hết là vào các ngành công
nghiệp dịch vụ. Trong nền kinh tế ngày nay, số lượng các nhà cung cấp dịch vụ công
cộng và cá nhân đông hơn rất nhiều so với số người sản xuất hàng hóa công nghiệp và
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 11
Marketing quốc tế - Nhóm 7
nông nghiệp. Do nền kinh tế ngày càng phát triển phức tạp hơn, các số liệu thống kê cũng
cho thấy một xu thế mang tính dài hạn rõ nét trong thế kỷ qua là chuyển từ tự hoạt động
kinh doanh sang làm việc cho những người khác.
Từ một nước nông nghiệp, nước Mỹ ngày nay được đô thị hóa hơn rất nhiều so với
cách đây 100 năm, thậm chí chỉ 50 năm. Dịch vụ ngày càng trở nên quan trọng so với
ngành công nghiệp truyền thống. Trong một số ngành công nghiệp, sản xuất hàng loạt đã
nhường chỗ cho sản xuất theo phương thức chuyên môn hóa chú trọng đến tính đa dạng
của sản phẩm và thị hiếu thay đổi của khách hàng
Nước Mỹ bước vào thế kỷ XXI với một nền kinh tế lớn hơn bao giờ hết và cùng với
nhiều số liệu đánh giá là thành công chưa từng có. Nó không những phải kinh qua hai
cuộc chiến tranh thế giới và sự suy thoái toàn cầu trong nửa đầu thế kỷ XX, mà còn phải
vượt qua những thách thức từ cuộc Chiến tranh Lạnh trong 40 năm với Liên Xô cho đến
những đợt lạm phát sâu sắc, thất nghiệp cao, và thâm hụt ngân sách nặng nề của chính
phủ trong nửa cuối thế kỷ XX. Nước Mỹ cuối cùng đã có được một giai đoạn ổn định
kinh tế vào những năm 1990: giá cả ổn định, thất nghiệp giảm xuống mức thấp nhất trong
vòng gần 30 năm qua, chính phủ công bố thặng dư ngân sách, và thị trường chứng khoán
tăng vọt chưa từng thấy.
Năm 1998, tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ - gồm toàn bộ sản lượng hàng hóa và
dịch vụ trong nước - đạt trên 8,5 nghìn tỷ USD. Mặc dù chiếm chưa đến 5% dân số thế
giới, nhưng nước Mỹ lại chiếm tới hơn 25% sản lượng kinh tế toàn thế giới. Nhật Bản,
nước có nền kinh tế đứng thứ hai thế giới, cũng chỉ tạo ra gần một nửa sản lượng trên.
Trong khi nền kinh tế Nhật Bản và nhiều nền kinh tế khác vật lộn với tăng trưởng chậm
và các vấn đề khác vào những năm 1990 thì nền kinh tế Mỹ lại có được thời kỳ phát triển
liên tục và kéo dài nhất trong lịch sử của mình.
Nhưng, Nền kinh tế này cũng phải đối mặt với những thách thức đang diễn ra liên tục
trong dài hạn. Mặc dù nhiều người Mỹ có sự bảo đảm về kinh tế và một số người tích lũy
được rất nhiều của cải, nhưng còn một số lượng đáng kể - đặc biệt là các bà mẹ không
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 12
Marketing quốc tế - Nhóm 7
chồng cùng con cái họ - tiếp tục sống trong cảnh nghèo khó. Chênh lệch về của cải, tuy
không cao như một số nước khác, nhưng cũng lớn hơn so với rất nhiều nước. Sự hội nhập
kinh tế toàn cầu mang đến những bất ổn nhất định bên cạnh các lợi thế. Đặc biệt, các
ngành công nghiệp chế tạo truyền thống sa sút, quốc gia bị thâm hụt thương mại lớn và
dường như không thể đảo ngược được trong buôn bán với các nước khác.
1.2: Phân tích tình hình nền kinh tế Mỹ qua những con số.
Những số liệu chỉ giúp đánh giá tình trạng lành mạnh của nền kinh tế, nhưng chúng
không đo được hết mọi phương diện của phúc lợi quốc gia. GDP cho biết giá trị thị
trường của hàng hóa và dịch vụ mà một nền kinh tế tạo ra, nhưng nó không đo được chất
lượng cuộc sống của một quốc gia và một vài biến số quan trọng - ví dụ như sự bình an
và hạnh phúc cá nhân, hoặc môi trường trong sạch hay sức khỏe tốt - hoàn toàn nằm
ngoài phạm vi của nó.
Biểu đồ chỉ số dữ liệu lịch sử.
Theo số liệu nhà Trắng công báo, qua biểu đồ trên, ta thấy:
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 13
Marketing quốc tế - Nhóm 7
-Tốc độ tăng trưởng Hoa Kỳ GDP:
Các Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ở Hoa Kỳ mở rộng 3,2 phần trăm trong quý IV
năm 2010 so với quý trước đó. Từ năm 1947 đến năm 2010 trung bình của Hoa Kỳ tăng
trưởng GDP hàng quý đã được 3,30 phần trăm đạt mức cao lịch sử 17,20 phần trăm trong
tháng ba năm 1950 và kỷ lục ở mức thấp -10,40 phần trăm trong tháng ba năm 1958. Nền
kinh tế của Hoa Kỳ là lớn nhất trên thế giới. Hoa Kỳ là một nền kinh tế thị trường theo
định hướng mà các cá nhân và công ty kinh doanh làm cho hầu hết các quyết định của
chính phủ liên bang và tiểu bang cần thiết mua hàng hoá và dịch vụ chủ yếu trong thị
trường tư nhân.
-Tỷ lệ thất nghiệp tại Hoa Kỳ.
Tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ theo báo cáo trong tháng Giêng năm 2011 đạt 9 %. Từ
năm 1948 đến năm 2010 Tỷ lệ thất nghiệp của Hoa Kỳ trung bình là 5,70 % đạt mức cao
lịch sử 10,80 % trong tháng mười năm 1982 và ghi lại mức thấp 2,50 % trong tháng Năm
của năm 1953. Các lực lượng lao động được định nghĩa là số lượng người làm việc cộng
với việc số người thất nghiệp nhưng đang tìm kiếm. Các lực lượng không thuộc lực
lượng lao động bao gồm những người không tìm kiếm việc làm, những người được thể
chế hoá và những người phục vụ trong quân đội.
Biểu đồ tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 14
Marketing quốc tế - Nhóm 7
-Ngoài tỷ lệ thất nghiệp, ta đề cập thêm Tỷ lệ người sống dưới mức nghèo để hiểu
thêm về chất lượng cuộc sống của người dân Mỹ. Tỷ lệ này giảm từ 22,4% năm 1959
xuống còn 11,4% năm 1978. Từ đó đến nay nó dao động trong phạm vi tương đối hẹp.
Năm 1998, nó ở mức 12,7%.
Nhưng thực tế các số liệu tổng quan còn che giấu tình trạng nghèo đói nghiêm trọng
hơn rất nhiều. Năm 1998, hơn một phần tư số người Mỹ gốc Phi (26,1%) sống trong
nghèo đói; mặc dù cao một cách đáng lo ngại, nhưng số liệu này đã cho thấy một bước
cải thiện từ năm 1979, khi có tới 31% người da đen chính thức được coi là nghèo, và đây
là tỷ lệ nghèo đói thấp nhất của nhóm người này kể từ năm 1959. Các gia đình do các bà
mẹ độc thân làm chủ hộ đặc biệt dễ lâm vào cảnh nghèo túng. Một phần do hiện tượng
này mà năm 1997, gần một phần năm trẻ em (18,9%) thuộc diện nghèo. Tỷ lệ nghèo của
trẻ em Mỹ gốc Phi là 36,7%, của trẻ em gốc Tây Ban Nha là 34,4%.
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 15
Marketing quốc tế - Nhóm 7
-Dù trong trường hợp nào, một điều rất rõ rang ta nhận ra là thực tế hệ thống kinh tế
của Mỹ không phân phối công bằng của cải làm ra. Theo Viện chính sách kinh tế, một
tổ chức nghiên cứu có trụ sở tại Washington, năm 1997, một phần năm số gia đình Mỹ
giàu nhất chiếm tới 47,2% thu nhập quốc dân. Ngược lại, một phần năm số gia đình
nghèo nhất chỉ chiếm 4,2% thu nhập quốc dân, và 40% dân số nghèo nhất chỉ chiếm 14%
thu nhập quốc dân.
-Mặc dù nền kinh tế Mỹ nhìn chung là thịnh vượng, nhưng những lo lắng về tình
trạng bất bình đẳng vẫn tiếp tục kéo dài. Cạnh tranh toàn cầu tăng lên đe dọa các công
nhân trong nhiều ngành sản xuất công nghiệp truyền thống, và đồng lương của họ bị o ép.
Cùng lúc đó, chính phủ liên bang lại nới lỏng các chính sách thuế, những chính sách tìm
cách hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp bằng chi phí của các gia đình giàu, và nó cũng
cắt giảm chi tiêu cho nhiều chương trình xã hội trong nước trợ giúp người có hoàn cảnh
khó khăn.
2: Nền kinh tế Mỹ năm 2010, và những tháng đầu năm 2011.
-Theo NBER - Cục Nghiên cứu kinh tế quốc gia Mỹ (NBER), một tổ chức phi lợi
luận của các nhà kinh tế hàng đầu đến từ các hãng nghiên cứu, trường đại học và một số
cơ quan khác. Cơ quan này luôn chịu trách nhiệm tính ngày bắt đầu và kết thúc của mỗi
cuộc suy thoái kinh tế, chính thức công bố kinh tế Mỹ bước vào suy thoái kể từ tháng
12/2007 đến tháng 6/2009 đã chấm dứt. Theo một số ý kiến kết luận rằng từ đó đến nay
mọi chuyện đã cải thiện và rằng nền kinh tế đã tăng trưởng lại ở tốc độ bình thường, nếu
kinh tế Mỹ trong tương lai có đi xuống sẽ là một đợt suy thoái mới chứ không phải tiếp
diễn suy thoái đã bắt đầu vào tháng 12/2007.
-Nhưng có một số ý kiến khác, như Ông Robert Hall, giáo sư kinh tế đại học
Stnadford kiêm chuyên gia cao cấp tại NBER, cho rằng: “Kinh tế Mỹ vẫn đang tăng
trưởng, nhưng ở tốc độ thấp đáng thất vọng. Hiện còn quá sớm để tính toán toàn bộ thiệt
hại liên quan đến thời kỳ kinh tế đi xuống vừa qua bởi chúng ta chưa thoát ra khỏi những
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 16
Marketing quốc tế - Nhóm 7
ảnh hưởng xấu. Rõ ràng, kinh tế trong khoảng thời gian trên đi xuống chưa từng có tính
từ Đại Khủng hoảng 1930.”
Ông Bruce Kasman, chuyên gia kinh tế trưởng tại JP Morgan Chase, nhận xét: “Kinh
tế Mỹ vẫn phục hồi mong manh và rủi ro đối với kinh tế toàn cầu không nhỏ. Chúng ta
thấy kinh tế vẫn đang tăng trưởng nhưng rất yếu. Sau 1 năm nữa, tỷ lệ thất nghiệp vẫn sẽ
không mấy thay đổi so với hiện nay.”
Ông Kasman dự báo khả năng kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái lần 2 là khoảng 25%.
-Nói chung, nền kinh tế Mỹ sau suy thoái kinh tế bắt đầu từ năm 2007 đã bước
đầu ổn định, dù tốc độ hồi phục chậm.
Tốc độ tăng trưởng GDP của Mỹ trong quý thứ 4 năm 2010, theo Cục Phân tích kinh
tế: tổng sản phẩm quốc nội thức tế tăng ở mức hàng năm là 3,2% trong quý 4 năm 2010,
(có nghĩa là, từ quý III đến quý IV), theo "trước" dự toán phát hành của Cục phân tích
kinh tế. Trong quý 3, GDP thực tăng 2,6%.
Việc tăng GDP thực tế trong quý 4 chủ yếu phản ánh đóng góp tích cực từ các khoản
chi tiêu dùng cá nhân (PCE), xuất khẩu; phản ánh sự suy giảm mạnh nhập khẩu, tăng tốc
trong PCE, và xu hướng tăng một trong các khoản đầu tư cố định ở phần được bù đắp bởi
suy giảm trong đầu tư tư nhân và chi tiêu chính phủ liên bang và giảm tốc độ một trong
các đầu tư cố định nơi ít dân cư sinh sống.
Trước đó, Theo Bộ Thương mại Mỹ, tăng trưởng kinh tế Mỹ quý 2/2010 chỉ còn
1,6% từ mức 3,7% của quý 1/2010 và 5% trong quý 4/2009.
Kinh tế Mỹ đã hồi phục được 70% so với mức trước khủng hoảng.
Lakshman Achuthan, giám đốc điều hành tại Viện nghiên cứu chu kỳ kinh tế (ECRI)
và là chuyên gia về suy thoái kinh tế, nhận xét kinh tế Mỹ hiện đã hồi phục được 70% so
với trước khủng hoảng.
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 17
Marketing quốc tế - Nhóm 7
Tuy nhiên ông cũng thừa nhận đà phục hồi lần này không giống những lần phục hồi
trước đây. Hiện kinh tế Mỹ mới chỉ lấy lại được 9% số lượng việc làm đã mất trong thời
kỳ suy thoái kinh tế.
Khả năng kinh tế rơi vào suy thoái lần 2 khá hiếm. Lần gần nhất kinh tế Mỹ suy thoái
lần 2 là vào năm 1981 – 1982 sau khi kinh tế suy thoái vào năm 1980.
Chỉ số giá cho việc mua bán chung trong nước tăng 2,1% trong quý thứ tư, so với
mức tăng từ 0,7% trong quý ba.
Chi tiêu dùng cá nhân tăng 4,4% trong quý thứ tư, so với mức tăng 2,4 % trong quý
ba.
Dù Lạm phát Mỹ tăng 1,5% trong tháng mười hai, năm 2010, nhưng Tỷ lệ thất
nghiệp vẫn đã giảm 0,4 % trong tháng mười hai, và việc làm phi nông nghiệp tăng lương
103.000 (Cục Thống kê Lao động Mỹ báo cáo). Việc làm tăng trong giải trí và khách sạn
và trong chăm sóc sức khỏe, nhưng rất ít thay đổi trong ngành công nghiệp lớn khác.
Cũng tình trạng tương tự cuối năm 2010, Theo tính toán của Cục thống kê Lao động
của Mỹ, Lạm phát Mỹ tăng 1,6% trong tháng Giêng, năm 2011, nhưng Tỷ lệ thất nghiệp
Mỹ giảm đến 9% trong tháng Giêng 2011.
3: Mỹ và những cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong lịch sử.
Dù là cường quốc kinh tế số một hiện nay trên thế giới, nhưng nền kinh tế Mỹ cũng
đã phải trải qua những cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Cường quốc kinh tế số một thế giới không lạ lẫm với cụm từ suy thoái vì từ sau thế
chiến thứ nhất tới nay, đã 8 lần người dân nước này sống trong tình cảnh này.
So sánh những lần kinh tế Mỹ suy thoái tính từ sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 18
Marketing quốc tế - Nhóm 7
3.1: Suy thoái kinh tế Mỹ bắt đầu vào tháng 12/2007 và kết thúc vào tháng 6/2009,
kéo dài 18 tháng.
Suy thoái kinh tế Mỹ tồi tệ nhất trong 70 năm, bắt đầu từ tháng 12/2007 đã kết thúc
vào tháng 6/2009. Từ quý 4/2007 cho đến quý 2/2009, kinh tế Mỹ tăng trưởng âm 4,1%,
mức đi xuống tồi tệ nhất tính từ thập niên 1930. Chi tiêu của các hộ gia đình trong năm
2009 giảm 1,2% và như vậy có mức giảm sâu nhất tính từ năm 1942.
Năm 2007, đánh dấu bởi sự sụp đổ của hoạt động cho vay thế chấp dưới chuẩn trên
thị trường nhà đất, sự đi xuống của thị trường tài chính, suy thoái kinh tế Mỹ lần vừa qua
kéo dài 18 tháng, dài hơn thời kỳ kinh tế Mỹ đi xuống sau thời kỳ Đại Khủng hoảng 1929
– 1933. Hơn 8 triệu người Mỹ đã mất việc trong thời gian 18 tháng kinh tế Mỹ suy thoái
vừa qua, hậu quả sẽ mất nhiều năm mới có thể khắc phục được.
Nước Mỹ là nền kinh tế lớn nhất thế giới vì vậy sự suy sụp của nó dẫn đến sự suy
thoái nền kinh tế cả thế giới. Và đến nay thế giới vẫn đang gồng mình để tìm lại
những con số tăng trưởng GDP cao như trước đây và hơn thế.
Nền kinh tế suy thoái, chi tiêu người dân thắt chặt, họ thực dụng hơn trong mua
hàng – chính là bất lợi lớn đối với tất cả các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 19
Marketing quốc tế - Nhóm 7
kinh doanh của mình, rất nhiều doanh nghiệp đã và đang phá sản, và khó khăn này
các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ cũng phải gánh chịu nặng
nề.
3.2: Suy thoái đầu năm 2000
Được châm ngòi bởi sự đổ vỡ của "khủng hoảng chấm com", vụ tấn công khủng bố
11/9, và scandal kiểm toán, cuộc suy thoái kinh tế tại Mỹ trong 3 năm từ 2001 tới 2003
không chỉ ảnh hưởng lớn đến kinh tế Mỹ, mà còn tới nhiều quốc gia châu Âu.
Mọi chuyện được châm ngòi bởi sự đổ vỡ hàng loạt của các công ty trong cuộc "khủng
hoảng chấm com", tạo ra một làn sóng phá sản của các công ty công nghệ và tin học.
Kinh tế Mỹ tiếp tục bị giáng một đòn mạnh khi vụ khủng bố 11/9/2001 nổ ra, từ đó khiến
chỉ số công nghiệp Dow Jones và các chỉ báo chính của thị trường chứng khoán trải qua
tuần tồi tệ nhất trong lích sử.
3.3: Suy thoái cuối thập kỷ 90
Ngày thứ hai đen tối, tháng 9/1987, đà sụt giảm chưa từng có 22,6% trên chỉ số Dow
Jones là phát súng báo hiệu thời kỳ suy thoái tồi tệ nước Mỹ. Chỉ trong ba năm, sự sụp đổ
của thị trường tín dụng, và cho vay đã đe dọa tiền tiết kiệm của hàng triệu người dân.
Một loạt cường quốc chịu nhiều ảnh hưởng của Mỹ như Canada, Australia, Nhật, hay
Anh cũng bị cuốn theo vòng xoáy suy thoái.
Dù thị trường chứng khoán hồi phục khá nhanh nhưng thị trường bất động sản, lao
động, giá năng lượng, cán cân thương mại và GDP của Mỹ và một số quốc gia khác vẫn
đi xuống cho tới 2 năm sau khủng hoảng.
3.4: Suy thoái đầu những năm 1980
Cuộc cách mạng tại Iran đã đẩy giá dầu thế giới tăng với tốc độ chóng mặt trong thập
niêm 70. Đây chính là tiền đề cho cuộc khủng hoảng kéo dàn 30 tháng tại Mỹ và được
coi là lần suy thoái tồi tệ nhất kể từ đại khủng hoảng 1930. Giá năng lượng đi lên kéo
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 20
Marketing quốc tế - Nhóm 7
theo lạm phát gia tăng, đạt đỉnh 13,5% trong năm 1980, đã buộc Cục Dự trữ Liên bang
(FED) phải thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ.
Không chỉ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng một cách đáng lo ngại với từ mức
5,6% của tháng 5/1979 lên 7,5% một năm sau đó. Bất kể kinh tế bắt đầu hồi phục trong
năm 1981, tỷ lệ thất nghiệp vẫn được duy trì ở mức cao kỷ lục 7,5% và đạt mức lịch sử
10,8% trong năm 1982.
Hậu quả của suy thoái lên ngành công nghiệp xe hơi, nhà đất, và sản xuất thép tồi tệ
đến nỗi các ngành trên liên tục sụt giảm trong 10 năm sau, cho tới tận khi cuộc khủng
hoảng tiếp theo kết thúc.
3.5: Khủng hoảng dầu mỏ những năm 1973
Bắt đầu vào ngày 15/9/1975, khủng hoảng dầu mỏ là hậu quả của việc các thành viên
OAPEC, gồm tổ chức xuất khẩu dầu mỏ OPEC và hai nước Ai Cập và Syria, thực hiện
cấm vận dầu mỏ với Mỹ và các quốc gia ủng hộ Israel trong cuộc chiến với Ai Cập và
Syria.
Trước đó vào năm 1971, việc Mỹ rút khỏi Chế độ tiền tệ Bretton Woods, hệ thống
quy định chung giữa các cường quốc, trong đó giá vàng chỉ được neo giữ duy nhất vào
đôla với giá 35 đôla một ounce, và tiến hành thả nổi đồng đôla là tiền đề cho cuộc khủng
hoảng. Lý do là hệ thống Bretton Woods đã giới hạn hoạt động chi tiêu của Mỹ và thế
giới do lượng vàng của là có hạn trong khi nhu cầu sử dụng tiền lại lớn hơn rất nhiều.
Việc Mỹ in tiền phục vụ cho việc tài trợ cho Chiến tranh Việt Nam hoặc viện trợ cho các
nước khác đã khiến đôla mất giá, và tăng lạm phát.
Hậu quả của việc cấm vận dầu lửa là giá dầu tại thị trường thế giới đã bị đội lên gấp 5
lần từ dưới 20 đôla một thùng vào 1971 lên 100 đôla một thùng vào 1979, giá xăng trung
bình tại Mỹ cũng tăng 86% chỉ trong 1 năm từ 1973-1974. Cuộc khủng hoảng đồng thời
tác động xấu đến thị trường tài chính, chứng khoán toàn cầu, vốn đã chịu nhiều áp lực sau
sự sụp đổ của Chế độ Bretton Woods. Thị trường chứng khoán Mỹ bốc hơi 97 tỷ đôla, số
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 21
Marketing quốc tế - Nhóm 7
tiền khổng lồ vào thời điểm đó, chỉ sau một tháng rưỡi. Suy thoái và làm phát diễn ra tràn
lan gây ảnh hưởng tới kinh tế Mỹ và nhiều quốc gia khác cho tới tận thập niên 80.
3.6: Suy thoái năm 1958
Trong 2 năm trước khi khủng hoảng diễn ra, chính sách thắt chặt tiền tệ và cắt giảm
đầu tư tại Mỹ khiến tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Tại Detroit, trái tim của ngành công nghiệp
xe hơi, tỷ lệ thất nghiệp đạt mức 20% trong tháng 4/1958 . Doanh số bán xe giảm tới
31% trong năm 1957, và biến năm 1958 thành năm tồi tệ nhất cho các nhà sản xuất xe kể
từ sau kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần II. Nhu cầu nhập khẩu tại Mỹ vẫn cao trong khi
châu Âu lại giảm nhập khẩu từ Mỹ khiến thâm hụt thương mại leo thang.
Tệ hơn nữa, thay vì mặt bằng giá giảm, điều thường xảy ra khi suy thoái, giá cả trong
giai đoạn 1957 đến 1959 lại leo thang. Thực tại trên đã gây không ít hoang mang cho các
nhà kinh tế trong quãng thời gian này.
3.7: Suy thoái năm 1953
Dù chỉ kéo dài trong 10 tháng, bắt đầu từ quý II /1953 tới quý I/1954, cuộc suy thoái
năm 1953 vẫn gây thiệt hại ước tính lên tới 56 tỷ đôla cho nước Mỹ.
Nguyên nhân suy thoái bắt đầu từ một số biến động chính trị, kinh tế những năm đầu
thập niên 50. Trong đó, lạm phát leo thang bắt đầu từ 1951, sau chiến tranh Triều Tiên,
khiến lãnh đạo FED dự đoán năm 1952 lạm phát sẽ còn cao hơn. Trước tình hình đó,
FED đã áp dụng chính sách tài khóa thắt chặt, thể hiện ở việc cắt giảm chi tiêu Chính
phủ, tăng thuế, lãi suất, và tích lũy dự trữ. Chính các biện pháp mạnh tay trên đã tạo ra sự
bi quan trong người dân, dẫn đến việc giảm chi tiêu tăng tiết kiệm, gây suy giảm tổng cầu
của nền kinh tế.
3.8: Suy thoái năm 1947
Lần suy thoái này của nước Mỹ bắt nguồn từ những bước tiền thần tốc của giai đoạn
hồi phục kinh tế sau chíến tranh thế giới. Tính tới đầu năm 1947, nước Mỹ chiếm tới 50%
tổng sản lượng nông nghiệp toàn thế giới, trước chiến tranh thế giới con số này chỉ là
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 22
Marketing quốc tế - Nhóm 7
30%, tỷ lệ thất nghiệp của nước Mỹ cũng ở mức thấp kỷ lục khi gần như 100% người lao
động có việc làm. Năm 1947 chính là giai đoạn kinh tế Mỹ đạt đỉnh của chu kỳ tăng
trưởng sau chiến tranh. Cũng từ thời điểm này, ngoại trừ lương thực, nhu cầu tiêu thụ
hàng hóa nói chung của nước Mỹ đã trở nên bão hòa do hàng hóa được sản xuất nhiều tới
mức thừa mứa.
Dù Tổng thống Truman cũng như nội các của ông đã dự đoán được rủi ro từ lạm phát
cũng như những bất ổn kinh tế, nhưng lãnh đạo nước Mỹ lại không tính tới lạm phát gia
tăng tại phần còn lại của thế giới. Dù hậu quả của cuộc suy thoái 1947 là không quá tồi tệ
nhưng nó cũng đủ gây trì trệ kinh tế, khiến nhiều doanh nghiệp phá sản cũng như tỷ lệ
thất nghiệp leo thang.
3.9: Đại suy thoái năm 1930
Cuộc đại suy thoái hay còn gọi là đại khủng hoảng diễn ra cách đây đã gần 8 thập kỷ
nhưng vẫn ghi dấu ấn là giai đoạn suy sụp kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử hiện đại. Bắt
đầu vào năm 1929 và kết thúc vào thởi điểm chuyển giao giữa hai thập niên 30 và 40,
cuộc suy thoái có sức ảnh hưởng hủy diệt với kinh tế toàn cầu, cả các nước phát triển và
đang phát triển. Mọi khía cạnh của nền kinh tế từ sản xuất, tiêu dùng, thương mại, thu
nhập cá nhân, hoạt động tiêu dùng, thị trường lao động, lạm phát đều chịu ảnh hưởng
xấu. Các nước phụ thuộc nhiều vào công nghiệp chịu tác động sâu sắc nhất. Ngoài ra khu
vực nông nghiệp cũng điêu đứng khi giá ngô, một trong những nông sản chính tại
phương tây, giảm tới 60%.
Có nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân cho cuộc suy thoái, chẳng hạn như sự sụp
đổ hàng loạt của các ngân hàng hay thị trường chứng khoán, được đánh dấu bằng "ngày
thứ ba đen tối" 29/10/1929, hay suy giảm giao dịch quốc tế do Mỹ tăng thuế. Tuy nhiên,
ý kiến chung được nhiều nhà kinh tế đồng thuận, trong đó có cả đương kim Chủ tịch
FED, ông Ben Bernanke, là do yếu tố cung của nguồn tiền cũng như sai lầm trong điều
hành của FED.
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 23
Marketing quốc tế - Nhóm 7
Theo đó, trong thập niên 20, mở rộng cung tiền quá mức đã dẫn đến sự phát triển
bùng nổ nhưng thiều bền vững của khối tài chính. Việc FED nhận ra rủi ro và thực hiện
chính sách thắt chặt tiền tệ là quá muộn để ngăn chặn suy thoái. Hơn nữa, khi các ngân
hàng lớn có dấu hiệu sụp đổ FED đã không tích cực cứu trợ, từ đó tạo ra hiệu ứng sụp đổ
dây chuyền trong ngành ngân hàng, dẫn đến cạn kiệt đột ngột nguồn tiền. Hệ quả là nhiều
công ty phá sản do thiếu vốn, hoạt động sản xuất, kinh doanh tiêu dùng bị đình trệ, thất
nghiệp tràn lan gây ảnh hưởng to lớn tới kinh tế Mỹ và toàn thế giới.
III: Nền kinh tế Mỹ vận hành như thế nào?
1: Chính phủ cố gắng điều tiết nền kinh tế, nhưng quyền lực quyết định về kinh tế là
ở các doanh nghiệp, các cá nhân.
Nước Mỹ coi hệ thống doanh nghiệp tự do của mình như là một mô hình cho các
quốc gia khác. Thành công về kinh tế của đất nước này dường như củng cố quan điểm
cho rằng nền kinh tế vận hành tốt nhất khi chính phủ để cho các doanh nghiệp và cá nhân
giành lấy thắng lợi - hay thất bại - bằng năng lực của chính họ trên những thị trường cạnh
tranh và rộng mở. Nhưng chính xác thì kinh doanh trong hệ thống doanh nghiệp tự do
của Mỹ được “tự do” đến mức nào? Câu trả lời là “không hoàn toàn”. Một tập hợp những
quy định phức tạp của chính phủ đã định hình nhiều phương diện của hoạt động kinh
doanh. Mỗi năm, chính phủ lại thảo ra hàng ngàn trang những quy định mới, thường là
giải thích rõ ràng và chi tiết những gì các doanh nghiệp được phép làm và không được
làm.
Tuy nhiên, cách tiếp cận của người Mỹ đối với hoạt động điều tiết của chính phủ vẫn
luôn thay đổi. Trong những năm gần đây, các chính sách điều tiết trở nên chặt chẽ hơn
trong một số lĩnh vực và nới lỏng hơn ở những lĩnh vực khác. Trên thực tế, một chủ đề
xuyên suốt trong lịch sử kinh tế Mỹ gần đây là cuộc tranh luận liên tục về việc khi nào thì
chính phủ nên can thiệp vào hoạt động kinh doanh và ở mức độ nào.
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 24
Marketing quốc tế - Nhóm 7
Mỹ là một đất nước được xây dựng trên lòng tin vào cá nhân và ngờ vực uy quyền.
Và cách nền kinh tế Mỹ được vận hành được tóm tắt bằng một thuật ngữ tiếng Pháp
“laissez-faire” (hãy để mặc nó). Khái niệm này xuất phát từ các học thuyết kinh tế của
Adam Smith, một nhà kinh tế học người Xcôtlen ở thế kỷ XVIII, người mà các tác phẩm
của ông đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Mỹ. Ở đây, lợi ích cá
nhân được coi cần có tự do hoàn toàn, chừng nào các thị trường còn tự do và cạnh tranh
thì hoạt động của từng người, được thúc đẩy bởi lợi ích cá nhân, sẽ có thể phối hợp để tạo
ra lợi ích lớn hơn cho xã hội. Trong đó, chính phủ chủ yếu thiết lập nên những qui tắc
cơ bản cho doanh nghiệp tự do, để bảo vệ người tiêu dùng, cũng như các doanh
nghiệp (thường là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) trước sự khống chế của các tập đoàn
tài chính lớn được nắm giữ bởi một số nhà tài phiệt chóp bu của phố Wall, cũng như
bảo vệ các doanh nghiệp có lợi thế trước sức tấn công bên ngoài. T
Thực tế nước Mỹ, trong rất nhiều trường hợp, việc thực thi chính sách tự do kinh
doanh không ngăn cản các nhóm lợi ích cá nhân hướng tới chính phủ để nhờ giúp đỡ.
Các công ty đường sắt chấp nhận sự giúp đỡ về đất đai và tiền trợ cấp công ích trong thế
kỷ XIX. Các ngành công nghiệp đương đầu với cạnh tranh mạnh mẽ của nước ngoài từ
lâu đã kêu gọi sự bảo hộ thông qua chính sách thương mại. Ngành nông nghiệp Mỹ, hầu
như toàn bộ nằm trong tay tư nhân, đã hưởng lợi từ những chính sách trợ giúp của chính
phủ. Nhiều ngành công nghiệp khác cũng tìm kiếm và nhận được sự giúp đỡ của chính
phủ từ việc cắt giảm thuế cho đến trợ cấp toàn bộ…
Sự điều tiết của chính phủ đối với ngành công nghiệp tư nhân có thể được chia thành
hai phạm trù - điều tiết kinh tế và điều tiết xã hội. Hoạt động điều tiết kinh tế chủ yếu tìm
cách kiểm soát giá cả. Được xây dựng về mặt lý thuyết để bảo vệ người tiêu dùng và
những công ty nhất định (thường là các doanh nghiệp nhỏ) trước các công ty có thế lực
mạnh hơn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các hoạt động điều tiết kinh tế lại được
tiến hành nhằm bảo vệ các công ty tránh khỏi sự cạnh tranh tiêu cực. Ngược lại, điều tiết
xã hội lại thúc đẩy các mục tiêu không mang tính kinh tế - chẳng hạn như điều kiện làm
D07 QT Marketing - HVCNBCVT Page 25