Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.17 KB, 29 trang )

- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt là sự kiện
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế giới (WTO), để có thể hòa nhịp cùng với xu
thế hội nhập đó, các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang chuẩn bị đầy đủ những điều kiện
cần thiết như: đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ, nâng cao trình độ đội ngũ lao động, mở
rộng phạm vi hoạt động… Ngoài ra, một điều kiện hết sức quan trọng, quyết định sự tồn
tại của doanh nghiệp đó chính là vốn. Theo cam kết WTO, nước ta đã mở cửa nhiều lĩnh
vực, đặc biệt là lĩnh vực tài chính. Từ đó, đã tạo điều kiện thuận lợi cho nguồn vốn nước
ngoài ồ ạt đổ vào Việt Nam.
Hiện nay, quá trình cổ phần hóa đang diễn ra mạnh mẽ, số lượng các doanh nghiệp
cổ phần ngày càng tăng, việc mua bán chứng khoán diễn ra sôi động, khiến các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế quan tâm nhiều hơn đến việc huy động vốn trên thị
trường chứng khoán và ngày càng có nhiều doanh nghiệp lựa chọn kênh huy động này để
thu hút các nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của mình.
Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua thị trường chứng khoán có nhiều biến động do
nhiều nguyên nhân, khách quan, chủ quan từ nền kinh tế và nội tại doanh nghiệp, đã ảnh
hưởng không nhỏ đến kế hoạch huy động vốn. Vì vậy Nhà nước và chính phủ cần có
những giải pháp phù hợp để thị trường Chứng khoán trở thành một kênh huy động vốn
hiệu quả cho doanh nghiệp. Đó cũng là lý do Nhóm 1 lựa chọn đề tài “Đánh giá thực
trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường Chứng khoán Việt Nam”.
Nội dung của đề tài bao gồm:
1. Tổng quan về huy động vốn qua thị trường Chứng khoán
2. Thực trạng huy động vốn thông qua thị trường Chứng khoán Việt Nam
3. Giải pháp và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường Chứng khoán Việt Nam
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
1
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ HUY ĐỘNG VỐN QUA THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN
1.1. Bản chất và lợi ich của huy động vốn qua thị trường chứng khoán:


1.1.1 Bản chất huy động vốn qua thị trường Chứng khoán:
Bản chất của huy động vốn qua thị trường chứng khoán được thực hiện thông qua
hành vi phát hành. Đây là hoạt động của thị trường chứng khoán sơ cấp.
Thị trường chứng khoán sơ cấp là thị trường mua bán lần đầu các chứng khoán mới
phát hành kéo theo sự gia tăng về quy mô vốn của đơn vị phát hành và của nền kinh tế.
Thị trường sơ cấp còn được gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành. Thị
trường sơ cấp chính là tiền đề cho sự phát triển của thị trường chứng khoán nói chung.
Hành vi của thị trường sơ cấp có thể phân biệt với hành vi của thị trường thứ cấp đó là
khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán sẽ trực tiếp làm gia tăng vốn cho đơn vị
phát hành, trong khi các hành vi trên thị trường thứ cấp chỉ làm dịch chuyển sở hữu vốn
giữa các chủ thể mà không trực tiếp gia tăng vốn cho đơn vị phát hành.
1.1.2. Lợi ích của huy động vốn qua thị trường chứng khoán:
1.1.2.1.Tăng quy mô huy đông vốn cho doanh nghiệp:
Thông qua phát hành chứng khoán ra công chúng, các công ty có thể tăng quy mô
vốn, mở rộng phạm vi hoạt động và thay đổi tính chất của doanh nghiệp. Phát hành ra
công chúng, đơn vị phát hành có thể huy động được vốn không giới hạn về điều kiện thế
chấp, không bị hạn chế về quy mô huy động. Thậm chí, đối với phát hành cổ phiếu ra
công chúng còn góp phần làm tăng năng lực vay nợ của tổ chức phát hành. Năng lực tài
chính được cải thiện sẽ là điều kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh, thực hiện đầu tư mở
rộng quy mô hoạt động.
Tuy nhiên, phát hành ra công chúng cũng sẽ làm giảm tỷ lệ sở hữu của các cổ đông
hiện hữu. Các cổ đông cũ sẽ bị chia sẻ lợi ích và quyền lực. Phạm vi chi phối của các cổ
đông sáng lập có thể bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, cơ cấu về quyền sở hữu của công ty luôn
luôn bị biến động do chịu ảnh hưởng của các giao dịch cổ phiếu hàng ngày. Chính vì vậy,
quyết định phát hành ra công chúng cần có sự đồng thuận của các cổ đông hiện hữu trên
cơ sở cân nhắc lợi ích của toàn bộ doanh nghiệp với lợi ích của mỗi cá nhân.
1.1.2.2. Là điều kiện để tham gia niêm yết trên thị trường tập trung
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
2
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -

Chứng khoán của các công ty đã phát hành ra công chúng được phép niêm yết trên
Sở giao dịch. Do vậy, các chứng khoán này có tính thanh khoản cao hơn và mức rủi ro
cũng thấp hơn chứng khoán phát hành riêng lẻ. Chứng khoán phát hành riêng lẻ thường
không thể phản ánh chính xác mối quan hệ cung cầu trên thị trường do số người mua hạn
chế, tính chất cạnh tranh không cao. Trong khi chứng khoán của các công ty đại chúng
được giao dịch trên thị trường có tính cạnh tranh cao sẽ được định giá hợp lý. Do các
chứng khoán phát hành ra công chúng đã phải đạt yêu cầu tối thiểu về vốn và hiệu quả
hoạt động nên thường được thị trường đánh giá cao hơn do vậy giá của các chứng khoán
này thường cũng cao hơn giá các chứng khoán riêng lẻ.
1.1.2.3. Tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Phát hành chứng khoán ra công chúng giúp công ty có thể thu hút và duy trì đội ngũ
nhân viên giỏi bởi vì khi chào bán chứng khoán ra công chúng, công ty bao giờ cũng dành
một tỷ lệ chứng khoán nhất định để bán cho nhân viên của mình. Với quyền mua cổ
phiếu, nhân viên của công ty sẽ trở thành cổ đông, và được hưởng lãi trên vốn thay vì thu
nhập thông thường. Điều này đã làm cho nhân viên của công ty làm việc có hiệu qua hơn
và coi sự thành bại của công ty thực sự là thành bại của mình.
Phát hành chứng khoán ra công chúng có cơ hội tốt để xây dựng một hệ thống quản
lý chuyên nghiệp cũng như xây dựng được một chiến lược phát triển rõ ràng; làm tăng
chất lượng và độ chính xác của các báo cáo của công ty bởi vì các báo cáo của công ty
phải được lập theo các tiêu chuẩn chung do cơ quan quản lý quy định. Phát hành ra công
chúng yêu cầu đơn vị phát hành phải tuân thủ nghiêm ngặt và tính minh bạch và công
khai. Chính sự minh bạch và công khai sẽ tạo sức ép đối với đơn vị phát hành phải hoạt
động hiệu quả.
1.1.2.4. Nâng cao uy tín, quảng bá hình ảnh cho doanh nghiệp:
Yêu cầu minh bạch và công khai trong hoạt động phát hành chứng khoán ra công
chúng thường có gắn việc quảng bá thông tin của đơn vị phát hành. Hơn nữa, phát hành ra
công chúng của các doanh nghiệp thường gắn với mục tiêu niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung. Khi đơn vị đã tham gia thị trường giao dịch tập trung, các thông tin liên
quan đến hoạt động, kết quả hiệu quả sản suất kinh doanh sẽ thường xuyên xuất hiện
miễn phí trên các phương tiện thông tin đại chúng. Vị thế, hình ảnh của công ty sẽ được

quảng bá và nâng cao.
1.1.2.5. Giảm chi phí tiếp cận vốn của doanh nghiệp:
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
3
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ tạo ra hình ảnh đẹp và sự nổi tiếng của
công ty, nhờ vậy công ty sẽ dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn trong việc huy động vốn
qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu ở những lần sau. Thêm vào đó, khách hàng và nhà cung
ứng của công ty thường cũng sẽ trở thành cổ đông của công ty và do vậy công ty sẽ rất có
lợi trong việc mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ làm tăng giá trị tài sản ròng, giúp công ty
có được nguồn vốn lớn và có thể vay vốn của ngân hàng với lãi suất ưu đãi hơn cũng như
các điều khoản về tài sản cầm cố sẽ ít phiền hà hơn.
1.2. Các hình thức huy động vốn qua thị trường chứng khoán:
Việc chào bán chứng khoán để huy động vốn được gọi là phát hành chứng khoán.
Nếu đợt phát hành dẫn đến việc đưa một loại chứng khoán của một tổ chức lần đầu tiên ra
công chúng thì gọi là phát hành lần đầu ra công chúng. Nếu việc phát hành đó là việc phát
hành bổ sung bởi tổ chức đã có chứng khoán cùng loại lưu thông trên thị trường thì gọi là
đợt phát hành chứng khoán bổ sung. Có hai phương thức phát hành chứng khoán trên thị
trường sơ cấp. Đó là phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng.
1.2.1. Phát hành riêng lẻ
Phát hành riêng là hình thức phát hành trong đó đơn vị phát hành chào bán chứng
khoán của mình trong phạm vi một số nhà đầu tư nhất định với những điều kiện hạn chế
mang tính chất khép kín.
Phát hành chứng khoán riêng lẻ không chịu sự điều chỉnh của pháp luật về chứng
khoán và thị trường chứng khoán. Chứng khoán phát hành theo hình thức này không phải
là đối tượng được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán.
Các công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư cũng có thể tham gia vào việc phát hành
riêng lẻ với tư cách nhà phân phối để hưởng phí phát hành. Các công ty thực hiện việc
phát hành chứng khoán riêng lẻ khi:

+ Công ty chưa đủ tiêu chuẩn để phát hành chứng khoán ra công chúng
+ Số lượng vốn cần huy động thấp, quy mô huy động chưa cần ở mức rộng rãi,
phạm vi hoạt động vẫn mang tính chất nội bộ, khép kín.
+ Phát hành cổ phiếu nhằm mục đích tăng cường các mối quan hệ kinh doanh hoặc
phát hành cho nội bộ cán bộ, nhân viên của đơn vị phát hành.
1.2.2. Phát hành chứng khoán ra công chúng:
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
4
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
Phát hành chứng khoán ra công chúng là hình thức phát hành trong đó chứng khoán
được bán rộng rãi cho quảng đại công chúng đầu tư (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các
nhà đầu tư nhỏ) với quy mô lớn cho một số lượng lớn nhà đầu tư đảm bảo yêu cầu công
khai, minh bạch và tuân thủ pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Phân biệt phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng có thể dựa vào số lượng
người mua, vào nội dung và thủ tục phát hành. Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ
chịu sự điều chỉnh của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Đơn vị phát
hành phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định và phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà
nước về chứng khoán. Phát hành chứng khoán ra công chúng phải tiến hành công khai và
chịu sự giám sát theo quy định Luật chứng khoán. Công ty đã thực hiện phát hành chứng
khoán ra công chúng được gọi là công ty đại chúng. Chứng khoán của các công ty đại
chúng có thể được xem xét để nêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung.
Việc phân biệt phát hành riêng lẻ và phát hành công chúng là để xác định những
người phát hành rộng rãi ra công chúng phải là những công ty có chất lượng cao, hoạt động
sản xuất kinh doanh tốt, nhằm bảo vệ cho công chúng đầu tư nói chung, nhất là những nhà
đầu tư nhỏ thiếu hiểu biết. Đồng thời, đây cũng là điều kiện để xây dựng một thị trường
chứng khoán an toàn, công khai và có hiệu quả.
Phát hành chứng khoán ra công chúng được phân biệt giữa phát hành cổ phiếu ra công
chúng và phát hành trái phiếu ra công chúng. Đối với phát hành cổ phiếu ra công chúng,
việc phát hành được thực hiện theo một trong hai hình thức: phát hành lần đầu ra công
chúng và phân phối sơ cấp. Trong khi phát hành trái phiếu ra công chúng chỉ thực hiện

bằng một hình thức duy nhất là phân phối sơ cấp.
Phát hành lần đầu ra công chúng là đợt phát hành trong đó cổ phiếu của công ty lần
đầu tiên được bán rộng rãi cho công chúng đầu tư.
Phân phối sơ cấp là đợt phát hành cổ phiếu bổ sung của công ty đại chúng cho rộng
rãi công chúng đầu tư và các đợt phát hành trái phiếu ra công chúng.
1.3. Phương pháp định giá Doanh nghiệp:
Chuyển đổi hình thức sở hữu Doanh nghiệp là một động lực thúc đẩy hoạt động sản
xuất kinh doanh và là kênh huy động vốn rất hiệu quả đối với các Doanh nghiệp. Một
trong những khâu quan trọng của quá trình này là xác định giá trị Doanh nghiệp.
Hiện nay, các phương pháp định giá doanh nghiệp có thể được chia làm ba phương
pháp chính: phương pháp phân tích chiết khấu dòng tiền, phương pháp định giá theo tài
sản và phương pháp định giá theo bội số.
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
5
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
1.3.1 Phương pháp định giá phân tích chiết khấu dòng tiền:
Phương pháp định giá phân tích chiết khấu dòng tiền dựa trên lý thuyết tài chính được
mọi người chấp nhận rằng giá trị của một khoản đầu tư chính là những giá trị tương lai do
sự đầu tư đó mang lại được chiết khấu về hiện tại để thể hiện giá trị theo thời gian của đồng
tiền. Theo phương pháp này, giá trị của doanh nghiệp là giá trị hiện tại của dòng tiền tương
lai mà doanh nghiệp sẽ tạo ra. Tỷ suất chiết khấu dùng để chiết khấu dòng tiền tương lai thể
hiện tỷ suất sinh lời mong muốn của doanh nghiệp được định giá và rủi ro vốn có của nó.
Phương pháp định giá này gồm hai biến chính là dòng tiền tương lai và tỷ suất sinh
lời mong muốn. Do đó phương pháp này có thể được áp dụng dễ dàng khi hai biến này có
thể dự đoán được với độ tin cậy nhất định. Trên thực tế, phương pháp định giá phân tích
chiết khấu dòng tiền là phương pháp thường được sử dụng nhiều nhất
1.3.2 Phương pháp giá trị tài sản thuần
Phương pháp định giá theo tài sản thường được sử dụng hiện nay là phương pháp giá
trị tài sản thuần. Theo phương pháp này, giá trị của doanh nghiệp bằng với giá thị trường
của toàn bộ tài sản trừ đi cho giá thị trường của tất cả các khoản nợ của doanh nghiệp.

Tuy nhiên Định giá doanh nghiệp bằng phương pháp giá trị tài sản thuần thường mất
nhiều thời gian và chi phí. Để xác định giá thị trường của các loại tài sản hữu hình khác
nhau của doanh nghiệp, cần phải có sự tham gia nhiều chuyên gia chuyên định giá cho
nhiều loại tài sản khác nhau. Do đó, doanh nghiệp có thể mất nhiều thời gian để tìm kiếm
các chuyên gia và chi phí cho việc định giá các tài sản của doanh nghiệp.
Phương pháp này cũng không đưa ra hướng dẫn cụ thể cho việc định giá các tài sản
vô hình như danh tiếng, uy tín trên thị trường, nhãn hiệu hàng hóa, sở hữu trí tuệ… do đó
việc xác định giá trị của tài sản vô hình sẽ phụ thuộc rất nhiều vào chủ quan của người
định giá dẫn đến việc giá trị của chúng có thể được định giá quá cao hoặc quá thấp so với
giá trị hợp lý.
Phương pháp định giá giá trị tài sản thuần có thể áp dụng cho doanh nghiệp “có vấn đề”
đang trong giai đoạn thua lỗ có dòng tiền tương lai âm vì đối với các doanh nghiệp này việc
dự đoán dòng tiền tương lai sẽ rất khó khăn vì doanh nghiệp có khả năng bị phá sản. Đối với
doanh nghiệp dự kiến sẽ bị phá sản, phương pháp phân tích chiết khấu dòng tiền thường
không áp dụng vì phương pháp này xem doanh nghiệp là một sự đầu tư luôn tiếp diễn và tạo
ra dòng tiền dương cho nhà đầu tư. Ngay cả đối với các doanh nghiệp đang thua lỗ nhưng
còn có thể tồn tại được, sẽ rất khó khăn khi áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền vì
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
6
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
dòng tiền sẽ phải được dự báo cho đến khi đạt được dòng tiền dương bởi việc chiết khấu về
hiện tại một dòng tiền âm sẽ cho ra kết quả giá trị doanh nghiệp âm.
Phương pháp này cũng có thể được sử dụng khi phương pháp chiết khấu dòng tiền
cho ra kết quả giá trị doanh nghiệp thấp hơn giá trị của tài sản hữu hình của doanh nghiệp
vì trong trường hợp này giá trị của doanh nghiệp (chẳng hạn như công ty đầu tư kinh
doanh bất động sản) có thể phần lớn phụ thuộc vào giá trị tài sản mà nó nắm giữ.
1.3.3 Phương pháp định giá theo bội số
Phương pháp định giá theo bội số là phương pháp xác định giá trị của một doanh
nghiệp trên cơ sở giá cổ phiếu của những công ty tương tự được niêm yết thông qua một
bội số thích hợp. Các bội số thường sử dụng có thể là bội số giá trên thu nhập (P/E), bội

số giá trên dòng tiền, bội số doanh thu và bội số thu nhập trước lãi vay và thuế (EBIT).
Đặc tính của phương pháp định giá theo bội số là rất đơn giản và có thể dùng để ước
đoán giá trị của doanh nghiệp một cách nhanh chóng.
Có thể có rất nhiều những công ty tương tự được niêm yết nên việc chọn lựa một số
trong số các công ty này để làm công ty so sánh chủ yếu dựa trên chủ quan của người
định giá. Việc thêm vào hay bớt ra số lượng công ty so sánh có thể làm thay đổi đáng kể
giá trị của bội số và do đó ảnh hưởng đến giá trị của doanh nghiệp.
1.4. Nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn qua thị trường Chứng khoán
Các nhân tố vĩ mô có ảnh hưởng lớn đến khả năng huy động vốn qua thị trường
chứng khoán bởi chính các nhân tố này ảnh hưởng đến tâm lý cũng như khả năng tài
chính của các nhà đầu tư. Các nhân tố này được chia làm tình hình trong nước và quốc tế.
1.4.1. Tình hình kinh tế vĩ mô toàn cầu
Nền kinh tế quốc tế có thể ảnh hưởng đến hoạt động và triển vọng của mỗi doanh
nghiệp. Ngày nay, khi quá trình toàn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu sắc thì mức độ tương
thuộc giữa nền kinh tế của một quốc gia và nền kinh tế toàn cầu cũng gia tăng. Vì vậy,
tình hình kinh tế toàn cầu có ảnh hưởng ở mức độ nhất định đến ý định và hành vi của các
nhà đầu tư.
Xu thế tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế toàn cầu: Xu thế tăng trưởng chung
của nền kinh tế toàn cầu có thể ảnh hưởng đến xu thế tăng trưởng của một quốc gia và từ
đó có thể ảnh hưởng đến động thái của dòng lưu chuyển vốn đầu tư.
Tình hình chính trị, xã hội toàn cầu: môi trường toàn cầu còn có ảnh hưởng đến thị
trường chứng khoán quốc gia với những rủi ro chính trị. Chẳng hạn, thị trường chứng
khoán Hồng Kông đã có những phản ứng cực kỳ nhạy cảm với tiến trình liên quan đến
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
7
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
việc chuyển giao Hồng Kông về cho Trung Quốc năm 1999. Hoặc tình trạng khủng bố gia
tăng có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán của nhiều quốc gia. Sự kiện 11/9/2001 tại
Hoa Kỳ không chỉ ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán New York mà còn có ảnh
hưởng đến hàng loạt thị trường của nhiều quốc gia khác.

Chính sách của các quốc gia: Chính sách của các quốc gia, đặc biệt là các nước lớn,
trong từng giai đoạn có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của các quốc gia khác và từ
đó có thể có những tác động đến thị trường chứng khoán của các quốc gia.
1.4.2. Tình hình kinh tế vĩ mô trong nước
Thứ nhất là tăng trưởng kinh tế. Phân tích tình hình và xu hướng tăng trưởng kinh tế
để có những đánh giá về xu thế phát triển chung của thị trường chứng khoán. Bên cạnh
đó, tình hình tăng trưởng kinh tế còn có thể đánh giá triển vọng của các ngành, các lĩnh
vực có thể tiến hành đầu tư (hoặc thận trọng khi đầu tư). Chẳng hạn trong điều kiện nền
kinh tế tăng rưởng với tốc độ nhanh và ổn định, chứng khoán của các doanh nghiệp sản
xuất và cung ứng các sản phẩm lâu bền, các sản phẩm mới, công nghệ cao sẽ có nhiều
triển vọng, cơ hội huy động vốn qua thị trường chứng khoán lớn. Tuy nghiên, khi nền
kinh tế lâm vào tỉnh trạng trì trệ, suy thoái thì đầu tư vào các doanh nghiệp sản xuất cung
ứng các hàng hóa xa xỉ sẽ có thể gặp nhiều rủi ro do độ co giãn của nhu cầu so với thu
nhập của các hàng hóa này là rất lớn.
Thứ hai là lãi suất. Lãi suất cao phản ánh hiện giá của các dòng tiền thấp hơn và từ
đó ít dự án thỏa mãn tiêu chuẩn hiệu quả. Trong trường hợp này có thể sẽ hạn chế đầu tư
và có thể ảnh hưởng đến quyết định của nhiều nhà đầu tư tài chính, tìm kiếm một cơ hội
đầu tư khác với kỳ vọng mang lại lợi nhuân cao hơn. Thay vì mua chứng khoán, họ có thể
gửi tiền ngân hàng, đầu tư bất động sản, … và từ đó, giá chứng khoán sẽ có xu hướng
giảm, huy động vốn giảm xuống.
Thứ ba là lạm phát. Lạm phát có thể ảnh hưởng đến giá trị đầu tư. Rủi ro lạm phát là
một trong những nhân tố mà nhà đầu tư tài chính phải quan tâm. Trong trường hợp lạm
phát ở mức độ cao hoặc ở mức không thể kiểm soát được thì nhà đầu tư sẽ thận trọng hơn
trong các quyết định bỏ vốn cho các công cụ tài chính.
Thứ tư là tình hình thâm hụt ngân sách. Mức thâm hụt ngân sách cao báo hiệu mức
vay nợ của chính phủ sẽ nhiều hơn và điều này có thể ảnh hưởng đến lãi suất. Cả hai yếu
tố này đều có thể ảnh hưởng tiêu cực đến giá chứng khoán trên thị trường. Tuy nhiên,
thâm hụt ngân sách do tăng đầu tư công cộng sẽ có tác động tích cực đến tổng cầu và tăng
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
8

- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
trưởng kinh tế. Vì vậy, trong phân tích tùy theo hoàn cảnh cụ thể có thẻ đánh giá mức độ
tác động của từng yếu tố và mức độ tác động thuần.
Thứ năm là mức độ hội nhập và tình hình xuất nhập khẩu của quốc gia. Mức độ hội
nhập của nền kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến triển vọng và xu hướng phát triển của
nền kinh tế. Chẳng hạn, theo tác giả Đăng Quang Gia (2006), khi Việt Nam gia nhập
WTO có 7 điểm lưu ý trong lựa chọn cổ phiếu để đầu tư : chọn ngành hoặc lĩnh vực đầu
tư là khuynh hướng hiện đại của các nhà đầu tư trên thế giới, công ty định đầu tư phải là
công ty hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh, công ty lựa chọn để đầu tư phải có chiến
lược phát triển tốt, trình độ quản lý của Hội đồng quản trị phải có đủ năng lực để tham gia
cạnh tranh toàn cầu, đảm bảo an toàn về vốn và khả năng trả lãi vay, công ty có nhiều nhà
đầu tư chiến lược và xác định chính xác mục tiêu đầu tư ngắn hạn hay dài hạn.
Thứ sáu, mối quan hệ giữa đầu tư, tích lũy và tiêu dùng. Đánh giá mối quan hệ giữa
đầu tư, tích lũy và tiêu dùng có thể xác định được khả năng, quy mô và khuynh hướng
đầu tư trong nền kinh tế. Nếu đầu tư và tích lũy ở mức độ thỏa đáng sẽ là tín hiệu tích cực
cho tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Thứ bảy, các chính sách vĩ mô của Chính phủ : Chính sách vĩ mô của chính phủ
trong mỗi giai đoạn có ảnh hưởng nhất định đến quyết định đầu tư. Chẳng hạn, nếu chính
sách tài khóa mở rộng có thể dẫn đến tăng tổng cầu và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Khi đó, chứng khoán của một số ngành có thể sẽ bị ảnh hưởng. Hoặc với chính sách tiền
tệ, tăng cung tiền có thể làm giảm lãi suất từ đó trong chừng mực nhất định có thể khuyến
khích đầu tư và tiêu dùng ngắn hạn.
Chính sách tài khóa có tác động tương đối trực tiếp đến nền kinh tế thông qua tổng
cầu trong khi chính sách tiền tệ lại có thể ảnh hưởng đến đầu tư chứng khoán qua các biện
pháp tác động đến lãi suất, chẳng hạn tăng cung ứng tiền làm giảm lãi suất và do đó kích
thích đầu tư. Khi khối lượng tiền trong nền kinh tế tăng, các nhà đầu tư sẽ thấy rằng tỷ
trọng tài sản vật chất trong danh mục đầu tư của họ là quá cao và bắt đầu phải có những
điều chỉnh phù hợp. Về lâu dài, các cá nhân và hộ gia định có thể tăng mức đầu tư của họ
vào cổ phiếu rồi cuối cùng mua tài sản vật chất từ đó có thể kích thích tiêu dùng. Tuy
nhiên, kết quả cuối cùng của chính sách tiền tệ đối với đầu tư và tiêu dùng không xảy ra

thức thi như chính sách tài khóa.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
9
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
2.1. Thực trạng huy đông vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán Việt Nam
2.1.1 Thực trạng huy động vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán ở Việt Nam
trước năm 2000 :
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 20/7/2000
đánh dấu một bước phát triển của thị trường tài chính Việt Nam. Mặc dù quy mô còn nhỏ
bé song bước đầu đã thu hút được sự quan tâm của công chúng đầu tư trong và ngoài nước
song trước năm 2000, ở Việt Nam thị trường chứng khoán đã tồn tại, nhưng còn ở dạng rất
sơ khai. Tuy nhiên, nó cũng là một trong những kênh huy động vốn trong tổng vốn đầu tư
toàn xã hội thời kỳ này đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển kinh tế đất nước
và đặc biệt là sự ra đời của trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM.
Đối với việc huy động vốn đầu tư qua bán cổ phiếu. Trong giai đoạn này, Cổ Phiếu
được bán trong quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp và chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1991 – 1994: đây là giai đoạn kiểm kê toàn bộ doanh nghiệp nhà nước,
phân tích và đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sơ đó thực hiện đăng
ký lại các doanh nghiệp nhà nước theo Nghị Định 388 - HĐBT (nay là Chính Phủ) và
Quy Định 202/ct. Đây là giai đoạn thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chuyển
thành công ty cổ phần. Giai đoạn này cổ phần hoá được ba công ty là: Công ty đại lý liên
hợp vận chuyển 93, Công ty Cơ điện lạnh ( REE ), Xí nghiệp giày Hoà an.
Giai đoạn1994 – 1998: thực hiện quy định số 90/TTG, 91/TTg và chỉ thị 500/TTg
quy trình cổ phần hoá giai đoạn này được mở rộng đánh dấu bằng nghị định 28/CP ngày
7/5/1996. Tuy tiến độ cổ phần hóa giai đoạn này diễn ra chậm mới chỉ có 20 doanh
nghiệp được cổ phần hóa
Giai đoạn 1998-2000: đánh dấu bằng chỉ thị 20/98/CT-TTg ngày 21/4/1998 của
Thủ Tướng Chính Phủ là giai đoạn cổ phần hoá diễn ra mạnh mẽ với quy mô lớn, đến

năm 2000 đã có 430 doanh nghiệp CPH với tổng vốn điều lệ trên 2000 tỷ đồng. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp CPH là các doanh nghiệp nhỏ vốn điều lệ bình quân là 6 tỷ đồng,
trong 430 doanh nghiệp cổ phần chỉ có 50-60 doanh nghiệp có vốn điều lệ trên 10 tỷ
đồng. Phần vốn thuộc sở hữu nhà nước chiếm tỷ lệ cao là 35%, phần bán cho cán bộ công
nhân viên chiếm 38 %, còn lại là bán cho công chúng đầu tư bên ngoài. Các doanh nghiệp
phát hành Cổ phiếu ra công chúng dưới hình thức chứng chỉ có mệnh giá phổ biến là
100.000 đồng cao gấp 10 lần mệnh giá quy định trong Nghị định 48/1998/NĐCP, các
chứng chỉ này do kho bạc nhà nước in và cung cấp cho các công ty.
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
10
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
Về huy động vốn qua phát hành trái phiếu. Trong giai đoạn này để tạo hàng cho thị
trường chứng khoán và huy động vốn cho đầu tư phát triển nhà nước đã phát hành đợt trái
phiếu huy động trên 4.000 tỷ đồng, tín phiếu và trái phiếu ngân hàng đâu tư và phát triển
là trên 2.000 tỷ đồng. Đồng thời thành lập ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước tuy nhiên
trong đợt phát hành này còn rất nhiều hạn chế bởi vì đợt phát hành này chủ yếu phát hành
bằng cưỡng ép gắn với quyền lợi và nghĩa vụ của người dân.
2.1.2 Thực trạng huy động huy động vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán Việt
Nam từ năm 2000 đến nay.
Mười năm, 1 thập niên không phải là quá dài với lịch sử phát triển thị trường chứng
khoán của một đất nước, nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam đã làm nên nhiều điều
kỳ diệu, góp phần quan trọng vào sự phát triển thị trường vốn quốc gia.
Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày
20/7/2000, cho đến nay đã được hơn mười năm. Trong hơn mười năm qua, thị trường
chứng khoán Việt Nam đã vượt qua bao khó khăn thử thách để giữ vững ổn định và từng
bước phát triển thị trường.
Trong phiên giao dịch đầu tiên chỉ có hai loại chứng khoán là hai cổ phiếu được
phép niêm yết là REE , SAM niêm yết giá giao dịch 700trđ/phiên và trái phiêu Chính Phủ
với quy mô giao dịch trên thị trường là 444 tỷ đồng {chỉ tính riêng cổ phiếu} cho đến nay
đã có hơn 600 công ty niêm yết trong đó có 530 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên

HNX và HOSE, 70 doanh nghiệp đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM.
Tổng giá trị niêm yết tính theo mệnh giá từ 600 doanh nghiệp niêm yết đạt gần 70
nghìn tỷ đồng, nếu tính theo giá thị trường là 680.000 tỷ đồng, tương đương khoảng
37,60% GDP, với giá trị giao dịch đạt bình quân 3.000 tỷ đồng/phiên, mức vốn hóa đạt
trên 40% GDP, Riêng trong năm 2010 theo số liệu thống kê từ Sở Giao dịch Chứng
khoán TP.HCM (HoSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) cho thấy, đã có
187 doanh nghiệp mới niêm yết trong năm, số phát hành thực tế chỉ đạt khoảng 5,7 tỉ cổ
phiếu nhưng cũng đủ giúp doanh nghiệp thu về 47.000 tỉ đồng.
Quy mô thị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng vai
trò là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Trong suốt thời kỳ từ 2000-2005, vốn hóa thị trường
chỉ đạt trên dưới 1% GDP. Quy mô thị trường đã có bước nhảy vọt mạnh mẽ lên 22,7%
GDP vào năm 2006 và tiếp tục tăng lên mức trên 43% vào năm 2007. Trước biến động
của thị trường tài chính thế giới và những khó khăn của nền kinh tế trong nước, chỉ số giá
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
11
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
chứng khoán đã sụt giảm liên tục trong năm 2008 và làm mức vốn hóa thị trường giảm
hơn 50%, xuống còn 18%. Khi nền kinh tế trong nước và thế giới bắt đầu hồi phục nhẹ từ
quý II/2009, chỉ số giá chứng khoán đã bắt đầu tăng trở lại cùng với số lượng các công ty
niêm yết trên thị trường cũng gia tăng nhanh chóng. Giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu
tính đến cuối năm 2009 đã đạt 37,71% GDP. Ước tính đến cuối năm 2010 sẽ đạt khoảng
từ 40-50% GDP.
Sau 10 năm thành lập, Sở GDCK Tp.HCM đã tổ chức được khoảng 2.300 phiên
giao dịch an toàn và hiệu quả. Sở GDCK Hà Nội (trước đây là Trung tâm GDCK Hà Nội)
sau 5 năm hoạt động đã tổ chức được khoảng 1.200 phiên giao dịch an toàn và hiệu quả.
Hệ thống trung gian của định chế thị trường chứng khoán Việt Nam tăng mạnh về số
lượng và chất lượng; đến nay có 105 công ty chứng khoán và 46 công ty quản lý quỹ hoạt
động trên thị trường. Đồng thời hệ thống các nhà đầu tư trong và ngoài nước phát triển
mạnh; năm đầu khai trương thị trường có 3.000 tài khoản, đến nay đạt 926.000 tài khoản.

Vốn đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 7 tỷ USD. Đến thời
điểm hiện nay, tất cả các công nghệ mới nhất cũng đã được áp dụng trong hệ thống giao
dịch nên hiện nay các NĐT có thể giao dịch qua internet, điều này làm tăng tính thanh
khoản của thị trường lên rất nhiều. Vừa qua một vài Công ty chứng khoán cũng đã triển
khai thành công việc quản lý tài khoản đến từng NĐT, qua đó hạn chế được gian lận trên
thị trường, đồng thời đảm bảo lợi ích chính đáng của NĐT.
Ngoài các tổ chức trong nước, UBCK đã cấp phép cho 6 ngân hàng nước ngoài
được thực hiện lưu ký chứng khoán để tạo điều kiện cho các NĐT nước ngoài tham gia
vào TTCK Việt Nam. Ngoài ra, có 38 tổ chức kiểm toán độc lập được UBCK chấp thuận
việc kiểm toán tại các doanh nghiệp niêm yết.
Hoạt động phát hành huy động vốn trên TTCK thực tế chỉ mới phát sinh từ năm
2006 trở lại đây. Trong năm 2006, có 44 công ty cổ phần thực hiện việc chào bán hơn 203
triệu cổ phiếu và đến năm 2007, hoạt động phát hành mới thực sự bùng nổ, khi có gần
200 đợt phát hành của 192 công ty và 4 ngân hàng thương mại được đăng ký với
UBCKNN với tổng lượng vốn huy động lên đến gần 40.000 tỷ VND. Trong năm 2008, do
sự suy giảm của TTCK, tổng số vốn huy động chỉ đạt hơn 14.300 tỷ đồng thông qua hơn
100 đợt chào bán chứng khoán ra công chúng. Thị trường hồi phục vào năm 2009 đã tạo
điều kiện cho hoạt động phát hành qua thị trường chứng khoán, đặc biệt là phát hành cổ
phiếu. Tổng số vốn huy động qua phát hành cổ phiếu năm 2009 đã tăng hơn 50% so với
2008, đạt 21.724 tỷ đồng.
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
12
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
Bảng số liệu thực trạng huy động vốn trên thị trường giai đoạn 2000 - 2009
(ĐVT: tỷ đồng)
Năm
Vốn hoá thị
trường
Vốn huy động
từ thị trường

2000 270 270
2001 1.700 1.700
2002 2.570 2.570
2003 2.360 2.360
2004 4.379 4.379
2005 8.000 8.000
2006 221.421 221.421
2007 492.000 127.000
2008 225.000 29.000
2009 669.000 33.000
Sau 10 năm hình thành và phát triển, Nhà nước ta nhận thấy phát triển thị trường
chứng khoán là bước đi quan trọng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nếu không có thị trường chứng khoán thì chắc chắn nhiều mục
tiêu của nền kinh tế khó có thể đạt được như hiện nay. Chúng ta bước vào thời kỳ mở cửa,
từ việc chỉ có một kênh huy động vốn qua ngân hàng, nay huy động vốn từ chứng khoán
thông qua các nguồn vốn của các nhà đầu tư được đánh giá là một trong những kênh huy
động vốn hiệu quả. Cuối tháng 10/2009, tổng giá trị huy động vốn thông qua TTCK là
17,7 nghìn tỷ đồng, bằng 70% so với năm 2008. Mức vốn hoá toàn thị trường là 669
nghìn tỷ đồng, tăng gần gấp 3 lần so với cuối năm 2008 (225 nghìn tỷ đồng).
Lượng vốn huy động qua thị trường chứng khoán
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
13
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
Sau 10 năm, TTCK Việt Nam góp phần quan trọng giúp Chính phủ và các doanh
nghiệp huy động vốn dài hạn đầu tư phát triển thị trường, mở rộng sản xuất kinh doanh,
làm cho nền kinh tế bớt phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng. Với nguyên tắc công khai,
minh bạch, TTCK là động lực để các doanh nghiệp niêm yết và công ty đại chúng thực
hiện kiểm toán, công bố thông tin, quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế, góp phần
cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp, đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động
thông qua việc thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước và chuyển đổi

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần. Đây cũng là một kênh huy
động vốn hiệu quả của Việt Nam khi số vốn huy động từ các kênh phát hành cổ phiếu,
đấu giá cổ phần hóa, đấu thầu trái phiếu năm 2008 đạt hơn 29.000 tỷ đồng, năm 2009 hơn
33.000 tỷ đồng. Ngay cả trong giai đoạn thị trường sụt giảm, nhiều doanh nghiệp vẫn huy
động được nguồn vốn lớn để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông qua
TTCK, Chính phủ và doanh nghiệp huy động được nguồn vốn lớn trong dân, biến nguồn
vốn nhàn rỗi thành các khoản đầu tư hiệu quả.
Cổ phiếu niêm yết cùng với cổ phiếu phát hành thêm đã làm cho thị trường chứng
khoán tràn ngập “hàng hóa”. Chỉ tính riêng việc các ngân hàng buộc phải tăng vốn đã
“hút” tổng cộng hơn 40,000 tỷ đồng. Vốn hóa thị trường của lượng cố phiếu mới niêm yết
và phát hành thêm lên tới hàng trăm nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, số tiền các doanh nghiệp
huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu cũng lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng.
Cơ cấu tăng cổ phiếu năm 2010
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
14
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
Qua mười năm hoạt động cho thấy các công ty niêm yết đều là các Công ty cổ phần
và hiện nay phần lớn hoạt động kinh doanh của các công ty có chiều hướng tốt, đều có lãi;
bên cạnh đó các công ty niêm yết trên thị trường được hưởng các ưu đãi về thuế nên mức
trả cổ tức tương đối hấp dẫn người đầu tư.
Về cơ bản các công ty niêm yết đã cố gắng đáp ứng các quy định của UBCKNN đề
ra, bộ máy quản lý, công tác tài chính kế toán của các công ty niêm yết đã được chú trọng,
nhất là chất lượng báo cáo tài chính kế toán. Tuy nhiên, một số công ty còn thụ động
trong việc công bố thông tin; hầu hết các công ty niêm yết chỉ chú trọng vào thông tin
định kỳ và thông tin cung cấp theo yêu cầu, chưa chủ động kịp thời thông tin liên quan tới
hoạt dộng của công ty.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng gặp không ít khó khăn và những
hạn chế. Điều đầu tiên đáng nói là thị trường của chúng ta chưa thực sự trở thành một
công cụ để huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. So với quy mô của các thị
trường khác thì thị trường của chúng ta còn quá nhỏ bé. Hàng hoá trên thị trường đã tăng

về quy mô song thực sự là chưa nhiều và chưa đa dạng, về số lượng nhà đầu tư người
nước ngoài tham gia thị trường là rất khiêm tốn. Trong nhiều giai đoạn thị trường xuất
hiện tình trạng “bong bong tài chính” giá cổ phiếu vượt xa giá trị thực, ảnh hưởng tới việc
huy động vốn của doanh nghiệp và hành động của NĐT.
Năm 2010 được đánh giá là một năm huy động vốn qua thị trường chứng khoán
không còn thuận lợi, chỉ có 81% doanh nghiệp phát hành cổ phiếu đúng kế hoạch, còn lại
phải điều chỉnh, hoãn, thậm chí phải huỷ kế hoạch phát hành. Chẳng hạn, lẽ ra 3 triệu cổ
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
15
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
phiếu phát hành thêm cho cổ đông hiện hữu của Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh
doanh Vật tư (CNT) đã có thể chốt hạn nộp tiền vào ngày 27.10.2010. Tuy nhiên, do giá
cổ phiếu CNT xuống thấp hơn cả mức dự kiến chào bán 24.000 đồng/cổ phiếu nên CNT
đã phải 3 lần điều chỉnh thời gian nộp tiền và cuối cùng chốt lại ở ngày 17.11. Với mức
giá cổ phiếu CNT tại ngày 17.11 là 17.700 đồng/cổ phiếu, chưa rõ liệu CNT có xem đây
là đợt huy động vốn thành công hay không nhưng thật khó để giới đầu tư có động lực mua
vào khi giá cổ phiếu giảm sát hoặc thấp hơn “giá bán ưu đãi”.
Tình hình huy động vốn qua phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) cũng
không mấy lạc quan. Điển hình, đợt IPO lớn nhất và được quan tâm nhất trong năm của
PV Gas cũng chỉ đạt lượng đăng ký mua xấp xỉ 2/3 lượng chào bán. Sự ảm đạm của thị
trường khiến doanh nghiệp chỉ còn biết trông cậy vào cổ đông hiện hữu. Theo số liệu
thống kê, năm 2010 có đến 56% doanh nghiệp chọn phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện
hữu, trong khi năm ngoái tỉ lệ này chỉ là 25%. Có nhiều nguyên nhân được đưa ra phân
tích và giải thích cho sự khó khăn trong việc huy động vốn từ thị trường chứng khoán
trong thời gian qua:
Trước hết, những bất ổn vĩ mô như lãi suất, lạm phát, tỉ giá VND/USD tăng đã ảnh
hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh, khiến nhiều doanh nghiệp phải cân nhắc lại kế hoạch
tăng vốn. Bất ổn vĩ mô cũng là nguyên nhân quan trọng đẩy giá cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán giảm sâu, làm đổ vỡ không ít kế hoạch huy động vốn của doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp muốn tăng vốn trong cùng một khoảng thời gian đã dẫn đến sự

mất cân đối trong quan hệ cung cầu. Trong khi nguồn cung cổ phiếu mới liên tục đổ vào
thì dòng tiền trên thị trường lại tỏ ra hụt hơi. Tính trung bình, khối lượng giao dịch mỗi
phiên của cả 2 sàn trong 11 tháng qua chỉ đạt khoảng 30,3 triệu cổ phiếu, với giá trị bình
quân ước đạt 1.018 tỉ đồng. So với 42 triệu cổ phiếu và 1.400 tỉ đồng của năm 2009 thì
thanh khoản của thị trường không những không được tiếp sức mà còn sụt giảm.
Ngày càng có nhiều nhà đầu tư mất niềm tin vào doanh nghiệp. Doanh nghiệp phát
hành cổ phiếu nhưng chưa trả lời được cho cổ đông câu hỏi “nguồn vốn huy động sẽ được
sử dụng như thế nào?”. Một số doanh nghiệp nói một đằng làm một nẻo. Số khác dùng
cụm từ “nâng cao năng lực tài chính, tái cơ cấu nguồn vốn” như một cách nói tránh cho
việc dùng nguồn tiền huy động được để trả nợ ngân hàng, nộp thuế, nộp bảo hiểm xã hội.
Một điểm bất lợi khác khiến hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp bị khựng lại
là tốc độ tăng vốn quá nhanh đã dẫn đến việc cổ phiếu bị pha loãng.
Tuy nhiên bên cạnh những doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc huy động vốn từ
thị trường chứng khoán thì vẫn còn nhiều doanh nghiệp sử dụng tốt kênh huy động này
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
16
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
phải kể đến Hoàng Anh Gia Lai (HAG). Sau khi hoàn tất việc phát hành 1.100 tỉ đồng trái
phiếu chuyển đổi, HAG tiếp tục chào bán riêng lẻ 530 tỉ đồng trái phiếu, phát hành 19
triệu cổ phiếu cho Deutsche Bank Trust Company Americas (DB) và Công ty Chứng
khoán Sài Gòn (SSI) vì vậy nhiều chuyên gia vẫn nhận định “Đối với doanh nghiệp có
hoạt động kinh doanh tốt, thị trường chứng khoán vẫn là kênh huy động vốn hiệu quả”.
2.2. Thực trạng phát hành cổ phiếu ra thị trường Chứng khoán Việt Nam:
Trong thời gian qua thực trạng phát hành cổ phiếu ra thị trường Chứng khoán của
các Doanh nghiệp Việt Nam vẫn khá suôn sẻ và tuân theo đúng các quy định của Nhà
nước đã đề ra. Nói cách khác, nhìn một cách tổng thể, tính đến thời điểm này, các cơ quan
chức năng của Nhà nước chưa phát hiện thấy vi phạm lớn nào hoặc chưa phải xử lý các
sai phạm lớn liên quan đến phát hành cổ phiếu doanh nghiệp.
Đương nhiên, không thể loại trừ một số hành vi sai phạm vô tình hoặc cố ý của một
vài tổ chức, cá nhân nào đó trong khi xây dựng, thực hiện các phương án phát hành cổ

phiếu doanh nghiệp, mà có thể chỉ ra 4 biểu hiện tiêu biểu như:
Thứ nhất là sai phạm về tính đúng, tính đủ giá trị doanh nghiệp và mức giá khởi
điểm của cổ phiếu phát hành.
Thứ hai là một số sai phạm về công bố thông tin liên quan đến đời sống doanh
nghiệp và cổ phiếu phát hành, phương án phát hành cổ phiếu.
Thứ ba là sai phạm về công tác kỹ thuật trong thực hiện phát hành cổ phiếu, ví dụ cố
tình và tổ chức xây dựng phương án phát hành cổ phiếu chủ yếu là phát hành nội bộ để
hưởng lợi cho tập thể hoặc cá nhân trong doanh nghiệp, gây thiệt hại cho nhà nước và nhà
đầu tư trên thị trường; hoặc lạm dụng việc phát hành cổ phiếu thưởng
Đặc biệt, đã xuất hiện một vài hiện tượng lừa đảo, vi phạm khá nghiêm trọng Luật
Chứng khoán và thậm chí mang yếu tố hình sự, như việc tổ chức huy động vốn khi công
ty mới được thành lập, chưa có cả trụ sở và chưa có phương án phát hành cổ phiếu; hoặc
việc in giả cổ phiếu của công ty đang có uy tín để phát hành, thu lợi bất chính trên TTCK
như đã bị phát hiện ở Hải Phòng (nếu không kịp thời ngăn chặn thì thủ phạm có thể ung
dung đút túi gần 100 tỷ đồng tính theo mệnh giá khởi điểm của các cổ phiếu thu được).
Bên cạnh đó hoạt động phát hành của các công ty đại chúng vẫn còn mang tính tự
phát, không hoàn toàn dựa trên nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp, làm giảm hiệu
quả sử dụng vốn. Không ít tổ chức phát hành huy động vốn trên TTCK để đầu tư trở lại
vào chứng khoán mà không phải để mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần tạo nên bong
bóng thị trường và rủi ro mất vốn khi thị trường sụt giảm. Hoạt động chào bán riêng lẻ
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
17
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
không có sự điều chỉnh đầy đủ của pháp luật và quản lý của các cơ quan có thẩm quyền
dẫn đến các hành vi lạm dụng, ảnh hưởng đến sự lành mạnh của TTCK. Bên cạnh đó,
việc tuân thủ chào bán ra công chúng phải đăng ký với UBCKNN còn hạn chế (đặc biệt
vào thời kỳ ngay sau khi Luật chứng khoán mới ban hành) đã tạo nên những rủi ro tiềm
ẩn cho TTCK. Hoạt động phát hành TPCP còn nhiều bất cập, công tác kế hoạch hoá phát
hành trái phiếu chưa tốt, cơ chế phát hành trái phiếu còn nhiều bất cập, chưa có các tổ
chức tạo lập thị trường TPCP đúng nghĩa để đảm bảo thành công cho các đợt phát hành

cũng như tạo tính thanh khoản cho thị trường thứ cấp. Thiếu đường cong lợi suất chuẩn
và tổ chức định mức tín nhiệm.
Dẫu vậy, cần khẳng định về tổng thể các hoạt động phát hành cổ phiếu đã và đang
diễn ra khá trôi chảy, hợp pháp và có hiệu quả tích cực cao hơn các hệ quả tiêu cực cho cả
doanh nghiệp, nền kinh tế và các nhà đầu tư.
2.3. Thuận lợi và bất lợi trong việc huy động vốn thông qua thị trường chứng
khoán Việt Nam của các doanh nghiệp:
2.3.1. Thuận lợi:
− Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ tạo ra hình ảnh đẹp và sự nổi tiếng của
công ty, nhờ vậy công ty sẽ dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn trong việc huy động
vốn qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu ở những lần sau. Thêm vào đó, khách hàng và
nhà cung ứng của công ty thường cũng sẽ trở thành cổ đông của công ty và do vậy
công ty sẽ rất có lợi trong việc mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
Như trường hợp của Tổng công ty CP Đầu tư phát triển xây dựng (DIG) đã hoàn
tất chào bán 10 triệu cổ phiếu theo hình thức phát hành riêng lẻ cho 25 nhà đầu tư, với
số tiền huy động được hơn 100 tỉ đồng. Công ty CP Kho vận giao nhận ngoại thương
TP.HCM (Transimex - TMS) sau khi huy động được 31,5 tỉ đồng đã tiếp tục chào bán
đợt 2 với 2,1 triệu cổ phiếu để huy động tiếp 31,5 tỉ đồng, nâng tổng số tiền huy động
cả hai đợt lên 63 tỉ đồng.
Theo Transimex, số vốn huy động từ hai đợt chào bán cổ phiếu này được đầu tư cho
dự án trung tâm kho cảng ICD Transimex đã được thông qua vào đầu năm. Theo một lãnh
đạo của TMS, khi đi vào hoạt động, diện tích kho bãi chứa container của đơn vị này tăng
thêm khoảng 20% và sản lượng khai thác dịch vụ kho bãi ICD Transimex tăng thêm
khoảng 50% so với hiện nay. Việc đầu tư này để đón đầu cơ hội gia tăng nhu cầu lưu
chuyển hàng hóa một khi hoạt động xuất khẩu tăng lại sau khủng hoảng.
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
18
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
Trước đó, Công ty CP Tập đoàn Hoa Sen (HSG) đã công bố kế hoạch chào bán gần
12 triệu cổ phiếu cho nhà đầu tư chiến lược với mức giá không thấp hơn 60.000 đồng/cổ

phiếu và 1 triệu cổ phiếu cho người lao động trong công ty để huy động vốn đầu tư dự án
mở rộng nhà máy tôn Hoa Sen Phú Mỹ (KCN Phú Mỹ I, huyện Tân Thành, Bà Rịa -
Vũng Tàu). Theo ông Lê Phước Vũ - chủ tịch HĐQT Công ty CP Tập đoàn Hoa Sen, việc
đầu tư các dự án trong giai đoạn này không chỉ giúp công ty giảm tối đa chi phí, mà còn
sớm chủ động cơ hội mở rộng thị phần tiêu thụ sản phẩm.
Trong một buổi đối thoại với nhà đầu tư mới đây, tổng giám đốc một doanh nghiệp
ngành vật liệu xây dựng khẳng định với chi phí bỏ ra thấp hơn nhiều so với trước, doanh
nghiệp có thể đầu tư một nhà máy có công suất tương đương. Hơn nữa, việc tăng công
suất trên cơ sở đầu ra đã được xây dựng, cơ hội để doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường,
mở rộng thị phần trong thời gian tới sẽ rất lớn. Đây cũng là lý do vị lãnh đạo này kêu gọi
các cổ đông thông qua phương án chào bán cổ phiếu của doanh nghiệp.
− Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ làm tăng giá trị tài sản ròng, giúp công ty
có được nguồn vốn lớn và có thể vay vốn của ngân hàng với lãi suất ưu đãi hơn cũng
như các điều khoản về tài sản cầm cố sẽ ít phiền hà hơn. Ví dụ như các cổ phiếu của
các công ty đại chúng dễ dàng được chấp nhận là tài sản cầm cố cho các khoản vay
ngân hàng. Ngoài ra, việc phát hành chứng khoán ra công chúng cũng giúp công ty
trở thành một ứng cử viên hấp dẫn hơn đối với các công ty nước ngoài với tư cách
làm đối tác liên doanh.
Ngày 9-11, gần 6,8 triệu cổ phần của Tổng công ty Sông Hồng đã được bán hết với
giá đấu thành công bình quân 22.290 đồng/cổ phần, trong đó giá đấu cao nhất lên tới
29.900 đồng/cổ phần, hơn gấp hai lần giá khởi điểm.
Ông Nguyễn Hồ Nam, tổng giám đốc Công ty chứng khoán Sacombank - SBS, khá
tự tin về khả năng thành công đợt IPO của đơn vị này vào ngày 28-11 khi cho biết số
đăng ký đã gấp ba lần số chào bán. Ngoài 17,6 triệu cổ phần được tổ chức IPO với giá
khởi điểm 15.000 đồng/cổ phần, theo ông Nam, 11 triệu cổ phần chào bán cho đối tác
chiến lược cũng đã được nhiều đối tác nước ngoài quan tâm.
Trước đó, các đợt IPO được tổ chức từ nửa cuối tháng 10 đến nay tại hai sở giao
dịch chứng khoán TP.HCM và Hà Nội đã sôi động hơn. Công ty phân lân nung chảy Văn
Điển đã lập kỷ lục với số lượng đăng ký mua của nhà đầu tư gấp hơn sáu lần so với số cổ
phần bán ra. Một số đợt IPO khác cũng khá thành công như Công ty Supe phôtphat và

hóa chất Lâm Thao, Công ty TNHH một thành viên hóa dầu dầu khí Vidamo
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
19
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
− Phát hành chứng khoán ra công chúng giúp công ty có thể thu hút và duy trì đội ngũ
nhân viên giỏi bởi vì khi chào bán chứng khoán ra công chúng, công ty bao giờ cũng
dành một tỷ lệ chứng khoán nhất định để bán cho nhân viên của mình. Với quyền
mua cổ phiếu, nhân viên của công ty sẽ trở thành cổ đông, và được hưởng lãi trên
vốn thay vì thu nhập thông thường. Điều này đã làm cho nhân viên của công ty làm
việc có hiệu quả hơn và coi sự thành bại của công ty thực sự là thành bại của mình.
− Phát hành chứng khoán ra công chúng, công ty có cơ hội tốt để xây dựng một hệ
thống quản lý chuyên nghiệp cũng như xây dựng được một chiến lược phát triển rõ
ràng. Công ty cũng dễ dàng hơn trong việc tìm người thay thế, nhờ đó mà tạo ra
được tính liên tục trong quản lý. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các uỷ viên quản trị
không trực tiếp tham gia điều hành công ty cũng giúp tăng cường kiểm tra và cân đối
trong quản lý và điều hành công ty.
− Phát hành chứng khoán ra công chúng làm tăng chất lượng và độ chính xác của các
báo cáo của công ty bởi vì các báo cáo của công ty phải được lập theo các tiêu chuẩn
chung do cơ quan quản lý qui định. Chính điều này làm cho việc đánh giá và so sánh
kết quả hoạt động của công ty được thực hiện dễ dàng và chính xác hơn.
2.2.2. Bất lợi:
Tuy nhiên, việc gọi vốn qua kênh chứng khoán sẽ là con dao hai lưỡi nếu các doanh
nghiệp lạm dụng hình thức này, trong khi các cơ hội đầu tư chưa rõ ràng. Hiện tượng “bội
thực” cổ phiếu vào năm 2007 khi hầu hết công ty niêm yết đều chạy đua phát hành tăng
vốn là một kinh nghiệm. Nhiều chuyên gia ủng hộ việc phát huy vai trò huy động vốn của
kênh chứng khoán, nhưng cũng khuyến cáo một khi các doanh nghiệp gọi vốn để đầu tư
vào những cơ hội ngắn hạn hoặc bỏ vốn vào những dự án chưa được chuẩn bị kỹ sẽ gây
rủi ro không chỉ đối với doanh nghiệp mà cả thị trường bởi thực tế hình thức huy động
này cũng tồn tại những nhược điểm sau:
− Phát hành cổ phiếu ra công chúng làm phân tán quyền sở hữu và có thể làm mất

quyền kiểm soát công ty của các cổ đông sáng lập do hoạt động thôn tín công ty.
Bên cạnh đó, cơ cấu về quyền sở hữu của công ty luôn luôn bị biến động do chịu ảnh
hưởng của các giao dịch cổ phiếu hàng ngày.
− Chi phí phát hành chứng khoán ra công chúng cao, thường chiếm từ 8-10% khoản
vốn huy động, bao gồm các chi phí bảo lãnh phát hành, phí tư vấn pháp luật, chi phí
in ấn, phí kiểm toán, chi phí niêm yết… Ngoài ra, hàng năm công ty cũng phải chịu
thêm các khoản chi phí phụ như chi phí kiểm toán các báo cáo tài chính , chi phí cho
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
20
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
việc chuẩn bị tài liệu nộp cho cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và chi phí
công bố thông tin định kỳ.
− Công ty phát hành chứng khoán ra công chúng phải tuân thủ một chế độ công bố
thông tin rộng rãi, nghiêm ngặt và chịu sự giám sát chặt chẽ hơn so với các công ty
khác. Hơn nữa, việc công bố các thông tin về doanh thu, lợi nhuận, vị trí cạnh tranh,
phương thức hoạt động, các hợp đồng nguyên liệu, cũng như nguy cơ bị rò rỉ thông
tin mật ra ngoài có thể đưa công ty vào vị trí cạnh tranh bất lợi.
− Đội ngũ cán bộ quản lý công ty phải chịu trách nhiệm lớn hơn trước công chúng.
Ngoài ra, do qui định của pháp luật, việc chuyển nhượng vốn cổ phần của họ thường
bị hạn chế.
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
21
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP VÀ TRIỂN VỌNG HUY ĐỘNG VỐN QUA THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
3.1. Giải pháp đẩy mạnh huy động vốn qua thị trường chứng khoán Việt Nam:
Từ những khó khăn và nhược điểm đã phân tích ở trên để TTCK Việt Nam thực sự
trở thành một kênh huy động vốn cho phát triển nền kinh tế và các doanh nghiệp đẩy
mạnh huy động vốn qua thị trường cần thực hiện một vài giải pháp:
3.1.1. Nâng cao hiệu quả pháp hành cổ phiếu của Doanh nghiệp:

Trước hết, cần nhấn mạnh rằng tính hiệu quả của phương án phát hành cổ phiếu nên
được hiểu theo nghĩa rộng, đầy đủ và cao nhất của nó, nghĩa là phải đem lại tác động tích
cực đồng thời cho cả 3 phía: doanh nghiệp, nhà đầu tư và Nhà nước (theo nghĩa nền kinh
tế nói chung), cụ thể:
Doanh nghiệp phải bán được hết cổ phiếu với giá cao hơn giá khởi điểm, thu hút
được nhiều nhà đầu tư, cổ đông chiến lược mới, tạo động lực mới cho phát triển, củng cố
thương hiệu và nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhà đầu tư (người mua cổ phiếu) phải tiếp cận thuận lợi, đầy đủ và giá rẻ các thông
tin liên quan đến cổ phiếu và phương án phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp, cũng như
có điều kiện và cơ hội thực hiện việc mua đủ số lượng cổ phiếu theo giá mong muốn.
Nhà nước thực hiện được thuận lợi và phát huy được vai trò tích cực trong chức
năng quản lý nhà nước của mình, đảm bảo sự ổn định, phát triển lành mạnh của TTCK và
có thể thu hồi phần vốn của mình một cách nhanh gọn, đầy đủ nhất khi CPH DNNN.
Như vậy, để một phương án phát hành cổ phiếu doanh nghiệp đạt hiệu quả cao thì
cần phải lưu ý một số nhân tố sau:
- Thứ nhất, cần thu thập, xử lý các thông tin về doanh nghiệp, thị trường và môi
trường pháp lý có liên quan một cách đầy đủ, cập nhật và chính xác nhất như một tiêu đề
quan trọng để tổ chức, xây dựng phương án phát hành cổ phiếu.
- Thứ hai, cần xác định đúng và trúng thời điểm, mục tiêu phát hành cổ phiếu, xác
định rõ giá trị khởi điểm (mệnh giá cổ phiếu), phương thức phát hành và tổ chức bảo lãnh
phát hành (nếu cần thiết). Thực tế cho thấy, trong 3 phương thức là: chào bán trực tiếp,
chào bán qua đấu thầu và chào bán qua tổ chức bảo lãnh phát hành, thì phương thức chào
bán qua đấu thầu luôn được đánh giá là lựa chọn tốt nhất của đa số doanh nghiệp phát
hành chứng khoán.
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
22
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
- Thứ ba, cần tổ chức tốt các hoạt động thông tin tuyên truyền về doanh nghiệp,
phương án phát hành và các thông tin cần thiết khác. Đặc biệt, việc đăng tải các thông tin
về phương án phát hành trên các phương tiện thông tin thích hợp và với thời lượng dài có

ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động quảng bá, doanh nghiệp và thu hút các nhà đầu tư
tiềm năng
3.1.2. Tiếp tục phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính
Tiếp tục phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính (bao gồm thị trường tiền tệ và
thị trường vốn), tạo điều kiện tốt và thông thoáng hơn cho việc phát triển các nhà đầu tư
là doanh nghiệp, các định chế tài chính trung gian và các tổ chức phụ trợ trên thị trường,
song phải đảm bảo khả năng cạnh tranh trong điều kiện mới, có nghĩa là phải năng cao
năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành và kiểm tra kiểm soát nội bộ.
Thực hiện các giải pháp “tăng cung - kích cầu”, tạo ra hàng hoá đa dạng cho thị
trường. Tăng cung chứng khoán cho thị trường về số lượng, chất lượng và chủng loại: số
lượng công ty niêm yết, đa dạng hoá và nâng cao tỷ trọng các Công ty lớn niêm yết, gắn
việc cổ phần hoá với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán như:
a) Cải tiến phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ, tăng cường phát hành theo
phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ; đa dạng hoá các kỳ
hạn trái phiếu Chính phủ; xây dựng và thực hiện kế hoạch phát hành theo lịch biểu, nhằm
cung cấp đều đặn khối lượng trái phiếu cho thị trường chứng khoán.
b) Lựa chọn các doanh nghiệp lớn, các ngân hàng thương mại cổ phần có đủ điều kiện
để phát hành thêm cổ phiếu và tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung.
c) Mở rộng việc chuyển các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty
cổ phần và có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia niêm yết cổ phiếu trên
thị trường tập trung.
d) Khuyến khích và tạo điều kiện để đưa các loại trái phiếu công trình, trái phiếu đô
thị lên niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung.
e) Phát triển các loại chứng khoán khác như: quyền mua cổ phiếu, trái phiếu công ty,
trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp, chứng chỉ quỹ đầu tư để đưa vào niêm yết và
giao dịch trên thị trường chứng khoán.
Ngoài ra, cần xây dựng và mở rộng hoạt động của các trung gian tài chính, các tổ
chức hỗ trợ thị trường. Thiết lập một môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư, các Công ty
niêm yết Công ty quản lý quỹ, Công ty chứng khoán. Ngoài ra, UBCKNN không nên can
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18

23
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
thiệp quá sâu vào hoạt động của các thành viên trên thị trường, nhưng cũng phải đảm bảo
có thể giám sát một cách tốt nhất hoạt động của các công ty
Phát triển thị trường OTC: Việc phát triển thị trường OTC một mặt nâng cao kinh
nghiệm cua các thành viên tham gia thị trường, mức độ quan tâm và nhận thức của công
chúng. Mặt khác, thị trường OTC cũng là cơ hội tốt để tăng cung chứng khoán cho các
nhà đầu tư, tạo điều kiện cho các Công ty chưa đủ diều kiện niêm yết có cơ hội tiếp cận
với thị trường chứng khoán.
3.1.3 Thực hiện các chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia thị
trường chứng khoán.
− Thực hiện chính sách khuyến khích về thuế đối với nhà đầu tư.
− Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng, các tổ chức và cá nhân nước
ngoài tham gia thị trường chứng khoán.
− Mở rộng giới hạn đầu tư cổ phiếu đối với các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường
chứng khoán Việt Nam; cho phép các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài
góp vốn, mua cổ phần hoặc thành lập Công ty Chứng khoán liên doanh với các pháp
nhân trong nước; cho phép các quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài tham gia thị
trường chứng khoán Việt Nam.
3.2. Triển vọng huy động vốn thông qua thị trường Chứng khoán Việt Nam:
Sau 10 năm vận hành và phát triển, các nhà kinh tế, các nhà quản lý đều nhận định
rằng huy động vốn qua thị trường Chứng khoán được đánh giá là một trong những kênh
huy động vốn hiệu quả đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi ích kinh tế và nhiều cơ hội
kinh doanh. Vì vậy triển vọng huy động vốn thông qua thị trường Chứng khoán tại Việt
Nam trong thời gian tới được coi là một cơ hội cho các doanh nghiệp vì các lý do sau:
3.2.1. Đà phục hồi của kinh tế thế giới và dòng vốn đầu tư nước ngoài
Dù còn nhiều khó khăn nhưng kinh tế thế giới đạt được sự phục hồi khá ấn tượng
trong năm 2010. Hầu hết các nền kinh tế đã lấy lại được đà tăng trưởng. Nhiều dự báo cho
rằng trong năm tới kinh tế thế giới tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng tích cực và tỷ
lệ thất nghiệp sẽ dần giảm xuống.

Đây là cơ sở để chúng ta tin tưởng rằng Việt Nam sẽ nhận được sự hỗ trợ tích cực của
đà phục hồi kinh tế toàn cầu. Ngoài ra, điều này cũng giúp dòng vốn đầu tư nước ngoài,
trong đó có dòng vốn gián tiếp, sẽ đổ vào Việt Nam nhiều hơn. Năm 2010, dù TTCK khá
ảm đạm song vốn ngoại giải ngân vào thị trường vẫn đạt hơn 16 nghìn tỷ đồng.
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
24
- Đánh giá thực trạng và triển vọng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán Việt Nam -
3.2.2. Sự ổn định của nền kinh tế và chính sách vĩ mô của Việt Nam:
Năm 2010 là một năm kinh tế vĩ mô có nhiều biến động. Lãi suất, lạm phát và tỷ giá
đều tăng cao vào cuối năm. Tăng trưởng GDP vượt kế hoạch nhưng hiệu quả đầu tư vẫn ở
mức rất thấp và tăng trưởng GDP vẫn chủ yếu dựa vào việc tăng vốn đầu tư. Các chính
sách được đánh giá là thiếu nhất quán cũng đã ảnh hưởng mạnh đến tâm lý và lòng tin của
nhà đầu tư.
Nhiều người kỳ vọng năm tới, các bất ổn vĩ mô sẽ dần được khắc phục. Các chính
sách của các cơ quan nhà nước sẽ linh hoạt và hiệu quả hơn. Sự ổn định của các yếu tố vĩ
mô và đà tăng trưởng kinh tế được duy trì sẽ là một nhân tố quan trọng giúp thị trường
chứng khoán phục hồi.
Tuy nhiên việc khắc phục những yếu kém trong nền kinh tế tại thời điểm hiện tại là
một công việc không dễ dàng. Những bất ổn vừa qua chủ yếu mang tính cơ cấu của nền
kinh tế. Bất cập trong các chính sách ban hành trong năm 2010 cũng xuất phát từ việc
thiếu quy trình hoạch định chính sách khoa học và khách quan.
Ngoài ra, việc Ngân hàng Nhà nước đặt mục tiêu kiểm soát tăng trưởng tín dụng chỉ
ở mức 23% và ưu tiên hướng dòng vốn vào lĩnh vực sản xuất cũng là một tín hiệu không
tích cực đối với thị trường chứng khoán.
3.2.3. Cổ phiếu giá rẻ, hấp dẫn cho đầu tư giá trị
Năm 2010, giá của hầu hết chứng khoán niêm yết đều sụt giảm rất mạnh. Chỉ số P/E
của thị trường hiện tại chỉ còn 10-11 lần và P/B chỉ còn 1.8 lần, thấp hơn rất nhiều so với
mức 14-15 và 2.3 lần của cuối năm 2009. Mức P/E này cũng thấp hơn nhiều so với mức
15-18 lần của hầu hết thị trường các nước trong khu vực.
Nhiều cổ phiếu có mức vốn hóa vừa và có tiềm năng lớn trong tăng trưởng chỉ có

P/E trong khoảng 6-9 lần. Đây là những cổ phiếu hấp dẫn cho việc đầu tư giá trị. Sự hấp
dẫn của giá cổ phiếu có thể là một động lực quan trọng để thu hút dòng vốn đầu tư gián
tiếp trong năm 2011.
Mặc dù vậy, chứng khoán Việt Nam có thực rẻ hay không còn phụ thuộc vào triển
vọng lợi nhuận của doanh nghiệp trong năm 2011, lãi suất thực tế của đồng nội tệ và biến
động của tỷ giá.
Nếu lãi suất năm 2011 vẫn ở mức cao như hiện nay thì kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng. Ngoài ra, với lãi suất cao và tỷ giá nhiều biến động thì dù
P/E có ở mức thấp thì giá cổ phiếu vẫn không thực sự hấp dẫn.
- Bài tập nhóm 1 - Kinh tế đầu tư 18
25

×